Đang truy cập : 132
•Máy chủ tìm kiếm : 1
•Khách viếng thăm : 131
Hôm nay : 48629
Tháng hiện tại : 99022
Tổng cộng : 28218270
Chia sẻ Lời Chúa Tuần III Mùa Vọng
"Chúa sẽ hân hoan vì người".
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa. Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng. Những kẻ hư hỏng bỏ lề luật, Ta sẽ quy tụ họ lại, vì họ cũng là con cái ngươi. Đó là lời Chúa.
BÀI ĐỌC II: Pl 4, 4-7
"Chúa gần đến".
Trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Đức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Đó là lời Chúa.
PHÚC ÂM: Lc 3, 10-18
"Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: "Vậy chúng tôi phải làm gì?" Ông trả lời: "Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy". Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?" Gioan đáp: "Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi". Các quân nhân cũng hỏi: "Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?" Ông đáp: "Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình". Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: "Có phải chính ông là Đức Kitô chăng?" Gioan trả lời cho mọi người rằng: "Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, - tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, - chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!" Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng. Đó là lời Chúa.
CHÚ GIẢI
BÀI ĐỌC I (Xp 3: 14-18)
Ngôn sứ Xô-phô-ni-a sống vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên; ông thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem vào những năm 640-625 trước Công Nguyên.
1.Bối cảnh:
Vương quốc Giu-đa vào lúc đó được cai trị bởi một ấu chúa là Giô-si-gia, lên ngôi lúc tám tuổi. Thời kỳ này được ghi dấu bởi những di hại của một triều đại dài lâu do một vị vua vô đạo là vua Mơ-na-se. Phong tục tập quán ngoại giáo, thờ cúng ngẫu tượng, bạo lực, gian lận, bất công xã hội, thói kiêu căng của những kẻ quyền thế, tinh thần hưởng thụ của những người giàu có, vân vân. Vị ngôn sứ lớn tiếng phê phán lối sống phi nhân, thiếu tình người này và tiên báo cơn thịnh nộ của Thiên Chúa; đó sẽ là “Ngày của Đức Chúa”, ngày thịnh nộ. Tuy nhiên, đó sẽ không là ngày tận thế. Thiên Chúa sẽ cho sót lại một dân nghèo hèn và bé nhỏ, dân này sẽ không làm những chuyện tàn ác bất công, nhưng tìm nương ẩn nơi Đức Chúa.
Bài hoan ca được trích dẫn hôm nay mời gọi Giê-ru-sa-lem hãy vui lên, và ngay liền sau đó, gợi lên những người công chính thoát khỏi án phạt. Nguyên nhân sâu xa khiến Giê-ru-sa-lem hoan hĩ vui mừng chính là chắc chắn mình đã được Thiên Chúa sủng ái, đã được Thiên Chúa cứu độ, Ngài là Chúa Tể lịch sử và đang ngự giữa dân Ngài.
2.Niềm vui của dân Ngài cũng là niềm vui của Thiên Chúa:
Điều ngạc nhiên nhất của bài hoan ca này đó là vị ngôn sứ thiết lập một sự song đối giữa niềm vui của dân thành Giê-ru-sa-lem và niềm vui của Thiên Chúa, chính Ngài sẽ vui mừng hoan hĩ vì gặp lại dân Ngài.
Chắc chắn không cần thiết phải tìm kiếm xem biến cố nào đã gây nên niềm phấn khởi đầy lạc quan ở nơi vị ngôn sứ. Trước tiên, đây là viễn cảnh thời Mê-si-a. Bài thơ của ông ca ngợi vị Vua Cứu Tinh tiến vào Thành Thánh; Ngài là vị vua chiến thắng và giải thoát: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy xa”. “Này Xi-on, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời”. Bởi vì, trong ngôn từ của vị ngôn sứ, sự giải thoát là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa tha thứ: “Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng”.
Thành Thánh Giê-ru-sa-lem hân hoan reo mừng đón tiếp Đức Vua của mình, chính Đức Chúa thân hành ngự giá đến ở giữa dân Ngài, Ngài là vị vua đích thật của Ít-ra-en. Trong một bản văn mang đậm nét Mê-si-a hơn, ngôn sứ Da-ca-ri-a ca ngợi niềm vui của Giê-ru-sa-lem bằng những lời lẽ tương tự: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỹ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Chúa của người đang đến với ngươi…” (Dcr 9: 9). Thành Đô Giê-ru-sa-lem được giải thoát và sống trong cảnh thái bình thịnh trị, bởi vì Chúa“sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi” như người yêu lấy tình thương mà biến đổi người mình yêu. Niềm vui của Thiên Chúa chẳng thua kém gì niềm vui của Thành Thánh. Thiên Chúa hạnh phúc được ở giữa những người mà tình thương của Ngài đã cứu thoát. “Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” vì dân Ngài đã thấy ơn cứu độ.
Một vị ngôn sứ khác, I-sai-a đệ tam, cũng thấy Thiên Chúa vui mừng hoan hĩ, nhưng trong viễn cảnh cánh chung, Chúa liên kết mình vào với niềm vui của những người được tuyển chọn: “Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính Ta sáng tạo. Phải, này đây Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng. Vì Giê-ru-sa-lem Ta sẽ hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng. Nơi đây, sẽ chẳng còn nghe thấy tiếng than khóc kêu la” (I s 65: 17-19). Thật ra bản văn của Xô-phô-ni-a không phải là không gợi lên quang cảnh Thành Thánh Giê-ru-sa-lem trên trời.
Niềm vui cứu độ thời Mê-si-a là niềm vui mà sứ thần loan báo cho Đức Ma-ri-a, thiếu nữ Xi-on tuyệt vời nhất: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà…Thưa bà, xin đừng sợ…Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà”.
BÀI ĐỌC II (Pl 4: 4-7)
Thánh Phao-lô cũng khẩn khoản nhắc đi nhắc lại các tín hữu Phi-líp-phê hãy vui lên. Còn hơn cả lời khuyến dụ, lời mời gọi này là nguyên tắc căn bản trong thần học của vị Tông Đồ; niềm vui tâm linh: “Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”, đúng theo nguyên ngữ, “trong niềm vui của Chúa Ki-tô”; đây là biểu thức quen thuộc của thánh Phao-lô.
1.Hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa:
Tuy nhiên, như chúng ta biết qua bức thư này, các tín hữu Phi-líp-phê phải chiến đấu cam go vì niềm tin của mình: “Quả thế, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục” (Pl 1: 29-30).
Thánh Phao-lô đưa ra một mẫu gương về niềm vui này, vì vào lúc đó thánh nhân đang bị giam cầm, chắc chắn ở Ê-phê-sô. Thánh nhân đã nhận biết những đau khổ sống động của sứ vụ tông đồ (vài người dân Cô-rin-tô đố kỵ và vu khống ngài và cản trở sứ vụ của thánh nhân ở Ê-phê-xô), tuy nhiên, thánh nhân vẫn vui trong niềm vui của Chúa.
2.Sống hiền hòa.
“Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi”. “Hiền hòa” là dụng ngữ của khoa khôn ngoan Hy lạp; từ này chỉ đức hạnh đặt nền tảng trên lý trí và đức độ, được thăng hoa ở nơi một cuộc sống hiền hòa. Thánh Phao-lô lập lại đức hiền hòa này trong lời khuyên gởi đến hai môn đệ và là cộng tác viên của ngài là Ti-mô-thê: “Không được nghiện rượu, không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, không hay gây sự, không ham tiền” (1Tm 3: 3) và Ti-tô: “Đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người” (Tt 3: 2). Nếu dân ngoại tìm kiếm một lý tưởng như vậy, huống chi là những người Ki-tô hữu. Còn gì tốt đẹp cho bằng các tín hữu phải nêu gương về một cuộc sống hiền hòa. Rõ ràng thánh Phao-lô gởi đến các Ki-tô hữu gốc Hy lạp, họ có thể hiểu được lời khuyên của thánh nhân.
3.Chúa đã gần đến:
Những người Ki-tô hữu sống vui vẻ và hiền hòa vì họ xác tín ơn cứu độ đang ở trong tầm tay, điều mà các tác giả Tin Mừng diễn tả “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần rồi”. Quả thật, thật thích hợp để duy trì sự uyển chuyển ở nơi câu nói: “Chúa đã đến gần rồi”. Thánh Phao-lô có một cái nhìn tăng tốc của lịch sử. Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su đã thiết lập kỷ nguyên cứu độ; chắc chắn kỷ nguyên này sẽ triển nở viên mãn vào ngày Đức Giê-su quang lâm. Viễn cảnh này phải đem lại niềm vui tròn đầy cho người Ki-tô hữu, tuy nhiên, ngay từ bây giờ viễn cảnh này được khai mở trong một cuộc sống kết hiệp với Đức Ki tô.
4.Niềm vui, lời khẩn nguyện và bình an:
Vui vì tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, do đó chẳng có gì phải lo lắng cả. Chính ở nơi niềm tin tưởng này mà lời khẩn nguyện và tâm tình tạ ơn có thể được liên kết mật thiết với nhau. Mối liên kết này hoàn toàn theo truyền thống Kinh Thánh. Các thánh vịnh gia dâng lên Thiên Chúa lời khẩn nguyện và tâm tình cảm tạ tri ân của mình, đồng thời các ngài tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ đáp trả niềm tin tưởng của mình. Trong những viễn cảnh Ki-tô giáo, lời khẩn nguyện cắm rể sâu vào trong tâm tình cảm tạ và chiêm ngắm mầu nhiệm cứu độ. Từ đó sinh ra một sự bình an trong tâm hồn, một sự bình an không phát xuất từ nỗ lực phàm nhân, nhưng từ lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài, một sự bình an vượt quá mọi hiểu biết của con người.
Trong các bức thư của thánh Phao-lô chúng ta cũng gặp thấy những lời khuyên tương tự; nhưng thư gởi các tín hữu Phi-líp-phê được viết với những lời lẽ thân tình và tràn đầy tin tưởng, qua đó thánh Phao-lô để lộ những bí ẩn đời sống nội tâm của mình.
TIN MỪNG (Lc 3: 10-18).
Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng duy nhất cho nhiều chi tiết xác định về lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Bản văn này cũng dâng hiến một lợi ích lớn lao: thánh ký không rao giảng về những đề tài thần học khó hiểu, nhưng về đời sống.
Bản văn bao gồm hai phần, tương xứng với chuyển động kép của câu chuyện: phát triển sứ điệp của thánh Gioan Tẩy Giả, khởi đi từ giáo huấn thực tiển đến mặc khải về Đấng Mê-si-a; đồng thời phát triển tâm lý của những ai thực tâm muốn thay đổi cuộc đời mình, từ việc mở lòng mình ra thi hành đức ái và sự công chính, cho đến việc vươn mình lên tìm kiếm Thiên Chúa hay ít ra vị sứ giả của Ngài.
1.Đám đông:
Đối với đám đông, những người đến xin được chịu phép rửa và bày tỏ ước nguyện thăng tiến trên con đường đức hạnh, thánh Gioan Tẩy Giả đề xuất nguyên tắc đức ái: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Việc san sẻ chia sớt cho nhau những hạt cơm manh áo là bước khởi đầu của sự biến đổi tấm lòng. Chúng ta đừng quên, thánh Lu-ca cũng là tác giả sách Công Vụ Tông Đồ: thánh ký đã mô tả hành động“tương thân tương ái” giữa các Ki-tô hữu tiên khởi: “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự điều là của chung” (Cv 4: 32).
Tiếp đó, thánh nhân trình bày những trường hợp cá biệt, trước tiên, trường hợp của những người thu thuế.
2.Những người thu thuế:
Những người thu thuế bị quy trách nhiệm là những kẻ tham lam hút máu đồng bào của mình, bởi vì những người thu thuế này ứng trước tiền thuế dân chúng phải nộp cho đế quốc Rô-ma, sau đó, nâng cao tiền thuế của dân chúng để làm giàu cho mình. Hơn nữa, dân chúng khinh bĩ họ vì sự hiện diện của họ nhắc nhớ ách đô hộ của chính quyền Rô-ma trên dân Do thái và buộc tội họ là tay sai của thế lực ngoại bang và đối xử họ như “quân trộm cướp”.
Đức Giê-su thường giao du với “quân trộm cướp” này, những kẻ tội lỗi này; Ngài cũng sẽ đưa ra một người trong số họ làm mẫu gương cầu nguyện (Lc 18: 9-14). Chính họ mà thánh Lu-ca, ngay từ khởi đầu Tin Mừng, giới thiệu họ như những người thành tâm thiện chí muốn được hoán cải: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Thật lạ lùng, trong cùng một chương Tin Mừng Gioan sóng đôi với chương Tin Mừng Lu-ca, những người Pha-ri-sêu cũng đến hỏi Gioan Tẩy Giả, nhưng với thái độ hiếu kỳ và ngờ vực, vì thế họ từ chối hoán cải. Thói tự cao tự đại làm cho họ trở nên cố chấp trong khi những kẻ bị khinh bĩ, ghét bỏ lại là những người khiêm tốn mở lòng mình ra trước ánh sáng.
Đối với những người thu thuế này, thánh Gioan Tẩy Giả không đòi hỏi họ phải từ bỏ nghề nghiệp của mình, nhưng thực thi công bình: “Đừng đòi hỏi điều gì quá mức ấn định cho các anh”.
3.Binh lính:
Binh lính cũng đến hỏi thánh nhân: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?”. Những binh lính này là ai? Chắc chắn không phải là các binh lính Rô-ma, họ tránh không trà trộn vào đám đông dân chúng; cũng không phải binh lính Do thái, vì Rô-ma không cho các đất nước bị chiếm đóng quyền tổ chức quân đội. Chắc hẳn đây là dân quân tự vệ được chiêu mộ từ các dân tộc chung quanh, họ thường hộ tống những người thu thuế, vì việc thu thuế thường khó khăn. Khi kể họ là binh lính, phải chăng thánh Lu-ca có ý định khoắc cho sứ điệp của Gioan Tẩy Giả một chiều kích phổ quát? Dù thế nào, họ cũng là hạng người bị dân chúng ghét cay ghét đắng như bọn người thu thuế. Đối với những binh lính này, thánh nhân cũng không đòi hỏi họ từ bỏ nghề nghiệp của mình, nhưng thực thi công bình: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”.
4.Dân chúng:
Thật có ý nghĩa biết bao, vào lúc này, thánh Lu-ca không còn nói đến “đám đông”, nhưng đến “dân”: “Hồi đó, dân đang trông ngóng”. Như các ngôn sứ xưa kia, thánh Gioan kêu gọi họ hãy hoán cải đừng chần chờ gì nữa vì thời gian sắp đến gần rồi. Thánh nhân nói như một người có uy quyền khiến những ai trông đợi Đấng Mê-si-a tự hỏi: “biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mê-si-a!”. Qua sách Công Vụ Tông Đồ chúng ta biết rằng trong suốt nhiều thập niên có những cộng đoàn môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, họ vẫn trung thành lời dạy của thầy mình và tôn kính thánh nhân như Đấng Mê-si-a (Cv 18: 24-25; 19: 1-7).
Lúc đó, thánh Gioan Tẩy Giả công bố cho mọi người biết rằng ông không là Đấng Mê-si-a. Với đức khiêm hạ, thánh nhân gợi lên sự cao cả vô cùng tận của Đấng mà ông chỉ là Tiền Hô của Ngài: “Tôi không đáng cỡi quai dép cho Người”. Lời này ám chỉ chính xác đến một truyền thống lâu đời: các kinh sư cấm không được bắt một người nô lệ Do thái làm một công việc nặng nhọc hay hèn hạ như cởi dày cho chủ hay rửa chân cho chủ. Ngay cả một công việc hèn hạ đến thế, thánh nhân tự nhận mình cũng không xứng đáng đối với Đấng mà ông có nhiệm vụ chuẩn bị con đường cho Ngài đến.
5.Phép rửa của Đấng Mê-si-a:
Thánh Gioan Tẩy Giả nhấn mạnh sự khác biệt giữa phép rửa của ông và phép rửa mà Đấng Mê-si-a sẽ thực hiện: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”. “Lửa” này phải chăng được hiểu là lửa của Chúa Thánh Thần như các Giáo Phụ đã hiểu, hay phải hiểu lửa vừa theo Kinh Thánh vừa theo các văn chương phàm trần, nghĩa là lửa có chức năng vừa thanh luyện những người công chính vừa tiêu hủy quân vô đạo? Chúng ta không biết chính xác, nhưng một điều chắc chắn, đó là thánh Gioan Tẩy Giả tự nhận mình là vị Tiền Hô, không chỉ của Đấng Mê-si-a nhưng cũng của Giáo Hội. Chính Giáo Hội sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, Đấng ngự xuống trên Giáo Hội như “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa”vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2: 1-4).
6.Đấng Mê-si-a Thẩm Phán:
Khi mô tả chan dung của Đấng Mê-si-a như một vị Thẩm Phán, Ngài sẽ chọn lựa những người tốt ra khỏi những kẻ xấu, thánh Gioan Tẩy Giả định vị mình vào hàng những đại ngôn sứ, liên kết kỷ nguyên Mê-si-a và kỷ nguyên cánh chung vào trong cùng một viễn cảnh: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. Giờ thu hoạch mùa màng sẽ tới, nhưng chậm hơn. Chính Đức Giê-su sẽ là vị Thẩm Phán của ngày Chung Thẩm.
7.Khởi điểm của Tin Mừng:
“Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ”. Cũng như sách Tin Mừng Mác-cô, sách Tin Mừng Lu-ca đánh dấu khởi điểm Tin Mừng bằng lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả. Điều này khiến chúng ta nghĩ rằng khoa giáo lý tiên khởi bắt đầu với việc kể ra thánh Gioan Tẩy Giả và lời dạy của thánh nhân. Bản văn của thánh Lu-ca bày tỏ rất rõ nét khoa giáo lý này. Việc thực hành đức ái và công bình được xem như bước khởi đầu của việc hoán cải, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải dẫn đến việc kết hiệp với một con người, Đức Ki-tô. Chính trong Giáo Hội mà sự kết hiệp này sẽ được thực hiện.
Đây là một trong những bài học, một bài học không nhỏ chút nào, của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Người Việt Nam được coi là một dân tộc hiếu khách. Vì thế, khi khách đến nhà thì "không gà thì vịt" và cố gắng tiếp đón làm sao để "vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi". Thực vậy, khi có khách đến thăm, người ta thường thăm dò ý muốn sở thích của vị khách để tiếp đãi cho chu đáo. Khách càng sang, càng cao qúy người ta càng chuẩn bị kỹ lưỡng từ trang trí nhà cửa, sân vườn đến các món ăn mà vị khách ưa thích. Cũng bởi sự hiếu khách đó, mà người Việt Nam thường tự trách mình thất lễ khi thiếu sự chuẩn bị mà khách lại đột xuất viếng thăm.
Cách đây hơn 2.000 năm người dân Palsetin cũng háo hức đón chờ một thượng khách đến viếng thăm. Một vị khách mà cả pho Cựu ước là bằng chứng sự trăn trở đợi chờ. Đó chính là Đấng Thiên Sai, Đấng Messia sẽ đến để thực hiện lời hứa cứu độ cho nhân trần. Hôm nay họ nghe Gioan rao giảng Đấng đó đã đến nhân trần. Đấng mà cha ông họ ngày đêm mong chờ mà chưa có diễm phúc gặp gỡ, nay quả là phúc đức cho họ được diện kiến Đấng Thiên sai. Họ tràn ngập niềm hân hoan. Họ chạy đến Gioan để tư vấn, xem phải làm gì để vui lòng Đấng Messia? Từ những người nông dân chất phác đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn đến các nhà thu thuế và quan quyền đều muốn có một động tác chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp Đấng Messia. Nhưng lạ thay, Gioan không bảo họ trang trí nhà cửa phố xá cho nguy nga lộng lẫy. Gioan không bảo họ chuẩn bị các món ăn đặc sản của dân tộc để thiết đãi Đấng Messia. Gioan đề nghị họ một cung cách sống để vui lòng Đấng Messia. Đối với đám đông dân chúng hãy biết sống chia sẻ với nhau. Hãy sống đùm bọc nhau trong tình bác ái chân thành qua việc chia sẻ cơm ăn, áo mặc. Đối với người thu thuế và người giầu có hãy sống công bình bác ái. Đừng cho vay nặng lãi. Đừng chồng chất thêm gánh nặng cho dân bằng sưu cao thuế nặng. Hãy sống bằng một trái tim nhân ái biết xót thương kẻ bần cùng lầm than. Đối với binh lính, Gioan đề nghị hãy biết thương dân, đừng hà hiếp bóc lột, đừng sống theo kiểu tham quan vô nại, hãy sống theo chức vụ của mình là để bảo vệ và gìn giữ sự an ninh cho dân làng.
Nghe lời Gioan ai nấy đều muốn thay đổi lối sống cho đẹp lòng Đấng Messia. Từng đoàn người đến sông Giordan. Trong đó có đủ mọi thành phần già trẻ, lớn bé. Quyền qúy cao sang và đói khổ bần hàn. Tất cả đều cúi mình sám hối. Tất cả đều muốn thay đổi lối sống. Sửa lại những quanh co gian trá của lòng người. Lấp đầy những hố sâu của ngăn cách bằng tình yêu chân thành. Và san bằng núi đồi kiêu căng bằng đời sống hoà hợp mến yêu. Một bầu khí thật vui tươi và an bình trải rộng khắp giòng sông Giordan. Một niềm hy vọng cho một thế giới không còn bất công, không còn hận thù chỉ còn có sự chia sẻ, cảm thông trong yêu thương chân thành. Một bầu khí hứa hẹn những ngày tháng thanh bình như lời tiên tri Isaia đã nói: "sói nằm chung với chiên con. Trẻ con thò tay vào hang rắn độc. Người ta sẽ lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cầy và nhân loại sẽ cùng nhau hát vang tiếng hát hoà bình".
Hôm nay, Giáo hội cũng gợi lại hình ảnh đó để nhắc nhở con người thời nay. Chúa đã đến với chúng ta hôm nay qua tha nhân, qua các bí tích. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày cuối cùng của đời người dương gian, và Chúa sẽ đến trong uy nghi vinh hiển trong ngày quang lâm. Vậy có ai đó đã tự hỏi lòng mình: tôi phải làm gì để đón tiếp Chúa? Nếu chúng ta tin rằng Chúa đang hiện diện giữa chúng ta, liệu rằng chúng ta có gì để dâng cho Chúa? Có lẽ Chúa không cần chúng ta xây nhà nguy nga lộng lẫy cho Chúa. Chúa cũng không cần chúng ta trải thảm lót đường cho Chúa. Chúa chỉ cần chúng ta dâng cho Chúa tấm lòng thanh sạch không vương vấn tội nhơ. Một con tim tràn đầy tình yêu thương đồng loại. Một tấm lòng muốn sửa đổi, muốn thăng tiến bản thân cho tốt hơn, cho đúng với giáo huấn và lề luật của Chúa.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Khi Chúa giáng sinh, muôn loài đều tới mừng Chúa. Mỗi loài đều dâng cho Chúa chút quà. Chị bò cái dâng sữa, cậu khỉ biếu Chúa mấy trái cây nhỏ, chú sóc nâu bé nhỏ tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa. Chúa hài đồng vui vẻ nhận tất cả.
Đang lúc các thú vật quây quần bên Chúa, thì chàng cáo xuất hiện. Các con vật đều ghét cáo, vì hắn gian manh quỉ quyệt. Chúng chận không cho cáo đến gần Chúa và tự hỏi không biết cáo định âm mưu gì. Cáo nói rằng, cáo đến dâng lễ vật cho Chúa, nhưng chẳng thấy cáo mang theo lễ vật. Chúa ra hiệu cho cáo vào. Quì bên Chúa hài đồng chàng cáo thì thầm:
- Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa lòng quỷ quyệt của con!
Mọi con vật bỡ ngỡ:
- Dâng gì kỳ cục vậy?
Nhưng cáo vui cười hớn hở, còn Chúa đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng thuận chúc lành.
Có lẽ đó là món quà mà Chúa cần chúng ta dâng cho Chúa. Dâng lên Chúa chính tội lỗi, yếu đuối của mình. Dâng cho Chúa là hứa với Chúa từ nay sẽ thôi không theo đường cũ, quyết ăn ở ngay lành, sống công bình bác ái và thân ái với mọi người. Ước mong những ngày chuẩn bị mừng lễ giáng sinh với sự trang hoàng bên ngoài bằng hang đá, cây thông, đèn sao lấp lánh, mỗi người chúng ta cũng chuẩn bị một món quà từ tấm lòng sám hối ăn năn để từ trong sâu thẳm cõi lòng có thể rộn ràng lên câu hát "vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương". Amen.
NIỀM VUI LÀM CHO CON NGƯỜI TƯƠI TRẺ LÂU GIÀ
VÀ SỐNG LÂU HƠN
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn