1
22:32 +07 Thứ năm, 02/05/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 146

Máy chủ tìm kiếm : 3

Khách viếng thăm : 143


Hôm nayHôm nay : 50565

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 100958

Tổng cộngTổng cộng : 28220206

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa nhật 20 Thường niên C

Thứ tư - 14/08/2013 14:34-Đã xem: 1739
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất.
Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa nhật 20 Thường niên C

Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa nhật 20 Thường niên C

LỜI CHÚA VÀ CÁC BÀI GỢI Ý SUY NIỆM

BÀI ÐỌC I: Gr 38, 4-6. 8-10
"Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong những ngày ấy, các thủ lãnh tâu vua rằng: "Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ". Vua Sêđêcia phán rằng: "Ðấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì". Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. Giếng không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia sa xuống bùn. Abđêmêlech ra khỏi đền vua và đến tâu vua rằng: "Tâu bệ hạ, những người này chỉ toàn làm những điều ác đối với tiên tri Giêrêmia, họ ném ông xuống giếng cho chết đói dưới đó, vì trong thành hết bánh ăn". Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: "Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết".  
Ðó là lời Chúa.


BÀI ÐỌC II: Dt 12, 1-4
"Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu. 
Ðó là lời Chúa.


ALLALUIA: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 12, 49-53
"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. 
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".  
Ðó là lời Chúa.
 



CÁC BÀI GỢI Ý SUY NIỆM
-------------------------------------------------------------
 

“Nhờ em chỉ hộ, cảnh thiên đường,”

“ở tận miền âm, hay cõi dương?” (dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

Lc 12: 49-53

 Với nhà thơ, hỏi như thế sẽ chẳng bao giờ nhận được lời đáp. Với nhà Đạo, câu đáp giải vẫn thấy mãi nơi tâm can con người. Trình thuật thánh Luca, nay cũng quả quyết điều đó, rất vững vàng. Thiên đường theo thánh-sử, là chốn an-bình lý-tưởng dành cho dân con của Chúa, trong/ngoài luồng.

Thời buổi hôm nay, an-bình đích-thực xảy đến với thế giới, vẫn không nhiều. Người thời nay, chỉ biết đến an-bình khác lạ, nhưng không thực. Bởi, bình-an thường tình nay đến với người thắng cuộc sau đấu tranh, giành giựt nhằm đoạt chiến-lợi-phẩm dành cho kẻ chiến thắng. Người thua chẳng bao giờ có được an-bình dù dưới hình-thức nào, cũng thế. Người thua kẻ thiệt, cứ phải nhượng-bộ an-bình của mình, để cuối cùng chỉ có được thứ bình-bình nhưng không an-an của kẻ thua thiệt. Trên thực tế, bình-an được dựng xây như thế, cũng đáng buồn.

Bình-an đích-thực, lại sẽ khác. Khác, vì được dựng trên ý-tưởng khác hẳn về công lý và hoà bình. Thứ công lý của bình-an đến từ tình thương của người khác mình, tức những người mà mình muốn đối thoại hoặc luân-chuyển tình thương, chứ không phải người mà mình muốn chinh phục.

Khi đã định danh cho bình-an như thế, ta luôn khởi đầu bằng từ vựng “Yêu thương” với tâm tình thật sự thương yêu người nào đó. Cảm xúc “thương yêu”, sẽ dấy lên niềm vui trong ta. Dù, nhiều người vẫn cứ bảo: niềm vui của ta đã mất, còn lại chỉ là chiến tranh, giành giựt, đố kỵ chứ không là an-bình tự tại. An bình, là niềm vui tự tại khiến ta hài lòng được gần gũi người khác, hơn ở một mình.

Hài lòng, vì “người khác” hiện diện bên ta. Hài lòng, khi ta nhận ra “người khác” ấy làm rất tốt, sống hạnh phúc. Cảm xúc của ta, không theo cung cách do ta chủ xướng, mà do “người khác” tạo ra. Niềm vui, cũng là chuyện lạ thường xảy đến với ta. Vui, vì ta được học. Vui, là vui sống bình-an trong thinh lặng. Vui, là những thứ ta không bắt chụp được, nhưng tự chúng đi vào với ta và trong ta, như quà tặng từ “người khác”, ở trên ta. An-bình, chắc chắn xuất tự niềm vui, có sự đồng thuận của chính ta. Đồng thuận trong hoà-hoãn về mọi sự, khi sự thể đạt niềm vui chung.

An-bình, là niềm vui ta có được khi mọi người hiện-diện thường xuyên bên ta; nhờ đó, ta bớt đi mối lo âu, căng thẳng khiến người hiện-diện thấy thoải mái càng vào với tốt lành/đẹp đẽ, rất đáng làm. Tốt lành/đẹp đẽ rất lặng thinh, trong “trật tự”. Thứ trật tự, ta đạt được tại chốn miền mình ao ước. Việc đó cũng khác lạ, vì nó làm cho người khác nên “giống” ta trong vui mừng. Có như thế, sự khác lạ, quanh ta, sẽ tốt đẹp hơn là khi không có nó, ở đó. Nó là phương thuốc chữa mọi cô đơn, lẻ bóng.

Khó khăn với lý tưởng an-bình, là làm sao ta đến được nơi ấy. Dĩ nhiên, đây là một tiến trình, kéo dài ngày. Và hôm nay, Đức Giêsu lại đã đưa ra hai ẩn-dụ ở trình-thuật. Ngài gọi đó, là thanh-tẩy. Không phải là bí tích hoặc nghi thức tẩy rửa. Ngài muốn nói đến động thái nhúng hết mọi sự vào trong nước và ra khỏi “hố sâu” của chính mình. Ngài nói thế, có nghĩa khuyến khích ta đầm mình vào thứ gì đó lớn lao hơn ta. Ngày nay, Hội thánh dùng cụm từ “khai tâm” trong bí tích thanh tẩy, nên ta có thể dùng từ-vựng ấy, ở đây.

Hãy tưởng tượng tình huống có hai người không thể cùng nhau đạt an-bình hoà-hoãn với nhau, nên lại nhờ ta giải quyết. Hãy đưa cả hai người tự nhận chìm xuống hồ nước đến tận đáy, cho đến khi cả hai ra được chốn thẳm sầu, lại sẽ để mất thói quen tự bảo-vệ, quên đứng dậy đòi quyền sống như mọi lúc, vì cả hai đều không thể đứng dậy được. Và khi ấy, họ sẽ nhận ra là: ở nơi đó, còn có nhiều vấn đề khác nữa. Họ mới bắt đầu giúp đỡ nhau và cùng nhau làm việc. Tiến-trình đạt an-bình đòi hỏi cảm xúc như chìm dưới nước khiến mỗi bên xử sự khác hẳn nhau, nhưng chung cùng nhau. Và khi đó, sự việc xảy đến.

Chúa còn dùng ẩn dụ “lửa”, như kinh nghiệm nung nấu, đốt cháy. Kinh nghiệm của mỗi người từng ngang qua việc nung-nấu đốt-cháy tính vị-kỷ của mình và có cảm giác chỉ mỗi mình được ưu tiên. Có lẽ, ta cũng nên dùng kinh nghiệm của sự việc gia-giảm xuống thành tro bụi, như vào lễ Tro, trong đó ta bôi/chùi “lọ nghẹ” tượng trưng cho sự đốt cháy tính ích-kỷ của mỗi người. Và từ đó, mới có thể trở thành niềm phúc-hạnh cho người khác. Nghe thì hơi quá, nhưng ta không thể có được niềm vui an-bình lễ Phục Sinh mà không như thế. Kinh nghiệm, từ tâm trạng đốt cháy đến tình huống bụi rậm hừng cháy sáng.

Thông thường thì, sẽ có người ngoi đầu lên trước, người kia sau. Từ đó, mới có sự xót thương với các phấn đấu của người kia. Cũng là sự việc giống hệt với tình-trạng của người đối-tác phía bên kia, đang ở trong tình-huống chưa hoàn-thành công việc làm ăn, của chính mình. Hoặc, như thể ai đó sẽ cho rằng đau khổ của người phía bên kia, cũng giống như trường hợp mình từng trải, khi mình cảm-nghiệm mọi đớn đau, cách đơn độc. Đó là thành phố sống còn của tiến-trình an-vui rất hoà hoãn.

Thế đó, còn là khả-hữu-thể, như thể trường-hợp quân khủng bố đánh sập toà cao ốc ở New York hôm 11 tháng 9 năm 2001 chăng? Vậy đâu là khả-hữu-thể? Khi ấy, ta có tự động nhấn nút đỏ/nút đen để tuyên chiến chứ? Hay, ta có thể trao-đổi và đối-thoại với nhau, cả với những người như thế, để xem họ sẽ ăn nói ra sao? Khi ấy ta sẽ nghe họ trong tư-thế nào và làm sao giúp đỡ họ? Thế còn trường hợp ta thúc-bách họ đi vào tình-huống phải làm thế? Có chăng niềm vui an-bình hơn trong tiến-trình hoà bình như thế, cho cả hai, chứ không phải tình-huống có phe này triệt hạ phe kia?

Sống được như thế, ta sẽ tạo được lý tưởng an-bình, và khi ấy ta thực sự có cảm xúc về một tiến-trình thực thụ cần đến nơi đó nữa, cũng không chừng. Thế nên, ta vẫn có một thứ an-bình ngang qua đủ mọi loại hình của công-lý. Và khi đó, cũng không khó để có được ý nghĩ về Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa, một thể loại bình-an rất khác biệt và loại hình công-lý cũng rất khác đều cùng đạt đến hầu đi vào sự kết hợp. Bất cứ khoảnh khắc nhỏ nào có an-bình dựa trên nỗ lực khiến cho sự công-lý đích-thực của Chúa ở với ta, cũng là những sẻ san vào với sự Công-lý và Bình-an, là chính Chúa.

Vào Tiệc Thánh ta tham dự, trước khi trao tặng cho nhau dấu chỉ của bình-an ta chúc mừng: như câu nói Bình-An của Chúa ở cùng anh/cùng chị, điều ấy là như thể bảo: Vâng. Dù anh hay chị có bất đồng ý-kiến với tôi đi nữa, tôi vẫn ở cạnh anh/chị đây. Và, sau đó, ta lại sẽ hát lên lời kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, xin ban bình an cho chúng tôi”. Và rồi, ta sẵn sàng đón nhận Thân Mình và Máu Châu Báu của Đấng đã trỗi dậy khiến cho mọi xung đột đều trở-thành bình-an. Và Đức-Chúa-là-Bình-An-Tuyệt-Đối kéo ta về với Bình-an ấy ở trong Ngài, bằng sự hiệp thông rước Chúa, rất an-bình, vui sướng.

Trong cảm nghiệm niềm bình-an vui sướng ấy, ta lại cứ ngâm lên lời thơ đầy ý nhị, rằng:

 “Nhờ em chỉ hộ cảnh thiên đường,”

“ở tận miền âm hay cõi dương?

Hay ở trong long người thiếu nữ.

Một chiều nhuốm đỏ rang yêu đương?”

(Lưu Trọng Lư – Cảnh thiên đường)

 Thiên đường ấy, đâu ở trong lòng chỉ một thiếu nữ. Cũng chẳng có, vào buổi chiều những “nhuốm đỏ ráng yêu đương”. Mà, ở bất cứ nơi nào có tình yêu-thương thần-thánh giữa muôn người, như Chúa từng bảo, rất mọi thời.
 

Ánh sáng và bóng tối

Một đạo sĩ Ấn Độ hỏi các đệ tử: “Này các con, các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện không?”. Các môn đệ thi nhau trả lời. Có người hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi mà nhìn một đoàn vật từ xa người ta có thể phân biệt được con nào là con bò, con nào là con trâu không?”. Thày lắc đầu: “Không phải”. Một đệ tử khác lại hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui, là khi từ xa nhìn vào vườn cây người ta có thể phân biệt cây nào là cây xoài, cây nào là cây mít không?”. Thày vẫn lắc đầu. Không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ nói: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.

Thật kỳ lạ. Chúng ta đã biết nhiều loại ánh sáng như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ánh sáng đèn điện, đèn pin, ánh sáng đèn dầu, đèn cầy. Cả những ánh sáng tinh vi như tia hồng ngoại, tia X. Tất cả chỉ soi sáng cho thấy sự vật như nó là. Không có ánh sáng nào soi vào mặt một người xa lạ có thể biến người đó thành anh em mình cả. Thứ ánh sáng ấy ở đâu?

Mẹ Têrêxa có thể trả lời câu hỏi này. Một hôm, Mẹ ghé thăm một người đàn ông tội nghiệp. Ông sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong lều là cả một bãi rác mênh mông. Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám. Nhà cửa, đồ đạc phủ một lớp bụi dầy. Thế mà ông lão tự giam mình trong đống rác ấy. Ông ghét bỏ mọi người nên không lui tới với ai. Ông sống cô độc. Mẹ Têrêxa và các chị vào chào ông. Ông làm thinh không đáp. Thấy căn lều hỗn độn, bụi bặm, các chị xin phép ông dọn dẹp, ông không trả lời. Mặc kệ! Các chị cứ bắt tay vào dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn, mẹ Têrêxa lấy ra lau chùi. Chùi sạch lớp bụi, mẹ kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá!”. Ông lão bỗng lên tiếng: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới”. – Ông không thắp đèn lên sao?”. – Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn”. – Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn cho ông không?”. Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý. Từ đó, mỗi chiều các chị đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời. Ông nói chuyện cởi mở với các nữ tu. Ông đi lại thăm viếng hàng xóm. Mọi người đến với ông. Căn lều hiu quạnh trở lại ấm áp. Trước kia, căn lều tăm tối không phải vì ông không thắp đèn, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông lịm tắt. Nay căn lều sáng lên niềm vui không phải vì ánh sáng ngọn đèn dầu, nhưng vì ánh sáng trong trái tim ông bừng lên. Trước kia ông thù oán, xa lánh mọi người vì ánh lửa trong trái tim tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa trong trái tim ông bừng lên và ông cảm thấy tha thiết yêu mến mọi người và mọi người cũng tha thiết yêu mến ông.

Thứ ánh sáng kỳ diệu ấy phát xuất từ trái tim. Ánh sáng ấy ta thấy thấp thoáng khắp các trang sách Tin Mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng bừng lên. Hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em.

Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thày đã đến ném lửa vào trái đất, và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lời ước mong thật tha thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.

Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông… ánh sáng vẫn chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người anh em vẫn còn chém giết nhau.

Nhìn vào bản thân mình, ta thấy trong ta cũng còn nhiều vùng mà ánh sáng Tin Mừng chưa soi dọi tới. Trong lòng ta vẫn còn những ngõ ngách chứa đầy bóng tối ghen ghét, hận thù. Nên ta nhìn ra chung quanh mà ít gặp được anh em mình.

Lời Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà yêu thương.

Lạy Chúa, xin hãy nhóm lên trong trái tim con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
2) Bạn có muốn góp phần đem ánh sáng của Chúa đi gieo rắc khắp nơi không?
3) Bạn bắt đầu chiếu sáng bằng cách nào?

 

“Ta muốn lửa ấy cháy lên” 

Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay là một trong những đoạn khó nhất, vì Chúa Giêsu đã sử dụng những từ ngữ mà xem ra có một ý nghĩa khác với ý nghĩa chúng ta thường hiểu. Lửa, Phép Rửa, sự chia rẽ và Chúa xác nhận đây là sứ mạng không thể bỏ qua được của Ngài khi xuống trần gian: “Thầy đến để mang lửa xuống thế gian và Thầy thật ao ước biết chừng nào cho lửa ấy cháy lên. Thầy còn một Phép Rửa phải chịu, anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình, không phải thế đâu nhưng là đến đem sự chia rẽ”.

Thật là những quả quyết khó hiểu nếu không phải do chính chúa nói ra, và nếu chúng ta có quyền thay đổi Lời Chúa thì có lẽ chúng ta đành bỏ đi những lời khó hiểu này rồi. Chúa Giêsu nói đến lửa nào đây? Ngài nhắc đến phép rửa sắp phải chịu, Phép rửa nào đây? Con người khao khát hòa bình, nhưng Chúa lại nói sứ mạng của Ngài mang đến sự chia rẽ, vậy sự chia rẽ nào đây?

Trong vài phút chia sẻ này chúng ta không thể thực hiện một công việc bác họ chú giải, nhưng chỉ cố gắng nhìn tổng quát những Lời Chúa muốn nói với chúng ta. Lửa trong ngôn ngữ Kinh Thánh Cựu ước chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Môisen được Thiên Chúa Toàn Năng hiện ra nơi bụi gai dưới hình thức lửa bốc cháy. Lửa này có sức mạnh biến đổi, thanh luyện con người để hình ảnh của Thiên Chúa được chiếu sáng rõ ràng hơn nơi chính mình.

Sức mạnh cứu rỗi của Chúa Giêsu trên trần gian này không khác gì hơn là làm cho Thiên Chúa được hiện diện trong cuộc sống con người, là biến đổi và thanh tẩy con người khỏi vết nhơ tội lỗi, để con người được tỏa chiếu sáng hơn hình ảnh của Thiên Chúa: “Thầy đến để mang lửa” hay đúng hơn “để gieo lửa”. Hành động gieo lửa nổi lên một sự tích cực nhiều hơn là từ ngữ “mang”. Chúa Giêsu không chỉ mang xuống mà Ngài còn ra sức tận dụng hết sức mình, tận dụng hết khả năng của Ngài để gieo rắc lửa đó xuống trần gian giữa những gian nan thử thách, chống đối không tin của con người. Sứ mạng này Chúa phải chu toàn, không thể nào tránh né được.

Chúng ta còn nhớ vào khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, ma quỉ đã đến cám dỗ Chúa hãy quì xuống tôn thờ ma quỉ để rồi mọi vinh quang, mọi vương quốc trên trần gian này được trao cho Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ không để cho ma quỉ làm Ngài lạc hướng, vì mục đích đời Ngài chỉ làm cho con người tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi. Sứ mạng của Chúa lúc nào cũng phải là làm cho Thiên Chúa được nhìn nhận, được tôn thờ và được tôn vinh nơi con người, dù phải trả giá thật đắt là phải hy sinh chính mạng sống mình trên thập giá.

Cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là Phép Rửa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Thầy còn một Phép Rửa phải chịu”. Chúng ta nhớ trên đường lên Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua trong đau thương, hai môn đệ Giacôbê và Gioan nhờ mẹ mình đến xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên tả, bên hữu Chúa và Chúa Giêsu đã có phản ứng như sau: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được Phép Rửa Thầy sắp chịu hay không? Chén Thầy uống các con cũng sẽ uống và Phép Rửa Thầy chịu các con cũng sẽ chịu”.

Rõ ràng, Chúa Giêsu nói đến cuộc thương khó của Người qua từ ngữ “Phép Rửa”. Chúa Giêsu phải đi vào cuộc thương khó, phải thực hiện cuộc hy sinh trên thập giá để có thể gieo lửa tình yêu Thiên Chúa xuống trần gian, nhất là gieo tình yêu đó vào trong tâm hồn con người. Đây không phải là sứ mạng dễ dàng, một sứ mạng đòi hỏi nhiều hy sinh, một sứ mạng đòi Chúa phải hy sinh chính mạng sống mình và đổ máu mình ra trên thập giá và Ngài mời gọi các môn đệ hãy đi qua, đi ngang con đường này.

Trong một ngôn ngữ dễ hiểu hơn, Ngài đã mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Ai không vác lấy thập giá mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Thật là những lời vừa mời gọi, vừa cảnh tỉnh mà chúng ta không thể nào lơ là bỏ qua được.

Cuộc đời theo Chúa, đón nhận lửa Chúa gieo xuống và lãnh nhận Phép Rửa Chúa chịu. Cuộc đời theo Chúa này là một cuộc đời đầy hy sinh từ bỏ, chấp nhận tách rời ra khỏi những gì cản trở ta trở nên giống Chúa và đây là sự chia rẽ mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Theo Chúa, sống trung thành với Lời Chúa, lãnh nhận lửa tình yêu của Chúa trong tâm hồn và chấp nhận hy sinh như Chúa đã hy sinh trên thập giá, chấp nhận chịu Phép Rửa của Chúa. Theo Chúa như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ được bình an thật Chúa ban cho, nhưng đồng thời chúng ta cũng bị chia rẽ, bị tách rời ra khỏi kẻ khác, nhất là khi những kẻ khác đó a dua hoạt động cho ma quỉ chống lại chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.

Người đồ đệ của Chúa không thể nào đi con đường khác con đường mà Chúa đã đi qua, và sứ mạng mà Chúa muốn cho mọi người đồ đệ thực hiện cũng là sứ mạng gieo lửa xuống trần gian qua cuộc đời chịu đóng đinh với Chúa, chịu Phép Rửa của Chúa. Thử hỏi chúng ta có sẵn sàng chưa? Chúng ta có đủ can đảm chưa? Và chúng ta muốn theo Chúa, chúng ta xin được theo Chúa trọn đời nhưng chúng ta có biết rõ điều chúng ta xin hay không?

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, cho mỗi người chúng ta được sẵn sàng hơn để đón nhận lửa Thiên Chúa đến trong tâm hồn và để cho lửa đó đốt cháy những tật xấu nơi con người chúng ta. Xin Chúa cho mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa hơn, cho chúng ta được sẵn sàng chịu phép rửa của Chúa, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ, chấp nhận chia rẽ, tách rời khỏi những gì cản trở ta theo Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.


Người giữ ngọn lửa

Cách đây ít lâu, tờ Los Ageles Times có đăng một câu truyện của phóng viên Dane Smith, về một Kitô hữu tên là Charlie Deleo.

Sau khi từ Việt Nam trở về Charlie kiếm được chân giữ tượng Nữ Thần Tự Do. Anh kể cho phóng viên rằng, một phần công việc của anh là lo chăm sóc ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do và cái mũ triều thiên trên đầu bức tượng. Anh phải lo làm sao cho các tia hơi nước có chất natri luôn hoạt động, đồng thời 200 cửa sổ bằng kính nơi ngọn đuốc và mũ triều thiên lúc nào cũng phải sạch sẽ.

Chỉ vào ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Charlie hãnh diện nói: “Đó là nguyện đường của tôi. Tôi dâng hiến nó cho Thiên Chúa và thường lên đó suy niệm vào lúc rảnh rỗi nghỉ ngơi”. Ngoài ra, Charlie còn làm cho Chúa những điều khác nữa. Anh đã nhận được bằng khen của Hội Chữ Thập Đỏ từ sau khi anh hiến nửa lít máu lần thứ 65. và sau khi nghe biết công việc của Mẹ Têrêsa ở Ấn Độ, anh đã gởi tặng Mẹ trên 12 ngàn đô la.

Charlie kể rằng, khi Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói chuyện tại công viên Battery cách bức tượng Nữ Thần Tự Do hơn hai cây số, thì anh đứng trên lối đi nhỏ viền quanh ngọn đuốc và lắng nghe bài nói chuyện của Đức Thánh Cha. Tại lối đi nhỏ ấy, anh cũng sốt sắng cầu nguyện cho chuyến viếng thăm mục vụ của Ngài được thành công.

Charlie vẫn sống độc thân và sau khi kiếm được việc làm, anh đã bảo trợ cho 6 trẻ mồ côi thông qua các tổ chức xã hội, không giữ lại đồng làm của riêng. Cuối cùng, Charlie kể cho phóng viên rằng, anh thường tự cho mình là “người giữ ngọn lửa”.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa xuống trần gian. Ngọn lửa tình yêu vĩnh cửu bốc cháy trong trái tim Ngài. Khi hiến mạng sốngcho con người chỉ vì quá yêu thương con người, Ngài đã châm ngọn lửa yêu thương vào lòng con người. Và Ngài thốt lên với tất cả nỗi lòng khắc khoải: “Thầy đã đến đem lửa xuống trần gian. Nào Thầy có mong muốn gì hơn là mong cho lửa ấy cháy bùng lên”. Cháy bùng lên, không phải để rồi tắt ngấm. Nhưng cháy lên để tiếp tục cháy mãi.

Mỗi Kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi.

Anh Charlie trong câu chuyện trên thật là một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta. Anh đã biết giữ ngọn lửa tình yêu, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, luôn cháy sáng như chính ngọn lửa của ngọn đuối trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do mà ngày đêm anh có bổn phận canh giữ. Cách sống của anh cũng mời gọi cho chúng ta hãy là những người giữ lửa. Giữ cho ngọn lửa tình yêu trong lòng mình luôn cháy sáng trước nhan Thiên Chúa và giãi toả hơi nóng sưởi ấm con tim anh chị em chúng ta, nhất là những người đau khổ và bất hạnh.

Tuy nhiên, ngọn lửa tình yêu Chúa Giêsu đem xuống trần gian chỉ bùng cháy và lan rộng cùng khắp khi có máu đổ ra trên Thập giá. Máu đổ ra là dấu hiệu của tình yêu của Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta, đã thanh tẩy chúng ta sạch mọi tội lỗi bằng ngọn lửa và Máu của Ngài: “Thầy sẽ phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất”. Phép rửa nầy là phép rửa nào? Phải chăng là phép rửa bằng máu của cuộc tử nạn thập giá? Như lửa thử vàng, lửa phải thấm vào bên trong làm cho cả khối kim loại “đỏ như lửa”, trở nên tinh tuyền hơn, chất lượng cao hơn.

Đứng trước tình yêu và cái chết thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta phải tỏ thái độ dứt khoát, thưa anh chị em. Hoặc theo Chúa hoặc chối bỏ hay chống đối Ngài. Không thể có thái độ lưng chừng hay trung lập được: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng đúng là để gây chia rẽ”. Bởi vì Lời Chúa luôn chất vấn, hạch sách chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi não trạng, cách suy nghĩ, lối sống. Và mỗi lần thay đổi, chúng ta đều phải chấp nhận có sự xáo trộn, sự bất đồng ý kiến, chia rẽ nội bộ.

Nhiều khi chúng ta sợ gây xáo trộn, sợ mất lòng nhau, sợ bất hoà nên đã tránh né đặt lại vấn đề một cách chính xác, sửa đổi một thái độ, một lối sống sai trái của mình hay của anh em. Cần phải tranh đấu nội bộ giữa cá nhân, giữa tập thể để sửa đổi những lỗi lầm, sai trái, mặc dù biết rằng phải qua những bất hoà, xáo trộn, nhưng rồi sẽ đi đến chỗ đổi mới tốt đẹp hơn, phù hợp với ý muốn của Chúa hơn.

Nhiều khi chúng ta nhân danh sự hoà thuận, sự hiệp nhất trong cộng đoàn, trong giáo xứ, trong Giáo Hội, hoặc vịn cớ không muốn gây hoang mang, chia rẽ, để duy trì một lối cử hành phụng thụ động, nhàm chán, một lối sống đạo vụ lợi, hình thức, một quan niệm lệch lạc về đạo. Người ta cũng đã từng nhân danh sự hiệp nhất để phủ nhận những nỗ lực đấu tranh cho công bằng, đấu tranh giải phóng những kẻ bị áp bức. Sự hiệp nhất đó chỉ là sự đồng loã, hiệp nhất trong tội lỗi…

Những ai theo Chúa Giêsu phải quý trọng công bình, quý trọng tình thương yêu đích thực, coi trọng con người và chấp nhận đấu tranh cho những giá trị cao quý đó, dù có phải vì đó mà phải chống lại những người trong gia đình của mình, chống lại bạn bè và cả những người đồng đạo với mình.

Anh chị em thân mến,

Chúa Kitô đã đem lửa tình yêu để thiêu đốt, thanh luyện những thứ bình an, hiệp nhất giả tạo che đậy những bóng tối tội lỗi, Ngài là con người gây xáo trộn, gây chia rẽ; bởi vì Ngài luôn luôn là ánh sáng chiếu soi vào trong bóng tối. Ngài muốn cho trong lòng mọi người đều bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu nhiệt thành của Ngài để đổi mới, để sống cho cái mới mà Ngài gọi là Nước Trời. Phải đấu tranh mãi để thế giới luôn tốt hơn, con người luôn hạnh phúc hơn. Người Kitô hữu không bao giờ được phép bằng lòng với nguyên trạng, cho dù trong đạo hay ngoài đời, bởi vì tất cả đều phải tiến đến Trời Mới Đất Mới.

 
Sưu tầm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn