1
13:04 +07 Thứ bảy, 27/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 272


Hôm nayHôm nay : 13008

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 317130

Tổng cộngTổng cộng : 27871414

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Lời Chúa và Các bài suy niệm Chúa Nhật X Thường niên

Thứ năm - 06/06/2013 16:47-Đã xem: 1295
Tôi cho anh em biết rằng Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, vì tôi không nhận, cũng không học với loài người, nhưng là do Đức Giêsu Kitô mạc khải. Anh em nghe nói về đời sống của tôi trước kia khi theo đạo Do-thái: tôi đã bắt bớ và phá hoại Hội thánh của Thiên Chúa thái quá. Trong đạo Do-thái, tôi đã vượt hẳn nhiều bạn đồng giống nòi, đồng tuổi với tôi, và tôi nhiệt thành hơn bất cứ ai đối với truyền thống của cha ông tôi.
Lời Chúa và Các bài suy niệm Chúa Nhật X Thường niên

Lời Chúa và Các bài suy niệm Chúa Nhật X Thường niên


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. 
(Lc 7, 11-17)
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người. Khi Người đến gần cửa thành, thì gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia, và có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: "Đừng khóc nữa". Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi Người trao lại cho mẹ nó. Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người". Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
Đó là lời Chúa.

Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Phục Sinh Cho Con Trai Bà Góa Thành Nain

Một trình thuật phép lạ thật khéo. Việc chữa lành này, trong đó Chúa Giêsu cho một kẻ chết trở về cuộc sống trần gian, là riêng của Luca; ngoài câu chuyện về con gái ông Gia-ia (8,49tt, với các đoạn song song ở Maccô và Matthêu), Luca còn kể lại hai lần làm cho kẻ chết sống lại nữa trong Công vụ do Phêrô (Cv 9,36-43) và do Phaolô (Cv 20,7-12). Trình thuật này được sắp xếp ở đây để chuẩn bị lời đáp của Chúa Giêsu cho câu hỏi của vị Tẩy Giả về căn cước của Ngài: “Kẻ chết sống lại” (7,22).

Hai đám đông gặp nhau, một đám theo Chúa Giêsu, đám kia theo một bà goá đi chôn đứa con trai ở ngoại thành. Theo phong tục, người ta chôn cất chính ngày chết hay vài giờ sau đó. Không phải vì người chết mà Chúa Giêsu chạnh lòng thương, mà vì người phụ nữ từ nay không còn đứa con trai để nuôi sống gia đình nữa.

Trình thuật của Luca đưa độc giả theo hai hướng. Một đàng, trong diễn tiến của trình thuật Luca gọi Chúa Giêsu là Chúa, đúng tước hiệu của Đấng bị đóng đinh và đã sống lại (Cv 2,36); đó là tuyên xưng Chúa Giêsu là vị chiến thắng tử thần. Đàng khác, Luca tăng thêm những quy chiếu về một trong hai phép lạ tương tự trong Cựu Ước, việc Phục Sinh con trai bà goá thành Sarepta do Êlia (1V 17,17-24), bà goá này đã được Chúa Giêsu nhắc đến ở Nagiaret khi nói về phép lạ khác của Êlia mà bà đã được hưởng nhờ (4,26); Luca nói đến cửa thành đến một bà goá mất đứa con trai duy nhất, đến người chết lại nói được, đến công thức: “Người trao anh ta cho mẹ anh”. Đó là những ghi chú để cho thấy rằng Chúa Giêsu có một quyền năng giống như Êlia, vị ngôn sứ vĩ đại sẽ trở lại vào thời kỳ cuối cùng (Ml 3,22-24); hơn nữa, những gì Cựu Ước nói về Êlia cho biết rõ hơn về Chúa Kitô. Đối với Luca, người cẩn thận tránh đồng hoá vị
Tẩy Giả với Êlia (khác với mc 9,11-13; Mt 17,10-13), Chúa Giêsu đích thị là Êlia của thời cuối cùng.

Một trong những nét của trình thuật Luca khác với khuôn mẫu của Cứu chuộc không phải là không có ý nghĩa. Khi mà Êlia phải nằm dài ra lên trên đứa bé (1V 17,21) và người kế vị ông là Êlisê phải thực hiện bảy lần thở nhân tạo (2V 4,34-35), thì Chúa Giêsu chỉ cần một lời nói; việc Ngài sờ vào quan tài chỉ là để cho đoàn đưa đám ngừng lại. Với uy quyền, Ngài truyền cho người thanh niên trỗi dậy, đó là một trong hai từ được dùng trong bài giảng Phục Sinh để tuyên xưng việc Phục Sinh của Chúa Giêsu; chính với tư cách là Đức Chúa có quyền trở nên sự sống và sự chết mà Chúa Giêsu hành động. Lời nói của Ngài tái lập liên hệ giữa chàng thanh niên với đám người chung quanh, đã bị cắt đứt do cái chết: anh bắt đầu nói. Cần ghi nhận rằng việc anh được trả lại cho mẹ anh ta nhắc ta nhớ chính vì cảm thương bà mà Chúa Giêsu đã làm như thế.

Như rất thường thấy trong các trình thuật phép lạ, đoạn kết ghi lại phản ứng của những người chứng kiến. Tất cả, đám đông và các môn đệ (cc.11-12), nhận thấy nơi Chúa Giêsu một vị Ngôn Sư vĩ đại đã trỗi dậy –cũng một động từ như câu 14! Việc nhận biết này dĩ nhiên chưa phải là trọn vẹn, bởi vì nó không tuyên xưng Chúa Giêsu là vị Ngôn Sứ cuối cùng, Đấng phải đến (c.19). Tuy nhiên không phải nó không có giá trị, bằng chứng là mọi người nhận ra trong phép lạ, cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, Đấng đến để giải thoát Israel, đó là sự can thiệp đầy nhân hậu mà Giacaria đã ca tụng (1,68-78). Và tin này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận.

Đâu là biến cố lịch sử ẩn tàng trong câu chuyện về việc trở lại tạm thời với đời sống trần thế – quả thực, người thanh niên ở Nain này đã chết thật sự một tháng, mười năm hoặc năm mươi năm sau khi Chúa Giêsu cho anh sống lại? Vào thế kỷ thứ nhất, nơi dân Do Thái, người ta nghĩ rằng tinh thần của người chết lảng vảng trong ba ngày xung quanh thân xác trước khi xuống nơi chốn dành cho người chết. Cũng tương tự như vậy, nghiên cứu hiện đại cho biết cái chết không phải là việc đứt đoạn trong giây lát, mà là một tiến trình phức tạp, là nhiều những tan vỡ liên tiếp cộng lại; cái chết gồm nhiều giai đoạn. Nhân danh điều gì để từ chối tin rằng một thanh niên, đã vượt qua nhiều rào cản của sự chết, đặc biệt là sự bất hiệp thông, đã có thể trở lại cuộc sống nhờ lời của Chúa Giêsu? Dù sao, vấn đề của các cộng đoàn Kitô sau Phục Sinh thì lại hoàn toàn khác; họ không tìm để biết cái gì đã xảy ra sau khi người thanh niên được chữa lành một cách lạ lùng! Họ đã khởi đi từ sự kiện này để giảng dạy một giáo lý về quyền năng của Chúa Kitô trên cái chết: Đấng Phục Sinh sẽ ban cho những kẻ thuộc về Ngài, sau khi họ chết, một đời sống vĩnh hằng hoàn toàn mới mẻ.

 

Sự sống hay nỗi chết – Thiên Phúc

 Con người ai sinh ra trên đời này cũng đều trải qua 4 cửa ải là sinh, lão, bệnh, tử. Hay chết là một trong 4 khâu của định luật “thành, trụ, hoại, diệt”. Có một câu danh ngôn rất hay: “Sự chết là con lạc đà đen quỳ đợi ngay trước cổng nhà của tất cả mọi người.” (Abe- el -Kader). Nói theo tam đoạn luận thì: ông này bà nọ là con người; mà đã là con người nên họ đều phải chết; vì thế, tôi cũng là con người, nên tôi cũng phải chết.

Như vậy, không ai tránh khỏi cái chết. Mọi người đều phải kết thúc cuộc hành trình trên trần gian này bằng cái chết. Đã có sinh thì ắt phải có tử. 

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại cho chúng ta thấy Chúa Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum và gặp thấy đám tang con trai bà góa thành Naim đang được đem đi chôn. Hình ảnh đám tang của con trai bà góa này cho chúng ta thấy: người thanh niên này đã trải qua cuộc sống dương thế. Anh ta đã chết. Anh ta đã kết thúc tại cửa ải thứ 4 là “tử”; khâu cuối cùng là “diệt”. Người thanh niên này đã bị cái chết chiến thắng. Thần chết đã thống trị. 

Thế nhưng, khi gặp được Chúa Giêsu, cái chết có phải là đã kết thúc mọi chuyện và là mồ chôn vĩnh viễn thân phận cát bụi của người thanh niên kia không?

Không! Tin Mừng cho chúng ta thấy cái chết không phải là ngõ cụt, nhưng nó là một giai đoạn cần phải trải qua để đi vào sự sống vĩnh hằng. Cái chết như là một cửa khẩu để qua đó, ta sang được bến bờ bình an và hạnh phúc viên mãn. Niềm tin ấy đã được Chúa Giêsu hé mở và củng cố qua cái chết của con trai bà góa thành Naim hôm nay.

Hình ảnh đám tang ở trong thành đi ra, còn Chúa Giêsu và các môn đệ thì đi vào. Hai hình ảnh không thuận chiều nhau mà là trái chiều. Nhưng hai nhóm người đó đã gặp nhau tại một điểm giao. Điểm giao đó là “tình yêu”, “lòng thương xót” của Chúa Giêsu. 

Quả thật, Thiên Chúa là Đấng Giàu Lòng Thương Xót, mà Chúa Giêsu là hiện thân của lòng thương xót đó, nên Ngài luôn yêu thương và thông cảm cho nỗi khốn cùng của con người. Vì thế, Chúa Giêsu đã “chạnh lòng thương” (esplanchnisthè), mà theo tiếng Hy Lạp, có nghĩa chính xác là “xúc động đến ruột gan”. 

Thật thế, Ngài đã có lòng thương cảm sâu đậm cho hoàn cảnh éo le của gia tang. Hơn nữa, mẹ của người chết lại là một bà góa, chồng bà đã chết, mọi hy vọng đều đổ dồn vào người con trai duy nhất, nay con bà chết, bà biết trông vào ai? Nỗi cô đơn trở nên tột cùng khi những kỳ thị của dân tộc sẽ đến với bà. Sự bất hạnh lại càng lên đến đỉnh cao khi những truyền thống trong xã hội Dothái thời bấy giờ coi thành phần các bà góa là những người không có tiếng nói, là hạng người thấp cổ bé họng.

Đứng trước tình cảnh như thế, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Chúa Giêsu đã động lòng trắc ẩn, an ủi bà đừng khóc nữa, rồi sau đó Ngài hành động ngay. Ngài truyền cho những người khiêng cáng dừng lại, sau đó Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, ta bảo anh: Hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa.

Hành vi Chúa Giêsu bảo những người khiêng cáng dừng lại và Ngài truyền lệnh cho người chết chỗi dậy thể hiện quyền năng của một vị Thiên Chúa uy quyền và làm chủ sự sống lẫn sự chết; đồng thời cũng cho chúng ta thấy bản chất của Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1 Ga 4,16). Một Thiên Chúa luôn yêu thương, chữa lành; một Thiên Chúa đem lại cho con người niềm an ủi và hạnh phúc sau những đắng cay tủi nhục; một Thiên Chúa gieo vào trong tâm hồn con người niềm hy vọng khi mọi chuyện tưởng chừng như đã chấm dứt bằng cái chết.

Tuy nhiên, đấy mới chỉ là những cách giải thoát mang tính hiện sinh mà thôi, bởi lẽ người thanh niên hôm nay được Chúa cho sống lại, nhưng rồi một ngày nào đó anh ta cũng sẽ phải chết. Nhưng điều mà Chúa Giêsu muốn đi xa hơn qua việc cho người thanh niên này sống lại, đó chính là đem lại cho con người sự sống viêm mãn, một sự sống dồi dào đằng sau cái chết. Vì thế, Ngài đã muốn giải thoát con người khỏi cái chết đời đời, để thay vào đó là sự sống trường tồn mai hậu. Đây là trọng tâm của sứ điệp mà hôm nay Chúa muốn nhắn gửi nơi mỗi người chúng ta. 

Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Chúa Giêsu đã tiên báo một cuộc phục sinh vĩ đại cho toàn thể nhân loại qua cái chết và sự phục sinh của chính Ngài. Đây chính là niềm hy vọng siêu việt, viên mãn của mọi người Kitô hữu chúng ta.

Quả thật, trình thuật về việc con trai Bà goá thành Naim được sống lại, Chúa Giêsu không chỉ cho chúng ta thấy tình thương của Thiên Chúa dành cho những người bé mọn, cũng không chỉ dừng lại ở việc Chúa cảm thông với nỗi cô đơn, mất mát to lớn của bà goá nọ. Nhưng điều quan trọng hơn những cảm xúc đó chính là dấu chỉ tiên báo trước việc Chúa sẽ sống lại và những ai tin vào Ngài thì cũng sẽ được sống lại và được đưa vào nơi tràn đầy hạnh phúc và bình an.

Như vậy, hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về hai bản tính của Ngài qua việc cho con trai bà goá sống lại. 

Về nhân tính: Chúa Giêsu cũng cảm thông, xúc động và “chạnh lòng thương” đến người cùng khổ. Với hoàn cảnh cụ thể của bà góa, Ngài có sự cảm thông sâu xa khi thấy gia cảnh của bà lúc này: mất chồng, mất luôn cả người con duy nhất của mình trong lúc tuổi già để nâng đỡ những lúc đau bệnh và bênh vực khi bị người đời chèn ép hay an ủi trong lúc cô đơn…

Về mặt Thiên tính: Ngài có đầy đủ quyền năng, nên Ngài đã cho người chết trỗi dậy. Sự chết không còn quyền chi đối với Ngài. Ngài làm chủ sự sống và sự chết khi truyền cho người chết trỗi dậy.        

Qua mạc khải trên, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta bài học: 

Trước tiên, cần phải có sự thương cảm với những người kém may mắn. Không ai sống trên đời này như một hòn đảo. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: “Hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc.” (Rm 12,15). Việt Nam ta có câu: “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”. Không thể đứng đó và nhìn xem nỗi bất hạnh của người khác rồi hả hê cười đùa vui vẻ; cũng không phải huênh hoang tự kiêu khi thành công để rồi khinh bỉ người cùng khốn.  

Thứ đến, sống theo tinh thần của Chúa là chúng ta hãy biết ra khỏi chính để đi đến với những ai cần đến bàn tay, khối óc, con tim của chúng ta. Chúng ta phải biết ra khỏi chính mình, ra khỏi ốc đảo của tự kiêu để như Chúa Giêsu, đi đến đâu thì thi ân giáng phúc tới đó (x. Cv 10,38). Ngài luôn an ủi kẻ cô đơn, chữa lành người bệnh tật và đem lại niềm vui, hy vọng cho những người thất vọng.  

Ước gì, tâm tình của Thánh  Phanxicô Assisi được diễn tả qua Kinh Hoà Bình lại được vọng lại nơi tâm hồn của mỗi chúng ta khi nghe bài Tin Mừng hôm nay: “Chính lúc hiến thân là lúc được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.”

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết rung động trước những nỗi đau của con người, biết nhạy bén trước những nhu cầu của anh chị em đồng loại, để đem lại cho họ niềm vui, bình an và hạnh phúc. Xin cho chúng con biết ra khỏi chính mình, để không bị rơi vào tình trạng co cụm lại nơi bản thân. Bởi vì nếu co cụm lại với chính mình mà thôi, thì đấy là lúc chúng con đang đánh mất chính mình. Amen.

 

THÔNG CẢM ĐỂ CHẠNH LÒNG THƯƠNG

(Trích dẫn từ ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Nhiều gia đình buồn tủi vì không con trai, như gia đình ông bà kia nói: “Vợ chồng chúng tôi sinh chín con gái mà chưa có con trai. Ngày tết năm Giáp Dần (tháng 02/1974) nhân dịp tới Trung Chánh, chúng tôi đến khấn tại đền Thánh Giuse Mỹ Hòa. Chín tháng sau nhờ lời cầu bầu của Thánh cả, chúng tôi sinh được một con trai ngày mồng 08 tháng 10 năm 1974. Chúng tôi đặt tên thánh cháu là Giuse để trọn đời nhớ ơn ông thánh” (Châu Thủy: Thánh Giuse trong Phúc Âm 1974 trg. 19-20)

Được có con trai vui mừng biết mấy! Nhưng nếu con trai duy nhất đó chết thì khốn khổ đến chừng nào!
Bà góa trong Tin Mừng hôm nay đã đau khổ gấp đôi vì chồng đã chết rồi, nay con trai duy nhất còn lại cũng chết theo. Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho các phụ nữ neo đơn như bà. Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà được bảo lãnh về bản thân và tài sản, bà sống như kẻ bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.

Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn biệt con của bà. Một đám dân rất đông khác đang tiến về thành Naim đã gặp đám tang con bà tại cửa thành. Một đám vui vẻ như ngày hội, một đám buồn sầu tang tóc. Đám đông vui vẻ ồn ào đã im bặt, họ xì xèo rỉ tai nhau, tin tức về bà góa có con trai duy nhất chết làm mọi người cảm thương tội nghiệp. Một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Người đó là Đức Giêsu. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy thương xót những hạng người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã mủi lòng xót thương, khẽ an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa…”

Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xẩy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Mãi thời Vua Achab (874-853 A.C) mới xẩy ra hai lần người chết sống lại, một lần ngôn sứ Êlia cho bà góa thành Sarepta sống lại. “Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó. Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại”. (1V. 17, 21-22). Lần khác, “Êlisê vào nhà Bà Shunem (Su-nem) và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại … Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó… thịt mình đứa trẻ nóng lên … đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra” (2V. 4, 32-35). Thời các tông đồ ở thành Trôa, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại, thánh Luca kể: “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em … kéo dài đến mãi nửa đêm… một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”. Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít” (Cv. 20, 7-12)

Người ta kinh ngạc về cái chết phần xác được sống lại, thì càng phải kinh ngạc biết chừng nào khi được Chúa cho sống lại về cái chết phần hồn. Chết phần hồn là những cái chết của những kẻ lao đầu vào chốn nghiện ngập ma túy, cờ bạc, rượu chè, chơi bời trác táng, có những kẻ chết vì cuộc đời đen tối tuyệt vọng không lối thoát, có những kẻ chết vì tham ô móc ngoặc gian dối bất công. Có những kẻ chết vì khủng hoảng tiền của, danh vọng, địa vị, và hàng trăm thứ chết như vậy nữa. Những hạng người này khó thấy mình sầu khổ trong lúc chết. Chỉ khi nào họ thoát ra khỏi những mê hồn trận đó, họ mới thấy rùng rợn sợ hãi cho quãng  đời quá khứ của họ. Họ chẳng khác gì kẻ nghiện ma túy nhờ cai nghiện được khỏi, lúc đó họ mới thấy sợ. Tất cả những cái chết tinh thần như thế đều được Chúa thương cứu sống họ trong phép Giải tội. Và thật lạ lùng, họ càng chết bao nhiêu lần thì Chúa sẽ cho họ sống lại bấy nhiêu lần. Lòng thương xót của Chúa không ai hiểu thấu.

Còn một cái chết thứ ba nữa là chết cả xác cả hồn: Cái chết này thật rùng rợn kinh khủng vì chẳng bao giờ Thiên Chúa cứu sống nó được nữa. Nó chết đời đời. Nó đã tự chọn cái chết đó, vì nó cố chấp chết trong tội lỗi như Giuđa. Trước khi Giuđa đi thắt cổ, Đức Giêsu vẫn gọi nó là bạn thân thiết. Nó đã từ chối và lao mình vào cái chết đời đời.

Lạy Chúa, Chúa đã thương cứu chữa bao nhiêu người khốn khổ. Con là kẻ khổ nhất, xin Chúa cứu chữa xác hồn con được sống lại với Chúa. Đừng để con phải chết cả hồn lẫn xác đời đời trong ngày kinh khủng ấy.

 
LỜI NGUYỆN

Anh chị em thân mến,
Đức Giêsu chính là Thiên Chúa cứu độ có thể làm cho con người được sống lại từ cõi chết. Tin tưởng vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa, chúng ta hãy tha thiết dâng lên Ngài những lời nguyện xin:
 
1.      Thánh Phaolô đã ý thức: ơn ngài có được là nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Xin cho các vị Mục tử trong Hội thánh luôn noi theo gương thánh nhân, biết trân trọng và dốc hết khả năng của mình để hoàn thành xuất sắc sứ vụ mà Chúa đã trao phó.
Chúng con cầu xin Chúa.
 
2.      Ngày nay còn có rất nhiều người đang chết về phần hồn. Xin cho những ai đang chìm ngập trong các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập, và những Kitô hữu đang có suy nghĩ lệch lạc về tôn giáo, được hồi tâm sám hối trở về qua Bí tích Hòa giải để được cứu sống.
Chúng con cầu xin Chúa.
 
3.      Thiên Chúa luôn yêu thương con người, nhất là những người tầm thường bé mọn. Xin cho mọi người trong xứ đạo chúng con có một trái tim nhạy bén trước những khổ đau bất hạnh của kẻ khác, để an ủi, cảm thông và sẵn lòng trợ giúp.
Chúng con cầu xin Chúa.
 
4.      Chúa đã gọi người thanh niên trỗi dậy từ cõi chết.  Xin Chúa cũng gọi các bạn giới trẻ ngày nay bước ra khỏi thói ham chơi chạy theo những thú vui bên ngoài, lười biếng tham dự thánh lễ, để trở về với Chúa bằng một con người mới, sống có trách nhiệm hơn với gia đình và xứ đạo.
Chúng con cầu xin Chúa.
 
Lạy Chúa Giêsu, tình thương của Chúa dành cho con người quả thật không ai hiểu thấu. Xin ban cho chúng con có một trái tim nhân từ giống Chúa, luôn biết gần gũi, cảm thông và giúp đỡ những ai đang gặp mất mát đau khổ, để trong ngày sau hết, chúng con cũng được hưởng nhờ lòng thương xót Chúa. Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
 

Sưu tầm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn