Đang truy cập : 146
•Máy chủ tìm kiếm : 3
•Khách viếng thăm : 143
Hôm nay : 50565
Tháng hiện tại : 100958
Tổng cộng : 28220206
Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa nhật 20 Thường niên C
BÀI ÐỌC I: Gr 38, 4-6. 8-10
"Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong những ngày ấy, các thủ lãnh tâu vua rằng: "Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ". Vua Sêđêcia phán rằng: "Ðấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì". Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. Giếng không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia sa xuống bùn. Abđêmêlech ra khỏi đền vua và đến tâu vua rằng: "Tâu bệ hạ, những người này chỉ toàn làm những điều ác đối với tiên tri Giêrêmia, họ ném ông xuống giếng cho chết đói dưới đó, vì trong thành hết bánh ăn". Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: "Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết".
Ðó là lời Chúa.
BÀI ÐỌC II: Dt 12, 1-4
"Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu.
Ðó là lời Chúa.
ALLALUIA: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 12, 49-53
"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".
Ðó là lời Chúa.
CÁC BÀI GỢI Ý SUY NIỆM
-------------------------------------------------------------
“Nhờ em chỉ hộ, cảnh thiên đường,”
“ở tận miền âm, hay cõi dương?” (dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)
Lc 12: 49-53
Với nhà thơ, hỏi như thế sẽ chẳng bao giờ nhận được lời đáp. Với nhà Đạo, câu đáp giải vẫn thấy mãi nơi tâm can con người. Trình thuật thánh Luca, nay cũng quả quyết điều đó, rất vững vàng. Thiên đường theo thánh-sử, là chốn an-bình lý-tưởng dành cho dân con của Chúa, trong/ngoài luồng.
Thời buổi hôm nay, an-bình đích-thực xảy đến với thế giới, vẫn không nhiều. Người thời nay, chỉ biết đến an-bình khác lạ, nhưng không thực. Bởi, bình-an thường tình nay đến với người thắng cuộc sau đấu tranh, giành giựt nhằm đoạt chiến-lợi-phẩm dành cho kẻ chiến thắng. Người thua chẳng bao giờ có được an-bình dù dưới hình-thức nào, cũng thế. Người thua kẻ thiệt, cứ phải nhượng-bộ an-bình của mình, để cuối cùng chỉ có được thứ bình-bình nhưng không an-an của kẻ thua thiệt. Trên thực tế, bình-an được dựng xây như thế, cũng đáng buồn.
Bình-an đích-thực, lại sẽ khác. Khác, vì được dựng trên ý-tưởng khác hẳn về công lý và hoà bình. Thứ công lý của bình-an đến từ tình thương của người khác mình, tức những người mà mình muốn đối thoại hoặc luân-chuyển tình thương, chứ không phải người mà mình muốn chinh phục.
Khi đã định danh cho bình-an như thế, ta luôn khởi đầu bằng từ vựng “Yêu thương” với tâm tình thật sự thương yêu người nào đó. Cảm xúc “thương yêu”, sẽ dấy lên niềm vui trong ta. Dù, nhiều người vẫn cứ bảo: niềm vui của ta đã mất, còn lại chỉ là chiến tranh, giành giựt, đố kỵ chứ không là an-bình tự tại. An bình, là niềm vui tự tại khiến ta hài lòng được gần gũi người khác, hơn ở một mình.
Hài lòng, vì “người khác” hiện diện bên ta. Hài lòng, khi ta nhận ra “người khác” ấy làm rất tốt, sống hạnh phúc. Cảm xúc của ta, không theo cung cách do ta chủ xướng, mà do “người khác” tạo ra. Niềm vui, cũng là chuyện lạ thường xảy đến với ta. Vui, vì ta được học. Vui, là vui sống bình-an trong thinh lặng. Vui, là những thứ ta không bắt chụp được, nhưng tự chúng đi vào với ta và trong ta, như quà tặng từ “người khác”, ở trên ta. An-bình, chắc chắn xuất tự niềm vui, có sự đồng thuận của chính ta. Đồng thuận trong hoà-hoãn về mọi sự, khi sự thể đạt niềm vui chung.
An-bình, là niềm vui ta có được khi mọi người hiện-diện thường xuyên bên ta; nhờ đó, ta bớt đi mối lo âu, căng thẳng khiến người hiện-diện thấy thoải mái càng vào với tốt lành/đẹp đẽ, rất đáng làm. Tốt lành/đẹp đẽ rất lặng thinh, trong “trật tự”. Thứ trật tự, ta đạt được tại chốn miền mình ao ước. Việc đó cũng khác lạ, vì nó làm cho người khác nên “giống” ta trong vui mừng. Có như thế, sự khác lạ, quanh ta, sẽ tốt đẹp hơn là khi không có nó, ở đó. Nó là phương thuốc chữa mọi cô đơn, lẻ bóng.
Khó khăn với lý tưởng an-bình, là làm sao ta đến được nơi ấy. Dĩ nhiên, đây là một tiến trình, kéo dài ngày. Và hôm nay, Đức Giêsu lại đã đưa ra hai ẩn-dụ ở trình-thuật. Ngài gọi đó, là thanh-tẩy. Không phải là bí tích hoặc nghi thức tẩy rửa. Ngài muốn nói đến động thái nhúng hết mọi sự vào trong nước và ra khỏi “hố sâu” của chính mình. Ngài nói thế, có nghĩa khuyến khích ta đầm mình vào thứ gì đó lớn lao hơn ta. Ngày nay, Hội thánh dùng cụm từ “khai tâm” trong bí tích thanh tẩy, nên ta có thể dùng từ-vựng ấy, ở đây.
Hãy tưởng tượng tình huống có hai người không thể cùng nhau đạt an-bình hoà-hoãn với nhau, nên lại nhờ ta giải quyết. Hãy đưa cả hai người tự nhận chìm xuống hồ nước đến tận đáy, cho đến khi cả hai ra được chốn thẳm sầu, lại sẽ để mất thói quen tự bảo-vệ, quên đứng dậy đòi quyền sống như mọi lúc, vì cả hai đều không thể đứng dậy được. Và khi ấy, họ sẽ nhận ra là: ở nơi đó, còn có nhiều vấn đề khác nữa. Họ mới bắt đầu giúp đỡ nhau và cùng nhau làm việc. Tiến-trình đạt an-bình đòi hỏi cảm xúc như chìm dưới nước khiến mỗi bên xử sự khác hẳn nhau, nhưng chung cùng nhau. Và khi đó, sự việc xảy đến.
Chúa còn dùng ẩn dụ “lửa”, như kinh nghiệm nung nấu, đốt cháy. Kinh nghiệm của mỗi người từng ngang qua việc nung-nấu đốt-cháy tính vị-kỷ của mình và có cảm giác chỉ mỗi mình được ưu tiên. Có lẽ, ta cũng nên dùng kinh nghiệm của sự việc gia-giảm xuống thành tro bụi, như vào lễ Tro, trong đó ta bôi/chùi “lọ nghẹ” tượng trưng cho sự đốt cháy tính ích-kỷ của mỗi người. Và từ đó, mới có thể trở thành niềm phúc-hạnh cho người khác. Nghe thì hơi quá, nhưng ta không thể có được niềm vui an-bình lễ Phục Sinh mà không như thế. Kinh nghiệm, từ tâm trạng đốt cháy đến tình huống bụi rậm hừng cháy sáng.
Thông thường thì, sẽ có người ngoi đầu lên trước, người kia sau. Từ đó, mới có sự xót thương với các phấn đấu của người kia. Cũng là sự việc giống hệt với tình-trạng của người đối-tác phía bên kia, đang ở trong tình-huống chưa hoàn-thành công việc làm ăn, của chính mình. Hoặc, như thể ai đó sẽ cho rằng đau khổ của người phía bên kia, cũng giống như trường hợp mình từng trải, khi mình cảm-nghiệm mọi đớn đau, cách đơn độc. Đó là thành phố sống còn của tiến-trình an-vui rất hoà hoãn.
Thế đó, còn là khả-hữu-thể, như thể trường-hợp quân khủng bố đánh sập toà cao ốc ở New York hôm 11 tháng 9 năm 2001 chăng? Vậy đâu là khả-hữu-thể? Khi ấy, ta có tự động nhấn nút đỏ/nút đen để tuyên chiến chứ? Hay, ta có thể trao-đổi và đối-thoại với nhau, cả với những người như thế, để xem họ sẽ ăn nói ra sao? Khi ấy ta sẽ nghe họ trong tư-thế nào và làm sao giúp đỡ họ? Thế còn trường hợp ta thúc-bách họ đi vào tình-huống phải làm thế? Có chăng niềm vui an-bình hơn trong tiến-trình hoà bình như thế, cho cả hai, chứ không phải tình-huống có phe này triệt hạ phe kia?
Sống được như thế, ta sẽ tạo được lý tưởng an-bình, và khi ấy ta thực sự có cảm xúc về một tiến-trình thực thụ cần đến nơi đó nữa, cũng không chừng. Thế nên, ta vẫn có một thứ an-bình ngang qua đủ mọi loại hình của công-lý. Và khi đó, cũng không khó để có được ý nghĩ về Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa, một thể loại bình-an rất khác biệt và loại hình công-lý cũng rất khác đều cùng đạt đến hầu đi vào sự kết hợp. Bất cứ khoảnh khắc nhỏ nào có an-bình dựa trên nỗ lực khiến cho sự công-lý đích-thực của Chúa ở với ta, cũng là những sẻ san vào với sự Công-lý và Bình-an, là chính Chúa.
Vào Tiệc Thánh ta tham dự, trước khi trao tặng cho nhau dấu chỉ của bình-an ta chúc mừng: như câu nói Bình-An của Chúa ở cùng anh/cùng chị, điều ấy là như thể bảo: Vâng. Dù anh hay chị có bất đồng ý-kiến với tôi đi nữa, tôi vẫn ở cạnh anh/chị đây. Và, sau đó, ta lại sẽ hát lên lời kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, xin ban bình an cho chúng tôi”. Và rồi, ta sẵn sàng đón nhận Thân Mình và Máu Châu Báu của Đấng đã trỗi dậy khiến cho mọi xung đột đều trở-thành bình-an. Và Đức-Chúa-là-Bình-An-Tuyệt-Đối kéo ta về với Bình-an ấy ở trong Ngài, bằng sự hiệp thông rước Chúa, rất an-bình, vui sướng.
Trong cảm nghiệm niềm bình-an vui sướng ấy, ta lại cứ ngâm lên lời thơ đầy ý nhị, rằng:
“Nhờ em chỉ hộ cảnh thiên đường,”
“ở tận miền âm hay cõi dương?
Hay ở trong long người thiếu nữ.
Một chiều nhuốm đỏ rang yêu đương?”
(Lưu Trọng Lư – Cảnh thiên đường)
Thiên đường ấy, đâu ở trong lòng chỉ một thiếu nữ. Cũng chẳng có, vào buổi chiều những “nhuốm đỏ ráng yêu đương”. Mà, ở bất cứ nơi nào có tình yêu-thương thần-thánh giữa muôn người, như Chúa từng bảo, rất mọi thời.
Một đạo sĩ Ấn Độ hỏi các đệ tử: “Này các con, các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện không?”. Các môn đệ thi nhau trả lời. Có người hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi mà nhìn một đoàn vật từ xa người ta có thể phân biệt được con nào là con bò, con nào là con trâu không?”. Thày lắc đầu: “Không phải”. Một đệ tử khác lại hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui, là khi từ xa nhìn vào vườn cây người ta có thể phân biệt cây nào là cây xoài, cây nào là cây mít không?”. Thày vẫn lắc đầu. Không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ nói: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.
Thật kỳ lạ. Chúng ta đã biết nhiều loại ánh sáng như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ánh sáng đèn điện, đèn pin, ánh sáng đèn dầu, đèn cầy. Cả những ánh sáng tinh vi như tia hồng ngoại, tia X. Tất cả chỉ soi sáng cho thấy sự vật như nó là. Không có ánh sáng nào soi vào mặt một người xa lạ có thể biến người đó thành anh em mình cả. Thứ ánh sáng ấy ở đâu?
Mẹ Têrêxa có thể trả lời câu hỏi này. Một hôm, Mẹ ghé thăm một người đàn ông tội nghiệp. Ông sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong lều là cả một bãi rác mênh mông. Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám. Nhà cửa, đồ đạc phủ một lớp bụi dầy. Thế mà ông lão tự giam mình trong đống rác ấy. Ông ghét bỏ mọi người nên không lui tới với ai. Ông sống cô độc. Mẹ Têrêxa và các chị vào chào ông. Ông làm thinh không đáp. Thấy căn lều hỗn độn, bụi bặm, các chị xin phép ông dọn dẹp, ông không trả lời. Mặc kệ! Các chị cứ bắt tay vào dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn, mẹ Têrêxa lấy ra lau chùi. Chùi sạch lớp bụi, mẹ kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá!”. Ông lão bỗng lên tiếng: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới”. – Ông không thắp đèn lên sao?”. – Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn”. – Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn cho ông không?”. Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý. Từ đó, mỗi chiều các chị đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời. Ông nói chuyện cởi mở với các nữ tu. Ông đi lại thăm viếng hàng xóm. Mọi người đến với ông. Căn lều hiu quạnh trở lại ấm áp. Trước kia, căn lều tăm tối không phải vì ông không thắp đèn, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông lịm tắt. Nay căn lều sáng lên niềm vui không phải vì ánh sáng ngọn đèn dầu, nhưng vì ánh sáng trong trái tim ông bừng lên. Trước kia ông thù oán, xa lánh mọi người vì ánh lửa trong trái tim tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa trong trái tim ông bừng lên và ông cảm thấy tha thiết yêu mến mọi người và mọi người cũng tha thiết yêu mến ông.
Thứ ánh sáng kỳ diệu ấy phát xuất từ trái tim. Ánh sáng ấy ta thấy thấp thoáng khắp các trang sách Tin Mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng bừng lên. Hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em.
Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thày đã đến ném lửa vào trái đất, và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lời ước mong thật tha thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.
Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông… ánh sáng vẫn chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người anh em vẫn còn chém giết nhau.
Nhìn vào bản thân mình, ta thấy trong ta cũng còn nhiều vùng mà ánh sáng Tin Mừng chưa soi dọi tới. Trong lòng ta vẫn còn những ngõ ngách chứa đầy bóng tối ghen ghét, hận thù. Nên ta nhìn ra chung quanh mà ít gặp được anh em mình.
Lời Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà yêu thương.
Lạy Chúa, xin hãy nhóm lên trong trái tim con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
2) Bạn có muốn góp phần đem ánh sáng của Chúa đi gieo rắc khắp nơi không?
3) Bạn bắt đầu chiếu sáng bằng cách nào?
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn