1
12:46 +07 Thứ bảy, 27/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 240

Máy chủ tìm kiếm : 5

Khách viếng thăm : 235


Hôm nayHôm nay : 12000

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 316122

Tổng cộngTổng cộng : 27870406

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Suy niệm tuần I, II, III, IV và V Mùa chay

Thứ năm - 11/02/2016 21:38-Đã xem: 2923
Trong mùa Chay, chúng ta muốn biến đổi cuộc sống mình, chúng ta muốn mang bộ mặt mới. Chúng ta đã làm nhiều điều, trừ một điều quan trọng, đó là lên núi cao để gặp gỡ Thiên Chúa. Núi cao ở ngay trong sâu thẳm lòng ta, nơi đây ta gặp gỡ Người, diện đối diện. Mọi biến đổi nơi cá nhân cũng như tập thể, nơi gia đình, giáo xứ, dòng tu và cả Giáo Hội đều phải khởi đi từ việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Chúng ta dễ lãng quên việc gặp Chúa mỗi ngày, lấy cớ mình bận làm những việc của Chúa. Thế giới hôm nay đói những người cầu nguyện, và thừa ứ những người lăng xăng...
Suy niệm tuần I, II, III, IV và V Mùa chay

Suy niệm tuần I, II, III, IV và V Mùa chay

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY C
CHỐNG LẠI CƠN CÁM DỖ
+++
A. DẪN NHẬP
 
          Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa chay thánh. Thứ Tư vừa qua, Giáo hội mời gọi chúng ta đi vào một cuộc hành trình, hành trình Mùa chay, đó là một cuộc hành trình hướng tới lễ Phục sinh. Chúng ta là những người đã được chịu phép rửa tội, nhưng chưa hoàn toàn sống đời sống của một Kitô hữu. Mùa Chay mời gọi chúng ta thay đổi tâm hồn, và sống Tin mừng một cách trọn vẹn.
 
          Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho chúng ta biết, khi nhập thể vào trần gian với thân phận con người, Đức Kitô cũng từng trải qua nhiều thử thách cam go, chịu ma quỉ cám dỗ trong thời gian 40 ngày chay tịnh trong sa mạc. Ma quỉ cám dỗ Ngài xoay quanh ba chủ đề : thú, lợi, danh.. Nhưng Ngài đã vượt thắng tất cả nhờ sức mạnh của Lời Chúa.
 
          Chúa cũng để cho ma quỉ cám dỗ chúng ta, không phải để làm hại ta mà là để cho chúng ta trưởng thành hơn và tỏ lòng trung thành đối với Chúa. Con người yếu đuối không thể vượt qua được những mưu chước của ma quỉ, nhưng chúng ta đã có ơn Chúa trợ lực, Ngài sẽ nâng đỡ chúng ta, Ngài không để chúng ta bị cám dỗ quá sức chúng ta. Hãy cầu nguyện để múc lấy sức mạnh nơi Chúa :”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Và với ơn Chúa chúng ta sẽ chiến thắng như thánh Phaolô đã nói :”Omnia possum in eo qui me confortat”(Pl 4,13) : Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. Đnl 26,4-10.
 
          Dâng của lễ đầu mùa trước kia là một nghi lễ của dân ngoại, trong đó con người nhìn nhận mình không nắm giữ các bí ẩn của thiên nhiên và của sức sống vạn vật. Vì vậy, con người cầu xin các thần chiếu cố ban ơn.
 
          Tuy nhiên, trong bài đọc 1 hôm nay, ông Maisen dạy cho dân chúng : khi dâng của lễ đầu mùa phải có tâm tình gì : đó là tinh thần biết ơn. Bởi vì, nhìn ngược dòng lịch sử, tổ tiên của dân Do thái ban đầu chỉ là những kẻ phiêu bạt nơi người Ai cập, phải làm nô lệ cho họ. Thiên Chúa đã dùng quyền năng Ngài mà giải thoát họ và xây dựng họ thành một dân tộc hùng mạnh. Vì thế, hằng năm họ phải biết ơn Ngài và lấy một phần hoa lợi của mình mà dâng lên Ngài. : Rm 10,8-13.
 
          Luật đạo cũ xưa tỏ ra quá tỉ mỉ và rắc rối. Thánh Phaolô đem đối chiếu với luật xưa, để người tín hữu thấy rằng lòng tin ở Đức Kitô Phục sinh thì đơn giản như thế nào. Ơn cứu độ chỉ có được bởi lòng tin : Ai tuyên xưng trong lòng và tuyên xưng ra rằng Đức Giêsu Kitô đã sống lại và đang làm Chúa tể, thì sẽ được cứu độ.
 
          Một khi đã có một niềm tin như thế, một niềm tin duy nhất, thì khi đó không còn phân biệt Do thái với dân ngoại. Tất cả đều có một Chúa. Đây là điểm tựa duy nhất cho đời sống đạo của chúng ta. : Lc 4,1-13.
 
          Đoạn trình thuật của thánh Luca về các cám dỗ cũng giống như đoạn trình thuật của thánh Matthêu. Tuy nhiên thánh Luca để ý hơn đến việc chứng tỏ Đức Giêsu chiến thắng các cám dỗ với tư cách người đứng đầu  một nhân loại thực sự, một dân Israel mới. Trên bước đường đi về Đất Hứa, dân Israel đã gặp nhiều cám dỗ :
          - Cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn.
          - Cám dỗ thờ tượng con bê vàng.
          - Cám dỗ thử thách Thiên Chúa.
         
          Họ đã sa ngã vào những cám dỗ đó. Nay Đức Giêsu chính là Israel mới, Ngài cũng sống trong sa mạc thời gian dài (40 ngày), cũng bị những loại cám dỗ dân Israel ngày xưa, nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả. Được như thế, Đức Giêsu đã tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Đó là tấm gương sáng để chúng ta noi theo.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                 Vật lộn với ma quỉ
I. ĐỨC GIÊU BỊ MA QUỈ CÁM DỖ.
 
          1. Đức Giêsu vào trong sa mạc.
 
          Đừng ai tưởng rằng Đức Giêsu không thể bị cám dỗ vì Ngài là Thiên Chúa. Mặc dầu có bản chất thần thánh, Ngài cũng có một bản chất con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Không có một công trình lớn lao nào của con người, hay cuộc sống thiêng liêng thực sự nào, mà không cần thời gian suy nghĩ, cô tịch và im lặng nội tâm.
 
          Đức Giêsu đã trải qua 40 ngày trong sa mạc, trong sự suy niệm và cầu nguyện. Sa mạc có thể là một nơi khắc nghiệt, nhưng đó lại là một nơi lý tưởng để suy niệm và cầu nguyện. Và trong thời gian suy nghĩ cầu nguyện đó, ma quỉ có thể thực sự hiện ra để cám dỗ Ngài không ? Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Ngài đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc dầu quỉ sứ không hiện ra với chúng ta với hình dáng của một con người. Ngài đã bị cám dỗ về ba phương diện : thú, lợi, danh.
 
          2. Ý nghĩa của chữ “Cám dỗ”.
 
          Trong tiếng Do thái, chữ “Cám dỗ” có nghĩa là “thử thách”, “thử tài”, giống như chữ “đi thi” của chúng ta ngày nay. Cám dỗ là đi thi : ai thắng cám dỗ là thi đậu, ai sa ngã là thi rớt. Bởi thế cám dỗ là dịp tốt để ta “lấy bằng cấp”. Tuy nhiên ta đừng khinh địch, hãy nhớ lời Đức Giêsu căn dặn :”Thứ quỉ này chỉ có thể thắng nhờ ăn chay và cầu nguyện”. Nhớ lời trong kinh Lạy Cha “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, và nhớ Đức Giêsu trong bài Tin mừng này đã chiến thắng được nhờ sự trợ giúp và che chở của Thiên Chúa (Carôlô).
          3. Ba chước cám dỗ.
 
          Theo thánh Luca, Đức Giêsu bị 3 chước cám dỗ thử thách :
 
          - Cơn cám dỗ thứ nhất : Đức Giêsu ăn chay trong sa mạc. Ngài đói, nên cám dỗ đầu tiên của ma quỉ là tìm kiếm của ăn để nuôi dưỡng thân xác :”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”(Lc 4,3).
 
          - Cơn cám dỗ thứ hai : Ma quỉ đề nghị Đức Giêsu dùng quyền lực của Ngài để thỏa mãn những ước muốn ái quốc của quần chúng. Dân Israel hy vọng rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến như một người chiến thắng, và Ngài sẽ giải thoát dân Israel bằng gươm giáo. Đức Giêsu có nên dùng quyến lực của Ngài để thực hiện giấc mơ ấy không ?
 
          - Cơn cám dỗ thứ ba : Ma quỉ đề nghị :”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, Chúa sẽ truyền cho các thiên thần gìn giữ ông ! các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá” (Lc 4,10). Đây là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng của người Do thái xưa (Xh 17), đòi thấy những cú nhảy đẹp mắt, những pha ngoạn mục : đó là cơn cám dỗ trên nóc Đền thờ Giêrusalem…
 
          Ba chước cám dỗ này qui về ba chữ : THÚ, LỢI, DANH.
 
          a) Về THÚ : Ma quỉ xúi giục Đức Giêsu thỏa mãn sự đói khát cơm bánh vật chất và các đam mê lạc thú. Nhưng Đức Giêsu đã thắng cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần thiết của cơm bánh vật chất, nhưng khẳng định:”Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.
 
          b) Về LỢI :  Ma quỉ ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giêsu nếu Ngài chịu tôn thờ nó. Nhưng Đức Giêsu chỉ nhận quyền lực từ Thiên Chúa (x. Lc 1,32b; 10,22; 22,29), chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8; Đnl 6,13).
 
          c) Về DANH : Ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu tìm kiếm hư danh bằng cách xúi giục Ngài nhảy từ nóc Đền thờ vì sẽ được sự can thiệp kịp thời của Thiên Chúa (x. Lc 4,10-11; Tv 91,11-12). Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa đó qua lời Kinh thánh:”Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Đnl 6,16).
 
          Cuối cùng cả ba chước cám dỗ đều qui về một điều : đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chúng, đây là những chước cám dỗ chủ yếâu trong Giáo hội của Ngài, và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền thờ, và cai trị bằng quyền lực.
 
II. CHÚNG TA CŨNG BỊ CÁM DỖ.
 
          Suy nghĩ một chút, chúng ta thấy chuyện dân Israel bị cám dỗ 40 năm và Đức Giêsu bị cám dỗ 40 ngày xem ra chỉ là chuyện đời xưa, chẳng liên quan gì đến chúng ta ngày nay. Thực ra ngày nay chúng ta cũng gặp những cám dỗ ấy, nhưng dưới những hình thức khác thôi :
          - Phải chăng chúng ta cũng bận tâm quá đáng đến việc ăn uống, sinh nhai ?
          - Phải chăng chúng ta ham chuộng danh vọng trần thế ?
          - Phải chăng chúng ta không chịu vận dụng hết khả năng của mình mà cứ để Thiên Chúa làm phép lạ cho mình ?
 
          1. Sự khôn ngoan của ma quỉ.
 
          Ma quỉ rất tinh quái, nó biết rõ những nhu cầu của con người từ nhu cầu ăn uống cần cho thể xác, đến nhu cầu ham mê danh vọng, địa vị, chức quyền và sau cùng là kiêu ngạo. Cái khôn của ma quỉ làø làm cho cám dỗ mang một dáng vẻ hấp dẫn, hợp với sở thích và ý muốn của con người, nên mới có sức thuyết phục mạnh mẽ để ta ưng theo. Do cái vỏ quyến rũ, mỹ miều bên ngoài của nó như vậy nên mới dễ đánh lừa ta, khiến ta thường bị sa lầy, mắc bẫy.
 
Truyện : Mua cái bóng cây.
 
          Ngày xưa, có một người giầu có xây nhà bên đường. Trước nhà ông có một cây to, rợp bóng rộng mát. Mùa hè, khi mọi nhà phải chịu nóng bức, ngột ngạt thì ông nhà giầu cứ mặc nhiên ngả lưng dưới bóng cây, hưởng gió mát. Một hôm có anh nhà nghèo đi qua, thấy bóng cây mát liền ngồi nghỉ và thiếp đi lúc nào không biết.
- Ê, ông nhà giầu quát, Ai cho phép mày nằm nghỉ ở đây ? Xéo ngay.
- Vì sao lại thế ? anh nhà nghèo hỏi.
- Cái cây này là của tao, vì vậy cái bóng của nó cũng là của tao, ông nhà giầu lý luận.
          - Nếu vậy, ông hãy bán cho tôi cái bóng. Tôi sẽ trả tiền ông đàng hoàng. Xin ông đừng lo.
          Nghe nói đến tiền, ông nhà giầu bán ngay cái bóng ấy cho anh nhà nghèo. Từ hôm ấy, hễ trời trở nóng, anh nhà nghèo lại ra ngồi dưới bóng cây nghỉ mát. Khi bóng cây ngả vào sân ông chủ, anh nhà nghèo cũng vào sân nghỉ; khi bóng cây ngả vào bếp hoặc vào phòng tiếp khách, anh nhà nghèo cũng theo vào những nơi đó. Chẳng những thế, anh còn cao hứng rủ rê bạn bè đến nghỉ. Ông nhà giầu tức lắm nhưng đành bấm bụng chịu.
 
          Một hôm ông nhà giầu có khách. Khi bóng cây ngả vào phòng khách, anh nhà nghèo cùng đám bạn bè kéo luôn vào phòng khách nằm, khiến khách rất ngạc nhiên. Hỏi nguyên cớ thì ông nhà giầu cắn môi im lặng, anh nhà nghèo giải thích :”Cái bóng cây này là của tôi. Ôâng chủ đây đã đồng ý bán cho tôi rồi ! Tôi có quyền nghỉ ngơi bất kỳ lúc nào”. Đám khách cười nhạo ông chủ nhà, rồi bỏ ra về. Ít ngày sau, ông nhà giầu bị cả làng chửi bới, còn lũ trẻ con hễ gặp ông ở đâu là bỉu môi chế giễu :”Đồ tham lam, bán cả cái bóng cây” ! Bị bẽ mặt, ông nhà giầu  đành bỏ làng đi ở nơi khác. Thế là anh nhà nghèo không những được cái bóng cây mà còn được cả cái cây cùng ngôi nhà của ông nhà giầu nữa. (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 107-108)
 
          Qua sự cám dỗ về lòng tham lam tiền bạc, ông nhà giầu đã đưa kẻ thù vào ở trong nhà mình. Một cách nào đó, qua những cám dỗ, chúng ta cũng mở cửa tâm hồn cho ma quỉ vào xâm chiếm linh hồn mình. Tất cả những mưu thâm chước độc của ma quỉ thì thiên hình vạn trạng khiến con người khó mà đứng vững nếu chúng ta không cảnh giác đề phòng, không biết cầu cứu với Chúa, không năng nhận những phương thế hỗ trợ thiêng liêng.
 
          2. Những cám dỗ của chúng ta.
 
          Ngày xưa ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu thế nào thì ngày nay chúng vẫn cám dỗ chúng ta như vậy, mà còn nhiều trò nguy hiểm hơn nữa. Tất cả những chước cám dỗ ấy cũng qui về ba mối : thú, lợi và danh.
 
          a) Về thú vui.
 
          Tiền nhân dạy rằng:”Nhân sinh tại thế dĩ thực vi tiên” nghĩa là con người sinh ra ở đời, thì việc ăn uống là ưu tiên và cần thiết.
          Nói lên câu đó, tiền nhân có ý bảo rằng : con người sinh ra thì phải ăn uống. Có ăn có uống thì mới sống được. Có sống thì mới làm việc được, do đó mới có câu:”Có thực mới vực được đạo”. Song le, vì ma quỉ nó dốt CHỮ NHO, nên mới cắt nghĩa quẹo đi:”Con người sinh ra chỉ để ăn uống”, nên thiên hạ đâu đâu cũng thuộc giáo điều của nó:”Không ăn cũng thiệt, không chơi cũng hoài”.
 
          Thánh Phêrô đã khuyên :”Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”(1Pr 5,6). Con người có khuynh hướng thỏa mãn xác thịt, muốn làm cho thân xác được béo tốt, được thưởng thức mọi thú vui không biết ngừng lại. Nhưng người ta có biết rằng “Cực lạc sinh bi ai” ? Cái gì thái quá cũng sinh tai hại. Mùa chay này nhắc lại cho chúng ta lời Đức Giêsu nói với ma quỉ:”Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”.
 
          b) Về lợi lộc.
 
          Ma quỉ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho con người nếu chịu tôn thờ nó. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền này và đã bán linh hồn cho ma quỉ, trở thành tay sai của nó. Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài đầy quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và lần lượt đều đã bị diệt vong. Ma quỉ cũng cám dỗ Đức Giêsu trở nên giầu có và quyền thế như các vua chúa trên trần gian, nhưng Ngài đã khước từ, Ngài chấp nhận “yếâu đuối”(1Cr 1,27). Cơn cám dỗ về quyền hành, về giầu sang phú quí cũng là cơn cám dỗ của chúng ta.
 
          Ngoài ra, danh vọng và giầu sang phú quí chưa hẳn là hạnh phúc vì danh vọng và giầu sang là con dao hai lưỡi : nó có thể phục vụ ta, biến nó thành tôi tớ trung thành của ta, mà nó cũng có thể ức chế ta, biến ta thành nô lệ của nó, sai khiến ta làm đủ mọi điều gian ác.
 
Truyện : Ca sĩ Elvis Presley.
 
          Chắc nhiều người trong chúng ta, nhất là các người trẻ, biết tên chàng ca sĩ nổi tiếng thế giới là Elvis Presley.
          Chàng rất giầu có : một mình có  8 chiếc xe hơi, 6 xe gắn máy, 2 máy bay, 16 máy truyền hình, một ngôi biệt thự rất rộng và nhiều tài khoản ngân hàng. Trên tất cả những thứ đó, còn có biết bao đạo quân những người hâm mộ coi chàng là thần tượng.
          Thế nhưng Elvis Presley không cảm thấy hạnh phúc. Có lần chàng thú nhận:”Càng nhiều tiền thì càng nhức đầu”. Mẹ chàng thì không mong gì hơn là con trai mình có giờ về thăm gia đình. Nhưng mong ước đơn giản như thế mà cũng không được.
          Elvis Presley là một bằng chứng cho lời Đức Giêsu nói :”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
 
          c) Về DANH.
 
          “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đứng dậy, mà gieo mình xuống đi ! Vì có lời chép rằng Thiên Chúa sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”(Tv 91,11-12). Đó là cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đặt ra trước Đức Giêsu suốt đời công khai của Ngài : Hãy làm phép lạ đi – Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên trời… Hãy chứng minh ông là Thiên Chúa… Hãy biểu lộ quyền hành của ông, chứng minh rằng ông là Đấng Cứu Thế chúng tôi đang mong đợi…
          Đức Giêsu đã không nhận những thách thức ấy mặc dầu Ngài có thể làm được tất cả. Thực ra, những thách thức đó chỉ làm cho Đức Giêsu lìa xa con đường mà Chúa Cha đã vạch ra cho Ngài : Ngài phải chết. “Lạy Cha, nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này”(Lc 22,42). Chính nhờ thái độ vâng phục tuyệt đối Chúa Cha, đến nỗi có cảm tưởng bị “Chúa Cha bỏ rơi”(Mt 27,46), mà chứng tỏ mình là Con Một của Cha…
 
          Đức Giêsu lánh xa khuynh hướng khoe khoang, Ngài chịu thất bại trước những thử thách ấy để đạt được mục đích. Còn chúng ta thì luôn có khuynh hướng khoe khoang, mà quỉ lại nhằm vào khuynh hướng thích khoe khoang, nhất là sự khoe khoang đó lại không đúng sự thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói thách thức hay chạm tự ái là người ta làm theo thách thức đó. Một số bạn trẻ rơi vào xì ke ma túy cũng chỉ vì một lời thách thức hay khiêu khích gì đó.
 
          Khuynh hướng khoe khoang đó cũng là tính kiêu ngạo ẩn náu trong con người. Trong bất cứ hoàn cảnh nào tính kiêu ngạo cũng muốn bùng ra làm cho con người quên đi tình trạng thật của mình mà chỉ muốn vươn lên trên mọi người. Ma quỉ cũng chỉ là các thiên thần đã quên đi bản tính của mình mà đòi bằng Thiên Chúa và đã bị Tổng Lãnh Thiên thần tống nó xuống hỏa ngục làm quỉ vương.  Ngộ Không cũng thế, là khỉ mà đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh là bằng Trời, nên đã bị tướng nhà Trời tống xuống trần gian, bị núi đá đè con khỉ suốt 500 năm.
 
          2. Hãy tỉnh thức và đề phòng.
 
          Ma quỉ rất khôn ngoan, chúng có những cách lừa đảo rất tinh vi giống như những hàng giả bây giờ. Đàng sau những cám dỗ chúng gây ra sự ảo tưởng để đánh lừa người ta, để đưa người ta vào bẫy và lúc đó không còn thể ra được. Cám dỗ nào cũng ngọt ngào hấp dẫn, thử thách nào cũng đòi hỏi phải lựa chọn. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra cái đắng đót chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn ấy không ?
 
          Để nhận thức đúng đâu là cơn cám dỗ và sự nguy hiểm của nó như thế nào, ta phải hiểu nội dung của cơn cám dỗ gồm có ba thành phần : người bị cám dỗ là chúng ta, kẻ cám dỗ là ma quỉ, trung gian môi giới cám dỗ có thể là người khác hoặc một sự vật hoặc một cơ hội. Do đó, diễn tiến của một cơn cám dỗ dù đột ngột hay dai dẳng đều được chuẩn bị, hành động rất khéo léo với mục đích xúi dục con người đi đến chỗ phạm tội lỗi.
 
          Phương cách dụ dỗ của ma quỉ rất xảo quyệt vì nó không bao giờ xui ta  phạm tội ngay, mà ban đầu chỉ những chiều theo đôi chút, không bao giờ dụ dỗ con người phạm ngay tội nặng, mà chỉ  xúi giục phạm những tôi nhẹ, không bao giờ cám dỗ một lần rồi bỏ qua, mà là nhiều lần, lặp đi lặp lại cho đến khi ta chiều theo ý nó.
 
          Ôâng Richard Wumbrand đã diễn tả điều này rất đúng bằng hình ảnh như sau : chúng ta như những cô gái vừa đến độ xuân thì. Người yêu cô thật lòng, muốn chia sẻ cuộc đời với cô, và kẻ sở khanh lừa phỉnh, chỉ muốn qua đêm để hại đời cô, cùng dùng chung một ngôn ngữ, cùng chia chung một động từ, đó là “Anh yêu em”. Nếu chỉ để ý đến những cái hào nhoáng bên ngoài hay những lời nói ngon ngọt và không có sự tỉnh táo cần thiết để phân biệt thì chắc chắn thảm họa sẽ xẩy đến.
 
Truyện : Bà Evà bị cám dỗ.
 
          Tại Anh quốc, trong viện bảo tàng nghệ thuật Manchester Art Gallery có một bức tranh của họa sĩ Spencer Stanhop mang tựa đề là “Eve”. Bức tranh vẽ hình một con rắn đang thì thầm những tư tưởng vào tai bà Evà. Nhìn vào nét mặt sung sướng của bà Evà, bạn phải nói rằng bà rất thích những điều đang nghe. Bà đang bị mê hoặc bởi những tư tưởng đó. Bà không nhìn thấy con rắn, nhưng con rắn đang vươn tới quấn quít sau lưng bà, từ cành cây mang đầy hoa trái, nó cong mình cúi xuống thật thấp để khi bà Evà chấp nhận những tư tưởng này thì một trái táo đỏ chói rơi ngay vào bàn tay của bà đang mở ra đón nhận.
 
          Mặc dù trong hình vẽ bà Evà chưa cắn trái táo, tuy nhiên qua nét mặt của bà, độc giả biết rằng bà đã vượt qua giới hạn cho phép. Sự kết hợp của những tư tưởng trong tâm trí bà và trái táo đỏ chói trong lòng bàn tay mở rộng quá quyến rũ đối với bà, vườn địa đàng đã bị mất. Sự cô đơn hiu hắt và mối ác cảm với Thiên Chúa đã bắt đầu. Một cách chính xác, người họa sĩ đã bắt gặp được giây phút của sự thật, đã nhận ra được chân lý qua điều được gọi là “cám dỗ” trong cuộc đời của bạn, và của tôi .
 
          3. Phương thế chống cám dỗ.
 
          Chúa Giêsu đã nói với thánh Phêrô:”Phêrô ơi, ma quỉ nó sàng con như sàng gạo ấy”(Lc 22,31). Những chước cám dỗ không phải là cách làm hại ta mà chỉ là cách thử thách ta xem ta có trung thành với Chúa không, nên Chúa để cho ma quỉ cám dỗ ta. Sức con người yếu đuối không thể thắng được các chước cám dỗ nếu không có sự hỗ trợ của Chúa. Thánh Phaolô đã nói rất đúng “Omnia possum in eo qu me confortat”(Pl 4,13) : tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.
 
          Trong kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện:”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, có nghĩa là “đừng cho phép chúng con bước vào” hay “đừng để chúng con ngã gục trước sự cám dỗ” (Giáo lý Công giáo số 2846). Đây là một lời cầu xin “trung thành” với Thiên Chúa và tuân giữ những điều răn của Ngài (2Tm 3,14; Mt 19,17; Ga 14, 23-24).  Nó đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa và quyết định. Nó mang lại những giằng co nội tâm mà chính Đức Giêsu đã trải qua trong 40 đêm ngày bị thử thách (x. Lc 4,1-13).
 
          Sau khi đã dựa vào ơn Chúa, để chiến thắng ma  quỉ thời nay, không có cách nào khác là phải chiến đấu anh dũng và kiên cường, chống lại những dụ dỗ, phỉnh gạt lừa lọc của chúng. Chiến đấu bằng chính võ khí mà Đức Giêsu đã xử dụng : đó là tinh thần tuyệt đối vâng phục đường lối và thánh ý của Thiên Chúa ; đó là cách sống khiêm tốn, siêu thoát, coi rẻ của cải vật chất và danh vọng thế gian; đó còn là biết đánh giá cũng như hưởng thụ cuộc đời trong chừng mực mà Tạo hóa đã ấn định cho loài người : ăn chay là sống siêu thoát, từ bỏ, tiết độ; cầu nguyện là sống gắn bó mật thiết với Chúa.

 


CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY C
ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH
+++
A. DẪN NHẬP
 
          Mùa Chay là thời gian tập chiến đấu và chiến thắng ma quỉ cũng như các khuynh hướng xấu để đổi mới con người cũ của mình, làm cho linh hồn trở lại thời thanh xuân của ân sủng. Vì thế, mỗi năm, vào Chúa nhật thứ hai mùa Chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đoạn Tin mừng về việc Đức Giêsu biến hình để khích lệ chúng ta.
 
          Đức Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín của mình là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabor và đã biến hình trước mặt các ông. Nói khác đi, Đức Giêsu đã cho rạng sáng lên trong giây lát cái vinh hiển của “hình dạng” Thiên Chúa, đã bị che giấu đi trong cái  “hình dạng” con người của Ngài. Vì thế, Tin mừng cho biết : Ba môn đệ thấy vinh quang của Ngài.
 
          Đây là dịp Đức Giêsu cho ba môn đệ trông thấy trước vinh quang sáng chói của Ngài, nhìn ra con người thật của Ngài; đồng thời chuẩn bị tinh thần cho các ông , giúp các ông bình tĩnh trước cuộc khổ nạn của Ngài. Qua biến cố này, Đức Giêsu dạy cho các ông một bài học xem ra khó thực hiện đối với các ông nhưng là một điều kiện thiết yếu : phải chết đi rồi mới được sống lại, phải qua thập giá thì mới tiến tới vinh quang : Per crucem ad lucem !
 
          Qua việc biến hình của Đức Giêsu, Giáo hội muốn cho chúng ta trong Mùa Chay thánh này phải bắt chước Đức Giêsu mà thay hình đổi dạng, phải lột bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện, phải chết đi cho tội lỗi mà sống cho Chúa để qua cuộc lột xác này mà trở thành một tạo vật mới xinh đẹp với ân sủng của Chúa và dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          Bài đọc 1 : St 15,5-12.17-18.
 
          Nhân loại cũ do Adong kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa quyết định thành lập một nhân loại mới bắt đầu từø Abraham. Vì thế, Thiên Chúa ký kết giao ước với ông.
 
          Giao ước được trình bầy dưới dạng một bản giao kèo theo tập tục các chiến binh thời đó : được đóng ấn bằng việc xẻ thịt  một bò cái tơ, một dê cái và một cừu đực. Giao ước giữa Thiên Chúa và Abraham sửa soạn cho một giao ước sẽ ký kết giữa Thiên Chúa và Israel tại núi Sinai (Xh 19). Thiên Chúa nhận của lễ Abraham dưới hình dạng ngọn lửa thiêu. Theo giao ước này, nếu Abraham nhận Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ ban cho ông hai điều : một dòng dõi đông đúc và một vùng đất rộng rãi phì nhiêu.
 
          Bài đọc 2 : Pl 3,17-4,1.
 
          Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương bắt chước ngài. Sở dĩ ngài dám nói như thế là vì ngài muốn nhắc lại cuộc trở lại của mình với Đức Kitô và từ đây ngài hết lòng tin tưởng theo gương ông Abraham ngày xưa đã tin tưởng vào Thiên Chúa.
 
          Ngài muốn hiệp thông cùng cuộc tử nạn và Phục sinh với Đức Kitô. Ngài khuyên nhủ các tín hữu đừng bắt chước những người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô, họ là những kẻ hưởng lạc chỉ nhắm những sự thấp hèn đời này, mà hãy kiên trì theo đuổi việc chạy đua đến vương quốc trên trời, nơi họ sẽ được hoàn toàn hóa thân trong Đức Kitô, vì “quê hương chúng ta ở trên trời”(Pl 3,20).
 
          Bài Tin mừng : Lc 9, 28b-36.
 
          Trong trình thuật của thánh Luca về cuộc biến hình cách mầu nhiệm, chúng ta chú ý đến chi tiết Đức Giêsu đàm đạo với ông Maisen và ông Êâlia về cuộc “xuất hành” của Ngài tại Giêrusalem, ý nói đến cuộc tử nạn của Ngài sẽ được thực hiện tại đó.
 
          Cuộc xuất hành về Đất Hứa của dân Do thái ngày xưa là hình ảnh cuộc xuất hành của Ngài ngày nay. Ngày xưa trong cuộc xuất hành, Maisen đã dẫn dân ra khỏi đất nô lệ, thì giờ đây, Đức Kitô là Maisen mới sẽ dẫn đưa mọi người thoát khỏi cảnh thống trị của sự dữ.
 
          Chi tiết thứ hai là đám mây trắng tinh sáng ngời là điềm tiên báo sự phục sinh, lên trời của Chúa và của chúng ta, nếu chúng ta nghe Lời Chúa và theo gương Chúa cho đến cùng.
 
          Việc biến hình trước mặt ba môn đệ thân tính hé mở cho ba ông thấy trước một chút vinh quang thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Ngài chịu nạn chịu chết.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Hãy biến đổi con người chúng ta.
I. ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH.
 
          1. Khung cảnh cuộc biến hình.
 
          Câu chuyện Đức Giêsu biến hình đã được Tin Mừng nhất lãøm tường thuật theo một tài liệu duy nhất. Biến cố biến hình này xẩy ra khoảng 8 ngày sau khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài, và cũng xẩy ra đồng thời khi ông Phêrô truyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Lc 9,20). Và Đức Giêsu, khi đón nhận lời tuyên xưng ấy, đã dùng cuộc biến hình này để chỉ cho các tông đồ thấy  trước chính vinh quang đó, hầu soi sáng cho các ông thấy rõ ý nghĩa cuộc thử thách mà Ngài đã loan báo, tức là cuộc thương khó và cuộc tử nạn sắp xẩy đến.
 
          Đức Giêsu chỉ đem theo ba Tông đồ là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi như xưa ông Maisen khi lên núi Sinai đã đem theo một số người đồng hành (Xh 24,9). Ba ông này được chọn riêng trong 3 trường hợp :
                   - Chúa cho con ông Giairô sống lại (Mt,9,18).
                   - Chúa biến hình (Mt 17,1)
                   - Tại vườn Cây dầu (Mt 26,3).
 
          Đang khi các ông ngủ, Đức Giêsu biến hình trước mặt các ông. Thánh Matthêu và Marcô thì dùng chữ “biến hình”, còn thánh Luca thì nói là “dung mạo Ngài biến đổi khác thường”. Tuy dùng từ khác nhau nhưng đều nói lên việc Đức Giêsu biến đổi con người nên sáng láng tốt đẹp vô cùng, làm cho các ông ngây ngất đến nỗi không biết mình đang nói gì. Các ông còn được thấy sự hiện diện của ông Maisen và ông Eâlia, và cũng được nghe tiếng từ trời xuống:”Đây là Con Ta yêu dấu, Người được Ta tuyển chọn. Hãy vâng nghe lời Ngài”.
 
          Các ông đã nghe nhưng không hiểu gì ngay lúc đó. Sau này các ông sẽ hiểu, khi Đức Giêsu sẽ là “Người tôi tớ”, người “được tuyển chọn” trong biến cố Vượt qua, trong cuộc xuất hành của Ngài về với Chúa Cha.
 
          2. Mục đích cuộc biến hình.
 
          Đức Giêsu chỉ đưa ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi để chứng kiến việc Ngài biến hình vào khoảng 8 ngày sau khi Ngài báo tin cho môn đệ biết : Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ… bị giết đi và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ngài cũng bảo : Ai muốn đi theo sau Ngài thì hãy từ bỏ chính mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ngài. Những lời ấy không làm cho môn đệ an tâm, nên Ngài đã hứa sẽ cho một số môn đệ có mặt đó được thấy vinh quang của Ngài.
 
          Do đó, việc Đức Giêsu biến hình có 2 mục đích :
 
          - Thứ nhất, Đức Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thân tín và mọi người biết rõ ràng Ngài là Thiên Chúa làm người. Bởi vì người Do thái nói chung và nhất là các môn đệ, đã sống gần Ngài 3 năm rồi, đã nghe biết bao nhiêu lời Ngài giảng dạy, và đã chứng kiến nhiều phép lạ Ngài làm, nhưng họ chỉ thấy Ngài là một người như mọi người khác, họ không thấy chân tướng đích thực của Ngài.. Hôm nay qua sự biến hình, Ngài cho họ thấy rõ Ngài là vinh quang của Thiên Chúa, là Thiên Chúa vinh quang.
 
          - Thứ hai, Ngài muốn củng cố đức tin cho các môn đệ. Bởi vì Ngài thấy các ông quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Ngài đã hé mở sự vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để tăng thêm cho các ông niềm tin và hy vọng vào ngày mai. Như vậy, việc Chúa biến hình cũng dạy bảo cho các môn đệ biết : phải trải qua đau khổ rồi mới vào vinh quang bởi vì không ai có thể “Ngồi mát ăn bát vàng”.
 
II. CHÚNG TA CŨNG PHẢI BIẾN HÌNH.
 
          Chúng ta đã được chịu phép rửa tội, đã được tha tội tổ tông và tội riêng, linh hồn ta đã được trong sạch sáng láng như các thiên thần, xứng đáng là nơi Chúa ngự.  Nhưng qua thời gian, qua những thămg trầm của cuộc sống và bị ma quỉ cám dỗ, chúng ta đã sa ngã và làm cho linh hồn chúng ta ra nhơ bẩn, linh hồn cần phải được tẩy sạch để trở nên tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu.  Vậy Mùa Chay là thời gian thuận lợi để linh hồn được biến hình đổi dạng để trở nên con người mới hoàn thiện hơn.
 
          1. Nhu cầu cầu được biến đổi.
 
          Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm bản thân của Ngài về sự biến đổi đó nên Ngài đã nói:”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo  hình ảnh Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật”(Ep 4,22-24).
 
          Thánh Phaolô đã để lại cho chúng ta những kinh nghiệm quí giá về đời sống tâm linh của Ngài mà không ai trong chúng ta có thể chối cãi được. Trong thư gửi cho tín hữu Rôma, Ngài đã cho biết : trong con người của Ngài có hai lực lượng xung khắc nhau kịch liệt, làm cho Ngài phải bận tâm và đau khổ, và ngài không thi hành được cái ngài muốn :
 
          “Điều tôi làm ra, tôi không biết; vì điều tôi muốn tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính những điều tôi ghét”(Rm 7,15).
          “Sự lành tôi muốn, tôi lại không làm; còn sự dữ không muốn, tôi lại thi hành”(Rm 7,19).
.
          Nhưng cũng may, trong con người chúng ta, tuy có hai lực lượng xung khắc nhau, nhưng luật của Thiên Chúa vẫn còn đủ sức mạnh để lôi kéo ta làm việc lành, chứ không phải buông theo luật của xác thịt:
Tôi hớn hở đồng ý với luật của Thiên Chúa theo con người bên trong, nhưng tôi thấy một luật khác nơi chi thể mình tôi, cự lại luật của lương tri tôi, và giam tù tôi trong luật của sự tội nơi chi thể mình tôi”(Rm 7,22-23)
 
Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phaolô bảo tín hữu Philipphê hãy noi gương đổi mới của ngài. Ngài đã đổi đời từ kẻ hung ác bắt bớ hành hung các tín hữu của Đức Giêsu trở thành tông đồ hăng hái nhiệt tình rao giảng Đức Giêsu. Nhưng còn nhiều kẻ chưa đổi đời như ngài, họ vẫn còn thờ cái bụng, thờ cái ô nhục của thế gian. Thánh Phaolô đã thương khóc họ, vì họ sẽ phải hư vong. Ngài cầu nguyện cho họ  nhận ra quê hương thật ở trên trời để họ mong đợi Đức Giêsu Kitô đến biến đổi họ nên giống Người, sống khăng khít với Người. Đó là niềm vui và vinh dự thực sự của họ và của thánh Phaolô.
 
Truyện : Văn hào André Froissard.
 
Văn hào André Froissard thuộc Hàn lâm viện Pháp đã được ơn “trở lại” lạ thường. Ôâng đã thuật lại trong cuốn sách thời danh “Có Thiên Chúa và tôi đã gặp Ngài”. Thân phụ ông, Tổng thư ký đảng Cộng sản Pháp, đã từng tuyên bố:”Nếu có Thiên Chúa, thì tôi khuyên “ông ấy” lo rút lui vì không ai thích ông”. Nhưng chính con ông lại được gặp gỡ Chúa và khẳng định:”Khi người ta may mắn được gặp Thiên Chúa thì mọi sự khác chỉ là trò hề. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng không làm cho tôi thất vọng kể từ một buổi sáng năm ấy, 1935” (Phỏng vấn của Paris Match 8.4.1988)
 
2. Biến đổi và thập giá.
 
          Có một mối tương quan giữa thập giá và vinh quang. Sự Chúa biến hình trên núi Tabor hôm nay đem đến cho chúng ta niềm hy vọng, cho chúng ta thấy trước sự vinh quang với Chúa. Nhưng muốn biến đổi không phải là chuyện đơn giản vì nó không phải là cái gì có sẵn, hay dễ dàng, mà đòi hỏi thời gian, vì đây là một tiến trình vô cùng khó khăn. Nó đòi hỏi chúng ta phải đối diện với thực tại hằng ngày của cuộc sống, nhiều khi phải lội ngược dòng đời, lột xác từng tí một, nhiều lúc phải chịu thử thách, đắng cay, mất mát. Hôm nay 5 đầy tớ ưu tuyển của Chúa, tiêu biểu cho cả Cựu ước lẫn Tân ước cùng chứng kiến sự kiện lạ lùng này. Họ cũng được can dự vào sự “biến đổi”.
 
          Trong mùa chay này, Giáo hội cho chúng ta đọc đoạn Tin mừng này để khích lệ chúng ta, nghĩa là bảo cho chúng ta biết : khổ giá mà không có vinh quang phục sinh thì khổ giá vô nghĩa. Vinh quang Phục sinh mà không có khổ giá thì vinh quang không bao giờ có được. Vì thế, mỗi lần loan báo về cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cũng nói đến Phục sinh vinh quang. Cũng vậy, sau khi nói về cuộc khổ nạn sắp xẩy đến, Đức Giêsu đã biến hình để các môn đệ thấy vinh quang của Ngài, để động viên khích lệ các ông và dạy cho các ông cũng như mọi người biết rằng : đau khổ chỉ là bước đường phải đi qua để đưa chúng ta tới quê trời, tới hạnh phúc đích thực mà mọi người mong đợi.
 
Truyện : Con sâu thành con bướm.
 
          Có một con sâu nhỏ bò mãi, cho đến thời điểm cuối của cuộc đời thì tới thiên đàng. Nó gõ cửa, một giọng nói phát ra từ bên trong :
          - Không có sâu bọ nào được phép vào đây. Ta thấy ngươi quá vội vã đấy.
          - Lạy Chúa, xin dạy cho con biết phải làm gì bây giờ ?
          - Chịu đựng hơn một chút nữa, chiến đấu một chút nữa, và hãy biến thành bướm đi.
 
          Thế là con sâu quay lại trần gian bắt đầu lại cuộc hành trình bò lên thiên đàng. Nó bò nhanh hơn, cố gắng nhiều hơn. Mồ hôi vã ra như tắm. Mồ hôi càng đổ ra, sức lực nó càng tiêu hao, nó càng cảm thấy nhẹ nhàng để bò nhanh hơn. Gần tới cửa thiên đàng rồi nhưng nhìn lại nó vẫn là con sâu xấu xí, khốn khổ. Nhưng nó vội xua nỗi buồn bằng sự cố gắng chính mình, nó rướn người lên và cảm thấy tàn hơi, kiệt sức. Chính lúc nó cúi đầu tuyệt vọng lại là lúc nó chợt cảm thấy thân hình nó nhẹ nhàng lạ thường. Nó đã hóa thành chú bướm xinh xắn bay vào khung cửa thiên đàng đang rộng mở. Nó đã biến hình trọn vẹn.
 
          Con sâu biểu tượng mỗi con người chúng ta trong cuộc lữ hành đức tin đời mình. Chúng ta khao khát bò lên cao trên đường thánh đức với bao nỗi nhọc nhằn, vất vả. Vì phải chiến đấu chống lại những chước cám dỗ nội tâm để đáp trả tiếng nói của chân lý, hay phải  đối diện với những cám dỗ thế gian đang phơi bầy trước mắt, khiến chúng ta thường có tư tưởng buông xuôi.
 
           Tội lỗi, yếu đuối và sự nhát đảm  như chiếc vỏ bọc gồ ghề vây hãm chúng ta. Đó là lớp vỏ chúng ta cần thoát ra để trở thành con người hoàn hảo, tỏa sáng như Đức Kitô trên núi thánh nhờ vào thái độ quy phục thánh ý Cha trên trời, “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Vì chính lòng nhẫn nại tín trung vào ơn Chúa sẽ giúp chúng ta thoát khỏi mọi nghi ngại, mọi suy tính đầy vụ lợi. Và lòng khiêm nhường thẳm sâu sẽ phá tung lớp vỏ kén tự mãn để trao tặng chúng ta đôi cánh đức tin hy vọng cao bay xuyên qua những đám mây mờ của tháng ngày thử thách gian ngay (Theo Internet).
 
          3. Ơn gọi biến đổi con người.
          Việc Đức Giêsu biến hình là mẫu gương cho mọi người noi theo để cố gắng biến đổi con người cũ thành con người mới, từ loài sâu bọ trở nên con bướm xinh đẹp. Mọi người đều có ơn gọi biến đổi không trừ một ai.  
 
          Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamia tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền : bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ôâng lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.
 
          Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng. Diệt cái kiêu căng và cuồng tín biệt phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách mắng nhẹ:”Saulê, sao ngươi bắt bớ Ta”? Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông đồ Dân ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.
 
          Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa, từ gái giang hồ thành thánh nhân, từ trai tứ chiếng nên Đấng lập Dòng, từ kẻ khô khan đến người sốt mến, từ người tham lam, hà khắc trở thành người rộng lượng và khoan nhân… Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xẩy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân (Carôlô)
.
          Trong việc làm biến đổi con người mình, người ta phải nỗ lực chứ không phải khoán trắng cho Chúa. Chúa không muốn làm biến đổi thay cho chúng ta mà Ngài chỉ trợ lực để chúng ta làm lấy công việc này :”Hãy tự giúp mình rồi trời sẽ giúp cho” (Ngạn ngữ Pháp).
 
Truyện : Hãy tự giúp mình trước.
 
          Người ta kể rằng : một bác tiều phu kia đi lấy được một xe bò củi chất đầy. Nhưng khi đi tới một khúc đường sình lầy thì đôi bò dừng lại. Xe bò sụn lún xuống bùn. Bác ta ngồi khóc than. Khóc một hồi, bác ta nhớ ra có một vị thần và bắt đầu van xin. Vị thần hiện ra phán bảo:”Thay vì ngồi khóc thì ngươi hãy ghé vai vào xe thử đẩy đi và ta sẽ giúp”. Bác tiều phu làm theo lời vị thần, cố gắng mọi cách, cuối cùng chiếc xe bò đã vượt qua khúc đường sình lầy.
 
          Đó là ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết mọi việc. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta còn biết nhờ vả vào những người khỏe mạnh hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ Chúa, là Đấng toàn năng và hay cứu giúp. Ngài sẽ giúp chúng ta vượt thắng đau khổ nếu chúng ta tin tưởng, cậy trông và kêu xin Ngài.
 
          4. Cầu nguyện và biến đổi.
 
          Trước những biến cố trọng đại, Đức Giêsu thường lên núi hoặc đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện, trò chuyện với Chúa Cha. Hôm nay cũng vậy. Đem theo ba môn đệ là những người đã theo Đức Giêsu từ những giây phút đầu tiên trong sứ vụ rao giảng. Các ông là những trụ cột của Giáo hội và vì thế, biến cố biến hình là biến cố rất quan trọng cho đức tin của các ông mà Đức Giêsu cách nào đó muốn tỏ hiện để củng cố niềm tin vốn còn yếu nơi con người các ông.
 
          Ngược lại nếu không biết cầu nguyện, chỉ cậy dựa vào sức của mình, chỉ dùng những phương thế tự nhiên tuy là tối hảo thì “mèo vẫn hoàn mèo”, không thể tiến triển được trên đường biến đổi vì Chúa đã nói :”Sine me nihil potestis facere” : không có Ta các con không thể làm gì được.
                                     
Truyện : bốc cát cọ mình.
 
          Người ta thuật lại rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia quyến người da đen ở. Gia quyến đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi, Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau cùng, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.
          Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học sinh về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem màu da đen mất chưa. Chao ôi ! Mầu đen quá sậm cậu mất công toi.
          Vài phút sau thầy giáo gọi cậu :
          - Này em làm gì vậy ?
          Cậu giật mình thưa :
          - Con cố sức kỳ cọ hết màu da đen để nên người da trắng, song không sao được.
                             (Ms  Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)
 
          Khi gợi lên cho ta thấy Đức Giêsu với “gương mặt biến đổi” nhờ sự cầu nguyện, Luca có ý khích lệ chúng ta. Trong cuộc sống đầy thử thách và thất bại, đầy đau khổ và tội lỗi, chỉ có cầu nguyện, vào những lúc nào đó, mới có thể biến đổi chúng ta. Bởi vì chúng ta cũng được “biến đổi”, phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương (2Cr 3,18). Khuôn mặt Mùa Chay phải là khuôn mặt biến đổi.
 
          Tóm lại, sự thay đổi là trọng tâm của Mùa Chay, và mục đích của Giáo hội là tìm cách cho con cái mình lãnh nhận dồi dào ân sủng, để biến đổi họ trong vui mừng của Mầu nhiệm Phục sinh. Hôm nay Chúa dạy chúng ta bài học cầu nguyện, cầu nguyện thật sự, đúng cách sẽ thay đổi được tâm hồn con người, sẽ làm cho người khác nhận diện được sự đổi thay lạ lùng – dĩ nhiên là qua những việc làm lành thánh -, đó là cầu nguyện, đàm đạo với Chúa về con đường đi đến đồi Calvê, con đường khổ giá của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn từng ngày, từng lúc.
 
           Ước gì trong Mùa Chay thánh này, mỗi người tín hữu sẽ nhận ra được giá trị thật sự của sự cầu nguyện, biết trở về với Giáo hội để lãnh nhận ân sủng, những ơn cần thiết, được ban nhưng không, để cùng được biến đổi, cùng được dự phần vào ngày vinh thắng của Chúa. Nếu như không có thứ Sáu Chịu nạn, sẽ không bao giờ có Chúa Nhật Phục sinh. Đây là định luật bắt buộc cho bất cứ ai muốn tiến vào Vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
 
          5. Chúa sẽ biến đổi thân xác chúng ta.
 
          Trong kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng :”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy”. Chúa sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta trong ngày sau hết. Với niềm tin tưởng ấy, thánh Phaolô, trong bài đọc 2, đã khuyên mọi người bắt chước Ngài, vì Ngài tin tưởng và hoàn toàn sống theo mầu nhiệm thập giá. Đang khi ấy có lắm kẻ sống như thù địch với thập giá của Đức Kitô. Họ lấy bụng làm Chúa và chỉ nghĩ đến những sự dưới đất. Họ đặt vinh quang nơi những điều đáng phải xấu hổ, ngay cả nơi phép cắt bì của người Do thái. Họ là những người chỉ cậy vào sức mình và chỉ lấy những mối lợi trước mắt làm hạnh phúc. Họ sẽ đi tới diệt vong.
 
          Trái lại, quê hương của ta là  trời cao, tự đó sẽ đến vị Cứu Chúa là Đức Giêsu Kitô. Ngài sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh quang của Ngài. Chính vì vậy mà chúng ta phải đi vào con đường thập giá, là con đường đã dẫn Chúa chúng ta đạt tới vinh quang.
 

 

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY C
HÃY SÁM HỐI
+++
 
A. DẪN NHẬP
 
          Hai tuần I và II Mùa Chay cho ta hiểu ý nghĩa về thử thách, cám dỗ và sau cám dỗ là vinh quang của Đức Kitô. Với Chúa nhật III này, các bài đọc của Lời Chúa chú trọng vào một trọng tâm là phải ăn năn sám hối và sinh hoa kết quả bằng những việc làm cụ thể trong cuộc sống hằng ngày của Kitô hữu.
 
          Chúng ta đã khởi đầu Mùa Chay bằng nghi thức xức tro trên đầu, một nghi thức thật cụ thể để diễn tả một trong những mục tiêu của Mùa Chay, đó là sám hối và trở về. Trong tâm tình đó, hôm nay vào giữa Mùa Chay, một lần nữa, Mẹ Giáo hội mời gọi chúng ta tin tưởng vào lòng nhân từ hay tha thứ của Thiên Chúa để can đảm đứng dậy, sám hối về tất cả những yếu đuối lỡ lầm của chúng ta trong cuộc sống.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, khi dùng hai biến cố gây ra chết người làm bối cảnh cho giáo huấn của Ngài – Trước hết Đức Giêsu đã đánh đổ quan niệm cũ sai lầm trong Do thái giáo, coi những người chết vì bệnh tật, tai nạn, bị đàn áp… là những người tội lỗi – Rồi Ngài khẳng định rằng nếu không sám hối và sinh hoa kết quả – mà cứ chai lì ra, thì sẽ chịu hậu quả khốc liệt hơn những người chết trong hai biến cố trên – vì họ sẽ bị chính ÔNG CHỦ LOẠI BỎ VĨNH VIỄN. Ôâng chủ đây là ai ngoài Thiên Chúa và cây vả là ai ngoài Kitô hữu, những người mà Đức Kitô đã tái sinh và vun trồng bằng chính Thịt Máu Ngài.
 
          Mùa Chay là cơ may Chúa ban cho để chúng ta hối cải như thánh Phaolô đã nói với tín hữu Côrintô :”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2Cr 6,2b). Ngay cả cuộc sống của chúng ta cũng chỉ là thời gian gia hạn Chúa ban do lòng thương xót của Ngài. Sau khi cánh cửa thời gian khép lại, chúng ta sẽ không còn cơ hội để hối cải và sinh hoa kết quả nữa.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          Bài đọc 1 : Xh 3,1-15.
 
          Dân Do thái là mối quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa. Tuần vừa qua, qua bài đọc 1, chúng ta được biết  Thiên Chúa muốn chọn ông Abraham để thành lập một dân mới, dân riêng của Ngài. Tuần này, chúng ta được biết Thiên Chúa muốn nhờ ông Maisen để cứu dân ấy ra khỏi ách nô lệ của Ai cập và đưa  họ vào Đất Hứa.
 
          Khi ấy, Ôâng Maisen đang trốn trong sa mạc vì sợ vua Pharaon lùng bắt. Ôâng trông thấy bụi gai đang cháy bừng bừng mà không bị cháy rụi. Ôâng đến gần xem sao. Thiên Chúa hiện ra và gọi rõ tên ông và trao cho ông sứ mạng đưa dân ra khỏi Ai cập. Ôâng muốn hỏi tên Ngài, nhưng Thiên Chúa chỉ trả lời cho ông:”Ta là Đấng Hằng Hữu”.
 
          Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu. Có nhiều lối giải thích kiểu nói này :
,
          - Thiên Chúa từ chối không nói tên mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên Chúa.
          - Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu, khi thấy các việc Ta sẽ làm (sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân Do thái : người ta sẽ hiểu Ngài là Đấng Giải thoát)
          - Câu nói đó có thể dịch là “Ta là Đấng Hằng Hữu”.
          - Cũng có thể dịch là “Ta là Đấng là” : ngược lại với các thần Ai cập chỉ là hư vô giả trá, chỉ có một mình Thiên Chúa là có thật (Carôlô).
 
          Bài đọc 2 : 1Cr 10,1-6.10-12.
 
          Tín hữu Côrintô đã được rửa tội và thông hiệp Bí tích Thánh Thể, nên tưởng rằng mình đã được giải thoát khỏi mọi cám dỗ. Phải luôn đề phòng kẻo bị sa ngã. Thánh Phaolô so sánh cuộc xuất hành về trời của tín hữu ngày nay với cuộc xuất hành về Đất Hứa của dân Do thái ngày xưa : mặc dầu được Chúa che chở, nhiều người đã gục ngã trước những thử thách ở sa mạc. Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân Do thái xưa, nhưng đừng bắt chước họ chiều theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại, hãy tin tưởng phó thác cho Chúa và ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của Ngài.
 
          Bài Tin mừng : Lc 13,1-9.
 
          Người ta báo cho Đức Giêsu biết nguồn tin sốt dẻo : quan tổng trấn Philatô giết một số người Galilê đang khi họ dâng lễ trong đền thờ. Đức Giêsu không muốn bày tỏ ý kiến về luân lý, chính trị hay xã hội, mà nhân cơ hội này nhắc nhở cho mọi người : đứng trước những biến cố lớn nhỏ của cuộc sống, hãy nhìn ra những tín hiệu nhắc nhở hãy sám hối để được sống.
 
          Trong dụ ngôn cây vả không sinh trái, Đức Giêsu nhấn mạnh đến những tai vạ sẽ đè lên trên dân tộc bất trung (Mc 11,13). Vậy là Chúa mời gọi mọi người hãy sinh hoa trái của lòng sám hối. Phải biết rằng cuộc sống của chúng ta  chỉ là một thời gian được gia hạn nên phải lợi dụng thời gian này mà sám hối.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Sám hối để được sống
I. HAI SỰ KIỆN, MỘT Ý NGHĨA.
 
          1. Hai sự kiện :
 
          Đang lúc Đức Giêsu khuyên giục các thính giả ăn năn sám hối, thì có người thuật lại với Đức Giêsu câu chuyện rùng rợn về vụ quan tổng trấn Philatô giết hại những người Galilê đang khi họ dâng lề trong đền thờ. Có lẽ đây là một cuộc biểu tình của nhóm người quá khích đang cố dấy lên  một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát.
 
          Đưa ra tin sốt dẻo này, chắc người ta tưởng Đức Giêsu sẽ đồng tình truyên bố số phận của những người bị tàn sát và bị tháp đè bẹp ấy là đúng lắm và Ngài cũng rơi vào lối ngụy biện thường tình, là người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã phạm tội nặng. Nhưng Đức Giêsu trả lời cho họ rằng người ta tạm thời chưa bị đau khổ là dấu ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa.
 
          2. Một ý nghĩa.
 
          Người Do thái thường cho rằng những thử thách xẩy đến cho một người là như một sự trừng phạt kẻ đó. Nói cách khác, đau khổ là hình phạt của tội. Đối với Đức Giêsu, không có sự liên hệ nào giữa tai họa và tội lỗi. Trong phép lạ chữa cho người mù từ mới sinh, người ta hỏi Đức Giêsu : anh mù ấy do tội của anh hay của cha mẹ anh, thì Đức Giêsu trả lời rằng:”Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xẩy ra  là để các việc Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh”.
         
          Nhân cơ hội này, Đức Giêsu nhắc lại một sự kiện khác : 18 người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết. Ngài khẳng định rằng đau khổ không phải do Thiên Chúa gửi đến. Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xẩy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của qui luật vạn vật… Thay vì buộc tội Chúa là “nguyên nhân đệ nhất” như các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị”, mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống lại sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.
 
          Như vậy là Đức Giêsu không muốn trả lời thẳng vào câu hỏi mà họ muốn đặt ra : những người bị giết và bị đè chết là do tội mà ra. Nhân dịp này Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học không phải thuộc lãnh vực luân lý, chính trị hay xã hội mà là thuộc lãnh vực tôn giáo. Đức Giêsu phán :”Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Lời nói của Ngài có tính cách răn đe : nếu các ông không thay đổi cách sống. Ngài không có ý nói đến cái chết thể lý mà chúng ta thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính cách mầu nhiệm do tội lỗi gây ra : một sự hư mất đời đời. Như vậy, qua sự kiện một số người Galilê bị giết Đức Giêsu muốn nhắc nhở cho người Do thái và chúng ta là phải sám hối kẻo phải hư mất đời đời.
 
II. DỤ NGÔN CÂY VẢ.
 
          1. Cây vả tại Palestine.
 
          Đức Giêsu dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn hối cải. Quả vả là thức ăn quen thuộc đối với người Do thái . Ở Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó. Đức Giêsu đã nhiều lần trực tiếp hay gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị xét đoán tùy theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. Trong dụ ngôn cây vả chúng ta thấy có những ẩn dụ :
          - Người trồng cây vả là Tiên Chúa.
          - Cây vả là dân Do thái.
          - Người làm vườn là Đức Giêsu.
 
          2. Cây vả không sinh trái.
 
          Thế giới này phải đi trên con đường tiến hóa, tất cả cuộc tiến hóa nhằm sản sinh ra những cái gì có ích lợi, điều gì có ích sẽ cứ mạnh mẽ phát triển trên đường tiến hóa, trong khi những gì vô ích sẽ bị tiêu diệt. Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà không sản sinh ra gì cả thì để làm gì cho nó ăn hại đất ?
 
          Cũng thế, cây vả Israel phải sinh hoa kết quả, nếu không sẽ bị chặt đi. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Israel, trong quá khứ dân đã nhận được nhiều ơn. Chúa trông đợi nơi họ sinh nhiều hoa trái, tức là sự trung thành với lề luật, sự phụng thờ sốt sắng và trong sạch… Kết quả không như Chúa mong muốn. Chúa có quyền bỏ dân Chúa đã kén chọn.
 
          Nhưng Thiên Chúa chấp nhận đề nghị của Đức Giêsu cho khoan giãn một thời gian, để Đức Giêsu sẽ chăm bón thêm bằng cách ban thêm  nhiều ơn nhờ việc giáo huấn và các phép lạ… Nhưng Israel vẫn cố chấp không hoán cải để sinh hoa trái. Vì vậy, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ. Chính việc tàn phá Giêrusalem năm 70 là sự việc chứng thực điều đó.
 
          3. Cơ may cuối cùng.
 
          Một cây vả thường phải 3 năm mới trưởng thành, nếu lúc đó nó không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa để sinh hoa quả nếu không sẽ bị chặt đi.
 
          Dụ ngôn này muốn diễn tả Thiên Chúa chờ đợi dân Ngài những hoa quả của lòng thống hối. Họ phải khẩn trương lợi dụng những lời mời gọi ăn năn sám hối của Đức Giêsu, Đấng trung gian giầu lòng thương xót, nhưng nếu họ cứ cố chấp mà khoan giãn không chịu sám ghối, thì họ sẽ bị số phận như cây vả không trái.
 
          Như vậy, đối với chúng ta, nếu chúng ta từ chối hết cơ may này đến cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa.
 
III. CHÚNG TA PHẢI KHẨN TRƯƠNG SÁM HỐI.
 
          1. Mọi người phải sám hối.
 
          Lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải sám hối, không trừ ai. Đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, người thu thuế, gái điếm, trộm cắp, nhưng trong dụ ngôn cây vả trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 13,1-9), lại là những người được coi là đạo đức, ngay chính, được mọi người kính trọng : những người biệt phái.
 
          Vậy người tốt cũng phải sám hối sao ?  Trong trường hợp những người được gọi là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt lẽ ra  họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây vả trong bài Tin mừng này. Ôâng chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trái vả thì đâu còn là cây vả nữa, nó hoàn toàn trở nên vô ích.
          Các Kitô hữu ít khi đặt cho mình câu hỏi sau đây : Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà lại không làm ? Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy “sinh trái” bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhăm đến mọi người (McCarthy).
 
          2. Khác biệt giữa thánh thiện và tội lỗi.
 
          Người ta thường nói :”Nhân vô thập toàn”, không ai là con người hoàn hảo đến nỗi không còn điều gì phải sửa đổi. Đức Khổng Tử đã đưa ra một chương trình tổng quát để đào tạo con người, biến con người thành những hiền nhân quân tử và cao nhất là bậc thánh nhân, đó là TU THÂN.
 
           Tu thân có nghĩa là sửa mình. Phải sửa mình cho nên tốt hơn theo phương châm của vua Thành Thang :Nhật nhật tân, hựu nhật tân” : ngày ngày mới, lại ngày mới hơn.  Muốn sửa mình, cần phải xét mình để biết rõ con người mình.
 
           Ôâng Trình Tử đã thực hiện việc xét mình hằng ngày khi ông nói :”Nhất nhật tam tỉnh ngô thân” : mỗi ngày ta phải xét mình ba lần.
 
            Thánh Phaolô cũng nhắc nhở cho tín hữu Côrintô là phải lột bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới. Con người mới đây là con người đã được tu thân, đã qua một quá trình biến đổi cho nên tốt hơn.
 
          Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận có lần đã nói:”Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và người tội lỗi nào cũng có một tương lai. Quá khứ là dĩ vãng yếu đuối. Tương lai là ngày mai tốt hơn, thánh thiện. Nhưng sự khác biệt giữa thánh nhân và người tội lỗi chính là sự sám hối, lòng ăn năn”.
                                     
Truyện : Hối cải hay không.
 
          Chuyện cổ dân gian kể về hai người anh em nọ sống trong một ngôi làng miền Trung Ââu đã bị bắt quả tang ăn trộm cừu của dân làng. Hình phạt cho họ là bị khắc hai chữ “ST” trên trán. “ST” có nghĩa là Sheep Thief ! Ăên trộm cừu ! Dấu khắc này là dấu sẹo trên trán phải mang suốt đời.
 
          Đối với người em hình phạt này là tiêu hủy cuộc đời còn lại của chú. Chú càng phạm thêm nhiều tội ác hơn. Và cuối cùng chú đã bị chết trong tù ! Trái lại, người anh đã ăn năn hối cải và hoàn toàn thay đổi cuộc sống, từ tên tội phạm đã trở nên người hoàn lương, và sau cùng trở nên thánh thiện. Anh giúp đỡ mọi người, trong làng ai cũng thương mến. Năm tháng trôi qua, những người lớn tuổi thuộc thế hệ của anh chết gần hết. Một ngày nọ những người du khách vào làng nhìn thấy chữ “ST” trên trán ông lão bèn thắc mắc. Họ hỏi những người trẻ trong làng, nhưng chẳng ai biết thực sự  nó có nghĩa là gì. Ai cũng trả lời rằng :”Điều đó đã xẩy ra bao nhiêu năm về trước rồi ! Nhưng theo họ nghĩ, chữ “ST” trên trán ông lão là một chữ viết tắt của chữ “Saint” = “Thánh”.
 
          3. Tiêu cực và tích cực.
 
          Lời kêu gọi sám hối của Đức Giêsu hôm nay không phải chỉ là lời kêu gọi trở về từ tội lỗi, nhưng là một lời kêu gọi phải làm điều lành, điều tốt như bổn phận. Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu như không được giết hại người khác. Giáo lý của Chúa Kitô còn đòi buộc cả những điều tích cực : phải giúp đỡ tha nhân, yêu thương người nghèo khó. Thánh Giacôbê đã nói :”Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội”(Gc 4,17).
          Sám hối hay hối cải không chỉ là từ bỏ con đường xấu xa tội lỗi, trái lại sám hối cũng còn có nghĩa là không được như cũ mà phải tốt hơn, tấn tới hơn, nhân đức hơn và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng hơn. Do đó, một người sống cứ lừng khừng, tầm thường cũng đáng bị lên án như kẻ có tội vậy. Trái lại, một kẻ được gọi là sám hối thực sự không những xa lánh tội lỗi mà còn là con người có ích, trưởng thành.
 
          Khi đọc dụ ngôn cây vả không sinh trái, chúng ta phải luôn theo nghĩa tích cực, nghĩa là không phải điều xấu điều ác đã không làm, nhưng là điều tốt, việc thiện đã bỏ qua. Người chủ vườn thất vọng không phải vì cây vả đã cho trái xấu xí hay độc hại, nhưng vì nó đã không sinh sản. Nó đã bị xét xử vì nó không sinh hoa trái. Bởi vậy, người sám hối là người phải đổi mới để mỗi ngày một nên tốt hơn :”Phải tiến bước trên con đường sám hối và của đổi mới, và phải qua cửa hẹp của thập giá, để thông ban hoa trái  của ơn cứu độ cho người ta” (GLCG số 853 ; Lumen gentium đoạn 8).
 
          4. Hãy tìm đến với Chúa.
 
          Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vạn vật, trong đó có loài người chúng ta (x. St 2,4-8). Ngài là chủ của vũ trụ. Đã là chủ, Thiên Chúa có toàn quyền kiểm điểm mọi vật từ vô tri vô giác cho đến giống có sự sống như loài người, loài vật hay cây cối. Giống vật nào không vừa ý Ngài, hay đi sai đường hướng  Ngài đã chỉ định, thì Ngài sẽ hủy bỏ đi. Phải tìm đến với Ngài để Ngài chỉ bảo cho biết phải sống như thế nào mới đẹp lòng Ngài. Ngài ở gần chúng ta chứ không xa xôi gì, Ngài ở sát cạnh chúng ta, luôn hiện diện bên chúng ta. Tiên sinh Chư Cát Võ Hầu viết :
 
                                                Thiên tính tuyệt vô âm,
                                                Thương thương hà xứ tầm,
                                                Phi cao diệc phi viễn,
                                                Đó chi tại nhân tâm
                    Thiên Chúa vô hình vô tượng,
                    Ngự trời xanh mà chẳng thể tìm ra.
                    Tuy cao mà vẫn không xa,
                    Tìm Ngài không gặp đó là tại tâm.
 
          Chúa đã trồng chúng ta là cây vả trong lòng Giáo hội, Ngài luôn săn sóc cây vả này, Ngài mong cho nó sinh hoa kết quả. Vì vậy, sám hối là một việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”, lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội rồi, cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống lầm lỡ đó. Hoặc chúng ta lại ru ngủ mình bằng ý tưởng “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn năn đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi là mình” !!!
 
          Nhưng cuộc đời chúng ta kéo dài được bao nhiêu ? Người ta thường nói :Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, chết bất cứ lúc nào, ai biết được. Cái chết luôn gần kề, phải chuẩn bị cho kịp. Thiết tưởng dụ ngôn cây vả không sinh trái trong bài Tin mừng là một lời cảnh cáo cho tất cả Kitô hữu ngày nay. Thiên Chúa đang chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi ra tay trừng phạt chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta sinh hoa trái yêu thương, nhưng cho đến nay, phải nói rằng người Kitô hữu chúng ta đã sống với nhau thiếu tình thương một cách trầm trọng. Chúng ta không ý thức được tình trạng nguy hiểm đang chờ chúng ta :”Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(Mt 3,10 ; Lc 3,9).
 
Truyện : Cơ may cuối cùng.
 
          Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ôâng ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ :”Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết. Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu.
         
          Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy. Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng : không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn (GM Arthur Tonne).
 
          Nếu có người đặt câu hỏi : Hiện nay trong Giáo hội còn nhiều người tội lỗi mà Chúa không diệït hết đi ? Để giải đáp thắc mắc này, chúng ta cần nhớ đến lời người làm vườn thưa với ông chủ :”Thưa ông, xin để thêm một năm nữa, nếu nó không sinh trái, chúng ta sẽ chặt đi”. Vẫn biết trong Giáo hội có nhiều người tội lỗi, nhưng Chúa nhân lành vô cùng còn đợi chờ và hy vọng, họ sẽ ăn năn hối cải như người coi vườn  cố để cây nọ cây kia một thời gian nữa với hy vọng nó sẽ sinh trái để bõ công trồng.
 
          Đối với người thực tình sám hối thì không có gì là quá muộn. Chúa sẽ tạo điều kiện cho họ. Một cây vả sau 3 năm mà không sinh trái thì hầu như chẳng bao giờ sinh trái nữõa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Thiên Chúa bao giờ cũng ban cho người ta hết những cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ sa ngã chỗi dậy. Thiên Chúa chỉ cần con người có thiện chí muốn hối cải tùy theo sức của mình, còn bao nhiêu chúng ta trao trọn cho Chúa để Ngài cải hóa và hoàn thiện con người chúng ta để cho con người chúng ta sẽ trở nên có giá trị gấp trăm ngàn lần.
 
Để kết thúc, tôi xin mượn lời và câu chuyện cha Mark Link để diễn tả tư tưởng ấy trong những dòng sau đây : Có một bài thơ nói về một chiếc vĩ cầm cũ kỹ. Giống như chúng ta, nó cũng có một cơ may thứ hai. Hơn nữa,  nó còn là hình ảnh câu chuyện của bạn, của tôi và của tình yêu Chúa dành cho chúng ta nữa. Hy vọng bài thơ ấy sẽ tác tác động đến tâm hồn các bạn và sẽ thôi thúc các bạn tham dự thánh lễ hôm nay với niềm tri ân và lòng yêu mến nhiều hơn thường lệ.
 
Truyện : cây vĩ cầm đáng giá.
 
          Cây vĩ cầm bị nứt bể rồi lại được dán lại. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút cho nó làm gì. Nhưng ông ta vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán :
          - Nào, thưa quí vị, ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây ? Một đồng, một đồng, rồi tới hai đồng, chỉ có hai đồng thôi sao ? Ai sẽ trả nó ba đồng đây ? À, một người trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng, không còn ai nữa sao ?
Bỗng nhiên từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau bụi chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại những sợi dây lỏng. Sau đó ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, y như những bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rải nói :
          -Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm cũ kỹ này đây ?
          Đoạn ông vừa cầm cây đàn lên vừa nói :
          - Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên 2000 ? Hai ngàn rồi ! Có ai chịu tăng lên ba ngàn không ? Một người chịu giá 3000, hai người chịu giá 3000, và còn nữa !!!
          Đám đông hồ hởi reo vui nhưng có vài người trong họ la lên :
          - Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị  cây vĩ cầm ấy !
          Lập tức có tiếng đáp lại :
          - Chính nhờ đôi tay ông nhạc sĩ chạm vào đấy.
 
          Quả thế nhiều người trong chúng ta đừng đi sai đường lạc lối, bị bầm dập vì tội lỗi và bị đám đông vô tâm rẻ rúng, khác nào cây vĩ cầm cũ mèm kia. Chỉ một tô cháo, một ly rượu, một cuộc chơi là đã đưa chúng ta  sa chân hết lần này đến lần khác, và cuối cùng chúng ta hầu như bị hư hoại luôn. Nhưng vị Minh Sư đã đến, và lũ dân chúng khờ khạo hoàn toàn không thể hiểu nổi  giá trị của linh hồn và sự đổi thay của nó, sau khi linh hồn đã được đôi tay của vị Minh Sư chạm đến (Tác giả vô danh) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật , năm C, tr 75-76).

 


CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY C
DỤ NGÔN NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG
+++
A. DẪN NHẬP
 
          Thiên Chúa dựng nên con người có hồn có xác. Ngài còn ban cho họ lý trí và tự do để sống theo thánh ý Ngài. Tự do là tặng phẩm vô giá Thiên Chúa đã tặng ban cho con người để họ tự do trung thành với Chúa hay phản bội Ngài. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Vì thế, tự do là con dao hai lưỡi, nếu biết dùng nó cho đúng thì sống, mà dùng sai thì chết.
 
          Chính vì con người có quyền tự do nên họ đã phạm tội chống lại Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, Ngài vẫn yêu thương con người khi họ còn ở trong vòng tội lỗi, Ngài kiên nhẫn chờ đợi, kêu mời và tạo mọi điều kiện để họ trở về sống trong ân tình của Ngài. Dụ ngôn đứa con hoang đàng hôm nay nói lên chân lý đó.
 
          Thánh Luca đặc biệt nói về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa qua ba dụ ngôn, mà dụ ngôn người con hoang đàng là sâu sắc hơn cả. Con người yếu đuối và hay sa ngã.. Nguyên tổ Adong Evà đã sử dụng sai tự do của mình, đã sa ngã, nhưng Chúa vẫn thứ tha. Rồi đến lượt con cháu ông bà cũng đi vào vết xe cũ đó, nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi, kêu gọi họ trở về để được ơn tha thứ. Đavít, Madalena, Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld… đã đi vào con đường tăm tối và đã được giải thoát sang vùng ánh sáng tự do.
 
          Có lẽ mỗi người đều sẽ phải nếm nỗi chua xót vì đã sử dụng tự do sai trái ! Tất cả đã đúc thành cái giá cắt cổ mà Con Thiên Chúa phải trả thay bằng chính mạng sống mình. Bài học sâu sắc của đứa con hoang đàng đã trở thành tiêu biểu cho những người dám chân thành và cam đảm làm cuộc trở về với Người Cha Nhân Hậu.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          Bài đọc 1 : Gs 5,9-12.
 
          Trong 40 năm trên đường về Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dưỡng dân Do thái bằng manna, ai muốn ăn bao nhiêu thì ăn, không bị hạn chế, nhưng khi đã đặt chân lên Đất Hứa rồi, mannna thôi rơi, và dân bắt đầu ăn thổ sản trong xứ.
 
          Cuộc xuất hành về Đất Hứa đã kết thúc, họ mừng lễ Vượt Qua đầu tiên để tạ ơn Chúa đã thực thi lời hứa trong giai đoạn quyết định vừa qua. Từ nay, lễ Vượt qua được ấn định vào ngày 14 tháng Nisan  hàng năm giúp dân Do thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.
 
          Trong cuộc hành trình về quê trời, Mình Thánh Chúa là manna được Thiên Chúa ban cho loài người, một thứ thần lương nhiệm mầu nuôi sống linh hồn chúng ta và đem chúng ta đến sự sống đời đời.
 
          Bài đọc 2 : 2Cr 5, 17-21.
 
          Thiên Chúa là Đấng trung thành và thương xót, đã dùng Đức Kitô mà giao hòa chúng ta với Người, đã gánh tội của chúng ta và làm cho chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho chúng ta được tái sinh nhờ Bí tích rửa tội để sống một đời sống mới.
 
          Nhưng điều đã được thực hiện dứt khoát một lần trong Đức Kitô còn phải được thực hiện nơi từng người : đó là tầm quan trọng của sứ mạng hòa giải được giao phó cho các vị Tông đồ. Do đó, Giáo hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.
 
          Bài Tin mừng : Lc 15,1-3.11-32.
 
          Thiên Chúa luôn giầu lòng thương xót và tha thứ đối với tất cả mọi người. Thánh Luca đã diễn tả lòng thương xót đó qua 3 dụ ngôn :
          - Dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,4-7).
          - Dụ ngôn đồng tiền bị mất (Lc 15,8-10).
          - Dụ ngôn đứa con hoang đàng (Lc 15,1-3.11-33).
 
          Trong dụ ngôn người con hoang đàng này, ta thấy người cha có hai đặc điểm : tôn trọng tự do của con, sẵn sàng chia gia tài cho con, và nhất là sẵn sàng tha thứ, luôn mong đợi con trở về ngay khi nó chưa hối lỗi. Người con thứ không phải là mẫu mực một kẻ tội lỗi hồi tâm : anh ta không có vẻ  ăn năn thống hối thực sự, anh ta chỉ đi theo hướng có lợi, nghĩa là trở về cho khỏi bị chết đói.
 
          Tuy thế, Thiên Chúa là người Cha tốt lành và nhẫn nại, Ngài tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ngài đợi chờ chúng ta qua nhiều năm tháng dài. Ngài vui sướng đón nhận chúng ta vào cánh tay Ngài vì chúng ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Tình thương dạt dào, đó là lời mời gọi của Cha trên trời dành cho hết mọi người con của Ngài, dù họ biết bao lỗi lầm, dù họ chưa sẵn sàng trở về với Ngài.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Trở về với Cha nhân hậu
I. BA MÀN CỦA MỘT VỞ KỊCH.
 
          Theo giáo thuyết của các giáo sĩ Do thái thì những người thu thuế và tội lỗi bị tách ra khỏi cộng đồng tôn giáo và xã hội Do thái. Nhưng ở đây những người này lại đến gần Đức Giêsu để nghe Ngài giảng và họ còn mời Ngài đến dùng bữa tại nhà mình.
 
          Thấy thái độ Đức Giêsu đón tiếp những người thu thuế và tội lỗi trái với giáo thuyết của Do thái, nên biệt phái và luật sĩ là những người chủ trương giữ luật rất khắt khe đã kêu trách Đức Giêsu. Họ kêu trách Ngài về hai điểm :
 
          a) “Ôâng này đón tiếp những người tội lỗi” : Người Do thái hành động theo châm ngôn sau : Thiên Chúa yêu thương những người công chính và gớm ghét những người tội lỗi. Bởi vì Thiên Chúa gớm ghét người tội lỗi nên người Do thái cũng phải làm như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu làm ngược lại : Ngài đón tiếp các tội nhân.
          b) “Và cùng ăn với chúng” : Không những tiếp đón những người tội lỗi mà Đức Giêsu còn đi xa hơn : là cùng ăn với họ. Thông thường bữa ăn diễn tả thân hữu liên đới giữa con người với nhau. Vì thế, ở đây với hai thái độ “Cùng ăn với họ” Đức Giêsu cho thấy Ngài muốn hiệp thông với chính những người tội lỗi. Ngài muốn cứu giúp những người tội lỗi  và chính Ngài là nơi nương tựa cho những kẻ bị bỏ rơi.
 
          Trong chương 15, ta thấy Đức Giêsu đã kể ra 3 dụ ngôn có ý nhằm vào luật sĩ và biệt phái vì họ tự cho mình là công chính mà khinh khi những người tội lỗi và những người bị loại trừ.. Ba dụ ngôn ấy là :
                             - Con chiên lạc (Lc 15,4-7).
                             - Đồng tiền bị mất (Lc 15,8-10).
                             - Đứa con hoang đàng (Lc 15,11-32).
 
          Ba dụ ngôn này được ngắt nhịp bằng một điệp khúc ca tụng tình thương Thiên Chúa được bầy tỏ nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được yêu thương và không đáng yêu, những người một cách gián tiếp lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà những kẻ tự phụ là công chính dành cho họ. Phụng vụ hôm nay không ghi lại hai dụ ngôn trên mà chỉ ghi lại dụ ngôn thứ ba là dụ ngôn đứa con hoang đàng, tức là dụ ngôn về tình phụ tử. Dụ ngôn này thật quí báu, do được một mình Luca kể lại, vì nó đặc biệt phù hợp với tinh thần của sách Tin mừng này.
 
          Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, những nhân vật được nêu ra ở đây có tính cách ám chỉ :
          - Người kia tức là người cha : ám chỉ Thiên Chúa.
          - Người con cả : ám chỉ dân Do thái, cách riêng các luật sĩ và biệt phái.
          - Người con thứ : ám chỉ người có tội.
 
          1. Màn thứ nhất : Người cha chia gia tài.
 
          Theo luật của người Do thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tùy ý thích, đứa  con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Theo phong tục của nhiều dân tộc, người con chỉ được phép chia gia tài khi người cha đã chết. Cha còn sống mà đòi chia gia tài, chẳng khác nào muốn nguyền rủa cho cha chết sớm !  Nhưng đứa con thứ bất hiếu trong dụ ngôn này đã đòi cha chia gia tài sớm. Nó làm thế như có ý nói : “Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi đi ra khỏi nhà này”.
 
          Người cha không tranh luận gì, ông muốn tôn trọng sự tự do của nó. Ôâng cũng hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
 
          2. Màn thứ hai : Đứa con thứ ra đi và trở về.
 
          Nhận được phần gia tài rồi, hắn lên đường đi đến một phương xa, chơi bời trác táng, giao du với những quân du côn, với những cô gái đĩ điếm. Tiêu xài như thế thì đến núi cũng phải lở. Chẳng bao lâu hắn đã tiêu xài hết tiền của, đồng thời nạn đói cũng xẩy ra tại miền ấy. Hắn phải đi kiếm việc làm cho qua ngày, nhưng tìm được việc làm đâu có dễ, hắn chỉ xin được chăn heo, mà đối với người Do thái chăn heo là một điều xấu hổ, mất phẩm giá, vì heo là một con vật ô uế (Đnl 14,8).
 
          Sống trong cảnh nhục nhãø và túng thiếu đến cùng cực, hắn mới hồi tâm lại : ở nhà cha tôi thiếu gì của ăn, đến đứa đầy tớ cũng còn thừa cơm bánh, còn tôi ở đây thì phải cùng cực, muốn ăn cám heo người ta cũng không cho ăn. Ở trong hoàn cảnh này thì vô phương giải quyết, chỉ còn cách trở về kiếm miếng cơm cho khỏi chết. Hắn nghĩ thế này : tôi sẽ trở về xin lỗi cha và chỉ dám xin cho ở nhà cha với phận mọn là đứa tôi tớ thôi, đâu dám nghĩ đến chuyện được nhận lại làm con. Nhưng làm một tên nô lệ mạt trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha, theo một nghĩa, thì nô lệ là một phần tử trong gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị  đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào.
 
          Sau khi đã suy nghĩ rất hung, hắn lên đường trở về, và mọi điều dự đoán của hắn đều sai hết. Thánh Luca đã mô tả :”Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ôâng chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói :”Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa…” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng :”Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con tay đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng.
 
          3. Màn thứ ba : Người anh cả giận dữ.
 
          Đáng buồn thay, khi về đến nhà thấy người ta đang liên hoan ăn mừng người con thứ đã trở về, người anh cả giận điên lên không chịu vào nhà. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào nhà vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể hiểu được tấm lòng nhân hậu của người cha.
 
          Hóa ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài : anh không trái lệnh cha chỉ để làm tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “thằng con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con. Anh ta là người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
 
II. BA MÀN KỊCH ĐỐI VỚI CHÚNG TA.
 
1. Thiên Chúa giầu lòng thương xót.
 
          Thiên Chúa là người cha giầu lòng thương xót, chỉ biết thi ân giáng phúc muôn vàn cho con người một cách quảng đại và bao dung tha thứ, và rất tôn trọng con người hơn những người cha tôn trọng tự do con cái. Ngài không thẳng tay trừng phạt, chỉ biết nhẫn nại chờ đợi đứa con trở về. Vừa khi thấy nó trở về, Ngài chạy lại ôm chằm, hôn nó một hồi lâu, không cần nghe nó xin lỗi, vì nó trở về chỉ vì thống khổ, không sống được nữa, nó chỉ mong về được ăn cho no, thoát khổ, thoát chết.
 
          Thái độ của người cha thật tuyệt vời, ông không để cho nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ôâng đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như ủy quyền cho người đó thay thế mình. Đôi giầy là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giầy, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bầy ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang nay đã trở về nhà cha.
          Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn “đứa con hoang đàng”, nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
 
          Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội người ấy vẫn còn giữ đó.Hôm nay đứa con đi hoang biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó, nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
 
Truyện : Tổng thống Abraham Lincoln.
 
          Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa kỳ ? Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời :”Tôi sẽ đối xử với họ dường như chưa bao giờ họ ly khai với chúng tôi”.
 
          Đây là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban cho con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời gọi họ khám phá ra tình huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao tặng cho chúng ta  bí mật trong cách cư xử và đời sống của Ngài ? Ngài là người Con được Cha sai đến loan báo sự hòa giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc họa hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình ảnh của người anh (Fiches dominicales).
 
Truyện : Đứa con hoang đàng của Phật giáo.
 
          Trong giáo lý nhà Phật cũng có câu chuyện gọi là “Dụ ngôn người con hoang đàng”. Câu chuyện kể về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con mình. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra được cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, ngọc ngà của mình đi, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại.
                   (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 128)
 
          Câu chuyện này không khác gì lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa luôn yêu thương tìm kiếm con người. Còn con người cứ lẩn trốn, để rồi sau cùng, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống thế, làm người đầy tớ đau khổ (Is 53,10-12), dùng cái chết của mình để thuyết phục và nói cho con người biết chức vị làm con cái Thiên Chúa của mình với quyền thừa kế hạnh phúc đời đời trên Nước Trời (Ga 3,16-17).
 
          2. Người con di hoang đã mất nay lại tìm thấy.
 
          Người con thứ được xác định là một tay ăn chơi trác táng… Nhưng khi đã hết nhẵn tiền thì anh mới cảm thấy hối tiếc cho bản thân mình. Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được  nỗi đau mà anh đã gây ra cho người cha của anh. Do đó, anh tự nhủ “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và xin lỗi người”. Đây là một quyết định can đảm vì đã thất bại và còn vác mặt về mà xin lỗi thì thật là xấu hổ.
 
          Đúng thế, thậât dễ dàng trở về nhà, khi bạn là một người anh hùng, với chiến công và vinh quang. Nhưng đứa con hoang đàng không có một chiến công nào để đem về cho anh, anh không hề có thành quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi, đón tiếp và yêu thương. Anh đang trở về nhà, với đôi bàn tay trống rỗng. Tệ hơn nữa, anh đang trở về nhà, lòng nặng trĩu xấu hổ và nhục nhã.
          Nhưng thật ngạc nhiên, khi người cha nhìn thấy anh trở về đang tiến lại với ông, ông liền chạnh lòng thương, và một phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người cha đã không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được tha thứ.
 
          Phát hiện vĩ đại nhất mà người con hoang đàng đã nhận ra đó là anh vẫn được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi của anh. Người cha không bao giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm lòng nhân hậu của người cha, anh luôn đuợc yêu thương, đó không những là một điều tốt, nhưng khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng tội lỗi, thì quả là một cảm nghiệm tuyệt vời.
 
          Sự tha thứ của Thiên Chúa không phải là sự tha thứ lạnh lùng, nửa vời, nhưng là sự tha thứ nồng ấm và quảng đại. Thiên Chúa không chỉ tha thứ cho chúng ta, mà Ngài còn yêu thương chúng ta, và để cho chúng ta nhận biết được tình yêu thương đó (McCarthy).
 
Giây phút người con hoang đàng quỳ gối và khóc lóc, anh ta đã biến cảnh lãng phí tài sản của mình bên những cô gái điếm, cảnh chăn heo và thèm khát những thức ăn của heo, trở thành những giây phút đẹp đẽ và thánh thiện trong cuộc đời của mình. Hầu hết mọi người khó mà thấu hiểu được ý tưởng đó. Tôi dám nói rằng người ta phải chịu cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu được điều đó. Nếu như vậy, thì có thể thời gian sống trong tù thật đáng giá”(Oscar Wilde).
                                      
Truyện : Chúa quên hết tội rồi.
 
          Một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo:”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất ? sau đó tới kể cho tôi nghe”.  Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
          - Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
          - Thế bà có hỏi Ngài không ?
          - Thưa có chứ.
          Cha xứ bắt đầu hồi hộp :
          - Bà hỏi thế nào ?
          - Thì con hỏi y như Cha đã bảo :”Cha xứ con có tội gì nặng nhất” ?
          Cha xứ càng hồi hộp thêm :
          - Vậy Chúa có trả lời không ?
          -  Có chứ .
          Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự :
          - Chúa nói sao ?
          - Chúa nói :”Ta đã quên hết rồi.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.
                   (Kể theo ĐHY PX  Nguyễn văn Thuận)
 
          3. Người anh cả bất hợp tác.
 
          Người anh cả trở về nhà và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện  cho các giáo sĩ Do thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Anh ta trách em về những lầm lạc của nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hòa với cha và với em mình, thì bàn tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.
 
          Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ảnh lại thái độ của người biệt phái đối với tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta  trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã ? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người biệt phái đó đang ở trong chúng ta. Người anh cả này ghen tức chỉ muốn ông bố giết quách đứa em đi cho bõ ghét, không thể tha thứ được.
 
Truyện : Người cha giết con.
 
          Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng hải kể : một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con trai. Người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách xóm làng. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn : nếu biết đường cải tà qui chính thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp  xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong đĩa thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra tòa vì theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con.
 
          Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin mừng theo thánh Luca mà chúng ta đọc hôm nay.
 
          Suy nghĩ về dụ ngôn này, chúng ta dễ cảm thông với người con hoang đàng và dễ lên án thái độ cố chấp của người anh cả. Nhưng rồi sự suy nghĩ ấy lại đưa chúng ta đến một suy nghĩ khác :
 
                                  Nói người phải nghĩ đến ta
                             Suy đi nghĩ lại hóa ra chính mình.
 
          Người cha có hai người con : người con đây là ai ? Và đứa con hoang đàng chỉ ai ? Các nhà chú giải không đồng ý kiến.
          Các nhà chú giải thời xưa cho rằng : người con cả chỉ người Do thái, con hoang đàng chỉ dân ngoại.
          Ngày nay quan niệm đó hầu như bị bỏ, mà còn hai ý kiến sau đây :
          - Một ý kiến cho rằng : con cả chỉ người biệt phái, con hoang đàng chỉ tội nhân. Người biệt phái lẩm bẩm kêu trách Chúa vì thái độ đối với tội nhân.
          - Ý kiến thứ hai cho rằng : con cả chỉ người lành, con hoang đàng chỉ tội nhân. Kẻ lành không hiểu được thái độ Chúa đối với tội nhân trở lại.
          Xem chừng người ta nghiêng về ý kiến thứ nhất.
 
          Chúng ta là hạng người nào ? Dầu là anh cả, dầu là đứa con hoang đàng, tất cả đều phải sám hối, đều phải trở về, đừng cứng lòng trước ơn Chúa.  Trong cuốn Au Gré de Sa Grâce, linh mục André Louf có đề cập đến không những kẻ tội lỗi cứng lòng (pécheurs endurcis) mà còn những người ngay chính (justes endurcis) cũng cứng lòng nữa. Người con hoang đàng là hình ảnh của những người tội lỗi, còn người anh cả có thể là hình ảnh của những người ngay chính cứng lòng. Người tự coi mình công chính, đạo đức mà cứng lòng và tự mãn thì thật khó mà sám hối, trở về.
 
          Có lẽ thái độ của người anh tự coi mình công chính và ganh tị là hình ảnh gợi cho tất cả chúng ta, những người cảm thấy mình làm mọi sự đều đúng, đều tốt đẹp và đạo đức. Chúng ta biết mình là người tốt nên dễ dàng phê phán những người khác. Chúng ta đã mang trong mình tự mãn vì nghĩ rằng Thiên Chúa đang ngự trị trong đời sống của mình.
 
          Chúng ta đã ở vào giữa Mùa Chay, chỉ còn một thời gian nữa là đến lễ Phục sinh. Mùa Chay là mùa được kêu mời trở lại,  chúng ta hãy can đảm nhận khuyết điểm, sai phạm của mình, để mạnh dạn trở về cùng Chúa, cùng Giáo hội của Ngài. Thiên Chúa nhân từ trong vai người cha nhân hậu và yêu thương hôm nay, bảo đảm cho sự lầm lỗi của con người yếu đuối, sẽ được tha thứ. Ngài là Cha của tất cả mọi người, Ngài đang chờ đợi từng người một trở về. Đừng nghĩ rằng tội lỗi mình quá nặng, nên không thể giao hòa với Chúa. Cũng đừng cho rằng ân sủng của Chúa không đủ để phục hồi tội lỗi của mình. Hãy thống hối, hãy trở về, sẽ được thứ tha hết mọi lỗi lầm lớn nhỏ. Hãy tạ ơn Chúa, vì tạ ơn là có khả năng ý thức mình là kẻ có tội, và từ đó tập chú vào lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.

 


CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY C
THIÊN CHÚA GIẦU LÒNG THƯƠNG XÓT
+++
A. DẪN NHẬP
 
          Tuần trước chúng ta đã được thánh Luca kể lại câu truyện đứa con hoang đàng để nói lên lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tuần này chúng ta lại được thánh Gioan tông đồ kể lại câu truyện người phụ nữ bị ném đá vì phạm tội ngoại tình và thái độ của Đức Giêsu trước cảnh tượng này. Tất cả đều nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, các luật sĩ và biệt phái gài bẫy Đức Giêsu để tìm cách bắt Ngài hay ít ra làm cho Ngài mất uy tín hay bớt ảnh hưởng với dân chúng, nhưng Ngài đã xử lý một cách rất khôn ngoan : Ngài không bị mắc kẹt trong việc đòi ném đá hay tha ném đá cho người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, mà còn cho họ một bài học đích đáng : đừng xét đoán, đừng lên án ai, trái lại phải có lòng thương cảm đối với người tội lỗi.
 
          Chúng ta thấy có một nghịch lý đáng buồn và cũng đáng trách : một đàng Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng mà lại đầy lòng thương xót và khoan dung đối với người tội lỗi… Còn con người thì ai cũng mắc tội không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ lại hay xét đoán, phê bình chỉ trích và lên án người khác nhất là những kẻ tội lỗi. Do đó, nhiều khi đã vô tình xô đẩy thêm kẻ có tội vào vũng lầy không lối thoát.
 
          Hôm hôm nay Chúa dạy chúng ta một bài học là phải dành quyền xét đoán cho Thiên Chúa vì chỉ ai không có tội mới có quyền xét đoán và lên án,  còn chúng ta là nghững người tội lỗi phải có lòng thương cảm đối với tội nhân. Về phía mình, Chúa nhắc nhở ta phải biết hồi tâm, phải nhận ra mình là kẻ có tội, phải đi xưng tội để làm hòa với Chúa. Khi đã có một tâm tình như vậy, tự nhiên chúng ta không dám xét đoán và lên án ai.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          Bài đọc 1 Is 43,16-21.
 
          Đoạn này được trích trong phần II sách Isaia. Hoàn cảnh lúc đó là dân Do thái đang bị lưu đầy bên Babylon. Vị tiên tri nói với dân bị lưu đầy nhằm khích lệ họ và mở ra cho họ thấy những viễn cảnh tương lai. Cuộc hồi hương sau cuộc lưu đầy sẽ còn phi thường hơn cuộc xuất hành khỏi Ai cập ; cuộc xuất hành mới sẽ còn tuyệt vời hơn lần đầu.
 
          Như vậy, bài đọc 1 chứa đựng một bức thông điệp của niềm hy vọng gửi cho người Do thái đang bị lưu đầy : sẽ có một cuộc xuất hành mới, rất vinh quang, đến nỗi nó sẽ đẩy lùi những sự việc vĩ đại của cuộc xuất hành đầu tiên vào bóng tối. Và tất cả những điều này sẽ xẩy ra, bởi vì Thiên Chúa là Đấng trung thành với dân của Ngài.
 
          Bài đọc 2 : Pl 3,8-14.
 
          Ở đây thánh Phaolô cho thấy đối với ngài việc biết Đức Kitô là thế nào, một khám phá khiến mọi sự còn lại xem ra như không vậy. Biết Đức Kitô là tìm cách chiếm đoạt Ngài sau khi đã được Ngài chiếm đoạt. Là nhờ Ngài mà đạt đến quyền năng phục sinh của Ngài. Bằng cách chấp nhận thông phần vào đau khổ của Ngài.
 
          Thánh nhân được Chúa mời gọi tiếp tục chạy bộ không ngừng trên đường xuất hành. Để được sống lại với Đức Kitô, ông phải chia sẻ với Ngài sự đau khổ và sự chết, bằng cách liên tục vượt qua chính mình và luôn luôn hy vọng.
 
          Bài Tin mừng : Ga 8,1-11.
 
          Biết Đức Giêsu thương người tội lỗi, nhóm luật sĩ và biệt phái tìm cách gài bẫy Ngài để Ngài mất uy tín với dân chúng. Họ dẫn đến trước mặt Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật Maisen, ai bắt được người phạm tội quả tang, kẻ ấy có quyền xét xử tội nhân. Trước khi ném đá người phụ nữ này, họ hỏi Đức Giêsu :”Theo luật Maisen thì người phụ nữ này phải bị ném đá, vậy theo ý Ngài thì người phụ nữ này sẽ bị xử như thế nào” ?
 
          Đức Giêsu trả lời bằng cách hỏi lại họ, làm cho họ phải thức tỉnh, không dám kết tội người khác :”Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá đi” (Ga 8,7). Đúng là một gáo nước lạnh giội lên đầu họ vì không ai trong bọn họ là người vô tội. Họ lần lượt rút lui trong sự thẹn thùng.
 
          Qua câu trả lời ấy, Đức Giêsu cho chúng ta biết chỉ mình  Thiên Chúa là người vô tội, là người có quyền xét xử. Nhưng Chúa đã xét xử theo lòng từ bi thương xót. Thay vì luận phạt, Ngài đã cứu chị ta. Một người tuyệt vọng như người phụ nữ ấy, đã tìm được nguồn hy vọng. Quả thực, Thiên Chúa là Đấng chẳng làm cho ai tuyệt vọng.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Tôi không kết án chị đâu
I. BA HỒI CỦA MỘT VỞ KỊCH.
 
          Trong Mùa Chay chúng ta hay đọc câu thánh vịnh :”Thiên Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung”. Người Do thái vẫn đọc câu thánh vịnh này, nhất là những luật sĩ và biệt phái, nhưng họ chưa hiểu được hết nội dung của nó. Lòng thương xót của Chúa quá thẳm sâu, ai hiểu thấu được. Câu truyện người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay không phải là đề tài chính, không chủ ý nhằm nói lên tội của con người mà chỉ là cơ hội thuận lợi để nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa và khuyên bảo chị ta đừng phạm tội nữa :”Tôi cũng thế, Tôi không kết án chị đâu” (Ga 8,11).
 
          Đọc câu truyện người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta coi câu truyện này như một vở kịch được chia làm ba hồi. Tất cả đều nói lên lòng thương xót của Chúa.
 
          1. Hồi nhất : Xử án người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,1-5).
 
          Người Do thái có nhiều lễ trong một năm. Lễ Lều Trại có lẽ là cơ hội để người ta lạm dụng, ăn ở phóng túng. Trong suốt 8 ngày sốùng ở lều, ngoài rừng, thuận tiện cho những cuộc gặp gỡ lả lướt. Những cuộc giao du nơi này qua nơi khác vẫn hay có những hội ngộ tình cờ, không hợp với luân thường đạo lý là bao. Chính sau cuộc lễ này mà xẩy ra câu truyện trong bài Tin mừng.
 
          Sau bài giảng trong Đền thờ nhân dịp lễ Lều Trại của người Do thái, Đức Giêsu đi ra nghỉ tại núi Cây Dầu. Bao giờ có dịp về thủ đô, Ngài cũng qua nghỉ đêm tại đó. Tảng sáng hôm sau, Ngài lại vào Đền thờ và toàn dân đến cùng Ngài, nên Ngài ngồi xuống đất mà giảng.
 
          Tình cờ người ta đem đến cho Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Tất nhiên tội ngoại tình bị lên án, nhưng các người tố cáo thời đó, dù họ là luật sĩ  cũng không yêu sách lắm về cách áp dụng khoản luật trong sách Lêvi dạy ném đá người ngoại tình (Lv 20,10). Tuy thế, các luật sĩ và biệt phái muốn dựa vào hai đoạn văn của lề luật : ra lệnh giết chết người đàn ông và người đàn bà ngoại tình (Lv 20,10) và dạy ném đá người đàn bà ngoại tình với người tòng phạm (Đnl 22,22-24) , để cố ý ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
 
          Các luật sĩ và biệt phái dựa vào cơ hội này để thử thách Đức Giêsu (Ga 8,3-6). Họ thật thâm độc,  họ đặt Đức Giêsu và thế gọng kìm, tiến thoái lưỡng nan. Nếu Đức Giêsu đồng ý cho ném đá, Ngài sẽ bị kẹt vào hai điều : trước hết, vi phạm luật của chính quyền Rôma, chỉ chính quyền Rôma mới có quyềàn xử tử hình mà thôi. Thứ đến, Ngài mất uy tín, và ảnh hưởng của Ngài như một người bạn của những người tội lỗi và bậc thầy giảng dạy về tình yêu thương tha thứ. Mặt khác, nếu Ngài từ chối giữ luật Maisen, không ném đá người phụ nữ ngoại tình, tức là Ngài ủng hộ cho hành động vô luân lý, như vậy làm sao xứng danh một tiên tri, một Đấng Thiên Sai đến từ Thiên Chúa được ?
 
          2. Hồi hai : Đức Giêsu với việc xử án (Ga 8,6-9).
 
          Đứng trước câu hỏi hóc búa này, Đức Giêsu đã có một cách giải quyết rất khôn ngoan. Ngài không trả lời mà chỉ ngồi mà vẽ xuống đất cái gì đó. Vậy Ngài viết những gì ? Theo thánh Giêrônimô, Đức Giêsu viết tội những kẻ đứng tố cáo.  Còn bản Tân ước tiếng Amêri dịch như sau :”Chính Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất để tuyên bố tội lỗi họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ trên mặt đất”. Ý ở đây là Đức Giêsu đã viết trên mặt đất các tội lỗi của chính những kẻ đang tố cáo người phụ nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì từ viết “Katagraphein” được dùng ở  đây có nghĩa là viết (một bản cáo trạng) chống lại một người nào. Có thể Đức Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người khác phải đối diện với bản liệt kê các tội lỗi của chính mình.
 
          Dầu vậy, các luật sĩ và biệt phái vẫn một mực đòi hỏi Đức Giêsu phải trả lời, và họ đã được trả lời :”Ai trong các ông sạch tội thì cứ lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Ai có thể là người vô tội ? Trong thư thánh Gioan Tông đồ Ngài dạy rằng :”Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta”(1Ga 8,7).  Người phụ nữ phạm tội ngoại tình thì quá rõ ràng. Còn những luật sĩ và biệt phái đang tố cáo người phụ nữ với hậu ý rất thâm độc và một lòng thù ghét Đức Giêsu, họ đang tìm cách giết Ngài. Tội của họ còn lớn lao hơn tội người phụ nữ ! Nhưng họ lại tự lừa dối mình là những người đạo đức. Chúa đã vạch tội họ ra  cho thấy rằng làm sao một người tội lỗi lại lên án một tội nhân khác được ?
 
          Cúi xuống và viết tội là Chúa nhìn thẳng vào quá khứ và cuộc đời tội lỗi của những người đang tố cáo. Chúa hỏi :”Ai trong các ông sạch tội thì cứ ném đá trước đi”. Câu nói đó chắc là đã khơi động lương tâm các người tố cáo, già thì nhiều tội hơn, lại bị cắn rứt nhiều hơn nên đã tự biết mình rút lui trước, cho đến người cuối cùng.
          3. Hồi ba : Tha án cho người phụ nữ (Ga 8,10-11).
 
          Sau khi họ đã rút lui hết, chỉ còn lại có một mình Đức Giêsu và người phụ nữ, Ngài mới hỏi chị ta :”Không còn ai lên án chị sao” ? Chị ta đáp:”Thưa không”. Ngài phán :”Ta cũng không lên án chị. Hãy đi làm lại cuộc đời và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
 
          Khi bàn về câu truyện này, thánh Augustinô dùng hai từ bằng tiếng La tinh rất khéo là  “Miseria và misericordia” : bây giờ chỉ còn lại một nỗi khổ đau tràn đầy và một tấm lòng thương xót vĩ đại , bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”(Ga 3,17).
 
II. BÀI HỌC TỪ MỘT VỞ KỊCH.
 
          1. Thiên Chúa giầu lòng thương xót và tha thứ.
 
          Qua câu truyện này, chúng ta mới thấy rõ tâm tình của Thiên Chúa qua Đức Giêsu là lòng thương xót đối với tội nhân. Đứng trước lỗi lầm của con người, Đức Giêsu luôn có lòng thương cảm.  Ngài không hề phạm tội (x. 1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu biết những tình huống đã dẫn chị ta đến cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị.  Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thỏa mãn lòng kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án càng chứng tỏ mình sạch tội, vô tội.
 
          Vì thế cần phải biết hồi tâm. Bằng chứng: chỉ vài phút trước đó, người ta hung hăng tố cáo đòi ném đá, và bây giờ người ta lại lặng lẽ rút lui. Một sự chuyển biến bất ngờ phát sinh từ lời mời gọi của Đức Giêsu :”Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá trước đi”. Khi người ta đòi ném đá tha nhân, người ta tự cho mình là kẻ sạch tội và có quyền lên án kẻ có tội. Nhưng khi người ta khám phá ra mình cũng là tội nhân, người ta không dám lên án nữa vì như thế cũng là lên án chính mình. Sự khám phá có được là do cái nhìn về phía bên trong chính mình.
 
          Chúng ta đều đã phạm tội nên đáng chịu hình phạt ném đá như người phụ nữ kia, nhưng Chúa luôn thương xót chúng ta, không nỡ đoán phạt chúng ta. Tiên tri Ôsê (2,4-25) đã so sánh dân Israel với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình” bằng những hành động  “đáng điếm”. Mọi sự lìa bỏ Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình.  Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Chúng ta là dân Israel mới, cũng như người phụ nữ ngoại tình đáng bị trừng phạt nhưng Thiên Chúa luôn xót thương và tha thứ.
 
Truyện : Hoàng đế Napoléon và lòng thương xót.
 
          Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đãõ rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý. Nhưng bà mẹ năn nỉ :
          - Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
          Hoàng đế Napoléon trả lời :
          - Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót.
          Bà mẹ nói :
          - Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
          Hoàng đế Napoléon đáp :
          - Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó.
          Và ông sai thả người thanh niên đó ra.
                   (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 192)
 
          2. Đừng xét đoán và lên án ai.
 
          Qua câu trả lời của Đức Giêsu :”Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá người phụ nữ này đi”, chúng ta tìm ra nguyên tắc của Đức Giêsu là chỉ người vô tội  mới được đoán xét những lỗi lầm của người khác. Ngài đã cảnh cáo chúng ta :”Các ngươi đừng đán xét ai, để mình khỏi bị xét đoán”(Mt 7,1). Khi nhìn vào người khác chúng ta chỉ biết được cái vỏ bề ngoài, còn cái ruột người khác thì làm sao biết được. Vì thế người ta mới nói :
 
                                       Dò sông dò biển dễ dò,
                             Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
 
          Một trong những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là chúng ta đòi hỏi người khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc phải. Không thể dựa trên kiến thức để xét đoán kẻ khác, vì ai cũng có tri thức. Phải dựa trên sự thành đạt đạo đức để xét đoán, nhưng không ai trong chúng ta  là người toàn thiện cả. Thực trạng của con người cho thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán, lý do hết sức đơn giản là không ai lành thánh đủ để đoán xét kẻ khác.
 
          Thích xét đoán và kết án người khác là cái chuyện trầm kha của con người. Không ai nghĩ đến cái xấu của mình mà chỉ nghĩ đến cái xấu của người khác. Chính vì thế ông bà tổ tiên chúng ta  đã để lại một lời than trách nhắc nhở chúng ta đừng xét đoán người khác vì mình cũng có tội :
 
                                       Chân mình thì lấm lê mê
                               Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
 
Truyện : Không ai là người vô tội.
 
          Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với người cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi xử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một  hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên, trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiếc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này  cho nhà vua.
 
          Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi anh ta lưỡng lự trong việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói :
          - Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được.
          Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói :
          - Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ  ạ ?
          Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng :
          - Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi.
          Sau đó, người ăn trộm quay sang người giữ kho tàng của nhà vua và nói :
          - Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ ?
          Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối :
          - Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi.
          Và cứ như thế, cuối cùng chỉ còn lại có một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói :
          - Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này ?
           Nhưng nhà vua nói :
          - Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta.
          Sau đó, người ăn trộm nói :
          - Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.
 
          Nhà vua tha thứ cho anh ta.  Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.
                             (Flor McCarthy, sđd, tr 193-194)
 
          3. Phải biết thông cảm và tha thứ.
 
          Điều khác nhau căn bản giữa Đức Giêsu và nhóm Do thái là họ muốn kết tội, còn Đức Giêsu thì muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu chuyện chúng ta thấy họ chỉ muốn ném đá người phụ nữ này cho chết, và họ cảm thấy rất thích hợp làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết tội, còn Đức Giêsu vui sướng khi hành quyền tha thứ. Đức Giêsu nhìn tội nhân với sự thương cảm phát xuất từ tình yêu thương, còn các luật sĩ và biệt phái nhìn tội nhân với thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ việc  coi mình là thánh thiện.
 
          Đức Giêsu thực sự có lòng thương xót đối với tội nhân. Đây là một thứ tình cảm đặc biệt ngoài “thất tình” mà chúng ta vẫn biết : hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Vậythương xót là gì ?
          Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót) Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trổi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương nhưng người ấy vừa phạm một lỗi lầm.
 
          Khi đó chúng ta phải đối xử thế nào ? Lên án chăng ? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng ? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy phải làm thế nào bây giờ ? Chúng ta hãy nhìn Đức Giêsu : Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm C , tập 1, tr 198).
 
          Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ, tạo điều kiện và khuyến khích họ sống tốt lành hơn.
 
Truyện : Tha thứ cho người vợ.
 
          Câu truyện xẩy ra ở một hải đảo của nước Ý. Tại đây người ta qui định : Nếu một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, người ta sẽ buộc vào cổ người đàn bà này một tảng đá lớn, và quẳng xuống biển cho chết chìm.
         
          Vào một ngày kia, một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội này. Bà đã bị kết án tử hình theo như luật định. Nhưng đến ngày xử mà người chồng vẫn còn đánh bắt cá ngoài khơi, khiến tòa án phải gia hạn thêm mấy ngày nữa. Người ta đã phải gia hạn nhều lần mà vẫn không thấy anh chồng trở về. Cuối cùng họ quyết thi hành án tử hình cho chị vợ, cho dù chồng có mặt hay không. Họ định ngày xử án dùng thuyền đưa chị ra vùng nước sâu, cột một hòn đá vào cổ chị ta, trước khi quăng chị ta xuống biển cho chết chìm.
 
          Nhưng thật lạ lùng, ngày hôm sau mọi người đều kinh ngạc khi thấy chị ta xuất hiện ở trong làng. Thì ra, ngay từ đầu, nhờ được hai người bạn thân giúp đỡ, người chồng đã hay biết mọi sự. Cho dù bị vợ phản bội, nhưng người chồng vẫn luôn yêu thương và sẵn sàng tha thứ tội bất trung của vợ. Anh và mấy người bạn kia đã đặt ra một kế hoạch hoàn hảo để giải cứu người vợ. Do đó, thay vì sớm xuất đầu lộ diện để tham gia xét xử, anh ta đã lẩn trốn trong rừng một thời gian để làm kế hoãn binh. Đến ngày thi hành án, anh bí mật bơi lặn đến núp dưới một tảng đá ngầm, ngay tại nơi mà người chị vợ sẽ bị quăng xuống biển. Khi chị vợ bị quăng xuống, thì người chồng đã mau tiến lại gần, dùng dao cắt đứt sợi dây cột đá và bí mật đưa vợ đi đường tắt về nhà.
 
          4. Hãy đi xưng tội.
 
          Mọi người đã phạm tội, cần phải ăn năn sám hối và làm hòa với Chúa. Cách giao hòa với Chúa hay nhất là đi xưng tội, đặc biệt cho những người phạm tội trọng. Những người phạm tội trọng muốn được tha tội, trong những điều kiện bình thường, chỉ còn cách duy nhất là đến tòa giải tội. Những người phạm tội nhẹ, tuy không buộc phải xưng tội, có nhiều cách để được tha, nhưng việc xưng tội sẽ đem lại cho họ được nhiều lợi ích.
 
          Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi bí tích giải tội là con đường thanh tẩy và kết hợp với Đức Kitô. Ngài nhận định rằng bí tích Giải tội có mục đích không chỉ tha tội nhưng còn và trên hết dẫn đưa người tín hữu vào cuộc gặp gỡ sâu xa với Đức Kitô.
 
          Khi tiếp kiến với các Linh mục và chủng sinh đang tham dự một khoa học về “internal forum” do tòa Âân giải tổ chức, ngài bầy tỏ suy tư  về những phương diện chính yếu của bí tích này :”Hoa trái của việc xưng tội”không những chỉ là tha thứ tội lỗi, điều cần thiết cho bất cứ ai đã phạm tội” nhưng còn mang lại “sự phục sinh thiêng liêng” thực sự, một sự phục hồi phẩm giá và những điều thiện hảo cho sự sống của con cái Thiên Chúa, mà điều quí giá nhất là “Tình bằng hữu với Thiên Chúa”.
          Do dó, “sẽ ảo tưởng cho việc nên thánh, tùy theo ơn gọi Chúa ban cho mỗi người, mà không thường xuyên và sốt sắng lãnh nhận bí tích sám hối và thánh hóa này” như Đức Giáo hoàng đã khẳng định.
 
Truyện : Thánh Phanxicô Salêsiô với việc xưng tội.
 
          Ngày kia thánh Phanxicô Salêsiô cho một người xưng tội. Người này xưng rất thành thật, khiêm nhường và hết lòng ăn năn. Thánh nhân cảm động lắm. Sau khi xưng tội xong, người ấy hỏi :
          - Bây giờ cha biết tất cả những sự xấu xa của con rồi. Cha nghĩ thế nào về con ?
          - Bây giờ cha nhìn con như một đấng thánh.
          - Chắc cha phải nói ngược lại mới được.
          - Không, Cha nói theo lương tâm của cha. Con bây giờ hoàn toàn khác trước rồi.
          - Nhưng tội lỗi con đã phạm thì luôn luôn ở với con mà ?
          - Không phải thế đâu con ạ. Khi bà Mađalena đã ăn năn trở lại, Chúa xem bà như một đấng thánh. Chỉ có bọn Pharisêu giả hình cứ coi bà là kẻ tội lỗi.
          - Nhưng đối với cha, con muốn biết cha nghĩ thế nào về quá khứ của con ?
          - Cha không nghĩ thế nào cả. Điều gì không có trước mặt Chúa thì cha không nghĩ đến. Cha chỉ biết ngợi khen Chúa và vui mừng vì con đã trở lại với Chúa. Cha muốn cùng các thánh trên trời vui mừng với con.
          Nói xong, thánh nhân khóc. Người kia bỡ ngỡ hỏi :
- Cha khóc à ? Chắc cha khóc vì thấy con phạm nhiều tội quá ?
          - Cha khóc vì thấy con đã sống lại với Chúa.
         
          Thánh nhân biết rõ phép giải tội không phải chỉ là che giấu tội, phủ kín tội ta đã phạm, nhưng là rửa sạch hết mọi tội ta đã khiêm nhường xưng ra.

 
Sưu tầm
 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn