1
05:02 +07 Thứ hai, 29/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 299

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 298


Hôm nayHôm nay : 15192

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 405279

Tổng cộngTổng cộng : 27959563

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Chúa nhật II Mùa Vọng (C): Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa

Thứ bảy - 08/12/2012 21:24-Đã xem: 2560
Con đường là tâm hồn. Sửa chữa con đường vật chất tuy khó mà dễ. Sửa chữa con đường tâm hồn khó biết bao. Tâm hồn có những núi đồi kiêu ngạo tự mãn. Để sửa chữa phải bát núi đồi xuống. Phải cắt đi một phần tâm hồn không phải dễ dàng
Chúa nhật II Mùa Vọng (C): Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa

Chúa nhật II Mùa Vọng (C): Các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa

 Sám hối, hoán cải tâm lòng – Radio Veritas Asia

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Thomas Merton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng lan rộng khắp thế giới. Vào thập niên 60, chàng theo Anh giáo, nhưng sống như người vô thần. Một ngày nọ, tình cờ đi ngang một nhà thờ Công Giáo, chàng được Chúa thúc đẩy ghé vào nhà thờ trong chốc lát. Từ trước tới nay Thomas Merton cũng đôi lần đi nhà thờ đó, nhưng vì tò mò, vì theo anh em bạn cho vui hơn là vì lòng tin, dầu chàng đã được cha mẹ cho rửa tội ngày còn nhỏ. Sau này, khi đã theo đạo Công Giáo và nhập vào Trappiste khổ tu, Thomas Merton đã kể lại biến cố ấy như sau:
“Khi bước vào trong nhà thờ, điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là, tôi trông thấy một cô gái duyên dáng tuổi chừng 15, 16 đang quì cầu nguyện một cách vô cùng sốt sắng, không để ý đến chuyện gì khác xảy ra chung quanh. Khi cả lúc tôi bước vào nhà thờ, tôi rất đỗi ngạc nhiên trước sự kiện, một thiếu nữ từng ấy tuổi lại quì cầu nguyện trong ngôi thánh đường lặng lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm trong lời cầu, như thể bị hút hồn. Dĩ nhiên, là cô gái nọ vào nhà thờ không phải là để cho người ta ngắm nghía, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Và nàng đã cầu nguyện chăm chú, sốt sắng như các thánh trong một ngôi thánh đường thanh vắng. Cuộc gặp gỡ và thân tình ấy của thiếu nữ đó với Thiên Chúa trong khung cảnh hoàn toàn vắng lặng của ngôi thánh đường hôm đó, đó là một trong các nhân tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau này”.
Ngôi thánh đường công giáo vắng lặng ấy, đó là một bãi sa mạc nơi con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa giữa lòng xã hội loài người nhiều bôn chôn, dao động này. Qua các bài đọc Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo Hội cũng kêu mời chúng ta hãy biết tạo ra sa mạc trong tâm lòng mình khi nào đó để gặp gỡ Thiên Chúa. Chương 5,1-9 sách tiên tri Barúc, là một lời sấm liên quan đến ơn cứu độ theo truyền thống Kinh Thánh. Barúc đã là bạn kiêm thư ký của tiên tri Giêrêmia, nhưng thật ra sách Barúc là một tổng hợp các văn bản thần học góp nhặt đó đây và được soạn chung lại bằng tiếng Hy Lạp vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch. Tiên tri Barúc muốn khẳng định với dân Do Thái rằng: Cuộc sống và niềm hạnh phúc là những điều có thể thực hiện được sau những năm tháng họ phải sống trong cay đắng, tủi nhục, đen tối của kiếp sống lưu vong. Để diễn tả sứ điệp hy vọng và tin tưởng ấy, tiên tri dùng một số hình ảnh biểu tượng như chiếc áo, tên gọi, và các kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Chiếc áo đó ám chỉ phẩm giá của con người khi giới thiệu thành thánh Giêrusalem, là biểu tượng của toàn dân Chúa. Trong chiếc áo mới rực rỡ của mừng vui, chớ không phải chiếc áo tang của sầu buồn mà tiên tri Barúc cố ý loan báo cho dân chúng biết, Thiên Chúa sẽ trao ban trở lại cho họ phẩm giá làm dân riêng Chúa chọn và chấm dứt sự sống khổ nhục họ phải chịu trong thời lưu đày. Chiếc áo tang của sầu thương diễn tả thời gian và khung cảnh sống lưu đày tủi nhục. Hình ảnh chiếc áo mới mừng vui trên đây hé mở cho chúng ta thấy ý nghĩa việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử nhân loại khi cho Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người. Chúa Giêsu Kitô mặc lấy chiếc áo yếu hèn của thân phận làm người, mặc lấy chiếc áo rách nát, tả tơi, hôi thúi của tội lỗi từng biến dạng con người khiến cho nó không còn giống Thiên Chúa nữa, vì đã đánh mất đi phẩm giá làm con Thiên Chúa và là thụ tạo tuyệt diệu nhất trong mọi loài thụ tạo. Chúa Giêsu mặc lấy nó để đánh đổi cho loài người chiếc áo mới, chiếc áo mừng vui được làm con cái Thiên Chúa và giống hình ảnh Ngài. Với phẩm giá mới ấy, thành thánh Giêrusalem đại diện cho dân Chúa, cũng mang một tên gọi mới trong ngôn ngữ của Kinh Thánh.
Đặt tên cho một người, một vật, có nghĩa là tuyên bố người đó hay vật đó thuộc quyền sở hữu của mình. Nó cũng có nghĩa là người đó hay vật đó được che chở yêu thương và săn sóc. Giêrusalem từ nay, Thiên Chúa sẽ đặt tên cho là Hòa Bình, Công Chính và Vinh Quang của lòng thương xót. Dân riêng của Thiên Chúa từ nay, sẽ làm một dân tộc diễn tả sự an bình, công chính, lòng nhân từ, thương xót và vinh quang mà Thiên Chúa hiện thực trong vương quốc thiêng linh của Ngài. Vương quốc mà Thiên Chúa cống hiến cho nhân loại ngay từ bây giờ, trên trần gian này, với biến cố Đấng Thiên Sai nhập thể làm người. Trong tên gọi mới này cũng tiềm ẩn tên gọi Giêsu mà Thiên Chúa sẽ dành riêng cho Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu là ơn cứu rỗi, là sự che chở Thiên Chúa gởi đến cho loài người luôn bị sự dữ cám dỗ và thường bị tội lỗi chiếm hữu. Công trình cứu độ và giải phóng ấy được Thiên Chúa ra tay hiện thực và trao ban cho dân Người, với sự cộng tác của mọi loài, mọi vật, y như trong biến cố xuất hành khỏi Ai Cập thời xa xưa. Thiên Chúa sẽ ra tay gạt bỏ mọi chướng ngại, khó khăn. Đường vào sa mạc dẫn đưa dân Ngài vào Đất Hứa sẽ thẳng băng, không còn gò cao. Sa mạc nắng cháy khô cằn sẽ nở hoa xanh tươi.
Trong chương 3 Phúc Âm của mình, thánh sử Luca ghi lại các biến cố ấy trong khung cảnh lịch sử của thế giới chính trị và tôn giáo thời bấy giờ. Ơn gọi và hoạt động loan báo Tin Mừng của thánh Gioan Tẩy Giả xảy ra vào năm thứ 15, dưới thời hoàng đế Tibêriô, năm 28, sau Tây lịch, bởi vì hoàng đế lên ngôi năm thứ 14. Quan toàn quyền Giuđêa lúc đó là Phongxiô Philatô, Palestine hồi ấy cũng gồm 3 châu quận do 3 quận vương cai trị là Hêrôđê Antipa, Philipphê và Lysania. Hai thượng tế vào thời này là thượng tế Anna (vào năm thứ 6 đến năm 14 sau Tây lịch) và thượng tế Caipha (trị vì từ năm 18 đến năm 36 sau Tây lịch).
Tuy nhiên, điểm thánh sử Luca cố ý nêu bật ở đây chẳng phải là các biến cố lịch sử chính trị và xã hội, mà là ý nghĩa thần học của lịch sử. Thánh Luca muốn khẳng định rằng, chính Lời của Thiên Chúa tạo ra lịch sử. Tất cả mọi biến cố, mọi nhân vật, mọi thời đại, cách tiếp nối của các quyền bính và giới lãnh đạo trần gian, chỉ là khung cảnh trong đó Ngôi lời của Thiên Chúa nhập thể làm người để cống hiến ơn cứu độ cho nhân loại. Lời thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng diễn tả trước sứ điệp mà Chúa Giêsu Kitô loan báo sau này: Muốn được ơn cứu độ, con người phải lãnh nhận bí tích rửa tội, sám hối, hoán cải tâm lòng, thay đổi lối sống, canh tân tư tưởng và cung cách hành sự của mình, bởi vì Đấng Thiên Sai đã hiện diện giữa lòng trần gian.
Sa mạc nơi thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối là một điểm thần học nổi bật khác của truyền thống Kinh Thánh. Trong Kinh Thánh, sa mạc là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Sa mạc khô cằn, nóng bỏng ban ngày, giá buốt ban đêm, là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng dáng và không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói khát và lạc hướng. Những tình trạng đó giúp con người ý thức được cái bé bỏng hư không, vô nghĩa của đời mình. Bởi vì nó chỉ là gì, nếu không phải là cát bụi, hư vô? Nhận thức ấy khiến cho con người từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng, ngạo mạn, mọi chủ trương coi mình là thần thánh và có thể tự giải thoát lấy mình. Thái độ và tâm tình ấy khiến cho con người rộng mở tâm lòng mình, cho hành động và ơn thánh cứu độ của Thiên Chúa. Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con ngươì về đến chỗ gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ Ngài ban. Trong cuộc sống thiêng liêng càng biết năng vào sa mạc, chúng ta càng sống cảm nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa sâu đậm hơn.
Sông Giođan, cũng là hình ảnh thần học nổi bật khác. Như tường thuật Phúc Âm thánh Luca, Giođan là con sông của hai thời giao ước, nó là chứng nhân của các biến cố lịch sử ý nghĩa của dân Do Thái. Nước sông Giođan là nước thanh tẩy của cuộc sống phục sinh và của bí tích rửa tội.
Hình ảnh nổi bật sau cùng trong tường thuật Tin Mừng của thánh Luca là hình ảnh thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri của hai thời giao ước, người đã nhận được Lời Chúa trong sa mạc, Thánh nhân loan báo rằng chính Ngôi Lời của Thiên Chúa là động lực hướng dẫn dòng lịch sử của nhân loại, chớ không phải con người và các chương trình loài người đưa ra. Do đó, càng biết san bằng các chướng ngại ngăn cách chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta càng dễ nhận ra sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu trong đời ta, giữa lòng thế giới.
Trong chương 1 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta một con đường, một cách thế giúp chuẩn bị hữu hiệu cho ngày Chúa trở lại. Đó là luôn kiên trì sống tình yêu thương, bác ái, biết vun trồng lòng tin, cậy, mến và khả năng bén nhạy giúp nhận ra đâu là thánh ý Chúa và điều đẹp lòng Ngài. Sống được như thế, là tín hữu sinh hoa trái thiêng liêng phong phú và hiện thực nơi con người điều gọi là con cái Chúa và là dân riêng của Ngài.


 Sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Với Chúa nhật này, chúng ta đang bước sang tuần thứ II của Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta gia tăng niềm hy vọng bằng cách chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến cứu chuộc con người.
Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Barúc gợi lên niềm hy vọng cho dân chúng Israel đang tản mác khắp nơi. Sau khi thành thánh Giêrusalem bị thất thủ, ông với một số người cùng với tiên tri Giêrêmia chạy trốn sang Ai Cập. Barúc kêu gọi dân chúng đừng mất niềm tin, niềm hy vọng vào Thiên Chúa. Ông phác họa cho dân lưu đày thời gian nô lệ, lưu vong sắp kết thúc. Một thời đại huy hoàng của Giêrusalem đang gần kề. Và Giêrusalem sẽ vui mừng thấy mình trút bỏ được áo tang chế, mặc lấy áo vinh quang, đầu đội vương miện và hớn hở mở rộng tầm mắt, dang rộng đôi tay để nhìn xem và đón nhận con cái từ các nơi trở về. Đó là hình ảnh của Giêrusalem thiên quốc. Nơi đó, Chúa Giêsu Kitô là vua hiển trị các dân. Các nước tôn thờ Người, trở về với Người sau khi đã bị tội lỗi và sự dữ phân tán tản mác khắp nơi. Và muốn cho sự trở về được dễ dàng, cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người được nhanh chóng: “Hãy san bằng những núi cao và những đồi gồ ghề. Hãy lấp đầy những hố sâu, những vực thẳm. Uốn cho ngay những con đường quanh co, hiểm trở, để mọi người vững vàng bước đi và cao rao vinh quang của Thiên Chúa”.
Qua hình ảnh tiên tri đó, Barúc kêu gọi chúng ta hãy hoán cải tâm hồn bằng cách hồi tâm, suy nghĩ về những việc hiện tại mình đang làm, để xem con đường của mình có ngay thẳng không? Không những quanh co, lên đèo, xuống hố, mà nhất là có phải là đường hầm không, con đường đi trong tối tăm và mờ ám?
Nơi bài đọc thứ hai trong thư gởi tín hữu thành Philipphê, thánh Phaolô mở ra con đường lạc quan trong công cuộc trở về cùng Thiên Chúa. Thánh nhân tin tưởng rằng Thiên Chúa đã hứa, để thực hành lời hứa thì việc gì Thiên Chúa đã bắt đầu, Người sẽ hướng dẫn cho đến hoàn thiện, nhất là trong đời sống của những kẻ tin nơi Người. Tin tưởng vào Thiên Chúa thì thánh Phaolô hết lòng tin tưởng. Nhưng điều ngài lo, ngài ao ước, ngài cầu nguyện, là làm sao cho mọi người biết thương yêu nhau, biết thông minh sáng suốt và biết phán đoán mọi sự. Việc yêu thương nhau còn gọi là bác ái, còn gọi là yêu người, sẽ dễ dàng thực hiện khi tất cả mọi người trong một cộng đoàn, một tập thể biết suy nghĩ đến hạnh phúc của nhau, biết sống vì ích lợi, vì sự thăng tiến của tập thể mình đang sống. Bao lâu còn những kẻ lộng hành, chèn ép, bóp nghẹt người khác, thì thánh Phaolô muốn mọi người phải biết sáng suốt phán đoán mọi việc. Một người bị ức hiếp một cách bất công mà tôi bảo người đó cố gắng bằng lòng chịu vì Chúa, yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho kẻ làm khốn mình, tức là tôi đồng lõa với kẻ làm điều gian ác, là tôi dùng tôn giáo như á phiện ru ngủ con người. Đành rằng Chúa đã dạy: “Chúng con hãy yêu kẻ ghét chúng con và làm lành cho kẻ làm khốn cho chúng con”, nhưng phải sáng suốt phán đoán như thánh Phaolô dạy, để phân biệt con người và điều ác người đó đang làm hại cho kẻ khác. Con người thì phải yêu thương cầu nguyện cho họ, mong cho họ cải tà qui chánh, sống trong tình anh em con một Cha trên trời. Nhưng điều ác họ đang thi hành là nọc độc tác hại cho người khác, phải tận diệt những nọc độc đó mới là yêu thương nhau thật sự.
Dầu vậy, thánh Phaolô cũng khuyên tất cả, trong hoàn cảnh nào cũng hãy sống không có gì đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô. Và thánh nhân đưa ra bằng chứng đời sống của ngài để làm gương nơi câu 7 của đoạn thánh thư này. Nhưng rất tiếc, không hiểu sao khi chọn làm bài đọc phụng vụ thánh lễ, người ta lại bỏ câu 7. Từ câu 6 nhảy đến câu 8 ngay, trong câu 7 đó thánh Phaolô nói: “Tôi cầu xin anh em như thế là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ơn sủng tôi đã nhận được”. Nói thế, tức là trong mọi hoàn cảnh, thánh Phaolô đều dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn, sướng khổ để cầu nguyện cho nhau.
Nơi bài Phúc Âm, thánh Luca ghi lại rất rõ ràng ngày tháng, niên hiệu hẳn hoi của những nhà lãnh đạo Rôma cũng như Do Thái, đạo cũng như đời, lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng. Một phần vì thánh Luca chú ý đến khía cạnh lịch sử, nhưng dựa vào đó chúng ta thấy rằng, ơn cứu độ bắt đầu thực hiện ngay trên trần gian này, đừng chờ đâu nữa. hãy bắt đầu ngay và dĩ nhiên là đã bắt đầu từ thời xa xưa trong Cựu Ước. Nhưng thời kỳ quyết liệt bắt đầu, với sứ mạng của Gioan Tẩy Giả để cho thấy Cựu Ước và Tân Ước cũng là một công cuộc chuẩn bị. Gioan đã lấy lại lời tiên tri của Barúc trong Cựu Ước mà chúng ta đọc thấy trong bài đọc thứ nhất: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa soạn đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Trong khoảng ba tuần nữa, chúng ta sẽ mừng lễ Giáng sinh của Đấng Cứu Thế. Ước gì lễ Chúa Giáng sinh không qua đi như bao ngày lễ tết khác trong năm. Nhưng phải làm sao để Chúa Giêsu sinh lại trong đời sống, trong gia đình, trong cộng đoàn của mỗi người chúng ta. Đó là ý nghĩa của Mùa Vọng và sống được như thế tức là chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi nhìn lại xem, trong những công việc mệt nhọc hằng ngày của tôi, cái gì giúp tôi càng ngày càng gần Chúa hơn? Để được thế, tôi cũng hãy tìm xem chỗ nào trên con đường nối kết Chúa với cá nhân tôi cần được sửa chữa, để khỏi cản trở việc Chúa đến với tôi. Và nếu được, cũng hãy chuẩn bị tham dự một nghi thức thống hối và coi đó là một sự khai thông bế tắc giữa tôi với Đấng tôi yêu mến và Người luôn yêu tôi hết lòng.

 

Đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Tin Mừng hôm nay giống như một bức tranh với hai cảnh trí đối nghịch nhau. Trên một cái phông lờ mờ, chúng ta như thấy được cảnh đô thị giàu sang nơi ngự trị của hoàng đế Lamã, người đại diện của ông là tổng trấn Phongxiô Philatô, và các thứ vua bù nhìn là Hêrôđê và Philipphê. Cũng trong cái phông lờ mờ ấy, người ta còn thấy được như hai cái bóng ẩn tàng là Anna và Caipha, hai vị thượng tế lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, Trên cái phông lờ mờ ấy, thánh Luca như muốn tô đậm một cảnh trí khác đó là cảnh sa mạc vắng vẻ, nơi cư ngụ của môt kẻ nghèo nàn ấy là Gioan, con của Giacaria. Thánh Luca có lẽ đã muốn làm nổi bật cái cảnh sa mạc nghèo nàn vắng vẻ ấy, để nói với chúng ta rằng chỉ có trong sa mạc vắng vẻ nghèo nàn, con người mới lắng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa.
Sa mạc vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh. Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Môisen đã phải lẫn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc. Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào đất Hứa. Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được các tiên tri về sau sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong sa mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.
Sa mạc là đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không cần thiết thì con người mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa và thanh luyện được niềm tin của mình. Lịch sử Giáo Hội luôn chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết và làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.
Tư trong sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có thể rút ra được một bài học khác cho niềm tin. Không những từ trong sa mạc Gioan đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người được nghe thấy: “Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng”. Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị trong cả nước nữa. Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố gaíc hành vi tội ác của một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng ngài đã đi đến tận cùng sứ mạng tiên tri của ngài. Thánh nhân đã dám nói thẳng và sống thực là bởi vì ngài không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy ngoài chiếc áo da thú của ngài.
Chiếc áo vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri. Đó là lý do tại sao trong dịp tấn phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng ta quen gọi là Hồng Y. “Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các Hồng Y phải là những người hy sinh đến độ có thể đổ máu đào”. Lời nhắc nhở này chắc phải có một giá trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi Giáo Hội đang bị bách hại và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng, cho dẫu phải hy sinh mạng sống của mình. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và kêu gọi san bằng bất công. Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì để mất. Ngài không sợ phải mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân huệ nào.
Nồi cơm manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thỏa hiệp và sống dối trá. Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của các tín hữu chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi, một số đặc quyền đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến cho nhiều người nếu không bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng lưỡi thì cũng chấp nhận thỏa hiệp im tiếng. Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ can đảm để gióng lên tiếng của Chúa: “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng”.
Khi cuộc sống của các tín hữu trở thành một lời mời gọi, khi miệng lưỡi của họ nói lên những lời can đảm chân thực, thì lúc đó như Tin Mừng nói với chúng ta, mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa.

 
Sưu tầm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn