1
09:58 +07 Thứ sáu, 26/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 69

Máy chủ tìm kiếm : 6

Khách viếng thăm : 63


Hôm nayHôm nay : 9371

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 292408

Tổng cộngTổng cộng : 27846692

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » AVE MARIA

Đường Mẹ đi là đường Cậy Trông

Chủ nhật - 14/07/2013 11:31-Đã xem: 1495
Tên gọi của đức nữ Đồng Trinh là Maria. Danh hiệu này có nghĩa: Sao biển. Mẹ là ngôi sao cao sang mọc lên trên nhà Giacóp, mà ánh sáng của nó chiếu soi toàn thể nhân lọai, toàn thể thế giới. Ngôi sao chiếu sáng trái đất, sưởi ấm các tâm hồn. Ngôi sao làm chín muồi nhân đức và đốt cháy tục lụy
Đường Mẹ đi là đường Cậy Trông

Đường Mẹ đi là đường Cậy Trông

“ Salve spes nostra  salve” (Kính chào Lẽ Cậy Trông của chúng con). Khi đêm đến, đèn đóm tắt ngấm, thật ấn tượng, sau giờ kinh tối trong tu viện, lắng nghe bài ca tràn ngập ánh sáng, êm ái và bình an “Salve Regina” (Kính chào Đức Nữ Vương). Để chờ đợi và chuẩn bị đón ngày mới, Giáo Hội hướng nhìn về Mẹ Maria như ngôi sao bắc đẩu mời mọc đến bến và bước đi trong ánh sáng Chúa Giêsu Kitô.

Salve Regina, spes nostra, salve” (Kính chào Đức Nữ Vương, Lẽ Cậy Trông của chúng con). Trên con đường cậy trông mà chúng ta cố gắng khám phá các đặc nét trong suốt kỳ phòng này, Đức Maria là người dẫn đường đặc biệt. Chúng ta hãy bước theo Mẹ, trong suốt hành trình tại thế, cho đến khi tham dự vinh quang của Con Mẹ phục sinh. Trong hành trình cuộc sống của Mẹ, Mẹ thật sự là bình minh báo hiệu ngày mới; mời các bạn đọc lại cuộc đời Mẹ như hành vi của đức cậytrông.

ĐỨC MARIA, THIẾU NỮ ÍT-RA-EN.

Truyền thống Kitô giáo mời chúng ta nhìn nhận và tôn vinh ông bà Gioakim và Anna là thân phụ – mẫu của Đức Maria, các ngài có thế giá giữa dân Ítraen, trong suốt chuổi dài 18 thế kỷ, từ thời Apraham xuất hành, một dân tộc có ý thức về sự lựa chọn của Thiên Chúa độc nhất, Đấng yêu thương con người và ao ước sống với con người bằng mối tương quan giao ước và bằng hữu. Trải qua nhiều thử thách thanh luyện, dân tộc này, vào thời Đức Maria chào đời, còn giữ ký ức về một Thiên Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi dân tộc Ítraen, một dân tộc không phải khi nào cũng tín trung với Thiên Chúa, tuy nhiên dân tộc này luôn làm mới lại lòng cậy trông đặt nơi Thiên Chúa. Thật sự đây là dân tộc bộc lộ lời hứa của Thiên Chúa cho nhân loại và sống trong chờ đợi lời hứa ấy được thực hiện. Ông bà Gioakim và Anna là thành viên của dân tộc Ítraen đáng thương này, là thành viên những người công chính, thế chỗ cho ông Simêon và bà Anna mà Tin Mừng Luca nói đến, họ chờ đợi niềm an ủi của Ítraen: “Hồi ấy ở Giêrusalem có một người tên là Simêôn, ông là người công chính và sùng đạo; ông đang mong đợi niềm an ủi của Ítraen” (Lc 2, 25).

Đức Maria sinh ra và lớn lên trong bầu khí chờ đợi và cậy trông của dân tộc mình, được nuôi dưỡng bằng ký ức những sự trọng đại mà Thiên Chúa đã thực hiện, được các thế hệ này qua thế hệ khác truyền lại trong Sách Thánh. Hãy chiêm ngưỡng Đức Maria thiếu thời, thôn nữ miền Galilê, luôn mang trong mình niềm cậy trông sống động và trung trực, được xây dựng trên sự trung tín của Thiên Chúa. Hơn tất cả tâm hồn khác, tâm hồn mẹ cởi mở, đón nhận tìnhyêu bất ngờ của Thiên Chúa. Như cánh buồm trước gió, mẹ sẵn sàng dưới hơi thở của Thánh Thần. Không một vết tích tội lỗi cầm giữ mẹ làm nô lệ, mẹ chìm sâu vào chính mình. Mẹ cậy trông, chờ đợi, ao ước Thiên Chúa như bông hoa tươi thắm của Ítaren: “Này tôi là tối tớ Thiên Chúa; xin hãy thành sự nơi tôi như lời thiên thần truyền” (Lc 1, 38).

Trong biến cố Truyền Tin, như bông hoa sắp nở, Đức Maria rất trẻ trung, mở rộng con tim đón ánh sáng của Thiên Chúa với ý thức về sứ vụ của mình: trở nên mẹ của Đấng thuộc dòng tộc Đavít. Đấng mà dân tộc đang mong chờ, sẽ cai trị trên nhà Giacóp đến muôn đời, vương quốc của Người sẽ vô tận. Đối với mẹ, giờ phút đó thật bất ngờ đầy ngỡ ngàng. Làm thế nào điều đó có thể được? “Làm thế nào điều ấy có thể xảy ra được? – Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng của Đấng Tối Cao phủ bóng trên bà; Vì thế Con trẻ sinh ra là Đấng Thánh. Được gọi là Con của Thiên Chúa … Không gì là không thể đối với Thiên Chúa” (Lc 1, 34-38). Và Đức Maria đón nhận Lời Thiên Chúa. Mẹ tin rằng có thể điều dưới mắt nhân loại thì vô phương. Trong lịch sử còn có hành vi cậy trông nào cao đẹp hơn nữa không: hành vi làm nên khả thể sự biểu hiện của Thiên Chúa qua gương mặt nhân loại được sinh ra bởi người phụ nữ, là Đức Giêsu Kitô; nơi Người hoàn tất mọi lời đã hứa với Ápraham; nơi Người thực hiện niềm cậy trông của Ítraen; Người mở cho nhân loại một tương lai. Lời “xin vâng” của Đức Maria, theo cha Rahner, là lời xin vâng đầu tiên của Giáo Hội. Trong ánh sáng của lời đó chúng ta không ngừng đổi mới hành vi đức tin của chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa khi mà, bằng nhiều cách thế, trước một hoàn cảnh hay những sự lựa chọn phải thực hiện, chúng ta khẩn cầu: làm thế nào điều đó có thể được thực hiện? Với Đức Maria, chúng ta phải nghe lại lời của Thiên Chúa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà… Không gì là không thể đối với Thiên Chúa” nơi một tâm hồn rộng mở cho tình yêu của Thiên Chúa.

NIỀM CẬY TRÔNG MANG GƯƠNG MẶT: MẦU NHIỆM THĂM VIẾNG.

Một cuộc gặp gỡ đầy ngạc nhiên giữa Đức Maria và bà Êlisabét, trong đó lần đầu tiên quyền năng của Đấng mà mẹ vừa cưu mang; và Đấng mà nhờ mẹ, đi vào con đường nhân loại, con đường của mọi người được thể hiện, và sẽ không bao giờ lìa xa con đường đó nữa. Điều này ở nơi trung tâm trình thuật của Luca. Thánh Gioan Tẩy Giả nhảy lên vui mừng trong dạ bà Êlisabét. Bà này kêu lớn tiếng ca tụng Đức Maria: “Em được chúc phúc giữa các người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc! Hạnh phúc thay cho em là kẻ tin rằng điều Đức Chúa phán đã được thực hiện” (Lc 1, 42-45). Đức Maria trong niềm vui gặp gỡ, ý thức mạnh mẽ hơn về biến cố vừa được thực hiện nơi mẹ và từ nơi tâm can mẹ thốt lên lời Magnificat, bài ca đức cậy trông Kitô giáo. Mẹ nhảy mừng lên trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ mẹ, và mẹ nhìn nhận mình là thân phận nữ tỳ được Chúa đoái thương nhìn đến. Phải, nơi mẹ và nhờ mẹ, Thiên Chúa vừa thực hiện những điều trọng đại và biểu dương lòng thương xót của Người, lòng thương xót mà những người hùng mạnh, do tự kiêu và tự mãn, không thể hiểu được và lòng thương xót được biểu dương qua tâm hồn những kẻ khiêm cung; những người phận nhỏ: lời hứa cứu độ được tuyên ra cho Ápraham và thế hệ sau ông, được làm mới lại trong suốt lịch sử Ítraen, lời hứa đó vừa mới được thực hiện.

Đối với Đức Mẹ, qua Đức Giêsu và nhờ Đức Giêsu con của mẹ, niềm niềm cậy trông mang gương mặt bất ngờ, gương mặt của Thiên Chúa đến với chúng ta bằng con đường khiêm hạ, nghèo hèn, gương mặt của Thiên Chúa tình yêu. Từ biến cố Thăm Viếng, không có cuộc gặp gỡ nhân loại nào như mẹ Maria đã có, chúng ta không có được sự ý thức sống động hơn về niềm cậy trông mà chính chúng ta đặt nơi Đức Giêsu, chúng ta là những người mang niềm hy vọng và nên dấu chỉ cho anh em chúng ta.

Đức Bà Thăm Viếng, mẹ bắt gặp chúng ta trên mọi nẽo đường trần gian. Nhờ mẹ, chính Đức Giêsu đến với chúng ta để hiện diện với chúng ta trên đường chúng ta đi, để nên ánh sáng và cuộc sống cho chúng ta . Uớc gì với sự trợ giúp của mẹ, đến lượt chúng con, vì Đấng mà chúng ta tin cậy, chúng ta trở nên những người mang niềm vui và cậy trông.

ĐỨC MARIA Ở BÊLEM VÀ Ở NADARÉT: NIỀM CẬY TRÔNG ĐỜI THƯỜNG

Trong suốt ba mươi năm, cuộc sống của Chúa Giêsu xoay vần trong nghèo hèn, trong thanh bần, trong âm thầm, phó mặc cho may rủi của những cuộc hành trình lúc mới sinh ra hay lên đền Giêrusalem. Một trích đoạn trong Tin Mừng Luca tóm tắt giai đoạn đó, trích đoạn dài nhất về cuộc đời của Chúa Giêsu: “Sau khi đã hoàn tất những điều Luật dạy (dâng con vào đền thờ), hai ông bà trở về Galilê. Con trẻ lớn lên, phát triển và được đầy khôn ngoan. Và ơn sủng của Thiên Chúa ngự trên Người” (Lc 2, 39-40). Chính qua sự đơn sơ, âm thầm này mà trong suốt ba mươi năm, Đức Maria đã cậy trông, đã mong mỏi khi nhìn Chúa Giêsu sống và lớn lên. Như thánh Gioan Tẩy Giả trong tù ngục, mẹ đã chẳng bị cám dỗ tự hỏi: “Có phải Con là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một đấng khác?” (Lc 7, 19). Xem ra không tín hiệu gì lạ thật sự xảy ra. Thật ngạc nhiên, đối với một Đấng Mêsia được dân chúng mong chờ như thế, lại đến trong thế gian bằng con đường nghèo hèn và bình thản xét từ bên ngoài! Dĩ nhiên có những biến cố làm cho tâm hồn mẹ thức tỉnh: việc ông Simêôn bồng ẳm Chúa Giêsu nơi thềm Đền Thờ làm cho mẹ thoáng thấy dấu chỉ chống đối của người đồng hương đối với Chúa Giêsu và lưỡi gươm sẽ đâm xuyên qua tâm hồn mẹ; biến cố Chúa Giêsu bị lạc và được tìm thấy lúc lên mười hai tuổi, tại Đền Thờ Giêrusalem vào dịp hành hương và lời nói gây kinh ngạc: “Chẳng phải Con phải lo việc cho Cha con sao?” Thánh Luca tường thuật rằng đức Maria và thánh Giuse “không hiểu” lời của Chúa Giêsu vừa nói với hai ông bà. Sự biện phân của thánh Luca cho ta hiểu rằng mầu nhiệm về thần tính của Chúa Giêsu được mặc khải qua nhân tính y hệt của chúng ta.

Tôi rất hâm mộ chiêm ngưỡng Đức Maria sống niềm cậy trông, trong sự chờ đợi của tâm hồn người mẹ, tôi yêu thích chiêm ngưỡng đời sống ẩn dật của Chúa Giêsu, qua nhân tính, vì chính trong cuộc sống đời thường mà chúng ta phải hy vọng, phải tín thác cho tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ ra bằng sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô. Chính trong đời thường mà chúng ta phải tin vào Chúa Giêsu Kitô, phải cậy trông nơi Người và phải yêu mến Người, như bà Madeleine Delbrêl đã rất am hiểu và đã sống điều này, qua những bất ngờ của đời thường nơi đường phố hay khi di chuyển trong đô thị. Giai thoại tiệc cưới Cana cho chúng ta hiểu rằng, trong suốt ba mươi năm, niềm cậy trông của Đức Maria đặt nơi Con của mình được lớn lên, bởi vì mẹ dám nói với những người giúp việc: “Hãy thi hành những gì Thầy bảo”. Chính nơi dấu chỉ thứ nhất này cho thấy căn cước của Chúa Giêsu. Đó là vẻ đẹp của niềm cậy trông nơi Đức Maria tại Bêlem, tại Nadarét…

ĐỨC MARIA CỦA NHỮNG NẺO ĐƯỜNG PALESTINE.

Đức Giêsu rời khỏi làng Nadarét, rời căn nhà thân thương, để hành trình trên các nẻo đường Galilê và để lên đường đi Giêrusalem một ngày nào đó. Trên con đường lang bạt, căn cước thật của Chúa Giêsu dần dần được mặc khải ra; tuy nhiên việc mặc khải gương mặt thật của Đức Giêsu trong tương quan với nhân loại giáp mặt với sự bất đồng cảm, bắt bớ, và cuối cùng là từ bỏ. Quảng đời ba năm này đối với Đức Maria là sự thanh luyện niềm cậy trông của mẹ: sự đau khổ của người mẹ trước bấp bênh nguy hiểm đối với Đức Giêsu; sự đau khổ của mẹ khi ra khỏi hội đường Do thái ở Nadarét, mẹ thấy người đồng hương hăm dọa Con, muốn xô Con xuống vực thẳm, sự đau khổ của mẹ đi tìm Con, khi con không đủ giờ để ăn uống nghỉ ngơi và bị người ta cho là tam tam, mất trí, thật xao xuyến khi mẹ và bà con đến thăm và nghe Chúa trả lời : “Nhưng ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?” (Mc 3, 33) và khi nghe Chúa trả lời cho người phụ nữ tán dương người mẹ diễm phúc được làm mẹ một người con như thế : “Hạnh phúc hơn cho những ai nghe và giữ lời của Thiên Chúa”(Lc 11, 28).

Ngang qua những bất trắc xảy tới cho Đức Giêsu tính cứu tinh chân thật của Chúa được bộc lộ ra. Khi nghe lời Chúa nói, Đức Maria suy nghĩ, vươn lên tầm vóc ngang hàng với Con chí thánh. Mẹ cảm nghiệm, như ngày Truyền Tin, ngày ươm mầm Lời mà mẹ đón nhận trong lòng mình: “Xin hãy thành sự như lời sứ thần truyền”. Và Lời hằng sống này là Ngôi Lời của Thiên Chúa làm cho nhân tính của Chúa Giêsu trở nên một gương mặt bất ngờ, gương mặt của tình yêu bất bạo động và buông vũ khí, cần phải đặt mình vào hòan cảnh này. Đức Maria, hiện diện trên đường tông đồ của Chúa Giêsu một cách kín đáo nhưng không ngừng quan tâm và tỉnh thức, mẹ cũng làm như thế trên nẻo đường của chúng ta khi làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô. Ngay nơi tăm tối làm chúng ta hoang mang, những mâu thuẫn chúng ta gặp phải, mẹ là nơi chúng ta cậy dựa để chúng ta quay về với Chúa Giêsu và sống, cùng với mẹ, xứng đáng với tình thương của Chúa Giêsu.

ĐỨC MARIA TRÊN ĐỒI CAN-VÊ

Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người” (Ga 19, 25). Động từ gây ấn tượng: “Mẹ đứng” (stabat). Trong đêm tối đau thương và chết chóc của Chúa Giêsu, một tử tội bị đánh bầm dập và bị bỏ rơi, Đức Maria đứng gần Con. Mẹ hiệp nhất với Con. Mẹ sống, trong tâm hồn bị xuyên thủng, sự đau khổ và sự chết của Con mẹ. Mẹ đứng thẳng, mẹ không gục ngã. Đó là thái độ canh gác, của tâm hồn cảnh giác, luôn chú ý, của tâm hồn tiếp tục tin vào Chúa Giêsu, cậy trông nơi Người. Mẹ cậy trông, mẹ chờ đợi trong đêm khuya, mẹ không hiểu hết nhưng giờ này đây làm nên điều mẹ đã đồng ý trở nên mẹ của Chúa Giêsu, như ông già Simêôn đã cho mẹ thoáng thấy.

Trong giờ phút tăm tối, đối với mẹ, lại bộc lộ ra sự tinh tế của tâm hồn Chúa Giêsu; khi nhìn thấy mẹ, thánh Gioan nói lại cho chúng ta, Chúa Giêsu trối mẹ cho môn đệ Người yêu mến, đồng thời trối Gioan cho tình yêu thương của mẹ. Đó không phải là thời điểm, của ích kỷ, của tranh giành, nhưng là thời điểm mở rộng con tim cho vừa tầm của mọi người. Tâm hồn yêu thương của mẹ đón nhận từ con tim của Chúa Giêsu, một khả năng yêu mến theo mẫu gương của Thiên Chúa, một Thiên Chúa tỏ bày quyền năng của mình ra trong tha thứ, trong cứu chuộc. “Có phải bạn sắp chìm vào vực thẳm buồn sầu và thất vọng không?” Thánh Bernard hỏi thế; lúc đó ngài khuyên: “Trong cơn hiểm nguy, hãy nhớ đến Đức Maria, hãy cầu khẩn với mẹ”. Tin tưởng, cậy trông trong đếm tối đau khổ và chết chóc… Không có thập giá nhân loại nào mà Đức Maria không gần gũi để bảo vệ chúng ta trong niềm cậy trông của ngày mới, trong niềm cậy trông Chúa Giêsu đến.

ĐỨC MARIA CỦA BÌNH MINH NGÀY PHỤC SINH

Trong các trình thuật Kinh thánh không thấy nói đến Đức Maria chứng kiến ngôi mộ trống và sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Vào thời điểm vui mừng và vinh quang biểu lộ thần tính của Chúa Giêsu, Đức Maria, cũng như vào ngày Truyền tin, chỉ muốn là nữ tỳ của Chúa. Thánh Gioan đón mẹ về nhà mình, một cách kín đáo nhưng sâu đậm và duy nhất. Mẹ tham dự vào niềm vui chiến thắng của Chúa Giêsu, một chiến thắng không có hương vị báo thù nhưng là chiến thắng của sự hòan tất, của cuộc vượt qua cho một cách sống mới, một nhân lọai mới. Trước cuộc thương khó Chúa Giêsu đã nói đến chiến thắng này như sự hạ sinh làm cho người mẹ đau khổ trong chốc lát nhưng sau đó làm cho người mẹ nhanh chóng được niềm vui vì sinh hạ một người con vào đời. Đức Maria tham dự vào niềm vui của Chúa Giêsu. Đức Maria trở nên mẹ của nhân lọai mới, một nhân lọai được Chúa Giêsu giải thóat khỏi sự dữ và sự chết.

Bài ca Magnificat, trong ánh sáng Phục sinh, thóat ra từ tâm hồn của Đức Maria như một bài ca giải phóng, bài ca tụng Thiên Chúa trung thành giữ vững lời hứa qua những nẻo đường xem ra xa lạ với sự khôn ngoan của trần thế. “Chúa cứu độ Ítraen tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời”(Lc 1, 54-55). Bằng con đường tình yêu, không tách rời khỏi sự nghèo hèn và phục vụ, Thiên Chúa đã giải thóat dân của Người chứ không phải bằng con đường kiêu căng, của quyền năng ức hiếp. Đức Maria, Mẹ của nhân lọai, được cứu chuộc nhờ Con của mẹ, mẹ sẽ là người đầy tớ khiêm cung cho đến khi Vương quốc được tỏ hiện, theo kế họach yêu thương này.

ĐỨC MARIA CỦA BỮA TIỆC LY

Tất cả họ đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu” (Cv 1,14). Tham chiếu rất vắn gọn này nói về Đức Maria trong sách Công Vụ Tông Đồ tập chú đến sự có mặt của đức Maria tại Bữa Tiệc Ly! Các bút tích tông đồ không nhắc đến tên của mẹ: thánh Phaolô nói đến Chúa Giêsu như đấng “được người phụ nữ sinh ra”, ngài không nêu tên đức mẹ. Các văn kiện tông đồ giữ sự kín đáo đến ngạc nhiên về đức Maria, tuy nhiên điểm ghi chú trên đây là đủ. Đức Maria có mặt ở đó, hiện diện ngay từ lúc khởi đầu của Giáo Hội, như mẹ có mặt tại Nadarét và trên đồi Can-vê. Dưới ảnh hưởng của đức mẹ, tâm hồn các tông đồ sẵn sàng đón nhận hồng ân của Chúa Thánh Thần, và Giáo Hội, là Nhiệm Thể Chúa Kitô, sẽ tiếp tục lớn lên và bộc lộ ra trong suốt lịch sử nhân loại như dấu chỉ tình yêu của Con mẹ cho tòan thể nhân loại. Đứng trước sứ mệnh Chúa Giêsu Kitô trao ban cho các tông đồ: “Các anh sẽ là nhân chứng của Thầy cho đến tận cùng trái đất”, những tông đồ đầu tiên chắc chắn đã tự hỏi, như đức Maria vào ngày truyền tin thắc mắc về mẫu tính trinh khiết của mình: “Làm sao chuyện ấy có thể xảy ra được? Làm thế nào, chúng tôi những con người hèn mọn có thể làm chứng cho đến mút cùng trái đất về một biến cố như thế?”. Và đức Maria đã phải nói với họ: “Đừng sợ, Chúa Thánh Thần sẽ làm cho các ông như Ngài đã làm nơi tôi điều mà các ông xem ra không thể thực hiện được”.

Ngay từ bước đầu, đức Maria đã nâng đỡ Giáo Hội vững niềm cậy trông. Và cứ tiếp tục như thế mãi về sau. Trong các cộng đòan Kitô hữu hôm nay, cũng như cộng đòan của Bữa Tiệc Ly tại Giêrusalem, chúng ta hãy đồng tâm cầu nguyện với đức Maria để dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần, Lời của Đức Giêsu mang đến trong tâm hồn chúng ta và trong thế giới hoa trái sự sống và sự tự do của Người. Như đức Maria và với đức Maria, Giáo Hội không ngừng lặp lại: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin hãy thành sự nơi tôi như lời Người”. Mỗi ngày, lời này phải là lời của Giáo Hội.

ĐỨC MARIA CỦA NGÀY LÊN TRỜI.

Công đồng Vaticanô II chiêm ngưỡng giai đoạn cuối cùng của đời sống đức Maria, bằng những hạn từ: “Đức Maria được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ và sau khi hòan tất cuộc đời dưới thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết” (GH 59). Trên trời mẹ được vinh quang cả hồn lẫn xác, mẹ của Chúa Giêsu tượng trưng và khai mào Giáo Hội trong sự hòan tất ở giai đọan cuối cùng. Cũng thế ở trên trần gian này, đang khi chờ đợi ngày Chúa đến, mẹ chiếu sáng như dấu chỉ của niềm cậy trông, được bảo đảm bởi những ủi an, trước mặt dân Thiên Chúa đang lữ hành. Đức Maria thật sự là hình ảnh của mũi thuyền Giáo Hội ngang qua lịch sử. Mẹ là điểm đến mà chúng ta còn phải vươn tới vì Chúa Kitô và cùng với Chúa Kitô, chiến thắng sự dữ và sự chết.

Tên gọi của đức nữ Đồng Trinh là Maria, thánh Bernard viết. Danh hiệu này có ý nghĩa: Sao biển. Mẹ là ngôi sao cao sang mọc lên trên nhà Giacóp, mà ánh sáng của nó chiếu soi toàn thể nhân lọai, toàn thể thế giới”. Trong đêm tối của đời sống chúng ta, có khi của cả thế giới nữa , chúng ta hãy ngắm nhìn ngôi sao này và cầu khẩn đức Maria. Ngôi sao này là chân trời của đời sống chúng ta. Ngôi sao không ngừng nhắc cho chúng ta, ở nơi chúng ta cũng như ở nơi mẹ, ở nơi Chúa Giêsu Kitô, thần chết và sự dữ không nói lời cuối cùng và chớ gì sự sống và tình yêu chiếm phần ưu thắng. Đó là điều mẹ nói cho chúng ta bằng chứng từ và sự trìu mến của mẹ.

Tôi nói như vậy ở Lộ Đức. Nếu có vùng đất nào được đánh dấu bằng niềm cậy trông, thì đó chính là Lộ Đức. Trên mảnh đất này, dưới cái nhìn của đức Maria mà vẻ đẹp làm chói lòa mắt thánh nữ Bernadette, những tội nhân là tất cả chúng ta, không ngừng, khám phá ra khả thể, nhờ nước rửa sạch của Phép Thánh Tẩy và nhờ bí tích Hòa Giải, được trở nên con người mới theo hình ảnh của Đấng nhìn xem họ và kêu mời họ thi hành điều Chúa Giêsu nói với họ trong sâu thẳm của ý thức họ. Chính dưới ánh mắt của từ mẫu, đồng cảm và nhân từ, mà tất cả những ai đau khổ trong tâm hồn và nơi thể xác tìm lại được sự can đảm để sống và để chiến đấu trong cuộc sống nhờ sự trợ giúp của anh chị em mình. Chính dưới ánh mắt của thân mẫu mà những người hành hương khám phá ra cách thật sự biết đón nhận sự sống của mình bằng cách cho đi sự sống đó để phục vụ tha nhân trong niềm vui. Félix Lacambre, cựu biên tập viên của báo “La Croix” và đảm trách về ACO, tường thuật trong quyển sách mà ông làm chứng cho đức tin của mình rằng tại Hang Đá, vào lúc 14 tuổi, khi thấy một người mẹ dâng con tật nguyền của mình cho đức Maria, ông hiểu ra rằng cách duy nhất hạnh phúc là làm cho người khác được hạnh phúc; và ông đã sống trong viễn cảnh đó.

Chính dưới ánh mắt của mẹ và lời mời gọi của mẹ mà Giáo Hội quy tụ lại để cử hành Thánh Thể và ý thức, không như bất cứ chỗ khác, về tình huynh đệ đại đồng mà Giáo Hội phải trở nên dấu chỉ và bột men. Lộ Đức thật sự là điểm cao sinh họat của Giáo Hội, nơi đó Giáo Hội lấy lại hơi thở để loan báo Tin Mừng cho trung tâm thế giới mà Giáo Hội đang hành hương. Không phải là vô ích mà các giám mục quy tụ lại nơi đây để suy tư về sứ mệnh của mình. Và thánh nữ Bernadette ở đó để nói cho chúng ta, như trong kinh Magnificat, rằng chính nơi tâm hồn đơn sơ và cởi mở của những người nghèo hèn hôm nay cũng như hôm qua Chúa Giêsu Kitô bộc lộ ra quyền năng của tình yêu Người. Mẹ có mặt ở đó vì lý do này . “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này nhưng nơi thế giới khác”. Đó là lời của đức Maria nói với Bernadette. Chúng ta phải nghe lại lời này dành cho chúng ta . Lời nhắc lại cho chúng ta rằng chúng ta không phải tìm kiếm, không hy vọng hạnh phúc theo lối thế gian đề xuất, bằng những con đường ích kỷ, kiêu căng, tiền tài, nhưng bằng con đường tình yêu, tự hiến, vì Thiên Chúa là tình yêu và Ngài chỉ có thể được đón tiếp, khám phá bằng con đường tình yêu là con đường vĩnh hằng. Đó là lời hứa của đức Maria cho Bernadette.

Cuối cuộc chiêm niệm về đức cậy trông của mẹ Maria, niềm cậy trông đã nâng đỡ mẹ suốt đời và đã nâng mẹ lên ngang tầm với Con của mẹ trong vinh quang thiên quốc, chúng ta hãy lắng nghe thánh Bernard nói lại cho chúng ta: “Tên gọi của đức nữ Đồng Trinh là Maria. Danh hiệu này có nghĩa: Sao biển. Mẹ là ngôi sao cao sang mọc lên trên nhà Giacóp, mà ánh sáng của nó chiếu soi toàn thể nhân lọai, toàn thể thế giới. Ngôi sao chiếu sáng trái đất, sưởi ấm các tâm hồn. Ngôi sao làm chín muồi nhân đức và đốt cháy tục lụy”

Các bạn tất cả, dù bạn là ai và cảm thấy thế nào chăng nữa, ngày hôm nay, bị lay động trong cơn giông tố và bão táp, xa đất liền, bạn đừng bao giờ quên ngước mắt nhìn ngôi sao này nếu như bạn không muốn chìm xuồng.

Nếu đối với bạn luồng gió cám dỗ vừa trỗi dậy, tảng đá thử thách dâng cao, bạn hãy ngước mắt nhìn ngôi sao ấy và kêu khấn danh đức Maria.

Nếu bạn bị sóng kiêu căng, tham vọng, nói xấu, ganh tỵ vùi dập, bạn hãy ngước nhìn ngôi sao ấy và kêu khấn danh đức Maria.

Tâm hồn bạn có bị rung chuyển như con thuyền yếu ớt bởi tính nóng nảy, hà tiện, đam mê xác thịt, hãy nhìn lên đức Maria.

Bạn có xao xuyến vì tội lỗi nặng nề của bạn, bị hạ nhục vì hổ thẹn lương tâm, kinh khiếp vì sợ án phạt, bạn nếu bạn sắp bị chìm trong thung lũng âu sầu và tuyệt vọng, trong nguy hiểm, bạn hãy nhớ đến đức Maria.

Trong xao xuyến lo âu, bạn hãy nghĩ tưởng đến đức Maria, kêu khấn đức Maria. Chớ gì thánh danh của mẹ không bao giờ tắt lịm trên môi bạn, kỷ niệm về mẹ không bao giờ chết đi trong tâm hồn bạn. Để nhận được sự nâng đỡ lời kinh của mẹ, đừng bao giờ đánh mất gương lành đời sống mẹ.

Đang khi tiến bước theo mẹ, bạn sẽ không lạc đường. Trong khi cầu khẩn mẹ, bạn không có nguy cơ tuyệt vọng. Trong khi suy tưởng về mẹ, bạn không đi lầm đường. nếu đức Maria cầm tay bạn, bạn sẽ không vấp ngã. nếu mẹ bảo vệ bạn, bạn không còn lo sợ gì nữa. Dưới sự chỉ dẫn của mẹ bạn không phải sợ hãi chán chường. Sự bảo vệ của mẹ dẫn bạn tới cùng đích.

Lúc đó bạn sẽ thấy thật chí lý điều đã viết: “Tên gọi của Đức Nữ Đồng Trinh là Maria”

 

ĐGM Maziers

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn