1
03:36 +07 Thứ năm, 02/05/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 226

Máy chủ tìm kiếm : 4

Khách viếng thăm : 222


Hôm nayHôm nay : 8725

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 59118

Tổng cộngTổng cộng : 28178366

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Mừng lễ Chúa Hiển Linh

Thứ bảy - 05/01/2013 08:34-Đã xem: 1476
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người".
Mừng lễ Chúa Hiển Linh

Mừng lễ Chúa Hiển Linh

BÀI ĐỌC I: Is 60, 1-6
"Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi".

Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.

Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.

<p justify"="" align="justify" style="color: rgb(0, 0, 0); font-family: Arial; font-size: 16px; line-height: 16pt;">Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa. Đó là lời Chúa.

BÀI ĐỌC II: Ep 3, 2-3a. 5-6
"Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa".

Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô. Đó là lời Chúa.
 

PHÚC ÂM: Mt 2, 1-12
"Chúng tôi từ phương Đông đến thờ lạy Đức Vua".

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".

Đó là lời Chúa

LỜI CẦU NGUYỆN

Kêu mời:  Anh chị em thân mến,

Vì Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, nên trong Lễ Hiển Linh, Chúa dùng ánh sáng sao lạ để hướng dẫn Ba Vua tìm đến với Chúa Giêsu, tin nhận Ngài là Đấng Cứu độ duy nhất của trần gian. Chúng ta hãy cùng hiệp ý cầu nguyện cho mọi người:

  1. "Chúng tôi đến thờ lạy Người". Chúng ta cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh: luôn trung thành thờ lạy Chúa Cứu Thế, và luôn là ánh sáng cho trần gian, hướng dẫn muôn dân đến lãnh nhận ơn cứu rỗi của Chúa.
     
  2. "Ở bên phương Đông, chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người, nhờ thấy những gương sống đạo thánh thiện, mà tìm đến với Chúa Cứu thế, để cùng được ơn cứu rỗi. 
     
    1. "Bấy giờ ngôi sao lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại". Chúng ta cầu nguyện cho những tín hữu đang bị khủng hoảng đức tin, được thấy ánh sáng Lời Chúa dẫn đường, cho họ lại vững tin vào Chúa.
       
    2. "Họ vào nhà, gặp thấy Hài Nhi, và họ sấp mình thờ lạy Người". Chúng ta cầu nguyện cho mọi người trong họ đạo chúng ta, luôn hân hoan sống Đạo, sống Lời Chúa và sống Thánh Thể, trở nên muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian.

    Kết thúc: Lạy Chúa, Chúa hiển hiện ánh sáng cứu độ cho từng người, bằng nhiều cách khác nhau. Xin ban Thánh Thần Chúa giúp chúng con đón nhận ơn cứu rỗi, và trở nên chứng tá ơn cứu rỗi Chúa trước mắt mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

     

     


    SUY NIỆM
    Hiển linh có nghĩa là Thiên Chúa xuất hiện hữu hình giữa chúng ta. Chúa Giê su là Ánh sáng vĩnh cửu đã đến chiếu soi trần gian tăm tối. Nhưng “bóng tối không tiếp nhận Ánh sáng”. Để nhận biết ánh quang rạng ngời của Thiên Chúa, cần phải dứt khoát với bóng tối tội lỗi và chấp nhận đi theo ánh sao, chấp nhận tìm một điều gì khác hơn là điều chúng ta đang chờ đợi.

    Sách tiên tri Isaia 60,1-6
    Vào lúc trở về từ nơi lưu đày, nhiều người Do thái chọn ở lại nước ngòai. Đền thờ Giêrusalem vẫn chưa được tái thiết. Giêrusalem chỉ là một quận nhỏ trong đế quốc Ba tư. Nhưng Tiên tri đã nâng đỡ niềm Hi vọng bằng cách loan báo rằng sẽ có một ngày Kinh Thành hoang tàn đó sẽ là trung tâm của Vũ trụ.

    Thánh vịnh 71
    Thánh vịnh “hoàng vương” diễn tả niềm mong đợi một Vị Vua lí tưởng sẽ đến để hoàn tất công trình của vua Đa vít. Vị Vua ấy sẽ mang đến Công Chính, An Bình, Phúc lành, Quyền năng và sẽ giải thoát tất cả những ai đang đau khổ vì bị nghiền nát. Trong Người sẽ qui tụ tất cả mọi dân nước trên trần gian.

    Thư Êphêsô 3,2-3a.5-6
    Vào lúc cuối đời, tù nhân Phao lô suy tư về ý nghĩa Công trình của Thiên Chúa. Phải qua một thời gian dài nẩy mầm để con người có thể tiếp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa trong tất cả ánh quang của nó. Mầu nhiệm ấy được diễn đạt bởi sự giao hòa của tất cả mọi người bên kia những tranh chấp. Nơi nào Thánh Thần giúp con người nhận ra mầu nhiệm ấy, nơi đó bừng lên ánh sáng.

    Tin mừng Mt 2,1-12
    NGỮ CẢNH
    Với chương 2, hành động của Thiên Chúa và con người gặp nhau và tạo thành lịch sử bi kịch của Chúa Giê su, Con Thiên Chúa. Sau khi đã mô tả cây ân sủng (1,1-17), Mt trình bày phúc âm của ân sủng, sự mạc khải quà tặng của Thiên Chúa cho các dân ngoại. Sau sự cắm rễ trong thời gian, giờ đến sự phát triển trong không gian; sau khi đến trần gian trong im lặng, giờ Ngài tỏ hiện cho muôn dân.
    Mt muốn chứng minh rằng Tin Mừng được ban tặng cho lòai người, đã không được tất cả tiếp nhận, trước tiên là dân Do Thái, những địa chỉ đầu tiên.
    Câu truyện về các nhà Đạo sĩ (Chiêm tinh) được trình bày theo dạng một lược đồ tương ứng với các giai đoạn của cuộc hành trình mà các nhà loan truyền Tin Mừng đã trải qua: đến Giê ru sa lem (2,1-2), gặp gỡ vua Hêrôđê (2,3-8), các nhà Chiêm tinh đến nơi ở của hài nhi (2,9-11) và cuối cùng họ ra đi (2,12)

    TÌM HIỂU
    Khi Chúa Giê su ra đời tại Bê lem: qui chiếu đơn giản đến biến cố Chúa Giê su giáng sinh trong sách Tin mừng Mt. Về nơi giáng sinh là Bê lem, Mt giống với Lc trong 2,4-7.
    Vua Hêrôđê: là một người Iđumêô, thuộc dòng dõi Esau. Ông là một kẻ soán ngôi, dù cai trị trên phần đất Galilê nhưng lại không thuộc chi tộc Giu đa, cũng chẳng phải dòng vua Đa vít. Tước hiệu là Vua (từ nầy được lặp lại một lần nữa ở 2,3 rồi biến mất) đối lại với Chúa Giê su là Vua thực của người Do Thái.
    Mấy nhà chiêm tinh: là những nhân vật quan trọng ở các nước ngoại giáo, chuyên về khoa học, đặc biệt khoa thiên văn. Chúng ta không biết là bao nhiêu vị và từ đâu đến. Lòng đạo đức bình dân cho là ba vị, vì có ba phẩm vật dâng cho Chúa (2,11) và trong Tv 72,10. Tác giả Mt thì không nói gì về vấn đề nầy cả.
    Từ phương Đông: bản văn chỉ ghi chú đơn giản mà không chính xác là từ đâu. Tuy nhiên phương Đông là nơi phát xuất của nhiều điều: là nơi mặt trời mọc, là nơi Abram khởi hành. Như thế các vị nầy theo gót chân của Abram đi về hướng đất hứa.
    Đức Vua dân Do Thái: đây là cách nói của người ngoại về Chúa Giê su: Philatô (27,11), quân lính La mã (27,29), bảng gắn trên thánh giá (27,37), vua Hêrôđê trái lại dùng kiểu nói híp pri “Đấng Messia” (2,4). Các nhà chiêm tinh biết rằng Đấng Messia mà người Do Thái trông đợi đã sinh ra. Họ là những người đầu tiên biết điều đó giống như các mục đồng ở trong Lc 2,11. Thiên Chúa đã soi sáng họ khi cho họ biết trước.
    Vì sao của Người: là dấu chỉ trên trời cho thấy ánh sáng của Thiên Chúa. Việc can thiệp của các nhà chiêm tinh mang ý nghĩa sâu xa là họ được lôi kéo và hướng dẫn bởi một sự soi sáng bên trong tâm hồn. Mt gợi ý một sự đối chọi giữa vì sao nầy với “vì sao của Gia cóp” mà tiên tri Balaam ngoại đạo đã nói đến (Ds 24,17).
    Bái lạy Người: cử chỉ nầy chỉ dành riêng cho Thiên Chúa. Niềm tin của các nhà chiêm tinh thể hiện qua thái độ tiến đến với Hài nhi (“các ông đã thấy và đã đến”), không hề có ý định chính trị, nhưng chỉ là cầu nguyện và thờ phượng (“và họ đã dâng cho Ngài lễ vật”) (2,11).
    Bối rối: lẽ ra nhà vua và toàn dân phải vui mừng trước tin một vì vua mới sinh ra. Nhưng tại sao họ lại bối rối? Vì đấng Messia mà họ trông chờ không hợp với những kì vọng của họ. Do đó, Chúa Giê su sẽ bị từ khước và bị bách hại. Giê ru sa lem thành thánh sẽ trở thành kinh thành từ chối. Chúng ta đừng quên rằng, khi Mt viết trình thuật nầy thì thành Giê ru sa lem đã bị tàn phá, dường như đó là dấu chỉ bị Thiên Chúa nguyền rủa.
    Triệu tập: Hêrôđê không sẵn sàng chấp nhận một vì vua khác. Vì chính ông đang là Vua. Vì thế ông cho tham khảo ý kiến nơi các nhà thông thái Kinh Thánh. Nên để ý ở đây xuất hiện cụm từ “các Thượng tế và kí lục” mà người ta sẽ gặp lại trong khi họ âm mưu chống lại Chúa Giê su (21,15; 17,3) hay dưới chân thập giá (27,41).
    Trong sách ngôn sứ: lời sấm ngôn sứ Mikêa tôn vinh Bết lê hem vì nơi đó vua Đa vít đã sinh ra như khởi đầu cho niềm hy vọng Thiên Sai, chứ không chủ ý chính xác chỉ ra nơi Chúa Giê su sinh ra. Mt lặp lại lời sấm nầy vì đã nhìn thấy một ám chỉ đến nguồn gốc Đa vít của Chúa Giê su. Lời trích dẫn không theo bản văn Mikêa nhưng lại kết hợp với câu 2Sm 5,2.
    Vời các nhà chiêm tinh đến: Hêrôđê không muốn để lộ âm mưu chống lại Hài Nhi, nên bí mật cho vời các nhà chiêm tinh đến, trao cho họ những chỉ dẫn cần thiết, và hỏi thêm về thời giờ xuất hiện của Ngôi sao. Điều nầy cắt nghĩa lệnh giết các hài nhi dưới hai tuổi (2,16).
    Phái các vị ấy đi: chi tiết nầy cho thấy sự tiếp đón cuối cùng của Hêrôđê, tức là của người Do thái đối với những người ngoại nầy. Đức tin của người ngoại đã vượt trên đức tin của dân Do Thái.
    Ngôi sao: không một người Do thái nào ở Giê ru sa lem đã đi theo họ. Chỉ có niềm tin cùng với họ lên đường đi tìm Chúa. Mt nhấn mạnh đến niềm vui khi họ gặp lại ngôi sao chỉ đường.
    Hài Nhi: vì sao chỉ là dấu chỉ, và đây là Hài Nhi, là ánh sáng đích thực. Sau cuộc hành trình đức tin, giờ đây là sự chiêm ngắm đấng Messia.
    Maria: việc chỉ nói tới Đức Maria mà không nói tới ông Giuse một lần nữa là dấu cho thấy sự tượng thai đồng trinh của Chúa Giê su (1,16.20.25). Mầu nhiệm nầy cùng với việc kêu gọi dân ngoại ưu tiên vào ơn cứu độ đi đôi với nhau cho thấy Thiên Chúa đã thực hiện một điều mới mẻ (x. Gr 31,22).
    Mở bảo tráp: đây là những lễ vật quí giá nhất thời đó kèm theo sự nhìn nhận thần tính của Chúa Giê su. Lẽ ra những lễ vật nầy phải được tiến dâng nơi đền vua ở Giê ru sa lem (theo Tv 72,10-11.15), thì lại đến Bết lê hem, trong một căn nhà không có một chút gì là đền vua, và dâng cho một đứa bé ốm yếu. Nhưng đứa bé nầy là VuaThiên Sai, nhà của Ngài là biểu tượng cho Giáo Hội.
    Đã đi lối khác: Thiên Chúa can thiệp qua một giấc mơ, báo cho các nhà chiêm tinh, một khi đã tìm thấy đấng Messia rồi thì không cần trở lại Giê ru sa lem nữa. Một con đường khác được mở ra cho họ và mọi ki tô hữu thuộc mọi dân nước.

    SỨ ĐIỆP
    Tin mừng Chủ nhật hôm nay nói với chúng ta về các nhà đạo sĩ đến từ phương đông. Một truyền thống cho biết một vị da đen, một vị da vàng và một vị da trắng. Nhưng điều quan trọng mà bài tin mừng muốn nói là ba nhà đạo sĩ ấy đều là những người ngọai quốc. Họ không thuộc về dân Thiên Chúa. Họ không biết Thiên Chúa trong Kinh thánh. Nhưng cảm nhận được lời mời gọi từ một dấu chỉ nền văn hóa của họ: “Chúng ta đã thấy một vì sao xuất hiện”.

    Sứ điệp thật rõ ràng: Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian cho tất cả mọi người, kể cả những người ở ngòai đức tín ki tô hữu. Từ “Hiển linh” có nghĩa là tỏ hiện. Do đó, lễ nầy loan báo cho chúng ta rằng Thiên Chúa tỏ hiện cho tất cả mọi người. Đêm giáng sinh, tin mừng được loan báo cho các mục tử, và ngang qua họ, cho tất cả những người nghèo. Hôm nay, đến lượt những người ở ngòai được hưởng diễm phúc ấy. Không một chướng ngại nào, dù là màu da, văn hóa hoặc cả nguồn gốc tôn giáo có thể làm thất bại chương trình của Thiên Chúa. Người tỏ hiện cho tất cả mọi người và từng người miễn là họ tìm kiếm Người.

    Vì thế, các nhà đạo sĩ được nhớ đến hôm nay, nhắc nhở chúng ta rằng niềm tin, trước hết là một cuộc lữ hành mở ra cho chúng ta sự hiện diện của Thiên Chúa thân hành đến với chúng ta. Một cuộc chuyến đi đòi nhiều hi sinh: phải từ bỏ một cuộc sống tiện nghi để lên đường đến một nơi khác. Nhưng chính nhờ thế mà họ đã khám phá niềm vui “được trung thành với ngôi sao nội tâm”.

    Và cũng quan trọng đối với mỗi người chúng ta: những dấu chỉ thúc đẩy chúng ta ra khỏi bản thân mình để đi gặp đấng Cứu độ. Nhưng cần phải biết rằng, những dấu chỉ ấy chưa đủ. Các nhà đạo sĩ phải hỏi các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhờ những người biết Thánh kinh, họ đã có thể tìm lại con đường và đến với đấng Messia. Và đó là con đường đức tin: trước tiên nhìn vào cuộc sống, các biến cố, các dấu chỉ mời gọi chúng ta; kế đến phải suy nghĩ dưới ánh sáng Lời Chúa; và sau cùng như các nhà đạo sĩ, chúng ta được mời gọi dấn thân và lên đường theo Đức Ki tô. Đó là ba chặng đường thiết yếu cho mọi đời sống ki tô hữu. Dĩ nhiên, cuộc hành trình ấy không phải là không gặp nguy hiểm. nhưng không một điều gì có thể ngăn cản chương trình của Thiên Chúa.

    Cũng như đối với các nhà đạo sĩ, Thiên Chúa đã ban cho mỗi người một vì sao để hướng dẫn họ đến sự tốt và sự thiện, đến Vương quốc tình yêu của Người. Lễ Hiển Linh hôm nay cũng là lễ của những ai đi tìm Thiên Chúa. Họ như đoàn người lữ hành qua sa mạc, trung thành bước theo ánh sao, để cuối cùng được hồng ân gặp thấy điều mà họ tìm kiếm.

    Tiếng gọi từ ánh sao cũng đến với chúng ta ngày hôm nay. Như các nhà đạo sĩ, tất cả chúng ta được mời gọi đến thờ lạy hài nhi Giê su. Chúng ta mang đến cho Ngài những gì tốt đẹp nhất của chúng ta, tất cả những gì làm nên cuộc sống của chúng ta. Chúng ta cũng dâng lên Ngài cả những gì không thấy được, như một sự giúp đỡ, hay thăm viếng bệnh nhân, một cố gắng để trở nên dễ thương hơn.

    Và khi chúng ta đã gặp Chúa, cũng như các đạo sĩ, chúng ta có thể trở về bằng lối khác. Điều đó có nghĩa là chúng ta không thể để mình bị giam hãm trong quá khứ hay thói quen của chúng ta. Con đường mà Chúa Giê su mở ra cho chúng ta luôn luôn mới. chúng ta hãy để cho Ngài hướng dẫn chúng ta. Cùng với Ngài, năm mới 2013 sẽ là một năm đầy hạnh phúc.

    ĐÀO SÂU
    1. HỎI: Bối cảnh lịch sử của lời sấm tiên tri Isaia như thế nào?
    THƯA: Bài đọc một trích từ những chương cuối cùng sách tiên tri Isaia. Chúng ta đang ở vào những năm 525-520 trước Công Nguyên, nghĩa là khoảng 15 hay 20 năm sau cuộc trở về từ chốn lưu đày Babylon. Những ngày đầu mới trở về cố hương, người Ít ra ên đầy phấn khởi bắt tay thực hiện cuộc tái thiết Thành Thánh. Nhưng thực tế phủ phàng dần dần khiến họ chán nản và thất vọng. Cuộc lưu đày kéo dài 50 năm đã thay đổi tất cả. Đất đai bị chiếm đoạt, tài sản của cha ông bị tiêu tán. Cư dân Giê ru sa lem lúc bấy giờ là những người ngoại quốc với cách sống, văn hóa và tôn giáo hoàn toàn khác biệt, khiến cho việc định cư rất khó khăn và việc tái thiết đền thờ phải đình trệ.

    2. HỎI: Trước tình thế khó khăn, tại sao bản văn lại có giọng điệu vui mừng như thế?
    THƯA: Bản văn tràn ngập ánh sáng có thể khiến chúng ta ngạc nhiên nhưng đó là thứ ngôn ngữ bình thường nơi các tiên tri. Chính trong đêm tối mà người ta trông chờ ánh sáng ngày mới, và bổn phận các tiên tri chính là đem lại lòng can đảm, nhắc lại cho mọi người đang sống trong đêm tối đừng quên rằng ngày sắp đến.

    3. HỎI: Đâu là sứ điệp Isaia muốn gửi đến cho dân?
    THƯA: Isaia mời gọi họ hãy hi vọng nhìn về tương lai và nhớ lại lời Chúa hứa: sẽ đến ngày mà toàn thể thế giới sẽ nhận ra Giê ru sa lem là Thành Thánh. Đừng chán nản thất vọng. nhưng hãy nổ lực tái thiết Đền thờ như đã hứa.

    4. HỎI: Vào thời Chúa Giê su người ta chờ đợi đấng Messia như thế nào?
    THƯA: Vào thời Chúa Giê su, sống dưới ách nô lệ của người La mã, người Do thái khắc khoải chờ mong Đấng Cứu thế và cầu xin Thiên Chúa mau sai Ngài đến để giải thoát họ. Đa số dân Do thái tin rằng đó sẽ là một vị Vua, thuộc dòng dõi vua Đa vít. Ngài sẽ cai trị trên ngai báu Giê ru sa lem, và sẽ đánh đuổi người La mã ra khỏi xứ sở và vĩnh viễn tái lập hoà bình, công chính và huynh đệ trên Ít ra ên. Những người lạc quan còn thậm chí nói rằng vương quốc hạnh phúc ấy sẽ ngự trị trên toàn thế giới.

    5. HỎI: Lời sấm tiên tri nào làm nền tảng cho niềm tin ấy?
    THƯA: Lời tiên tri Balaam. Thay vì nguyền rủa dân Ít ra ên như lệnh vua Moab, ông lại tiên báo hạnh phúc và vinh quang cho họ, đặc biệt ông tuyên sấm: “Từ Gia-cóp một vì sao xuất hiện, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-ên” (Ds 24,17). Từ đó về sau, người ta tin rằng một vì sao sẽ xuất hiện báo hiệu cho Vương quốc của Đấng Messia. Vào thời Chúa Giê su và các tác giả Tin mừng, ngôi sao là hình ảnh được liên kết với niềm mong chờ Đấng Thiên sai.

    6. HỎI: Thánh Mát thêu muốn nói điều gì khi mô tả câu chuyện ba nhà đạo sĩ đi tìm Chúa Cứu thế?
    THƯA: Qua câu chuyện ba nhà đạo sĩ đi tìm Chúa Cứu Thế, thánh Mát thêu muốn dạy rằng ơn cứu rỗi Ngài mang lại bị người Do thái từ chối nhưng được lương dân đón nhận. Vua Hê-rô-đê và dân thành Giê ru sa lem đại diện cho dân Ít ra ên, còn ba nhà đạo sĩ đại diện cho dân ngoại.

    7. HỎI: Thánh Mát thêu viết như thế nhằm mục đích gì?
    THƯA: Thánh Mát thêu viết như thế để trả lời cho thắc mắc mà người Ki tô hữu gốc Do thái đặt vào thế kỉ thứ 1: tại sao Ít ra ên không trở lại với Tin mừng, còn dân ngoại lại trở về hằng loạt. Thánh Mát thêu trả lời vì lương dân như ba nhà đạo sĩ mau mắn đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.

    8. HỎI: Các nhà đạo sĩ là ai?
    THƯA: Đạo sĩ là tên gọi được dùng để chỉ các tư tế Ba tư. Vào thời kì Hi lạp đô hộ (khoảng thế kỉ thứ 2-1 trước Công nguyên) từ ấy chỉ những người đông phương có kiến thức rộng rãi về khoa chiêm tinh. Trong bài tin mừng, đạo sĩ có lẽ chỉ những nhà chiêm tinh Babylon đã biết đến tư tưởng thiên sai Do thái  và thường xuyên liên lạc với thế giới Do thái. Đến thế kỉ thứ 8, người ta gán cho họ ba tên Gaspar, Balthasar và Melchior.

    9. HỎI: Có phải cả thành Giê ru sa lem cũng hoảng hốt cùng với Hêrôđê?
    THƯA: Thật ra đó là cách viết phóng đại của Mát thêu muốn nhận mạnh rằng Giê ru sa lem tượng trưng cho dân Ít ra ên phản ứng tiêu cực cho thấy thái độ từ chối của họ. Trong khi đó, dân ngoại đã rộng lòng đón tiếp Đấng Thiên sai.

    10. HỎI: Thánh Mát thêu muốn nói gì khi mô tả: “Thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng”?
    THƯA: Trong khi Vua Hê rô đê cùng với Ít ra ên hoảng sợ trước tin Đấng Cứu thế ra đời, thì ba nhà đạo sĩ cũng như dân ngoại vui mừng khám phá nơi Chúa Giê su sự cứu rỗi mà họ ước mong nhưng chưa biết rõ.

    11. HỎI: “Họ vào nhà”, nhà ai?
    THƯA: Theo ngữ cảnh, thì nhà đó là nhà của Thánh Gia. Nhưng dưới ngòi bút của Thánh Mát thêu, thì “nhà” ở đây là hình bóng chỉ Giáo Hội trong đó người đương thời với Mat thêu vui mừng tìm thấy và kính bái Chúa Giê su Ki tô.

    12. HỎI: Lễ vật ba nhà đạo sĩ có ý nghĩa gì?
    THƯA: Vàng, nhũ hương và mộc dược vốn là ba vật gắn liền với vua. Truyền thống giáo phụ và Giáo hội coi vàng là biểu tượng cho vương quyền, nhủ hương cho thần tính và một dược cho việc mai táng Chúa Giê su.

    13. HỎI: Việc ba nhà đạo sĩ đến yết bái Chúa Cứu thế thực hiện lời sấm nào?
    THƯA: Thực hiện lời sấm Isaia: Từng làn sóng lạc đà sẽ bao phủ lấy ngươi (= Giêrusalem), các lạc đà một bướu từ Midyan, Epha và Saba sẽ đến, chở đầy trầm hương, vàng bạc..” (Is 60,5-6; x. Tv 72,10). Đó là lí do tại sao các nhà họa sĩ thời Trung cổ thường diễn tả ba nhà đạo sĩ cưỡi lạc đà đến với Chúa Giê su.


    NIỀM VUI, ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY HÀNH ĐỘNG
    “Hãy vui lên… vì Chúa đã gần đến” (Pl 4, 5)

    I. CÁC BÀI ĐỌC

    1. Bài đọc I (Is 60,1-6)

    Bài đọc I hôm nay nằm trong những chương của sách ngôn sứ Isaia nói hoàn toàn về ơn cứu độ. Trong các chương 60-62 này, chúng ta không đọc thấy những lời kết tội hay đe dọa, cũng không có điều kiện cho những người đón nhận ơn cứu độ ngoài lòng muốn đón nhận ơn cứu độ. Do đó, bài đọc hôm nay là một bài ca tuyệt vời tràn ngập niềm vui, niềm hi vọng của ơn cứu độ. Nó diễn tả cảnh huy hoàng của thành Sion vào ngày Đức Chúa xuất hiện. Sion bừng sáng không phải tự nó, nhưng là nhờ ánh sáng của Đức Chúa. Các dân tộc đang sống trong bóng tối của đau khổ tội lỗi sẽ lần bước tìm về với ánh sáng của Sion, vì đó chính là ánh sáng cứu độ mà Thiên Chúa mang đến. Hình ảnh các dân tộc kéo về Giêrusalem cùng với muôn vàn thú vật và vàng bạc trầm hương diễn tả sự giàu có sung túc và hạnh phúc của thành thánh trong ngày Đức Chúa xuất hiện.

    Hình ảnh ánh sáng và vinh quang thường gặp thấy trong các Thánh vịnh ca ngợi vương triều của Thiên Chúa, hát mừng ngày đăng quang của Đức Chúa. Trong Is 6,3-5 ngôn sứ Isaia cũng đã nói về vinh quang của Đức Chúa được tỏ hiện khi vương quốc của Người được thiết lập và khi vương quyền Người được loan báo ở Sion. Bài đọc hôm nay công bố sự thiết lập vương triều của Đức Chúa ở Giêrusalem qua sự xuất hiện của ánh sáng và vinh quang của Người. Và khi đó các dân sẽ tìm về theo ánh sáng của Người để được ơn cứu độ. Ánh sáng của Người chiếu soi mọi dân, soi những người đang ngồi trong bóng tối; vinh quang của Người nâng dậy những ai mệt mỏi rã rời. Mọi người đến với Người để được yêu thương che chở và cùng chia sẻ những hạnh phúc và niềm vui. Ở Giêrusalem, thành đô Sion, Thiên Chúa quy tụ và mang đến niềm vui và ơn cứu độ cho mọi người tìm đến với Người, không phân biệt màu da tiếng nói hay giai cấp địa vị. Mọi người cùng được mời gọi vui lên, bừng sáng lên cùng Sion, cùng Giêrusalem, thành đô thiên quốc trong ngày Đức Chúa xuất hiện.

    2. Bài đọc II (Ep 3,2-3a.5-6)

    Thánh Phaolô trong bài đọc II đã khẳng định rằng ơn cứu độ không dành riêng cho dân Do Thái theo huyết thống, nhưng cả những người dân ngoại, những người không phải là Do Thái, cũng được “cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”. Dân mới của Đức Chúa, dân Người quy tụ trong thành Giêrusalem thiên quốc sẽ bao gồm mọi sắc dân thuộc mọi ngôn ngữ, tất cả những ai tin vào Người. Họ không phải chỉ là những thành phần thêm vào trong dân của Thiên Chúa, nhưng chính là những người đồng thừa hưởng gia nghiệp và phúc lành mà Thiên Chúa đã hứa ban, điều mà Người đã mạc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ.

    3. Bài Tin Mừng (Mt 2,1-12)

    Đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu chúng ta vừa nghe tường thuật lại việc các nhà chiêm tinh theo ánh sao đi tìm Hài Nhi Giêsu vừa chào đời và cuộc gặp gỡ của họ với Vua Hêrôđê và các nhà lãnh đạo Do Thái. Đoạn Tin Mừng thuật lại những hình ảnh, những thái độ và những hành động trái ngược của các nhà chiêm tinh và “dân Do Thái” trước sự kiện ngôi sao lạ xuất hiện báo tin sự ra đời của Đức Vua dân Do Thái.

    Trước hết, các nhà chiêm tinh là những học giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh; có thể họ đã biết về trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do Thái, nên khi thấy ngôi sao lạ xuất hiện, họ đã nghĩ đến “Vua dân Do Thái”, Đấng Mêsia đã đến. Truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là 3 vị vua với 3 loại lễ vật khác nhau; người ta còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior. Các nhà chiêm tinh nhìn thấy ánh sao xuất hiện bên phương Đông nên đã đi tìm, nhưng vì không biết chính xác nơi Đấng Mêsia sẽ xuất hiện nên họ đã đến hỏi Vua Hêrôđê về nơi Đức Vua dân Do Thái mới sinh. Được Vua Hêrôđê dặn dò họ đã tiếp tục ra đi, và ngôi sao họ nhìn thấy trước kia đã tiếp tục hướng dẫn họ đến tận nơi Hài Nhi đang ở. Nhìn thấy Hài Nhi, họ đã lấy lễ vật để dâng tiến Người.

    Những nhà chiêm tinh là những người dân ngoại, chỉ biết về Đấng Mêsia qua những kiến thức không chắc chắn, nhưng họ đã khao khát, mau mắn tìm kiếm Đấng Mêsia, nên đã đi tìm hiểu để có thể gặp được Người. Họ ra đi ngay trong đêm vì nao nức tìm gặp Hài Nhi, vì có ánh sao chỉ đường cho họ. Gặp được Hài Nhi họ đã nhận ra đây chính là vị Cứu Thế nên đã bái lạy và dâng những lễ vật thường được dâng tiến cho một vị Vua. Những người ngoại giáo này đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế nhờ lòng chân thành yêu mến của mình.

    Còn Vua Hêrôđê và các nhà lãnh đạo khác thì sao? Họ đã phản ứng hoàn toàn trái ngược với các nhà chiêm tinh. Phản ứng đầu tiên chúng ta đọc thấy chính là sự bối rối của Vua Hêrôđê, cũng như tâm trạng xôn xao của dân thành Giêrusalem. Họ không vui mừng như các nhà chiêm tinh, không ra đi tìm Hài Nhi, nhưng lại lo lắng. Vì sao? Vì sự xuất hiện của Vua dân Do Thái sẽ đe dọa ngai vàng của Vua Hêrôđê, vì sự xuất hiện của vị Vua mới đòi những thay đổi nơi dân chúng. Họ cảm thấy bất an sợ hãi. Chính dân Do Thái là những người đã được mạc khải, được loan báo về sự ra đời của Đấng chăn dắt Israel. Họ đã biết những lời các ngôn sứ loan báo về sự ra đời của vị Mục tử này. Họ đã có thể giải thích cho các nhà chiêm tinh và hướng dẫn các vị này đi đến Bêlem để gặp Hài Nhi, còn chính họ thì dửng dưng trước sự kiện này, hay đúng hơn họ đang có những tính toán, lo lắng cho cuộc đời của mình.

    Nếu như các nhà chiêm tinh đã để cho ánh sao của Đấng Cứu Thế hướng dẫn mình, để cho những lời Thánh Kinh soi sáng mình, thì ngược lại, Vua Hêrôđê cùng các thượng tế và kinh sư lại nhắm mắt, bịt tai trước các mạc khải, các sứ điệp và các lời mời gọi về tin vui cứu độ. Các nhà chiêm tinh là những đại diện của dân ngoại, đã trở thành những người đón nhận ơn cứu độ. Ngược lại, Vua Hêrôđê và các nhà lãnh đạo Do Thái, những người thừa hưởng lời hứa cứu độ, lại tự đặt mình ra ngoài chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã trở nên thù địch với ơn cứu độ.

    II. GỢI Ý MỤC VỤ

    1. Các nhà chiêm tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao” dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù. Chúng ta có khao khát tìm kiếm Thiên Chúa như các nhà chiêm tinh không? Giữa những nghi ngại của thế giới hôm nay, giữa những trào lưu dửng dưng tôn giáo và tục hóa mọi điều thánh thiêng, chúng ta có còn kiên vững theo Chúa không?

    2. Các nhà chiêm tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa. Mỗi khi chúng ta cảm thấy lạc lối trong đời sống đạo, không nhìn thấy Chúa hay cảm thấy không có Chúa trong cuộc đời mình, thử xét lại xem mình có xác tín, có đủ niềm tin để nhận ra Chúa trong những điều xem ra tầm thường hay ngay cả không thể chấp nhận được.

    3. Hình ảnh các nhà chiêm tinh đến gặp Vua Hêrôđê để được biết thêm về nơi sinh của Vua dân Do Thái, Đấng Mêsia cũng nhắc chúng ta về nghĩa vụ giới thiệu về Đấng Cứu Thế cho những ai chưa nhận biết Người. Chúng ta đã chuẩn bị cho mình một sự hiểu biết cần thiết, nhất là một xác tín về Người để có thể trình bày và dẫn đưa những ai khao khát tìm về với Người chưa?

    III. LỜI NGUYỆN CHUNG

    Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa muốn tỏ mình cho nhân loại trong Đức Giêsu Kitô để bất cứ ai tin nhận Ngài là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế thì được ơn cứu rỗi. Chúng ta hãy thành tâm cảm tạ Chúa và tin tưởng cầu xin:

    1. Chúa đã dùng ánh sao lạ dẫn đường cho các đạo sĩ phương đông đến thờ lạy Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh được đầy ơn khôn ngoan và lòng nhiệt thành, trở nên ánh sáng soi lối cho mọi người nhận biết Chúa.

    2. Nhiều người ở trên thế giới và tại đất nước Việt Nam chưa tin nhận Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những ai thành tâm thiện chí được ánh sáng của Chúa soi dẫn biết tìm đến với Chúa Kitô là đường, là sự thật và là sự sống cho cuộc đời họ.

    3. Các đạo sĩ đã sấp mình thờ lạy và dâng tiến lễ vật cho Hài Nhi Giêsu. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi Kitô hữu biết thành tâm tôn thờ và phụng sự Chúa qua đời sống cầu nguyện, siêng năng học hỏi đào sâu đức tin, và nỗ lực thực thi công bình bác ái.

    4. Nhận ra và dõi theo ánh sáng chân lý sẽ đưa con người đến gần Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu mến, năng suy niệm và sống theo Tin Mừng, hầu trở nên muối cho đời và ánh sáng cho trần gian.

    Chủ tế: Lạy Chúa, xin nhận tâm tình cảm tạ và lời cầu nguyện của dân Chúa tha thiết kính dâng. Xin giúp chúng con trong cuộc sống hằng ngày biết nỗ lực trở nên chứng tá cho tình thương cứu độ của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

    BBT. GXTNO. SƯU TẦM
    Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
    Click để đánh giá bài viết

    Những tin mới hơn

    Những tin cũ hơn