1
17:32 +07 Chủ nhật, 28/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 179

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 178


Hôm nayHôm nay : 33997

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 377026

Tổng cộngTổng cộng : 27931310

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Suy niệm Lời Chúa các Chúa nhật 10, 11, 12, 13, 14 và 15 thường niên

Thứ bảy - 04/06/2016 16:29-Đã xem: 2811
Khi đọc kinh Hoà bình của thánh Phanxicô Assisi với câu “Vì chính khi hiến thân là lúc được nhận lãnh”. Lúc mới nghe câu này thì có người cho là không hợp lý, không bình thường, nhưng nếu xét cho kỹ, không những trong đời sống thiêng liêng, mà ngay trong cuộc sống hằng ngày, chân lý đó vẫn còn đứng vững : Cho đi là lãnh nhận ! Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã nói :”Phúc cho ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”(Mt 5,7). Muốn được Thiên Chúa xót thương thì chúng ta phải thương xót người khác đã, vì chúng ta đong cho người khác bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng đong lại cho ta bằng đấu ấy, mà còn dư dật nữa.
Suy niệm Lời Chúa các Chúa nhật 10, 11, 12, 13, 14 và 15 thường niên

Suy niệm Lời Chúa các Chúa nhật 10, 11, 12, 13, 14 và 15 thường niên

CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN C
PHÉP LẠ TẠI THÀNH NA-IM

A. DẪN NHẬP
 
          Bài đọc 1 và bài Tin mừng hôm nay na ná giống nhau, đều nói về phép lạ cho đứa con trai của bà góa sống lại. Mọi người đều phải chết, đó là một thực tế và cũng là chân lý. Đã chết thì không thể nào sống lại được, trừ ra có một phép maầu. Phép mầu này phải đến bởi Thiên Chúa.  Việc đứa con trai bà góa sống lại có hai nguồn gốc khác nhau :  một đàng tiên tri Êlia phải cầu nguyện xin Thiên Chúa cho đứa bé sống lại; đàng khác Đức Giêsu lấy quyền năng của mình để trực tiếp làm cho đứa bé sống lại khi nói :”Này người thanh niên, Ta bảo anh : hãy chỗi dậy” (Lc 7,14).
 
          Đức Giêsu làm phép lạ này để nói lên quyền năng siêu việt của Thiên Chúa. Ngài làm chủ sự sống và sự chết. Vì thế, Ngài có thể làm cho kẻ chết sống lại tùy ý Ngài. Ngoài ra, Đức Giêsu còn nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Ngài không thể dửng dưng trước đau khổ của con người, Ngài biết đồng cảm với con người trong cuộc sống hằng ngày. Sau cùng, Ngài cũng hé mở cho chúng ta biết thân xác loài người ngày sau sẽ được sống lại.
 
          Qua phép lạ này, noi gương Đức Giêsu, chúng ta hãy học để biết thông cảm với mọi người , chúng ta không thể dửng dưng trước những đau khổ của con người,  vì qua phép Rửa tội, chúng ta là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.  Thánh Phaolô đã thâm hiểu chân lý này khi ngài khuyên nhủ tín hữu Rôma :”Anh em hãy vui củng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc” (Rm 12,15), vì trong một thân thể, bất cứ một chi thể nào cũng có tương quan đến chi thể khác.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
 
          Bài đọc 1 : 1V 17,17-24
 
          Bài đọc 1 có vài nét na ná như trong bài Tin mừng hôm nay : nói đến việc làm cho con trai một bà góa sống lại.
 
          Sách Các Vua cho biết tiên tri Êlia đến trọ ở nhà một bà góa ở thành Sarepta. Bà đã đón tiếp ông rất nồng hậu. Không may đứa con trai duy nhất của bà bệnh nặng rồi chết và bà tưởng rằng con bà bị chết vì lời nguyền của vị tiên tri nhằm trừng phạt một lỗi nào đó không rõ.
 
          Nhưng nhà tiên tri đã cầu xin Chúa cứu đứa bé và ông đã được Thiên Chúa nhận lời. Đứa bé sống lại và đã trao đứa bé cho mẹ nó.  Và bà đã thưa với tiên tri :”Bây giờ nhờ việc này, tôi biết rõ ông là người của Thiên Chúa và lời của Chúa nơi miệng ông là lời chân thật” (1V 17,24).
 
          + Bài đọc 2  : Gl 1,11-19
 
          Thánh Phaolô xác định với tín hữu Galata rằng : Tin mừng của Ngài rao giảng không phải là của loài người, mà ngài đã lãnh nhận trực tiếp nơi Thiên Chúa.
 
          Ngài khuyên họ đừng theo “một Tin mừng nào khác”, tức là chưa đủ an tâm khi sống theo Tin mừng mà ngài đã rao giảng, lại còn giữ thêm một số luật lệ Do thái giáo nữa.
 
          Ngài xác quyết với họ rằng người ta chỉ được ơn cứu độ nhờ đức tin chứ không phải nhờ tuân giữ Lề luật.
 
          + Bài Tin mừng : Lc 7,11-17
 
          Chỉ có thánh Luca mới thuật lại chuyện con trai bà góa thành Naim sống lại,  để nói lên sự can thiệp mang tính cách Thiên sai của Đức Giêsu.
 
          Khi vào đến cổng thành Na-im, Đức Giêsu thấy người ta đang đem đi chôn một người thanh niên con một bà góa. Mọi người đều than khóc và chia buồn với mẹ nó.
 
          Tất cả mọi người đi đưa xác, chẳng ai mở lời xin Ngài cứu giúp, nhưng Ngài đã ra tay cứu giúp vì Ngài động lòng thương.
 
          Đối đầu với cái chết và sự đau khổ, Đức Giêsu đã lập tức chứng tỏ tình yêu và quyền năng siêu việt của Ngài.  Dân chúng từ ngỡ ngàng cảm phục đến nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Kitô.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
 
                             Quyền năng và lòng thương xót của Chúa
 
I. PHÉP LẠ TẠI THÀNH NA-IM
 
          Chúng ta thấy phép lạ cho người con trai bà góa thành Na-im chỉ có thánh Luca thuật lại để nói lên quyền năng và lòng thương cảm của Đức Giêsu.
 
          Na-im, ngày nay chỉ là một làng nhỏ, cách Capharnaum độ 7 hoặc 8 giờ đi bộ, ở hướng tây nam, về phía núi Taborê, cách Nazareth khoảng 8 cây số về phía đông nam. Gần làng về hướng đông, người ta thấy có những ngôi mộ được đào trong các tảng đá.
 
          Người ta thường đưa đám ma vào lúc gần tối, nên hình như Đức Giêsu đã gặp đám tang này vào ban tối, khi Ngài và các môn đệ vào đến cửa thành.
 
          Đám ma được dẫn đầu bằng một đội khóc mướn với ống sáo và thanh la của họ phát ra tiếng la ó khóc than inh ỏi.
 
          Theo tục lệ Phương Đông người chết được để trong quan tài không đậy nắp và được quấn khăn liệm kỹ lưỡng. Có người cho là quan tài ấy không giống quan tài của chúng ta , mà là một cái rọ đan bằng mây để đem thi hài đến phần mộ.
 
          Đức Giêsu không đi một mình, vì ngoài các môn đệ, còn có đám đông theo Ngài.  Ngoài ra đám đông có đông đảo dân thành đi theo đưa tiễn.  Các chi tiết này rất quan trọng, vì đó là bằng chứng cho thấy  phép lạ được thực hiện cách công khai. Do đó, không phải là một chuyện hoang đường hoặc bịa đặt.
 
          Có những chi tiết chứng minh việc sống lại là có thật :
          - Anh đã đứng lên và bắt đầu nói,
          - Chúa cầm tay trao lại cho mẹ cậu.
          - Thái độ sửng sốt sợ hãi của mọi người  làm chứng một biến cố quan trọng đã thực sự xẩy ra.
 
II. Ý NGHĨA CỦA PHÉP LẠ ĐÓ
 
          1. Quyền năng của Thiên Chúa
 
          Đây là lần đầu tiên trong Tin mừng, Luca gán cho Đức Giêsu tước hiệu “Chúa” (Kurios). Hình như các Kitô hữu đầu tiên tuyên xưng Đức Giêsu (phục sinh) là Chúa, đã ảnh hưởng đến văn thể các bài trình thuật cuộc đời trần thế của Đức Giêsu.  Nếu Đức Giêsu đã mang trong Ngài khả năng phục sinh kẻ chết, thì chính Ngài cách nào đó đã là Chúa Phục Sinh, một ngày kia sẽ chiến thắng cái chết cách khải hoàn.
 
          a) Nói về cái chết
 
          Theo quan niệm người đời, một cách bình thường mọi người phải đi qua bốn cửa ải là sinh, lão, bệnh, tử.  Mọi người phải kết thúc cuộc hành trình trên trần gian bằng cài chết. Đã có sinh thì ắt phải có tử.
 
          Cái chết là một sự kiện hiển nhiên và ai cũng phải đợi thần chết đến để đưa mình đi. Đối với nhiều người, chết thì phải chết, nhưng không hiểu tại sao mình chết ? Cái chết có ý nghĩa gì ?
 
          Triết gia hiện sinh vô thần, ông Jean Paul Sartre, cho rằng chết là một sự vô nghĩa (La mort est un non-sens).  Xưa nay người ta vẫn không hiểu hoặc không muốn hiểu lý do sự chết, Vì thế, cái chết thật là phi lý.
 
          Trong Cựu ước, dân Chúa vẫn coi sự chết là một sự gở lạ. Làm sao Thiên Chúa nhân từ tạo nên vạn vật  lại để cho sự chết lẻn vào trong con người.
 
          Nhưng dần hồi, Thánh Kinh hé mở cho thấy rằng sự chết không phải là một bức tường thành kiên cố không vượt qua được, mà là một cửa khẩu để đi đến sự sống thật, đến với Thiên Chúa là nguồn sự sống.
 
          Như thế, phải chăng tất cả mọi vấn đề của ta sẽ kết thúc khi đôi tay xuôi xuống và mắt nhắm lại vĩnh viễn ? Nếu làm người mà thân phận chỉ có thế thôi, thì cuộc sống này có hàng tỉ cái vô lý, bất công. Đâu có gì đáng cho ta phải ân cần tận tụy để sống cho ra sống ? Tất nhiên là về phần thân xác. Cái chết không chừa ai.
 
          Nhưng cái chết đâu phải là mồ chôn vĩnh viễn thân phận con người. Trái lại, cái chết chính là cánh cửa mở sang một thế giới kỳ diệu khác. Niềm tin về thế giới bên kia đã và đang tồn tại trong đời sống con người, nhất là đối với Kitô hữu.
 
          b) Đức Giêsu, chủ của sự sống và sự chết
 
          Đức Giêsu còn là Chúa Cứu Thế đầy quyền năng.  Thầy thuốc Luca còn nêu thêm một chi tiết cá biệt nữa. Chữ “Chúa” ở đây được tác giả dùng đầu tiên trong bản văn Hy Lạp, và theo nguyên ngữ có nghĩa là “Chủ”.  Luca dùng đầu tiên hẳn ông có dụng ý.  Ông muốn nói Chúa Giêsu, vì là chủ của sự sống, nên Ngài có thẩm quyền trên sự chết.
 
          Trong sự kiện này, không có người nào yêu cầu Ngài hành động, nhưng Ngài là Chúa, chủ của sự sống, Chúa hiểu nỗi cô đơn của người mmẹ có đứa con trai, người đàn ông duy nhật để chăm sóc cho bà.  Ngài động lòng trắc ẩn, an ủi bà đừng khóc. Ngài hành động ngay.
 
          Chỉ Thiên Chúa mới có quyền năng vượt qua sự chết. Chính vì Êlia (trong bài đọc 1) đã đi đến với quyền năng của Thiên Chúa mà ông có thể trả lại sự sống cho con trai của bà góa. Nhưng rõ ràng trong phép lạ Na-im, Đức Giêsu tự mình có quyền năng.  Và chúng ta thấy đường lối thương xót trong đó Ngài thực hiện phép lạ ấy.
 
          c) Đức Giêsu đem lại sự sống đời đời
 
          Thiên Chúa yêu thương con người vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, nên Ngài muốn giải thoát con người khỏi nỗi cô đơn buồn phiền, khỏi thất vọng đắng cay, khỏi đau thương tuyệt vọng.  Và nỗi đau thương tuyệt vọng lớn nhât của con người là sự chết, thì Ngài cũng sẵn lòng giải thoát con người khỏi chết.
 
          Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại đó. Ngài còn muốn đi xa hơn nữa trong tình yêu. Ngài muốn giải thoát con người khỏi cái chết muôn đời.  Con trai bà góa Na-im sống lại để rồi lại phải chết, nhưng những ai được Ngài yêu thương giải thoát  thì sẽ vĩnh viễn sống lại miên trường.  Đó mới là sứ mạng của Ngài khi xuống trần gian.
 
          Sự kiện con trai bà góa thành Na-im được Ngài cho sống lại  là hình bóng báo trước biến có vô cùng lớn lao hơn.  Biến cố đó là cốt lõi của đạo, là trung tâm điểm của Kitô giáo. Đó là nhờ sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà tất cả cúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời.
 
          2. Lòng thương cảm của Chúa
 
          Bà góa trong Tin mừng hôm nay đau khổ biết bao : một đàng chồng đã chết rồi, đàng khác con trai duy nhất cũng chết theo.  Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho phụ nữ neo đơn như bà.  Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà bảo lãnh bản thân và tài sản, bà sống như kẻ bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.
 
          Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn biệt con của bà, thì Đức Giêsu cũng xuất hiện đứng bên quan tài. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy lòng thương xót những người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã mủi lòng thương, khẽ an ủi bà :”Bà đừng khóc nữa”, rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói :”Này người thanh niên, ta bảo anh : Hãy chỗi dậy” ! Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa.
 
          Ngoài mục đích của thánh Luca là trình bầy cho các độc giả thấy tấm lòng ưu ái và hiền dịu của Con Người Giêsu, thì chúng ta dễ hiểu tại sao, trong các tác giả viết Tin Mừng, chỉ một mình vị bác sĩ này kể lại câu chuyện cảm động Chúa cứu sống người con trai của bà góa thành Na-im. Không còn bức tranh nào đầy lòng xót thương trắc ẩn như thể.
 
          Thánh Luca đã dùng chữ “chạnh lòng thương” (esplanchnisthè)thì phải có lý do. Từ Hy Lạp, có nghĩa chính xác là “xúc động đến ruột gan”, hầu như luôn luôn được áp dụng cho tình thương yêu của Thiên Chúa đối với loài người trong Tin mừng.
          Trong ngôn ngữ Hy Lạp không còn từ nào mạnh hơn để diễn tả lòng thương xót cảm thông. Và đây là một từ đã được dùng nhiều lần cho Chúa Giêsu trong Tin mừng.
 
          Đối với thế giới ngày xưa thì đây là một việc lạ lùng. Trong thời cổ, đức tin được kể là cao trọng nhất là đức tin của Phái Khắc Kỷ . Các người của trường phái này tin rằng đặc tính thứ nhất của Thượng Đế là không tình cảm, không thể bị xúc cảm hay động lòng. Họ lập luận : nếu kẻ nào có thể làm cho người khác  buồn sầu, lo âu, vui mừng, thỏa thích… có nghĩa là  người đó có thể ảnh hưởng đến kẻ khác, có nghĩa là  anh ta vượt trên hơn kẻ khác.
 
          Nhưng không ai có thể lớn hơn Thượng Đế, không ai ảnh hưởng được Ngài, cho nên lẽ đương nhiên, Thượng Đế phải là Đấng bất khả xúc động. Nhưng ở đây loài người  được đứng trước một tư tưởng kỳ lạ về một nhân vật là Con Thượng Đế mà lại chịu cảm động đến tận đáy lòng Ngài.  Đối với nhiều người, đây là một điều rât quí báu về Thượng Đế, Cha của Chúa Cứu Thế Giêsu.
 
          3. Dấu hiệu phục sinh kẻ chết
 
          Giai thoại này chứa đựng một giáo thuyết sâu xa, vì nói lên một dấu chỉ Thiên sai, tức là dấu chỉ phục sinh kẻ chết, dấu chỉ mà Đức Gêsu sau này sẽ dùng để trả lời câu Gioan tẩy Giả hỏi :”Kẻ chết sống lại”…
 
          Đây là sứ điệp Đức Giêsu muốn gửi đến cho chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay. Ngài muốn chúng ta nhìn thấy nơi phép lạ thành Na-im không chỉ là dấu chứng lòng thương của Ngài  đối với bà góa nọ, cũng không chỉ là dấu hiệu minh chứng Ngài là Đấng Messia, mà còn là dấu chỉ báo trước điều Ngài sẽ thực hiện cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Ngài, nghĩa là Ngài sẽ làm cho chúng ta sống lại  không phải chỉ với một thân xác mới mẻ về thể lý và còn với một cuộc sống trường tồn vĩnh cửu nữa.
 
III. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA
 
          Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật. Đứng về phương diện nhân loại, Đức Giêsu cũng có tình cảm như mọi người, nghĩa là Ngài sống như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
 
          Hôm nay, Đức Giêsu cũng thấy chạnh lòng thương đối với bà góa  có một người con trai mới chết đem đi chôn.  Đức Giêsu hiểu thấu tâm trạng của bà : mất chồng, mất người con nâng đỡ mình trong tuổi già, thiếu người bênh vực, sống cô đơn… Tuy không ai xin Ngài làm phép lạ cứu sống đứa con ấy, nhưng chính Ngài đã ra tay, Ngài khuyên bà đừng khóc nữa, truyền cho người thanh niên chỗi dậy và trao anh ta cho mẹ nó.
 
          Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải biết thông cảm với người khác.  Đừng ai sống trơ trơ như một hòn đảo giữa đại dương (theo Thomas Merton), một mình mình biết, một mình mình hay, nhưng hãy biết tìm đến với nhau, biết chia vui sẻ buồn với nhau như lời thánh Phaolô đã khuyên bảo :”Hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc” (Rm 12,15).
 
          Con người không thể sống trơ trơ như đá. Con vật còn biết thương nhau, chia sẻ với nhau, huống chi là con người.  Người Việt nam chúng ta đã có kinh nhgiệm về vấn đề này nên đã lưu truyền tinh thần ấy trong câu tục ngữ mà ai cũng biết :
 
                                       Một con ngựa đau, cả tầu chê cỏ
          Có nghĩa là một con ngựa bị đau ốm không ăn được cỏ thì cả tầu ngựa (cái máng để chứa thóc, cỏ cho chuồng ngựa ăn) đều chê cỏ không ăn.  Ý nói loài vật có tình đồng loại, thấy một con ngựa đau thì cả đàn đều thương.
 
          Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy tập cho mình biết đi ra khỏi mình, đừng bao giờ co cụm lại. Hãy biết đi đến với người khác. Mang lấy cái tâm tình của người khác , nghĩa là hãy học để biết thông cảm .
 
          Bí quyết để hiểu người khác chính là đặt mình vào trong vị trí của họ. Khi Chúa Giêsu đến thế gian, Ngài đã làm như thế vì chúng ta. Ngài trực tiếp trải nghiệm những khó khăn của cuộc sống. Ngài cũng trải qua cảm giác mệt mỏi, đói khát, cô đơn, đau đớn và mọi vấn đề khác. Và khi trải nghiệm như thế, Ngài thật sự cảm thông với chúng ta, Ngài cứu giúp, nâng đỡ và ủi an chúng ta theo cách chúng ta cần nơi Ngài.

          Đó cũng là bí quyết để chúng ta học biết cảm thông tốt hơn đối với người khác. Lẽ dĩ nhiên chúng ta không thể hoàn toàn thay đổi hoàn cảnh của mình như Chúa Giêsu đã làm. Nhưng chỉ cần chúng ta tưởng tượng mình ở trong hoàn cảnh của họ.

          Chẳng hạn trước khi nhờ ai đó làm điều gì có vẻ đơn giản và không phiền phức gì đối với chúng ta, trước tiên, chúng ta hãy suy nghĩ kỹ xem người ấy có cảm thấy như vậy không. Hoặc nếu ai đó bực tức, giận dữ, hãy suy nghĩ điều gì khiến họ trở nên như thế. Hành động như thế thận trọng hơn là cho rằng mọi người cũng nhìn và cảm nhận mọi thứ giống như chúng ta. 

          Hãy bước đi một dặm bằng đôi giày của người khác, và chúng ta sẽ dần trở thành người thông hiểu và cảm thông trong những tình huống cần thiết. Sau đó, hãy điều chỉnh kỳ vọng và cách biểu hiện của chúng ta cho phù hợp. Người khác sẽ nhận ra rằng chúng ta biết trước được những khó khăn và những mối bận tâm của họ và quan tâm đến những khó khăn của họ, và điều này sẽ giúp chúng ta sống và làm việc với mọi người tốt hơn. 

          Cảm thông giúp tạo nên sự thống nhất về ý kiến và mục tiêu, và đó chính là một điều tuyệt vời! (Thiên Ân).
          Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta càng biết cho đi thì lại càng lãnh nhận được nhiều vì đúng như thánh Phanxicô Asssi đã diễn tả trong Kinh Hòa bình :”Chính lúc hiến thân là lúc được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.  Càng co cụm lại nơi mình thì càng nghèo đi và có khi còn đánh mất cả bản thân. Tư tưởng này sẽ được minh họa trong câu truyện sau đây.
                                     
Truyện : Cái giếng cũ
 
          Ðây là một cái giếng mà nước rất trong sạch và dịu mát làm cho ai uống vào cũng cảm thấy khoan khoái. Một điều đặc biệt nữa là chưa bao giờ giếng này cạn nước cho dù mùa hè có nắng hạn đến đâu đi nữa. Chủ nhân của cái giếng này là một bác nông dân nghèo.
          Nhưng đến một lúc mà hệ thống điện nước chuyển đến nông thôn, thì cái giếng của bác xem ra cũng trở thành vô dụng. Căn nhà của bác cũng được sửa chữa lại, hệ thống dẫn nước cũng được thiết lập. Không ai buồn nghĩ đến chuyện phải vất vả để kéo nước từ cái giếng đó nữa. Thế là cái giếng bị đóng lại.
 
          Bẵng đi nhiều năm trời. Một ngày nọ vì tò mò, người nhà của bác nông dân mở cái giếng cũ ra xem, thì lạ thay, giếng nước đã bị khô cạn. Bác nông dân không thể hiểu tại sao cái giếng nước trong lành của mình đã trở thành khô cạn. Mãi về sau, ông mới khám phá ra nguyên do: cái giếng cũ của ông vốn được bao nhiêu mạch nhỏ tiếp tế, càng múc nước thì nước càng tuôn chảy vào giếng. Nay đã nhiều năm qua, nước giếng không còn được múc lên nữa cho nên các mạch nước bị bít kín và phần nước còn sót lại trong đáy giếng cũng dần bị bốc hơi và khô cạn.
 
          Câu chuyện về cái giếng cũ trên đây có thể là một dụ ngôn về suối nước không bao giờ khô cạn mà Thiên Chúa đã mở ra qua cái chết của Chúa Giêsu Kitô. Từ cạnh sườn Người, khi một người lính La Mã đâm thủng thì nước hằng sống đã tuôn trào để xoa dịu nỗi khát khao của con người. Mạch nước có được mở ra để trao ban thì nguồn nước mới tuôn trào. Cái chết của Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của một cuộc đời hướng về tha nhân, tiêu hao vì tha nhân, dốc cạn vì tha nhân. Ðó cũng là chân lý về cuộc đời. Càng trao ban, càng dốc cạn, càng được múc lấy. Càng tiêu hao, càng mất chính mình thì con người càng trở nên phong phú, con người càng trở nên chính mình. Giếng nước càng được múc thì càng trở nên dồi dào. Con người càng trao ban thì cũng càng trở nên phong phú hơn.
 
          Song song với những hy sinh, hãm mình, nhẫn nại, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng được mời gọi để sống san sẻ. Ðó không là một việc làm tùy hứng, mà là một đòi hỏi thiết yếu của sự hoán cải. Hoán cải đích thực là trở về với sự thật về con người. Ðó là một con người lấy sự trao ban làm lý tưởng (Internet).
 
          Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho nhân loại và đã trở thành nguồn mạch tuôn trào xoa dịu nỗi khao khát của chúng con. Xin cho chúng con khi suy ngắm về cuộc tử nạn của Chúa cũng luôn biết bước theo con đường của chính Chúa. Ðó là con đường của phục vụ, quảng đại, quên mình. Amen.
 

 
CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN C
TỘI LỖI VÀ ƠN THA THỨ.

 
A. DẪN NHẬP
 
          Sách Sáng thế cho chúng ta biết những con người đầu tiên đã sa ngã phạm tội, đã phản bội lại tình thương yêu của Thiên Chúa, nhưng dù thế nào đi nữa, Ngài vẫn thương yêu và tha thứ. Bài đọc 1 hôm nay nói lên lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi biết ăn năn thống hối. Vua Đavít đã phạm tội ngoại tình, lại còn âm mưu giết chồng để cướp vợ người ta nữa. Tưởng rằng mọi việc đã được ém nhẹm, nhưng khi được tiên tri Nathan nhắc nhở, vua đã sớm nhận ra tội mình, tỏ lòng thống hối ăn năn nên được Thiên Chúa tha thứ :”Thiên Chúa đã bỏ qua tội của ngài, ngài sẽ không phải chết”(Sm 12,13).
 
          Khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài càng làm sáng tỏ tình yêu tha thứ của Thiên Chúa qua các dụ ngôn : con chiên lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Đặc biệt trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu có một thái độ rất hiền từ và khoan dung  đối với một phụ nữ được mệnh danh là người tội lỗi nổi tiếng trong thành.  Chị ta biết lỗi của mình, ăn năn sám hối, muốn cải tà qui chính, đã có thái độ phục vụ Chúa cách đặc biệt, nên được Ngài chấp nhận và ban ơn tha thứ :”Tội của chị đã được tha”.
 
          Qua cách cư xử của Đức Giêsu, chúng ta đừng đánh giá người khác theo cái vỏ bề ngoài vì cái vỏ bề ngoài không nói lên cái thực chất bên trong. Ông Simon và những thực khách khác chỉ nhìn chị phụ nữ này theo cái vỏ bên ngoài : nàng là một người tội lỗi, một đống bùn nhơ  phải bị loại bỏ. Còn Đức Giêsu có cái nhìn ngược lại, Ngài nhìn ra tấm lòng của chị, một tấm lòng thành thật, khiêm cung, yêu mến, muốn đổi mới cuộc đời của mình.
 
          Nhìn vào cuộc đời của Đavít và người đàn bà tội lỗi, chắc chúng ta an tâm vì chúng ta đâu có phạm những tội tầy đình như vậy ! Nhưng sự an tâm ấy có thể đem lại cho chúng ta một nguy cơ, đó là chúng ta bị ru ngủ trong đời sống đạo đức mà khinh thường những tội nhỏ mọn, không biết đề phòng, có thể sa ngã vào những tội nặng nề mà không ngờ. Chính thánh Phaolô đã nói :”Ai đang đứng, hãy ý tứ kẻo ngã”.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : 2Sm 12,7.11-13.
 
          Sách Samuel kể lại cho chúng ta câu chuyện vua Đavít đã phạm một tội rất nặng nề, nhưng đã được Thiên Chúa tha thứ. Trước tiên vua đã phạm tội ngoại tình với bà Betsabê vợ ông Uria, một tướng quân của nhà vua, tiếp theo vua còn tìm cách dùng tay quân giặc mà giết ông để chiếm lấy vợ của ông ấy.
 
          Công việc tưởng đã được ém nhẹm nhưng Thiên Chúa sai tiên tri Nathan đến nhắc nhở cho vua về tội tầy đình ấy. Ý thức về tội lỗi của mình, nhà vua hết lòng ăn năn và được Thiên Chúa tha thứ vô điều kiện :”Thiên Chúa đã bỏ qua tội của ngài, ngài sẽ không phải chết”.
          +  Bài đọc 2 : Gl 2,16.19-21.
 
          Về việc công chính hóa nhờ tin vào Đức Kitô đã được thư gửi tín hữu Rôma nói đến nhiều (x. Rm 3,21-25a.28). Ở đây, trong thư gửi tín hữu Galát thánh Phaolô muốn làm sáng tỏ  tầm mức công chính hóa do cái chết của Đức Kitô trên thập giá đem lại.
 
          Ta có thể nói  đoạn thư này chứa đựng ý tưởng chính  của toàn thể bức thư gửi tín hữu Galát : con người được nên chông chính (được cứu độ) nhờ đức tin chứ không phải nhờ tuân giữ Lề luật.
 
          +  Bài Tin mừng : Lc 7,36-8,3.
 
          Bài Tin mừng hôm nay được chia thành hai phần :
 
          a) Chuyện người đàn bà tội lỗi đến lau chân Chúa nhân bữa tiện tại nhà ông Simon.
          Nàng là một người tội lỗi nổi tiếng trong thành, ai cũng biết. Nàng mạnh bạo tỏ lòng thống hối, đến quì dưới chân Đức Giêsu, khóc nức nở, lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc mà lau và hôn chân Ngài., và không tiếc bình dầu thơm quí giá (khoảng 300 đồng,  tương đương với 10 tháng lương) xức chân Ngài.
 
          Thấy tâm tình thống hối chân thật và can đảm muốn thay đổi cuộc sống tội lỗi, Đức Giêsu đã tha tội cho chị. Câu nói của Đức Giêsu có thể dùng tóm lược chính xác câu chuyện đời nàng :”Tội nàng nhiều, nhưng được tha hết vì nàng yêu mến nhiều”.
 
          b) Phần sau là bản tóm lược những người đi theo Đức Giêsu trên bước đường đi rao giảng Tin mừng : Nhóm 12, và các phụ nữ, người bình dân lẫn người quyền quí. Càc bà đã theo giúp Ngài bằng công sức và của cải vất chất.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
                                                Tội của con đã được tha.
I. THIÊN CHÚA GIẦU LÒNG THƯƠNG XÓT.
 
          Trong bài đọc 1 và bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy rõ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân. Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện cho những ai có lòng thống hối.
 
          1. Thiên Chúa tha thứ cho Đavít.
 
          Bài đọc Cựu ước trích trong sách tiên tri Samuel hôm nay nhắc nhở lại trường hợp phạm tội của vua Đavít. Vua đã phạm tội một cách rất khéo léo, phạm tội mà hầu như không ai biết, cho nên mọi người vẫn coi vua  như một người thánh thiện gương mẫu. Vua đã phạm tội ngoại tình. Vua đã ngoại tình với vợ của Uria, một tướng quân của triều đình, sau đó lại dùng âm mưu thâm độc để giết chết Uria hòng che giấu tội của mình. Tưởng thế là xong, không ngờ Thiên Chúa sai nhà tiên tri Nathan đến, kể cho vua nghe một câu chuyện  về một người giầu có cướp con chiên của một người nghèo khó để tiếp đãi khách. Đavít nổi giận đòi trừng phạt kẻ bất lương ấy. Nhưng nhà tiên tri liền nói :”Người bất lương ấy chính là vua” ! Đavít đã cúi đầu nhận tội lỗi, nhận lãnh việc đền tội. Thánh vịnh 50, MISERERE,  ngàn đời vẫn còn vang lên tiếng nức nở của một tâm hồn thống hối ăn năn. Nhưng câu nói của tiên tri Nathan “Thiên Chúa tha tội cho vua” là một lời an ủi vô tận cho những người thống hối .
 
          2. Đức Giêsu tha tội cho người đàn bà tội lỗi.
 
          Thường người biệt phái không ưa Đức Giêsu mà chỉ tìm cách gài bẫy để ám hại Ngài. Tuy thế, thánh Luca cho chúng ta biết cũng có một thứ biệt phái lễ độ hơn, vẫn có cảm tình với Ngài, họ dám mời Ngài đến nhà dùng bữa.
 
          Hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta việc ông Simon, một người biệt phái,  mời Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông. Có thể ông mời nhà rabbi trẻ tuổi đến để có dịp quan sát hơn là vì hiếu khách, nhưng ông cũng tỏ ra có chút lễ độ. Theo phong tục của Phương Đông, khi nhà có tiệc tùng thì cửa thường bỏ ngỏ, kẻ ra người vào tấp nập. Một người đàn bà, ai cũng biết thuộc phường tội lỗi lẻn vào đứng đàng sau đám thực khách. Bà mang theo một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Rồi quì xuống dưới chân Chúa, bà khóc nức nở, xức dầu thơm, hôn bàn chân ướt đẵõm nước mắt và lấy tóc mà lau. Mọi người trố mắt nhìn cho là một việc quái gở, nhất là ông chủ nhà Simon… Nhưng Đức Giêsu coi như không để ý đến  những người chung quanh mà chỉ nói với cô ta :”Tội chị rất nhiều, nhưng đã được tha rồi, vì chị đã yêu mến nhiều”.
 
II. TẠI BỮA TIỆC NHÀ ÔNG SIMON BIỆT PHÁI.
 
          1. Cách tiếp đón và ăn tiệc của người Do thái.
 
          Theo tục lệ Do thái, khi khách đến nhà thì chủ nhà lấy nước rửa chân tay cho khách, hôn chào, xức dầu thơm trên đầu. Trong trường hợp này, ông Simon đón tiếp Đức Giêsu một cách sơ sài, không theo nghi thức đón khách đàng hoàng theo tục lệ.
 
          Phòng tiệc của người Do thái không được xếp đặt từng bàn tiệc như chúng ta ngày nay, các thực khách nằm trên những di văng, chân thò ra ngoài. Từ ngữ Hy lạp được dùng ở đây (Katéklithé) thực ra có ý nghĩa là :”Ngài nằm ở bàn ăn”. Vậy đây là một bữa tiệc mừng mà người ta nằm dài trên các di văng để dùng bữa, trong một khung cảnh tiện nghi. Các cửa phòng tiệc luôn rộng mở, người ta có thể ra vào tự do. Vì thế, người đàn bàn có thể xuất hiện và đứng ngay dưới chân Chúa đang thò ra ngoài.
 
          2. Sự xuất hiện của người đàn bà tội lỗi.
 
          Ở Phương Đông có thói quen cho người ta ra vào tự do khi nhà có tiệc, vì thế mới có một người đàn bà xuất hiện đứng ngay dưới chân Đức Giêsu. Người ta đã biết người phụ nữ ấy. Trong thành phố, xem ra mọi người đã biết trường hợp của chị đó là một người đàn bà tội lỗi”.
 
          a) Người đàn bà này là ai ?
 
          Đoạn Tin mừng không nói người đàn bà này là ai. Bà chỉ được gọi là “người tội lỗi” (Lc 7,39) vậy thôi. Tại sao người biệt phái, những người khách khác, và cả chúng ta  cũng mau xét đoán người đàn bà này dựa trên từ ngữ “người tội lỗi” ?
 
          Một học giả Thánh Kinh, J. Jeremias, đã nói rằng chữ “người tội lỗi” ở đây không có nghĩa là “điếm”. Ông nói “người tội lỗi” cũng có thể gán cho những người  hành nghề không mấy vinh quang chẳng hạn như thu thuế, chăn chiên, cưỡi lừa, người bán hàng rong, thợ da thuộc hay một người nào không thành thật, một người nói dối trong bất cứ loại buôn bán nào (Nguyễn văn Thái).
 
          Câu chuyện kể ở đây là đặc biệt của thánh Luca. Không được lẫn câu truyện của thánh Luca kể đây với một việc xức dầu ở nhà ông Simon tật phong kể trong Matthêu 26,6-13 ; Marcô 14,3-9 và Gioan 12,1-8. Cũng không nên lẫn người tội lỗi này với bà Maria quê ở Bêtania, ông Simon mời Đức Giêsu đến dự tiệc.
 
          b) Bà đã hành động như thế nào ?
 
          Nghe biết Đức Giêsu, biết lòng nhân hậu của Ngài, bà nuối tiếc về đời sống quá khứ, cương quyết đến với Ngài để được tha thứ. Bà vào phòng tiệc, đến chỗ Chúa nằm, không thấy Chúa đuổi, bà phần vui mừng, phần đau đớn vì tội lỗi, nước mắt tuôn rơi trên chân Chúa, rồi lấy mái tóc dài của mình mà lau, hôn chân Chúa lìa lịa. Sau cùng bà đã đập bể một bình thuốc thơm quí giá đổ lên chân Chúa. Bà nghĩ không xứng đáng đổ trên đầu. Bà không cần nói câu nào, nhưng cử chỉ đã nói tất cả.
 
          3. Cách đánh giá người khác.
 
          a) Cách đánh giá của ông Simon.
 
          Việc Đức Giêsu để cho người đàn bà tội lỗi hành động như thế làm cho ông Simon rất bất bình vì là điều chướng tai gai mắt. Ông khinh bỉ người đàn bà.  Quả thật, theo luật pháp của Israel, người ta trở thành “ô uế” khi chạm vào người đàn bà tội lỗi, cũng như vào một xác chết hay một con heo. Thấy thái độ của Đức Giêsu đối với người đàn bà tội lỗi như thế, nên mới có dư luận giữa người biệt phái : Đức Giêsu không phải là một người của Thiên Chúa, không phải là một tiên tri,
 
Truyện : Bé cái lầm.
 
          Có một câu chuyện được đăng trong tạp chí Reader’s Digest như sau : Một người bạn của tôi trên chuyến trở về Nam Phi sau một thời gian sống ở Aâu châu, đã phải chờ khá lâu ở phi trường Heathrow của Luân  đôn. Sau khi mua một ly cà phê và một gói bánh qui, cô kéo lê hành lý lỉnh kỉnh  tới một cái bàn trống để đọc báo và ăn bánh trong khi chờ đợi máy bay.
 
          Khi đang đọc tờ báo buổi sáng, cô nhận ra có người  đang sột soạt gì đó ở bàn mình. Hé nhìn từ phía sau tờ báo, cô sửng sốt  thấy một anh chàng ăn mặc lịch sự đang với tay  lấy bánh của cô rồi bỏ vào miệng. Không muốn làm ầm ĩ, cô chỉ nghiêng mình để lấy một cái cho mình. Hai phút sau, cô lại nghe tiếng sột soạt.  Anh chàng kia lại lấy thêm bánh để ăn.
 
          Cho đến lúc cả hai  đã ăn đến cái bánh cuối cùng trong gói, cô đã tức giận hết cỡ nhưng vẫn không nói được câu nào. Rồi chàng trai bỗng bẻ cái bánh làm hai, đẩy một nửa về phía cô và ăn nửa còn lại, rồi bỏ đi.
 
          Lát sau, khi loa phóng thanh gọi tên cô, và yêu cầu cô xuất trình vé, cô vẫn còn bừng bừng cơn giận. Các bạn hãy thử tưởng tượng sự xấu hổ của cô khi cô mở túi xách ra và khám phá ra rằng gói bánh của mình vẫn còn nằm nguyên trong đó. Thì ra từ nãy tới giờ cô đã ăn bánh của người ta.  Chàng kia đã chia sẻ với cô đến miếng bánh cuối cùng. Thật là một con người tốt bụng.
 
          Câu chuyện cho thấy cái nhìn của chúng ta về người khác không luôn luôn chính xác, thậm chí nhiều khi còn nhầm lẫn nữa. Vì thế đừng vội xét đoán, kết án. Và cũng phải sẵn sàng thay đổi cái nhìn của mình khi chúng không còn đúng với sự thật nữa. Quan trọng hơn nữa, nếu chúng ta muốn có những thay đổi lớn trong cuộc đời mình thì trước hết phải thay đổi cách nhìn về người khác. Hãy đeo cặp kính khác rồi mọi sự sẽ thay đổi theo ta.
 
          Trong câu chuyện Phúc âm, người biệt phái nghĩ rằng ông là người công chính, xứng đáng ngồi cùng bàn với Đức Giêsu, còn người phụ nữ kia không xứng đáng đến trước mặt Ngài. Nhưng cuối cùng, Đức Giêsu đã vạch ra cho thấy người phụ nữ với lòng ăn năn thống hối, nhận mình là tội lỗi, lại xứng đáng ngồi bàn tiệc với Chúa hơn là người biệt phái tự coi mình là người công chính.
 
          b) Cách đánh giá của Đức Giêsu.
 
          Người biệt phái nhìn người đàn bà tội lỗi như một thứ bùn nhơ. Còn Đức Giêsu thì lại có cái nhìn ngược lại. Chị ta không có quyền xuất hiện ở bữa tiệc ấy. Chị đã đến chỉ vì Đức Giêsu có mặt. Chị xuất hiện trước mặt Ngài với con người thật của chị và phục vụ Ngài với tất cả lòng yêu mến. Và mặc dù Ngài biết rõ người phụ nữ ấy thuộc hạng người nào, Ngài cũng vui lòng chấp nhận sự phục vụ của chị ta.
 
          Thay vì xua đuổi chị, Đức Giêsu đã đón nhận chị một cách tử tế, dịu dàng và khoan dung. Ngài đã xúc động sâu xa bởi những việc chị đã làm. Ngài đã vạch trần các tội lỗi của chị. Chị đau đớn biết tội của mình, và hối hận về những tội ấy. Ngài bảo đảm chị đã được tha thứ.  Không những thế, Ngài để cho chị hiểu rằng chị được yêu thương. Như thế chị có thể thực hiện một cuộc bắt đầu mới mẻ.
 
Truyện : Cái nhìn của Michelangelo.
 
          Một ngày kia một người bạn đến thăm Michelangelo. Ông thấy nhà điêu khắc vĩ đại đang đục đẽo một tảng đá cẩm thạch lớn. Sân nhà phủ đầy những mảnh cẩm thạch vỡ và bụi bặm. Một cảnh tượng không lấy gì đẹp lắm.
          “Chúa ơi, ông đang làm gì vậy “? Người bạn hỏi.
          “Tôi đang thả thiên thần bị gam trong khối cẩm thạch này ra” Michelangelo đáp.
 
          Người biệt phái Simon nhìn người phụ nữ chỉ thấùy chị ta là tội nhân và mãi mãi là tội nhân. Đức Giêsu nhìn người phụ nữ và thấy chị ta  là một người phụ nữ tội lỗi có khả năng trở thành một vị thánh. Nhờ sự gặp gỡ với Đức Giêsu, người  phụ nữ bắt đầu sống một đời sống mới tốt đẹp hơn. Và chị có thể hành trình trên con đường ấy xa hơn những người đã đoán xét chị. Bằng việc tiếp xúc tử tế và tiếp nhận quà tặng của chị với lòng khoan dung, Đức Giêsu đã thổi luồng gió vào cánh buồm của chị (McCarthy).
 
          Con người yếu đuối có nhiều lầm lỗi, đó là một điều hiển nhiên vì “Lầm lỗi là của con ngườ và tha thứ là của Thiên Chúa” (A. Pope) và “Tha thứ thật sự là một hành động thần linh mà chúng ta chỉ học được nơi Thiên Chúa”(Madeleine Danielou).
 
          Có một cuộc tranh luận là phải chăng người phụ nữ ấy được tha thứ vì yêu nhiều, hoặc chị yêu nhiều vì đã được tha ?  Theo tôi, cả hai ý nghĩa ấy đều phù hợp với Luca, vì vậy ông nhấn mạnh đến sự tha thứ của Thiên Chúa trong Đức Kitô lẫn sự đáp lại bằng yêu mến mà sự tha thứ ấy gợi lên.
 
III. CON NGƯỜI CÓ THỂ CẢI THIỆN ĐƯỢC.
 
          1. Tội nhân tìm Thiên Chúa hay Thiên Chúa tìm tội nhân ?
 
          a) Thiên Chúa đi tìm tội nhân.
 
          Trước tiên chúng ta phải khẳng định rằng Thiên Chúa đi tìm tội nhân.  Một số dụ ngôn đã nói với chúng ta về điều đó. Dụ ngôn người chăn chiên bỏ 99 con ở lại để đi tìm con chiên lạc, khi tìm thấy chiên, ông vác lên vai đưa về. Dụ ngôn người đàn bà mất một đồng bạc đã đốt đèn tìm kiếm khắp nhà, khi tìm được bà mở tiệc ăn mừng. Dụ ngôn đứa con hoang đàng được người cha đón trở về trong sự tha thứ, còn mở tiệc ăn mừng vì con mình đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
 
          b) Con người đi tìm Thiên Chúa.
 
          Trong trường hợp bài Tin mừng hôm nay, người phụ nữ tội lỗi đã đi tìm Chúa. Chị ta đã tự dẫn xác đến nộp mạng cho Đức Giêsu. Chị khóc lóc rồi tự lấy bình dầu thơm quí giá để xức và lau chân Đức Giêsu. Cử chỉ của chị làm cho Đức Giêsu được coi như là người mắc nợ năm trăm quan tiền, không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai.
 
          c) Như vậy ai  đi tìm ai ?
 
          Tội nhân đi tìm Thiên Chúa hay Thiên Chúa đi tìm tội nhân ? Dĩ nhiên Thiên Chúa đi tìm tội nhân trước, Ngài đã có sáng kiến trước, Ngài tạo mọi điều kiện thuận lợi và ban cho tội nhân đủ ơn trợ giúp để tìm đến với Chúa để lãnh được ơn tha thứ. Chúng ta phải luôn nhớ lời Đức Giêsu đã phán :”Không có Thầy, các con không thể làm gì được”.
 
          2. Cải tà qui chính là điều có thể.
 
          Con người tuy yếu đuối hay sa ngã nhưng cũng có khả năng đứng vững trước sự trợ giúp của Thiên Chúa, hoặc có sa ngã thì cũng có thể chỗi dậy được. Người ta thường nói :”Nhân chi sơ tính bản thiện”, tự bản tính con người là tốt, nếu có sa ngã, nếu có hư hỏng thì cũng có thể sửa chữa được, miễn là phải cố gắng không ngừng… Cha Flor McCarthy đã đưa ra một câu chuyện để chứng minh cho điều đó.
 
Truyện : chiếc đèn cũ kỹ.
 
          Một đêm nọ trong lúc bị cúp điện, một người đàn ông  tìm được một cây đèn cũ  đốt bằng mỡ từ trên tầng gác để đồ cũ. Tình trạng của đèn thật thảm hại, bóng đèn nứt và đen thui. Dù sao, ông cũng đốt đèn và nó tỏa ra một ánh sáng yếu ớt. Đã vậy, bấc đèn bốc khói  tỏa ra một mùi khét lẹt. Thật là quá mức đối với một người thích mọi vật hoàn hảo như ông. “Cái đèn này thật vô dụng nên vứt nó đi”, ông nói với vợ ông. Nói xong ông tắt đèn dầu, lấy nến ra đốt.
          Ba tuần sau, lại cúp điện. Lần này, vợ ông đem lại ánh sáng. Bà lấy ra một cái đèn dầu đẹp, đốt lên. Một ánh sáng mầu hồng tỏa ra làm cả nhà thích thú.
          “Cái đèn này thật tuyệt” ! ông chồng nói :”Bà mua nó ở đâu”?
          “Đó là cái đèn mà ông muốn vứt đi đấy”, bà đáp.
          Sau khi đến thật gần để xem xét, ông nói:”Chắc tốn khá nhiều tiền để tân trang nó như thế này” ?
          “Thãt ra chẳng tốn gì mấy”, bà đáp. “Tôi chỉ mua một cái bấc mới và một cái bóng. Nhưng tôi phải bỏ nhiều thời gian và công sức để lau chùi và đánh bóng nó. Tôi đã nhận thấy dưới lớp bụi bẩn là một cái đèn đẹp. Và ông không thấy rằng tôi có lý sao ?
          “Tôi hoàn toàn đồng ý với bà”, ông đáp.
 
          Vứt bỏ một cái đèn dầu thì dễ hơn bỏ thời gian và công sức để lau chùi và đánh bóng nó. Với con người cũng thế, gán họ vào một loại người nào đó rồi xếp xó họ thì dễ dàng hơn việc đối xử họ như bạn bè và giúp đỡ họ vượt lên sự khốn cùng của họ. Hoán cải một người là một nhiệm vụ tế nhị và khó khăn. (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật và lễ trọng, năm C, tr 454-455).
 
          3. Phải có một cái nhìn đúng.
 
          Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải có một cái nhìn đúng về người và về mình, nghĩa là chúng ta đừng xét đoán người khác dựa trên những tiêu chuẩn của luật lệ, phong tục, và lối sống của chúng ta (Gl 6,4; Rm 2,17-24). Người ta thường nói :”Xanh vỏ đỏ lòng” (Tục ngữ). Câu tục ngữ có ý dạy chúng ta phải lưu ý trong việc đánh giá một người hay một sự việc. Nhiều khi bề ngoài là xấu nhưng tự bản chất là tốt. Nếu chỉ đánh giá theo cái vỏ bề ngoài thì sẽ sai lầm.
 
          Trong bài Tin mừng, người biệt phái, cùng những người khách khác ở bàn tiệc, đã không thể nhìn vào người phụ nữ như Đức Giêsu đã nhìn. Những phong tục, luật lệ, thiên kiến và lối sống đã giới hạn họ. Họ đã xếp loại người phụ nữ này là người tội lỗi. Họ đã tự nghĩ rằng bản thân mình tốt hơn người phụ nữ này nhiều.
 
          Nếu so sánh trường hợp tội lỗi của vua Đavít và người đàn bà tội lỗi với chúng ta, chắc chúng ta nói rằng mình an tâm. Chúng ta an tâm  vì có bao giờ chúng ta phạm những tội nặng như họ đâu ? Có bao giờ chúng ta quá tệ đến nỗi ngoại tình, rồi giết chồng để đoạt vợ người ta ? Có bao giờ chúng ta tệ đến nỗi hành nghề mãi dâm và bị tai tiếng cả thành phố ? Những tội nặng nề như thế mà còn được tha thứ dễ dàng thì huống chi là tội của chúng ta. Vì thế chúng ta cảm thấy an tâm.
 
          Nhưng hãy coi chừng ! Sự an tâm đó có thể đem lại nguy hại cho chúng ta. Tại sao ? Thưa chính vì mình an tâm mà đâm ra coi thường những tội của mình, không cho đó là tai hại bao nhiêu, cho nên khỏi ăn năn thống hối, không quyết tâm từ bỏ. Bài Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta suy nghĩ : không phải đây chỉ là chuyện của người ta mà là câu chuyện của chính mình :
 
                                      Nói người hãy nghĩ đến ta,
                                 Nếu suy cho kỹ lại ra chính mình.
 
Truyện : Biểu diễn trồng táo.
 
          Tại một xứ Hồi giáo, có một người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ vì đã ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép  xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin nhà vua :
          - Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không được truyền lại cho hậu thế.
          Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn trồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói :
          -  Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không thể trồng được.
          Nhà vua vẫn chiều lòng tên ăn trộm, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa :
          - Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần cảm thấy không đủ điều khiện để trồng  hạt táo này.
          Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.
          Không tìm được ai, nhà vua mới định cầm hạt táo đến bỏ vào lỗ. Nhưng ông cũng chợt nhớ ra  lúc còn nhỏ ông đã có lần đánh cắp báu vật của vua cha.
          Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng :
          - Tâu bệ hạ, các ngài là những người quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn hạ thần, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ hạ thần.
          Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xang trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm
 
          Câu chuyện này nhắc nhở cho chúng ta lời Chúa Giêsu :”Tại sao con thấy cọng rác trong mắt anh chị em, còn cái xà trong mắt con thì lại không thấy” (Mt 7,3) ?
 
                                                                            


 
CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN C
NẾU AI MUỐN THEO CHÚA
A. DẪN NHẬP.
 
          Người Do thái đã bao đời mong đợi Đấng Messia đến. Theo họ Đấng Messia phải là một vị đầy quyền lực và chiến thắng. Người ta không thể quan niệm được một Đấng Messia “bị đâm thâu” như tiên tri Giacaria loan báo trong bài đọc 1 hôm nay, cũng không thể quan niệm được một Đấng Messia như “Người tôi tớ” của Giavê như tiên tri Isaia đã loan báo (Is 53).
 
          Đức Giêsu đến rao giảng Tin mừng, làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài đã lừng lẫy khắp nơi nhưng người ta không nhận ra được căn tính của Ngài. Người ta chỉ coi Ngài là Gioan Tẩy giả, ûtiên tri Isaia hay một tiên tri nào ngày xưa sống lại. Chỉ có Phêrô nhìn ra căn tính của Ngài khi ông tuyên xưng :”Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đức Giêsu chấp nhận lời tuyên xưng ấy nhưng ngăn cấm các ông không được nói điều ấy với ai,vì còn quá sớm đối với người đồng hương, trong khi họ vẫn còn quan niệm về một Messia bách chiến bách thắng.
 
          Bất ngờ Đức Giêsu loan báo cho các ông :  Ngài sẽ bị loại bỏ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Lời loan báo này làm các ông khó hiểu, nhưng sau sẽ hiểu. Tiếp theo đó, ùNgài còn bồi thêm cho hai điều kiện nữa cho những ai muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ của Ngài :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo “.
 
          Chúng ta đã được chịu phép rửa, đã ”mặc lấy Chúa Kitô”(bài đọc 2) thì chúng ta đương nhiên đã trở nên môn đệ Chúa Kitô rồi, và đã là môn đệ thì phải đi theo con đường khổ giá mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta, đó là phải tuân phục thánh ý Chúa. Đi theo Chúa với những điều kiện như trên xem ra là một nghịch lý, nhưng với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy rất hợp lý và là một bảo đảm cho chúng ta phần rỗi đời đời.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Dcr 12,10-11.
 
          Quả là một sự đảo lộn trong viễn cảnh quen thuộc ! Người ta thường cho là Đấng Messia phải là Đấng quyền năng và chiến thắng. Thế mà ở đây lại là hình ảnh một Đấng Messia “bị đâm thâu”.  Đấng bị đâm thâu được nhắc trong bài đọc chính là Vua Thiên Sai mà tiên tri đã vẽ lại dung mạo. Như người Tôi Tớ đau khổ (Is 53) vị Mục Tử này bị dân Ngài giết chết, nhưng nhờ được Thánh Thần soi sáng , họ sẽ hiểu rằng kẻ mà họ đã giết chết chính là Đấng Messia, cho nên họ sẽ nhìn lên Ngài và sẽ khóc lóc sám hối.
 
          +  Bài đọc 2 : Gl 3,26-29.
 
          Đức Kitô là biến cố quyết định của lịch sử. Nhờ Ngài, qua bí tích rửa tội và trong đức tin, chúng ta làm thành dân Thiên Chúa, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và có thể nhận nhau như anh em, ngay trong chính những cuộc tranh chấp khiến họ đối đầu với nhau, những cuộc ttranh chấp bắt nguồn từ sự khác biệt về chủng tộc, địa vị xã hội hoặc phái tính.
 
          Trong trật tự mới này không còn ai bị loại trừ, không còn phân biệt Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, ai cũng được làm con Thiên Chúa và anh chị em với nhau. Chính nhờ phép rửa tội, người tín hữu đã “mặc lấy Chúa Kitô” thì mọi người cũng trở nên một trong Đức Kitô rồi.
 
          +  Bài Tin mừng : Lc 9,18-24.
 
          Mọi người đang trông ngóng Đấng Cứu Thế, một Đấng Cứu Thế đầy quyền năng và sức mạnh có thế khuất phục được thế giới. Nhưng Đức Giêsu là Đấng Cứu thế  không dùng đến quyền năng và sức mạnh, Ngài chiến thắng bằng cách hy sinh mạng sống mình.
 
          Cho đến lúc đó, mặc dầu nghe Đức Giêsu giảng giải nhiều, các môn đệ vẫn chưa hiểu rõ sứ vụ của Ngài. Đức Giêsu hỏi thử các môn đệ để các ông có dịp xác nhận rõ hơn về Ngài. Và Phêrô đã thay mặt anh em  tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Sai. Ngài xác nhận lời tuyên xưng đó, nhưng cho biết thêm Ngài là Messia phải chịu đau khổ và chịu chết. Ngài còn nói thêm rằng ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường đó, con đường thập giá.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Muốn làm môn đệ Chúa.
I. ĐỨC GIÊSU LÀ AI ?
 
          1. Căn tính của Đức Giêsu.
 
          Vấn đề căn tính của Đức Giêsu luôn vang lên theo nhịp điệu của lời giảng và các hoạt động của Ngài. Gioan Tẩy giả từ trong ngục đã hỏi Ngài, qua trung gian môn đệ được sai đi :”Ngài có thật là Đấng phải đến chăng hay chúng tôi còn phải chờ một vị khác”(Lc 7,19). “Ông này là ai mà lại được tha tội (Lc 7,49), những khách dự tiệc nhà ông Simon đã kêu lên như vậy.  Rồi các môn đệ hỏi nhau khi họ thấy Ngài dẹp yên sóng gió:”Người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió và sóng gió phải tuân lệnh”(Lc 8,25). Rồi chính vua Hêrôđê, người đã chém đầu Gioan Tẩy giả cũng phải suy nghĩ :”Người này là ai mà ta nghe nói nhiều về ông như thế và ông tìm cách gặp Ngài”.
 
          Câu hỏi này đôi khi đã được giải đáp.”Một vị tiên tri vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài”. Những người chứng kiến cảnh con trai bà góa Naim được sống lại đã đồng thanh tung hô như thế (Fiches dominicales C, tr 224).
 
          2. Dân chúng nghĩ gì về Đức Giêsu ?
 
          Trên đường vào các làng trong thành Cêsarê-Philipphê, Đức Giêsu dẫn các môn đệ đến một nơi hoang vắng, nơi rất thuận tiện cho các môn đệ nghỉ ngơi và Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Trong khung cảnh lặng lẽ, xa mắt bọn thù địch, xa những tiếng ồn ào của đám dân chúng đi theo Đức Giêsu vì các phép lạ Ngài đã làm, Đức Giêsu cùng các môn đệ  họp mặt để dễ bề tâm sự riêng.
 
          Các môn đệ đã từng sống với dân chúng, các ông có thể biết nhận thức của dân chúng đối với Đức Giêsu, nên Ngài đã hỏi các ông :”Dân chúng bảo Thầy là ai” ? Các môn đệ kể ra những ý kiến khác nhau, lời đồn thổi về thân thế của Ngài, như Gioan an Tẩy giả, tiên tri Êâlia (vì tiên tri đến trước loan báo Đấng Messia) hoặc một tiên tri ngày xưa sống lại.
 
          Những nhận thức này cho thấy đám dân chúng tuy đã đón nhận các phép lạ Chúa làm nhưng chưa nhận thức được Đức Giêsu là ai, vì thế họ chỉ biết đồng hóa Ngài với Gioan Tẩy giả, với Eâlia hoặc một trong các tiên tri thời xưa.
 
          3. Các môn đệ nghĩ gì về Đức Giêsu ?
 
          Đức Giêsu hỏi tiếp ngay:”Còn các con, các con bảo Thầy là ai”? Câu hỏi này buộc các môn đệ phải đưa ra ý kiến của mình. Phêrô nhanh nhảu đáp:”Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Lời tuyên tín này biểu lộ đức tin của Phêrô vào Đức Giêsu là vị Thiên Sai của Thiên Chúa, Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu (Lc 4,18 ; Cv 10,58).
 
          Đức Giêsu liền nghiêm giọng truyền cho các ông “không được nói điều đó với ai”. Không phải vì Ngài từ chối danh hiệu mà Phêrô vừa tặng cho Ngài, nhưng bởi vì xử dụng danh hiệu đó là quá sớm, vì danh hiệu Messia lúc ấy còn rất hàm hồ trong ý nghĩa của người đồng hương và ngay cả các môn đệ của Ngài : họ hiểu Đấng Messia theo nghĩa chính trị,
 
          4. Đức Kitô đúng nghĩa.
 
          Đức Giêsu dưới con mắt người đời chỉ là Gioan Tẩy giả hay một tiên tri ngày xưa trở lại chứ đâu có nhìn ra được con người thật của Ngài.  Trong ngôn ngữ của chúng ta có một từ ngữ đặc biệt , đó là chữ “ngờ”. Ngờ là khó tin, khó tin nhưng có thật :
 
                                      Tưởng rằng nước chảy đá mòn,
                                      Ai ngờ nước chảy đá con trơ trơ.
                                                    (Ca dao) 
          Hôm nay, qua bài Tin mừng, các môn đệ cũng lâm vào cảnh khó tin, bất ngờ như vậy. Sau những phép lạ Chúa làm, như phép lạ hóa bánh ra nhiều cho 5000 người ăn, danh tiếng của Chúa lẫy lừng khắp nơi. Người ta còn muốn tôn Ngài làm Vua nữa. Ai ngờ hôm nay, Ngài tuyên bố những điều thật khó hiểu, làm mất hứng :”Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.
 
          Đây là lần thứ nhất Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Lần thứ hai ở Lc 9,44-45. Loan tin này là Ngài muốn chỉ cho các môn đệ thấy và hiểu cách thế Ngài cứu chuộc nhân loại : cứu chuộc bằng sự thương khó, tử nạn và phục sinh.
 
          Đức Giêsu là Đấng Messia như Phêrô đã đoán  chính xác. Nhưng Ngài không là Đấng Messia vinh quang như dân chúng đã mong đợi. Ngài phải là Đấng Messia đau khổ. Ngài không thống trị, Ngài chỉ phục vụ. Đức Giêsu không quan tâm  chiếu rọi loại hình ảnh mà dân chúng muốn. Ngài biết Ngài có một số phận mà Thiên Chúa đã định  mà Ngài phải hoàn thành, không sai sót.
 
 
II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA
 
          1Ai muốn theo Chúa.
 
          Tiếp theo đó, Đức Giêsu đưa ra lời mời gọi mọi người chứ không riêng gì các môn đệ, là hãy theo Ngài :”Ai muốn theo Ta”. Đức Giêsu muốn khơi động lòng muốn cho những ai theo Ngài. Điều đó chứng tỏ Chúa tôn trọng quyền tự do lựa chọn của con người, theo hay không theo cũng được. Tiếng La tinh dùng chữ “Si quis” (nếu ai) càng rõ nghĩa hơn : chữ “nếu” nói lên sự tự do hoàn toàn.
 
          Nếu câu hỏi của Đức Giêsu chỉ có bấy nhiêu chữ “Nếu ai muốn theo Ta”, thì tất cả chúng ta , những người đã được rửa tội, đều có thể đáp lại thật nhanh :”Con muốn…Con muốn theo Chúa”. Nhưng nếu nghe trọn câu Ngài nói :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”, thì chắc hẳn số người nhanh chóng trả lời “Con muốn” sẽ giảm đi rất nhiều”.
 
          2. Từ bỏ chính mình.
 
          “Ai muốn theo Ta” nghĩa là ai muốn làm môn đệ của Đức Giêsu (đi theo ai là làm môn đệ cho người đó). Muốn làm môn đệ của Chúa thì phải thực hiện hai điều kiện : từ bỏ chính mình và vác thập giá hằêng ngày. Điều kiện thứ nhất là TỪ BỎ MÌNH, nghĩa là đừng nghĩ đến mình, đến lợi lộc riêng tư, mà chỉ nghĩ đến Đấng mình làm môn đệ, mình đang theo.
 
          “Từ bỏ chính mình” : xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hóavong thân (aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt : tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Chúa Giêsu thì thật tuyệt vời. Đó chính là “thần hóa”. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa Giêsu.
 
          Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hóa” mà là tìm lại chính mình, bởi từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi  nên con người bị “tha hóa”. Nay cố gắng trở nên giống Chúa Giêsu chính là tìm lại  hình ảnh ban đầu (Carôlô).
 
          Theo Đức Giêsu, cũng có nghĩa là đáp lại đầy đủ lời Người mời gọi “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình” (Lc 16,24). Mà, tác động từ bỏ lớn nhất con người có thể được thực hiện là hy sinh tự do của mình, thuần phục hoàn toàn trong mọi sự theo đức vâng lời. Thực thế, đối với con người không có gì quí giá bằng ý chí tự do, vì chính tự do làm cho con người trở nên chủ nhân của người khác; nhờ tự do, họ có thể xử dụng và hưởng thụ những tài năng khác và đặt định cho mọi hành vi của mình. Cũng như con người từ bỏ của cải hay bà con thân thích, họ từ bỏ những thứ đó là từ bỏ tự do của ý riêng ; để làm cho họ được tự chủ, họ cũng khước từ chính mình.
                             (Sống với Chúa, tập 3, 1967, tr 232-234)
 
          3.  Vác thập giá mình
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các môn đệ nhận diện “Thầy là ai”(Lc 9,20), để giúp họ biết “họ là ai” trong tương quan giữa họ với Đức Giêsu. Khi tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa”(Lc 9,20) Phêrô cũng khẳng định “ông là môn đệ của Ngài”. Vì thế, Chúa mới nói cho các môn đệ biết họ cũng phải đi theo con đường đau khổ giống như Ngài :”Ai muốn theo Taphải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,22-23). Đó là con đường biến đổi đau khổ của thập giá thành Thánh giá.
 
          Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Galát rằng :”Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, nên anh em mặc lấy Đức Kitô”(Gl 3,27). Mặc lấy Đức Kitô, hay mặc lấy chiếc áo trắng rửa tội là mang lấy Thánh giá giống như Ngài. Đau khổ của thập giá tự bản chất là hình phạt bởi tội (St 3,16-19). Nhưng qua Đức Kitô, đau khổ đã trở nên giá cứu chuộc nhận loại, thập giá trở thành Thánh giá.
 
Do đó, trong bí tích Rửa tội, Linh mục làm dấu Thánh giá trên trán người được rửa tội. Đây là một sự thực hành mà Giáo hội mượn từ quân đội Rôma. Khi một người đã trở nên một người lính Rôma, anh bị đóng ấn bởi dấu hiệu của hoàng đế  trên trán để chứng tỏ từ bây giờ anh phải phục tùng hoàng đế. Dấu hiệu Thánh giá là dấu hiệu bề ngoài của một người thuộc về Đức Kitô, mang lấy Thánh giá như Chúa Kitô (Nguyễn văn Thái).
 
          Khi Đức Giêsu nói với các môn đệ “Hãy vác thập giá hằng ngày”, các ông chưa thể hiểu được điều này, phương chi đại chúng. Đức Giêsu vừa báo tin Ngài sẽ chết, nhưng chưa nói rõ sẽ chết cách nào. Sau khi Hêrôđê chết, hơn 2000 người bị đóng đinh, những người bị giết phải vác khổ giá của họ đến nơi bị giết. Chữ vác thánh giá ở đây hiểu theo nghĩa thiêng liêng : tức là chịu mọi thử thách, chết cho thế gian, chỉ sống cho một mình Chúa.
 
          Người Kitô hữu biết từ bỏ mình và vác thập giá mình không có nghĩa là  phải làm những điều đặc biệt, những việc phi thường, mà làm những việc bình thường vừa sức mình. Nếu nói dứt khoát “không” với chính mình không có nghĩa là phải ghét mình, bởi lẽ ta phải yêu tha nhân như chính mình; nhưng chính là không qui hướng mọi sự về mình. Dứt khoát nói “không” đó cũng chính là  hiện tại hóa việc vác thập giá. Chính thập giá của riêng tôi  mà tôi phải vác lấy, thập giá của cuộc sống đè nặng vai tôi ; tôi đừng mơ tưởng một thập giá khác. Đó không phải là chứng bệnh tự hành hạ mình, tự làm khổ mình, nhưng chính là vì biết chắc rằng tôi không thể mến Chúa và yêu tha nhân, nếu không hy sinh hoặc cách này, hoặc cách nọ, và nếu không đi qua đau khổ. Khi bắt chước Đức Kitô như vậy, tôi mới thật là môn đệ của Ngài (H. Cousin).
 
Truyện vui : Vác thập giá mình.
 
          Vào chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh, cha sở kêu gọi giáo dân : khi quí vị đến nhà thờ đi chặng đường Thánh giá tưởng niệm sự chết và đau khổ của Chúa Giêsu, mỗi người nên làm một cây thập giá  bằng bất cứ vật liệu nào  tượng trưng cho sự đau khổ của mình trong cuộc đời đang phải chịu. Sau chặng đàng Thánh giá yêu cầu quí vị mang lên bàn thờ cho tôi làm phép. Mọi người đều mang lên đủ loại thập giá. Ông trùm bước lên tay không, cùng với bà vợ. Khi cha sở hỏi , thập giá của ông đâu, ông chỉ ngay vào bà vợ và nói :”Thưa cha, đây là thập giá của con”. Cha sở cũng làm phép, nhưng sau đó liền bảo ông rằng :”Bây giờ ông hãy ôm lấy cây thập giá này và hôn lên cây thập giá của ông đi”.
 
          Đây là một câu chuyện vui cười ! Nhưng Thập giá Đức Giêsu đề cập đến không phải chỉ là bà vợ hay ông chồng. Nó không đơn thuần chỉ là một đám cưới không hạnh phúc, hay những trở ngại khó khăn đến với chúng ta ngoài ý muốn, cũng không chỉ là những điều xui xẻo, không may xẩy đến như thi rớt, bệnh tật, mất việc.  Thập giá Đức Giêsu đề cập chính là sự chọn lựa từ bỏ mình để dâng hiến hoàn toàn cho thánh ý Thiên Chúa (Rm 6,13 ; 12,1). Từ bỏ những ý kiến, suy nghĩ riêng tư, cả cái tôi kiêu căng, tự ái, ích kỷ và lòng ham hố danh lợi (Pl 2,21). Đó là tự làm rỗng mình đi cho Thần Khí của Thiên Chúa ngự trị, để làm theo thánh ý của Thiên Chúa . Đó là với Đức Tin Cậy Mến chúng ta biến đổi Thập giá thành Thánh giá, đau khổ trở nên giá cứu chuộc linh hồn cho mình và cho nhân loại (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữõa dòng đời, C, tr 229).
 
III.  HÃY ĐỒNG THUẬN VỚI CHÚA.
 
          1. Tuân phục thánh ý Chúa.
 
          Tuân phục thánh ý Chúa là đặt ý Chúa lên trên ý riêng của ta. Muốn được thế, chúng ta phải hủy diệt ý riêng, từ bỏ sự tự do của mình, hiến dâng nó cho Chúa như dâng một lễ vật toàn thiêu để không còn giữ lại cho mình một chút gì. Đó là sự vâng phục hoàn toàn thánh ý của Chúa  và ta sống hoàn toàn  tin tưởng phó thác nơi Người.
 
          Hãy coi mình như dụng cụ Thiên Chúa dùng. Chúng ta là sản phẩm Thiên Chúa dựng nên, cho dù ta đẹp đẽ, hay ho mấy cũng chỉ là dụng cụ của Chúa dùng trong việc làm sáng danh Ngài. Dụng cụ là gì ? Là đồ dùng  để làm việc gì như chàng , đục, cưa để làm thợ mộc; máy may, kim, chỉ dùng để may áo. Dụng cụ được coi như phương tiện cần dùng để đi tới đích. Mà thân phận của dụng cụ là ít được biết tới. Người ta chỉ chú ý tới đồ vật được làm ra hay chỉ nghĩ tới tác giả của nó.
 
          Chúng ta là những dụng cụ của Chúa, những dụng cụ vô dụng được ở dưới sự xử dụng vô cùng khôn khéo của Thiên Chúa, để mặc dầu chúng ta là vô dụng, nhưng chính Chúa sẽ làm cho nó trở nên hữu dụng, ích lợi và còn cần thiết nữa, như người ta nói :
 
                                       Ai làm cho cải tôi ngồng,
                                       Cho dưa tôi khú cho chồng tôi chê.
                                       Chồng chê thì mặc chồng chê,
                                       Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.
                                                     (Ca dao)
          Vì là dụng cụ của Chúa nên chúng ta cần phải có thái độ khiêm nhường, những thành công tốt đẹp không phải chỉ do chúng ta, mà do Chúa vì một bài thơ hay, không phải tự cái bút mà là do thi sĩ. Cái bút tốt hay xấu, có nó hay không thì những vần thơ vẫn có trong đầu óc thi sĩ rồi. Cũng đừng buồn khi không được dùng vào những công việc cao vì không có tài : đôi guốc không hề phàn nàn vì phải ở dưới chân, cái mũ không hãnh diện vì được ở trên đầu người ta… Ở đâu hay được dùng vào việc gì là tùy ở công dụng của nó và tùy ở quyền người xử dụng.  Chúng ta chỉ biết than thở với Chúa rằng :
                                       Khi hoàn tất việc đã làm,
                                       Nâng lòng lên Chúa mà than thở rằng :
                                       Này con vô dụng muôn phần
                                       Phần con, con đã thi hành mà thôi.
                                                   (Lc 17,10)
                            
Truyện : Tờ giấy trắng và cây viết
 
          Khi nhắc đến ông Leonardo da Vinci, chúng ta thường nghĩ đến những phát minh khoa học và những bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí ông Leonardo de Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích hoặc đặt ra những câu chuyện vui sau đây về một cuộc đối thoại tưởng tượng giữa một tờ giấy trắng và cây viết :
          Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù lì trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó được chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên nó không biết bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn nàn với cây viết như sau :
          - Tại sao anh lại làm thế ? Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng ban đầu. Anh làm nhục tôi như thế này sao ? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.
          Nhưng cây viết trả lời :
          - Không đâu anh giấy ạ, anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lêân anh những dấu hiệu, những dòng chữ kể từ nay  anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, nhưng có mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng tác với con người. Lưu giữ những tư tưởng cao siêu. Và vì thế được con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp cho con người.
          Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ giấy khác, trước kia trắng tinh nay đã đổi mầu, đầy bụi mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Tờ giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia mới hiểu được hành động của cây viết và lấy làm sung sướng, vì được trở thành như người cộng tác  lưu giữ trong kho tàng trí khôn con người (R.Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 52).
 
          2. Theo Chúa là khôn ngoan.
 
          Ở đời, con người có cái dại có cái khôn, tùy theo quan niệm của từng người. Đối với tiền của, mỗi người có một quan niệm. Người có tinh thần siêu thoát thì coi tiền của như đầy tớ trung thành phục vụ cho mình, người phàm tục coi tiền của như ông chủ khắc nghiệt, mình phải làm tôi tớ cho nó. Nó có thể sai khiến mình phải làm bất cứ một việc gì, mặc dầu có hại cho mình. Đúng như người ta nói :”Hoàng kim hắc thế tâm nhân” : đồng tiền làm đen tối lòng người.
 
          Vì thế, dại khôn, khôn dại bị đảo lộn, tùy theo quan niệm của từng người. Thi sĩ Nguyễn công Trứ có cái nhìn đúng đắn khi ông nói :
                  
                                      Đã không điều lợi khôn thành dại,
                                      Đã có đồng tiền dở cũng hay.
 
          Đối với những người theo Chúa, người đời có những cái nhìn khác nhau. Đã theo Chúa thì phải đi con đường khổ giá mà con đường khổ giá là phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.
 
          Đối với thập giá, nhiều người cũng có cái nhìn khác nhau. Đại đa số người ta có cái nhìn bi quan về thập giá, họ cho thập giá là một sự điên rồ hay là cớ vấp phạm, không chấp nhận được. Ta hãy nghe thánh Phaolô nói về vấn đề này như thế nào :
 
“Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái cho là ô nhục không thể chấp nhận được, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người”(1Cr 1,22-25).
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói đến hai điều nghịch lý, thoạt xem ra có vẻ phi lý, nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Đó là nghịch lý giữa mất vàcòn, giữa chết và sống.
 
          Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng nghịch lý thay, nhiều khi vì “được” mà phải “mất” : Thí dụ trong một vụ tranh cãi, bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu mô để cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng một vụ cãi, nhưng mất tình nghĩa bạn bè, anh em và có khi cả cha con. …
 
          Chết và sống không hẳn là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau : ví dụ hạt giống có thối nát ra thì mới sinh hoa kết quả được, con vật có bị giết chết đi thì mới phục vụ sự sống cho con người, cây nến sáp phải chảy ra và bị đốt đi thì mới cung cấp ánh sáng cho con người (Carôlô).
 
          Như vậy, với con mắt đức tin, những người theo Chúa và đi theo con đường thập giá của Ngài là nhưng người khôn ngoan, hiểu Lời Chúa và biết lo cho tương lai của mình :”Nếu được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì” ?
 
Truyện : Hạt trân châu
 
          Ngày xưa có ba chàng kỵ mã vượt qua một bãi sa mạc quạnh hiu không một bóng người. Một hôm trời vừøa sập tối, ba chàng kỵ mã cũng vừa đến  một bờ suối đã khô cạn từ lâu. Bỗng chốc trong đêm tối có một tiếng nói bí mật vang lên mơ hồ :
          - Hãy dừng chân lại.
          Cả ba đều tuân lệnh. Tiếng nói bí mật ấy lại tiếp tục vang lên mơ hồ :
          - Các ngươi hãy xuống ngựa, bước xuống lòng suối, nhặt lấy cho mình ít đá sỏi, bỏ vào túi rồi tiếp tục lên đường. Cả ba đều làm theo lời chỉ dạy thiêng liêng. Rồi tiếng nói kia lại cất lên trầm ấm
          - Hay lắm, các ngươi đã làm theo lệnh ta. Ngày mai, khi vừng đông vừa ló dạng các người sẽ vừa sung sướng vừa buồn bã.
          Các kỵ mã lên đường dong ruổi ban đêm. Quả đúng như lời mách trước, khi mặt trời vừøa lên, ba chàng ky mã thấy cái gì lấp lánh trong túi mình. Thì ra, những hòn sỏi họ lấy chiều hôm trước bây giờ đã trở nên những hạt trân châu sáng ngời muôn sắc. Cả ba đều vừa sung sướng, nhưng cũng vừa nuối tiếc. Họ sung sướng vì nhận được của báu, nhưng họ hối tiếc vì nhặt quá ít (Nguyễn văn Huệ, báo Rạng đông, số 64, 1970, tr 26).
 
                                     

 
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN C
DẤN THÂN THEO ĐỨC KITÔ

A. DẪN NHẬP.
 
          Mọi người đều có ơn gọi đi theo Chúa. Ngày xưa, Thiên Chúa trực tiếp kêu gọi một số người như Maisen, Êlia, các tổ phụ, các tiên tri, các Tông đồ, nhưng thường Ngài gọi qua trung gian như trường hợp Êlisê trong bài đọc 1 hôm nay. Êlia đã truyền nghiệp tiên tri cho Êlisê bằng việc quăng áo choàng của mình cho ông và ông này đã từ bỏ mọi sự mà theo Êlia.  Ngày nay Chúa vẫn còn tiếp tục kêu gọi chúng ta theo Chúa bằng ơn thánh, bằng những biến cố bên ngoài hoặc bằng những người khác hướng dẫn, và sự đáp trả tùy thuộc ở sự tự do của mỗi người.
 
          Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc ba người thanh niên được kêu gọi đi theo Đức Giêsu để làm môn đệ. Tuy là ba trường hợp khác nhau, nhưng điều kiện Đức Giêsu đưa ra đều giống nhau là phải từ bỏ mọi sự, dứt khoát, quên đi quá khứ, và còn phải chấp nhận một cuộc sống bấp bênh về vật chất. Trước những điều kiện khắt khe này, không biết ba người đó có quảng đại chấp nhận để theo Chúa không vì Tin mừng không nói rõ.
 
          Chúng ta đã được chịu phép rửa tội, đương nhiên chúng ta trở thành “Kitô hữu”, là “Alter Christus” (Chúa Kitô khác), và một khi đã là Kitô hữu thì đương nhiên chúng ta đi theo Chúa, trở thành môn đệ của Ngài. Do đó, bổn phận của Kitô hữu là phải sống đời chứng nhân, phải trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô để có thể nói như thánh Phaolô:”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

 
Bài đọc 1 : 1V 19,16b.19-21.
 
Thiên Chúa kêu gọi người ta không theo bất cứ tiêu chuẩn nhân loại nào cả. Ngài hoàn toàn tự do kêu gọi. Phần con người, khi đã nhận ra được Thiên Chúa gọi thì phải mau mắn đáp trả.
Thiên Chúa phán bảo Êlia hãy chọn Êlisê làm tiên tri thay cho mình. Êlia đã đi tìm và gặp Êâlisê đang cầy ruộng. Thay vì đặt tay trên Êlisê, tiên tri Êlia quăng áo khoác của mình cho đệ tử, để truyền thừa cho Êlisê ân sủng kế nghiệp làm tiên tri. Sau khi từ giã cha mẹ, Êlisê lấy chiếc cầy làm củi đốt lên quay cặp bò làm thịt cho dân chúng ăn, rồi đi theo tiên tri Êlia với sự tự nguyện và đại độ hy sinh tất cả để nghe theo tiếng gọi của Chúa.
 
+ Bài đọc 2 : Gl 5,13-18.
 
Thánh Phaolô cho tín hữu Galata biết rằng nhờ phép rửa tội  họ đã thoát khỏi sự ràng buộc của luật đạo cũ để trở nên con người tự do. Cuộc sống con người tự do là sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần chứ không theo sự xúi dục của xác thịt.
Chúng ta là những con người tự do, chỉ tuân thủ một lề luật duy nhất  là : yêu mến Chúa và yêu thương anh em như chính mình. Điều này là cốt lõi của đạo mới.
Bài Tin mừng : Lc 9,51-62.
 
Bài Tin mừng chia làm hai phần :
a) Chuyện dân làng Samaria không đón tiếp Đức Giêsu.
          Muốn cho gần, Đức Giêsu muốn đến Giêrusalem, phải đi qua vùng Samaria.  Vì sự nghi kỵ và thù hằn giữa người Do thái và Samaria, dân làng không đón tiếp mà còn gây phiền nhiễu. Trước sự kiện này, hai ông Giacôbê và Gioan nổi nóng muốn lửa trên trời đốt cháy dân làng này, nhưng Đức Giêsu khuyên các ông hãy nhường nhịn và khoan dung.
 
b) Chuyện ba người muốn làm môn đệ Đức Giêsu.
Điều quan trọng trong những câu chuyện này không phải là những nhân vật, mà là giáo huấn của Đức Giêsu và những điều kiện để làm môn đệ Ngài. Ngài đưa ra những yêu cầu khẩn thiết là phải từ bỏ nếp sống an toàn, phải coi việc Nước Chúa quan trọng hơn hết và phải quyết tâm tiến tới, đừng ngoái cổ về dĩ vãng.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Dứt khoát đi theo chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay chúng ta thấy ghi lại hai sự kiện tuy khác nhau nhưng cùng một ý nghĩa, nói lên tinh thần môn đệ của Đức Giêsu phải có .
Đối với việc dân làng Samaria không đón tiếp Chúa, còn gây khó khăn cho cuộc hành trình của Ngài, Đức Giêsu dạy các môn đệ phải có tình thần nhường nhịn và khoan dung bởi vì :”Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta”. Còn đối với những người đi theo Chúa, Ngài muốn nêu lên những đức tính mà những người theo Ngài  phải có, cũng như những đòi hỏi của sứ vụ tông đồ.
 

I. CÂU CHUYỆN DÂN LÀNG  SAMARIA VƠIÙ ĐỨC GIÊSU.

 
1. Giữa người Do thái và Samaria có một sự xung khắc về quốc gia và tôn giáo. Người Samaria bị những người Do thái giáo coi như những kẻ ly giáo, từ khi họ đã xây dựng một ngôi đền thờ trên đỉnh núi Garizim để cạnh tranh với đền thờ Giêrusalem. Phải tránh tiếp xúc với những kẻ “lầm lạc” ấy (Ga 4,9-20). Bị những người Do thái khinh bỉ, họ trả đũa lại bằng cách gây ra mọi phiền nhiễu cho các đoàn hành hương mượn  con đường ngắn nhất để đi từ Galilêa về Giêrusalem.
 
Vì hoài nghi tâm địa người trong thôn xã, Đức Giêsu sai một số môn đệ không phải là tông đồ (Lc 6,13; 10,1) vào thương lượng trước với người trong làng. . Người Samaria sẵn có ác cảm từ lâu  đời đối với người Do thái, nhất là trong các dịp đại lễ, tinh thần ác cảm đó còn gợi lại mạnh mẽ thêâm vì người Do thái thường chỉ trích người Samaria về việc thờ Chúa ở trên núi Garizim, hai nơi vẫn còn tranh chấp về việc thờ tự Thiên Chúa. Vì thế, khi nghe phái đoàn đi Giêrusalem, người trong làng từ chối không chấp nhận.
 
Trước thái độ từ chối của dân làng Samaria, hai ông Giacôbê và Gioan, với biệt hiệu là “Con trai Thiên Lôi”: muốn xin lửa từ trời xuống thiêu đốt những kẻ nghịch này. Hai ông có thái độ như thế vì nhớ lại trường hợp tiên tri Êlia đã làm xưa (2V 1,10) và nghĩ rằng dân làng Samaria  làm như thế là đã làm nhục cho Chúa. Đây là thái độ còn nhiều tinh thần Cựu ước, tinh thần báo thù.
 
2. Ở đây Đức Giêsu muốn cho các môn đệ một hình ảnh đích thực về Thiên Chúa, Ngài vốn là Đấng toàn năng nhưng không can thiệp như một ông vua chuyên chế bắt các bề tôi và kẻ thù phải qùi mọp dưới chân, nhưng Ngài chờ đợi họ hoán cải như người cha, người mẹ đối với con cái :”Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa”.
 
Các môn đệ được hiểu rằng việc báo thù là việc của tà thần chứ không phải là việc của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa báo oán, mà là Thiên Chúa tình thương. Đức Giêsu muốn dạy cho các ông con đường đi theo Chúa không luôn thẳng tắp, không gặp trắc trở. Vậy những ai muốn theo Chúa phải nhẫn nại hiền lành để đối xử lại, để chinh phục lại các linh hồn. Thánh Phanxicô Salêsiô nói :”Một thìa mật lôi kéo nhiều ruồi hơn một thùng giấm”.

II. CÂU CHUYỆN BA NGƯỜI MUỐN LÀM MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊSU.

 
Bị người Samaria từ chối thẳng thừng, Đức Giêsu không để ý đến việc đó, Ngài bảo các môn đệ đi sang làng khác để đi tới Giêrusalem. Trên đường tiến về Giêrusalem, Luca ghi lại có ba trường hợp về ơn gọi theo Chúa. Ba trường hợp khác nhau nhưng tất cả đều nói lên những đòi hỏi dứt khoát đối với những người muốn làm môn đệ Chúa.
 
1. Trường hợp thứ nhất.
 
Một người tự nguyện đến xin theo Đức Giêsu, Ngài bảo anh ta :”Con cáo cóù hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi tựa đầu”.
Người thứ nhất, theo Tin mừng Matthêu, là một luật sĩ, tự thân hành đến theo Ngài. Thấy người ta tấp nập đi theo Chúa, anh cũng hớn hở đi theo, phải chăng anh ta  “Thấy người ta  ăn khoai cũng vác mai đi đào”(tục ngữ) ? Anh ta sẵn sàng đi theo Ngài khắp nơi, phải chăng vì anh ta thấy nơi Ngài có thể thoả mãn được những tham vọng của anh như giầu có, địa vị, quyền thế... Nhưng Đức Giêsu đã trả lời rằng Ngài nghèo lắm, không có nhà cửa, chỉ sống nay đây mai đó, không có gì bảo đảm cho cuộc sống, đến nỗi còn thua con chồn có hang, chim trời có tổ. Ngài nghèo đến nỗi không có nơi tựa đầu, tức là không có một cái nhà để ở.
 
Ngài cho biết là Ngài nghèo như thế đó, anh ta có thể theo được không ? Ngài muốn đòi hỏi phải từ bỏ mọi an toàn, nhất là vật chất. Tin mừng không cho biết anh ta có chấp nhận điều kiện Ngài đưa ra không, tức là anh ta có đi theo Ngài không ?
 
2. Trường hợp thứ hai.
 
Đức Giêsu kêu gọi một kẻ theo Ngài. Anh ta xin khất trở về chôn cất cha già mới chết đã. Ngài bảo :”Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần anh hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”(Lc 9,59-60).
Anh chàng này không tự ý đến xin theo Đức Giêsu, nhưng chính Ngài kêu gọi anh ta. Anh ta sẽ đi theo Ngài nhưng chỉ xin về chôn cất cha già mới chết đã rồi sẽ đi theo. Nhưng Đức Giêsu không chấp nhận.  Phải chăng Ngài không chấp nhận vì kế hoãn binh của anh ta ? Nói rằng “về chôn cất cha già” không nhất thiết là cha già vừa mới chết, vì tại Palestine, việc chôn cất một người chết phải được thực hiện ngay trong ngày, nên khó mà nghĩ rằng Đức Giêsu đã không đồng ý cho anh ta lưu lại vài giờ trong trường hợp ấy. Nhưng ở đây anh ta có ý thoái thác, muốn đợi cho cha mình chết  rồi mới có thể theo Đức Giêsu. Đó là cách trì hoãn mà Ngài từ chối.
Thực ra, Đức Giêsu không bãi bỏ giới răn thứ tư, nhưng Ngài dạy rằng có những lúc phải đặt việc phụng sự Chúa trước và trên hết (Lc 14,26). Trong trường hợp phải lựa chọn, thì những đòi hỏi của Nước Trời phải chiếm phần ưu tiên trên tất cả.  Như vậy, trong trường hợp thứ hai này, Đức Giêsu muốn đòi hỏi phải coi tất cả là phụ thuộc trước bổn phận cấp bách rao giảng Tin mừng.
Chúng ta có những gương : Thánh Neron, tử đạo tại Sơn tây Việt nam, trên đường xuống hải cảng Marseille để đi truyền giáo, đã cố tình tránh cha mẹ bà con ra tiễn tại sân ga. Nữ thánh Chantal nước mắt tràn trụa bước qua các con nằm chận cửa, không cho mẹ đi lập dòng Thăm Viếng.
3. Trường hợp thứ ba.
 
Trong trường hợp này, cũng có một anh chàng đến xin theo Đức Giêsu, giống như trường hợp người thứ nhất. Điều kiện tiên quyết mà anh ta đặt ra  gần giống điều kiện của Êlisê (bài đọc 1), tức là xin về từ giã gia đình trước đã.  Đức Giêsu trả lời :”Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”(Lc 9,60-61).
Tin mừng diễn tả thái độ dứt khoát từ bỏ của ông Phêrô và Anrê:”Lập tức, hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Ngài”(Mt 4,20), của Giacôbê và Gioan :”Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha mẹ mà theo Ngài”(Mt 4,22).
Đối với anh chàng này xem ra anh ta còn lưỡng lự, nhập nhằng nửa muốn theo, nửa còn quyến luyến thế gian. Nên Đức Giêsu nói rõ:”Ai đã trao tay vào cầy mà còn ngoái lại sau lưng thì không xứng đáng Nước Thiên Chúa”. Kinh nghiệm cho hay để rạch một đường cầy cho đúng  thì không được quay mặt lui.  Ở đây muốn nói : Theo Đức Giêsu thì phải dứt khoát với quá khứ, không những phải cắt đứt những ràng buộc cũ với gia đình  mà còn phải từ bỏ nỗi lo lắng giữ lại tất cả gia sản, những giá trị và kinh nghiệm luân lý mà quá khứ đã cho ta đạt được. Để trở nên thích hợp với Nước Trời, phải từ bỏ tất cả quá khứ (1Pr 5,8-9).
Thế mà vẫn có một số người luôn để lại con tim ở một nơi nào, cho một ai đó trong quá khứ như bài hát :”Để quên con tim” của Đức Huy :”Ngày rời Paris  anh đã để quên con tim” hay đi tìm hạnh phúc ở sự nuối tiếc những ngày tháng huy hoàng đã qua.
Và trong cuộc sống mới phải có một con tim không chia sẻ, phải bước đi mắt nhìn thẳng về phía đàng trước (1Pr 3, 43) nghĩa là nhìn vào Đấng  đi trước là Đức Giêsu Kitô (Dt 12,1-2).  Trường hợp thứ ba này,  Đức Giêsu muốn đòi hỏi phải quay lưng lại quá khứ và nhìn về phía đàng trước . Thánh Phaolô đã thực hiện Lời Chúa :”Quên phía sau mà lao mình tới trước, tôi nhắm đích chạy đến giải thưởng của ơn kêu gọi Chúa ban”(Phil 3,13-14).
Truyện : Ta đã ném vào chỗ đó.
Một linh sư Ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông. Có một người đàn ông nọ muốn xin làm đệ tử, rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân vị tu hành hai viên ngọc qúi như của lễ ra mắt. Vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống sông. Tiếc của,  người đàn ông giầu có liền nhảy xuống sông để cố tìm lại viên ngọc. Nhưng mất một ngày mà không tài nào tìm lại được. Chiều đến, người đàn ông đến xin vị linh sư chỉ rõ nơi ông đã ném viên ngọc quí. Vị linh sư cầm viên ngọc còn lại ném xuống sông và nói :”Ta đã ném vào chỗ đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm”.
 
III. CÂU CHUYỆN ĐỜI KITÔ HỮU.
          1. Câu chuyện lựa chọn trong đời.
Đời là một chuỗi những lựa chọn, lựa chọn cho mình và cho người khác. Lựa chọn cho mình là quan trọng nhất vì mình phải nhận lấy cái hậu quả của sự lựa chọn ấy. Vì thế, người ta thấy thao thức băn khoăn đứng trước một sự lựa chọn quan trọng . Lựa chọn đòi sự dấn thân.
          Ngày nay người ta nói nhiều đến dấn thân. Dấn thânnhập cuộc là thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà lựa chọn là liều lĩnh, vì không bao giờ ta nắm được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do chọn lựa và những điều tương lai có thể dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn suy nghĩ, cân nhắc theo như ta có thể rồi, ta có quyền bước lên.
          Có những định hướng lựa chọn cho cả cuộc đời. Sự liều lĩnh lại còn lớn hơn. Chọn một nghề nghiệp nhiều khi cũng quan trọng vô cùng, nhưng thường người ta có thể  thay người mà không ảnh hưởng sâu xa đến đời sống. Còn chọn một người bạn trăm năm, hay chọn con đường tu trì gần như là chọn chính đời sống của mình. Đó là những chọn lựa căn bản, sẽ chi phối những chọn lựa riêng rẽ khác về sau. (Nguyễn hồng Giáo, báo Nhà Chúa, 1971).
          Ai mà không lo lắng trước khi kết hôn vì đây là khúc quặt của đời sống, nó chi phối cả cuộc đời của mình, may rủi ai mà biết ? Một cô gái trước khi lấy chồng đã nói lên nỗi băn khoăn lo lắng của mình trước một tương lai còn mở rộng ra trước mắt :
                             Theo anh em cũng muốn theo
                             Em sợ anh nghèo, anh bán em đi.
 
          Người muốn chọn bậc tu trì cũng không khỏi băn khoăn thao thức trước quyết định  của mình. Sống độc thân hay lập gia đình ? Nếu sống độc thân thì sống ở ngoài đời hay trong bậc tu trì ? Nỗi băn khoăn đó đã được Thanh Tâm diễn tả trong Lời nguyện biện phân của mình :
          ... Con yêu biết bao khung cảnh yên tịnh và bầu khí thánh thiện của các tu viện, nhiều lúc con xúc động mãnh liệt khi tham dự các lễ khấn trong Dòng, khi thấy các soeurs, các thầy sống vui tươi với đời tận hiến. Con bắt đầu hiểu đúng hơn về từ LỰA CHỌN. Không phải là chọn lựa giữa cái xấu và cái tốt nhưng là lựa chọn giữa hai điều cùng tốt như nhau đối với mình, chọn một, bỏ một và có khi bỏ với một sự tiếc nuối. Con nghĩ về mối tình của mình và cuộc sống dấn thân đang mời gọi. Bên nào cũng đẹp, song thật tình mà nói con vẫn muốn có cả hai. Dao động, băn khoăn, thao thức...
          Có lẽ Chúa đã chuẩn bị cho con tất cả những gì cần thiết để đến một lúc, con biết bình tĩnh và nhẹ nhàng chia tay với người yêu. Không phải là con đã lựa chọn nhưng đã có những trắc trở nào đó can thiệp  và con hiểu rằng không thể làm khác được. Song con hiểu rằng, Chúa đã chuẩn bị từng bước cho con để con có thể đứng vững trước sự mất mát của mình. Chúa biết rõ sự yếu đuối của con và Chúa đã tiếp sức cho con (Thanh Tâm, Chúng tôi nhữøng người trẻ... 1993, tr 70).
 
          Lựa chọn là một hành vi nhân linh. Con vật cũng có lựa chọn nhưng chỉ là lựa chọn theo bản năng,  còn con người hơn con vật ở chỗ biết lựa chọn theo lý trí và ý chí của mình. Có người không dám lựa chọn nên không có hướng đi cho cuộc sống, họ sống vất vưởng ở ngã ba đường.
 
Truyện : bắt cá hai tay.
 
          Ông viện trưởng Đại họa Paris ở thế kỷ 14 đã làm một thí nghiệm như sau : Ông để cho con lừa nhịn đói, nhịn khát trong mấy ngày. Sau đó, ông đưa nó đến sân ăn, đặt nó giữa một thùng nước và một bó cỏ non. Lừa ta tuy đói lắm nhưng hết nhìn đống cỏ này lại ngó thùng nước kia, nó lưỡng lự giữa nước và cỏ, để rồi cuối cùng kiệt lả mà chết.
 
          2. Câu chuyện làm Kitô hữu.
 
          Mọi người sinh ra ở đời đều có khả năng khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa qua những khả năng tự nhiên của mình. Nhìn vào trời đất  vạn vật, lý trí nhắc nhở ta phải nhìn nhận có một vị dựng nên tất cả những cái đó. Và nếu đứng về phương diện tôn giáo thì phải gọi đấy là Đức Chúa Trời.
 
          Khi Ngôi Hai xuống thế làm người mặc lấy thân xác loài người, trở nên con người như mọi người, là Đức Giêsu Kitô thì Thiên Chúa cũng ban cho con người có khả năng nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa qua ánh sáng mạc khải. Qua ơn soi sáng của Chúa, con người có thể khám phá ra Đức Giêsu.
 
Truyện : Khám phá ra Đức Giêsu
 
          Có người cho rằng việc khám phá ra thuốc mê đã giúp con người giảm bớt đau đớn nhiều hơn bất cứ khám phá nào trong y khoa.
          Một hôm có người hỏi James Simpson :
          - Ông cho điều gì là khám phá lớn nhất của ông ? Và mong được câu trả lời rằng :
          - Thuốc mê – vì ông là người đã khám phá ra môn thần dược này.
          Nhưng Simpson trả lời rằng :
          - Khám phá lớn nhất của tôi là Chúa Giêsu, Chúa Cứu chuộc của tôi.
 
          Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu một cách hữu hình thì có thể hình dung ra con người của Ngài với một vài nét mờ nhạt. Dĩ nhiên sự hình dung đều đa dạng, hình dung nào cũng chỉ có thể nói lên được  một khía cạnh con người của Ngài . Qua thời gian có nhiều cách hình dung :
          - Người Do thái coi Đức Giêsu như một người giảng đạo, một người làm phù phép.
          - Vào những năm đầu của thập niên 70, cao trào hippi đang lên, người ta coi Ngài như tiêu biểu  và người mẫu cho giới Hippi.
          - Đối với Fidel Castro và Nguyễn văn Linh thì Đức Giêsu là một nhà đại cách mạng. Vì Ngài đã đề xuất nhiều quan điểm cấp tiến, táo bạo để cải thiện xã hội, cải thiện con người với người.
          - Trước đây vài chục năm. một cuốn phim về Chúa Giêsu với dụng ý bôi lọ Chúa, đã coi Chúa như gã si tình nàng Madalena.
          Ta thấy Chúa Giêsu đã được hình dung, tô vẽ thật phiến diện. Sai ? Đúng ? Bị bóp méo ? Tất cả những hình dung ấy đều cho ta thấy rằng : Đức Giêsu luôn luôn là nhân vật bắt buộc người ta đặt vấn đề.
          Ta phải khẳng định : “Đức Giêsu hôm qua, hôm nay và muôn thuở vẫn là một”(Dt 13,8).
          Hình dung nào cũng phiến diện, chỉ có lời tuyên xưng của Phêrô là đủ :”Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16) (GM Nguyễn bình Tĩnh, Như một kỷ niệm, tr 15).
 
          Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta biết rằng mọi người có ơn gọi đi theo Đức Giêsu, làm môn đệ của Ngài. Chúa có thể kêu gọi trực tiếp hay gián tiếp qua những hoàn cảnh bên ngoài. Tuy nhiên, những người đã được chịu phép Thánh tẩy thì đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu vì họ được mang tước hiệu là “Kitô hữu”, người Kitô hữu là một “Kitô khác”, là “Alter Christus”, được mang danh Ngài, được thuộc về Ngài, được kết hợp với Ngài, để có thể nói được như thánh Phaolô:”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
 
          Về tước hiệu cao quí này, thánh Grêgôriô, Giám mục Nitxê đã phát biểu :”Chúa nhân lành đã thông ban cho chúng ta một danh hiệu cao quí nhất, linh thiêng nhất, trọng đại nhất, vượt trên mọi danh hiệu, đến độ chúng ta được vinh dự mang chính danh của Đức Kitô khi được gọi là “Kitô hữu”. Vì thế, mọi danh xưng dùng để giải thích tên gọi trên nhất thiết phải được tỏ rõ nơi con người chúng ta. Chúng ta đừng để mình bị xem là “Kitô hữu” giả, nhưng phải dùng đời sống mình mà minh chứng cho tên gọi ấy” (Các bài đọc Kinh sách, tập 3, tr 351).
 
          Được làm môn đệ của Đức Kitô là một vinh dự. Nhiều người đã nhận lấy vinh dự đó trong ngày chịu phép rửa tội. Họ đã thề hứa trung thành với Chúa, nhưng mối quan hệ của những người thời nay đã làm cho lòng tin của họ bị lung lay, chao đảo, họ có mặc cảm về sự lựa chọn của mình, họ không giữ vững lấp trường nên dần dần họ sống theo dư luận, xa dần với đời sống Kitô hữu.
 
Truyện  vui : Sống theo dư luận,
 
          Hai cha con một bác nhà quê dắt con lừa đi ra tỉnh. Mới đi được một quãng thì gặp một người hỏi :
          - Chà, sao ông không để cho con ông cỡi con lừa ?
          - Ồ, tôi chưa nghĩ tới  điều đó.
          Nói xong ông bồng con  cho ngồi lên lưng lừa. Đi được một lát lại gặp một người khác nói :
          - Sao mày ngồi trên lưng lừa mà để cho ông già đi bộ ? Mày xuống ngay đi cho cha mày cỡi.
          - Phải đấy.
          Đứa con vội nhảy xuống đất đỡ cha mình lên lưng lừa. Đi thêm một đỗi nữa họ gặp một mụ bán cá, mụ kêu lên :
          - Ông không mắc cỡ à, sao lại để thằng bé  phải đi bộ dưới trời nắng như thế ?
          Ông già tuột xuống khỏi lưng lừa và hai người tiếp tục đi bộ như trước. Khi sắp vào thành phố, có mấy người nhìn chăm chăm và nói :
          - Sao hai cha con không biết cỡi lên lưng lừa mà đi cho khỏe ?
          Hai cha con nghe nói chí lý liền leo lên. Nhưng con lừa mới đi được mấy bước đã quị xuống vì không chịu nổi sức nặng. Hai cha con lại vội vã xuống đi bộ và dắt lừa đi như trước.
 
          3. Câu chuyện sống đời Kitô hữu.
 
          Chúng ta phải cảm tạ ơn Chúa vì đã ban cho chúng ta được trở thành “Công dân Nước Trời” qua bí tích rửa tội. Đây là một hồng ân nhưng không Chúa ban chứ không phải do công nghiệp của chúng ta. Người ta cho biết : muốn được làm công dân Hoa kỳ thì phải qua một kỳ thi nhập tịch khó khăn. Muốn được làm “Công dân danh dự” Hoa kỳ lại càng khó. Cho đến nay chỉ có 4 người được trao tặng vinh dự nói trên. Đó là thủ tướng Anh Winston Churchill, nhà ngoại giao Thụy điển Raoul Wallenberg và vợ ông là William Hannah Penn; và Mẹ Têrêsa Calcutta mới được trao tặng vinh dự vào ngày 01.10.1996.
 
          a) Kitô hữu sống đời chứng nhân.
 
          Mỗi Kitô hữu được gọi trở nên chứng nhân của Tin mừng bằng cách tiếp cận trực tiếp giữa người với người. Hẳn nhiên, bổn phận này cũng có thể thực hiện dưới nhiều hình thức, kỹ thuật khác nhau, nhằm canh tân cuộc sống xã hội, cổ vũ công bằng và hoà bình thế giới. Nếu ta cho rằng không phải Kitô hữu nào cũng có thể đóng nổi một vai trò hữu hiệu trên bình diện xã hội, trong sinh hoạt tập thể, thì ta cũng có một lối tiếp cận trực tiếp và thân mật mà mỗi người ở cấp độ nào cũng có thể thực hiện được. Chúng ta hãy là que diêm đang cháy và tiếp cận với những cây diêm khác.
 
Truyện : Gương lành lôi kéo.
 
          Một nhà truyền giáo tại Ấn độ, ông Gordon M. Suer đã xin một tín đồ Ấn độ giáo sống bên cạnh, đến nuôi dạy ông tiếng bản xứ, nhưng tín đồ Ấn độ giáo này từ chối như sau :
- Thưa ngài, tôi không đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì tôi không muốn trở nên người Kitô hữu.
Nhà truyền giáo trả lời :
          - Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao thiệp với những người chung quanh, để hiểu biết họ hơn chứ không nhằm bắt họ trở lại đạo Chúa.
           Nhưng người tín đồ Ấn độ giáo đáp lại :
          - Thưa ngài, tôi biết vậy nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng : không ai có thể sống bên cạnh ngài  lâu, mà không bị ngài cảm hoá tin theo Chúa. Tôi không thể dạy ngài, vì tôi không thể sống bên cạnh ngài mà không trở thành người Kitô.
 
          b) Kitô hữu phải đi qua cửa hẹp.
 
          Muốn đi theo Đức Kitô thì phải đi theo con đường Ngài đã đi, đó là con đường khổ giá, là đi qua cửa hẹp để vào Nước Trời. Ai theo Chúa là phải hy sinh, mất mát vì phải từ bỏ. Từ bỏ tận căn những ràng buộc của tội lỗi, từ bỏ gương mù gương xấu, bê tha, rượu chè say sưa, dâm ô, cở bạc...
 
          Theo Chúa còn đòi hỏi phải từ bỏ chình mình :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Từ bỏ mình, vác thập giá mình là thẳng thắn tuyên bố tiêu diệt “cái tôi” của chúng ta. Thế nhưng không phải tiêu diệt “cái tôi” tốt lành, “cái tôi” chân thật. Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta hy hiến cái tôi giả tạo mà chúng ta tạo nên bằng những nhu cầu vô ích và những phù phiếm trẻ con :”Đó là cái tôi, thánh Gioan Thánh giá nói, của những thèm muốn thúc giục chúng ta trở nên bất hạnh đối với chúng ta, khô khan đối vói tha nhân, nặng nhọc và biếng nhác đối với công việc của Chúa” (André Sève, Sương mai, tr 209).
 
          Nói tóm lại, lý tưởng của đời sống người Kitô hữu là thành thật chấp nhận mọi đau khổ, mọi thiếu thốn vì Thầy, bằng lòng hy sinh tất cả cho Ngài, không giữ lại một luyến tiếc nào đối với tình cảm sự đời, ý chí người môn đệ Chúa phải gắn bó với Ngài đến mức độ không tiếc xót, không thèm nhìn tới cái mình đã từ bỏ.
 

 
CHÚA  NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN C
RA ĐI RAO GIẢNG TIN MỪNG

A. DẪN NHẬP.
 
          Đức Giêsu đã đi rao giảng Tin mừng Nước Trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi ngườiø được nghe biết Tin mừng. Mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ :”Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về”(Lc 10,2).
 
          Sau khi đã trang bị cho họ  những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên họ đừng lo tìm an toàn nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi và đã trở về trong hân hoan. Đức Kitô cho họ biết họ hãy vui mừng  vì tên tuổi họ đã được ghi trên Nước Trời.
 
          Ngày nay, Đức Giêsu vẫn muốn cho công việc rao giảng Tin mừng ấy phải được tiếp tục trong Hội thánh. Vậy những ai được và phải  loan báo Tin mừng ấy ? Đó là mọi Kitô hữu. Tất cả những ai đã được chịu phép rửa tội đều có sứ mạng nên thánh và truyền giáo (Redmptoris Missio)).  Như vậy, các thợ gặt trong cánh đồng truyền giáo không phải chỉ là các Linh mục và nam nữ tu sĩ mà là mọi người mang danh là Kitô hữu. Chúng ta hãy tham gia vào việc truyền giáo bằng cách sống sâu sắc niềm tin của mình và cố gắng trở nên muối đất và ánh sáng cho trần gian trong mọi môi trường xã hội mình đang sống.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Is 66,10-14c.
 
          Vua Cyrus nước Ba tư vừa tiêu diệt đế quốc Babylon và ký sắc lệnh cho phép dân Do thái hồi hương. Tuy đã được thoát khỏi ách lưu đầy,  dân Do thái vẫn tỏ ra chán nản vì Giêrusalem vẫn chưa được phục hưng như bao người mong đợi. Tiên tri Isaia yên ủi họ bằng cách nêu lên những niềm hy vọng về một tương lai còn mờ mịt. Sau những cơn đau dữ dội của việc sinh con, người phụ nữ Sion cảm thấy vui mừng thư thái.
 
          Đó là hình ảnh dân Do thái, một dân tộc được Chúa săn sóc với một tình yêu của một người mẹ. Chúa sẽ ban phúc lành cho dân, và phúc lành quí giá nhất là bình an.
 
          +  Bài đọc 2 : Gl 6,14-18.
 
          Đây là đoạn cuối thư gửi cho tín hữu Galata, thánh Phaolô nói lên trọng tâm của Đạo thánh là mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô. Có những người coi thập giá là cớ vấp phạm, có người cho là sự điên rồ, nhưng thánh Phaolô đã khám phá ra giá trị tuyệt với của nó :
          - Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi người và ban cho họ sự sống mới.
          - Thập giá là lẽ sống của thánh Phaolô :”Đối với tôi, không một vinh quang nào khác ngoài vinh quang thập giá Đức Kitô”.
          - Thập giá là nguồn bình an và hạnh phúc của ngài.
 
          +  Bài Tin mừng : Lc 10,1-12.17-20.
 
          Bài Tin mừng được chia thành hai phần :
          a) Đức Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng.
          Trong bài Tin mừng, Luca và chỉ có Luca tường thuật việc Đức Giêsu tuyển chọn 72 môn đệ và sai đi trước  “đến các thành và các nơi mà chính Ngài sẽ tới”. Con số 72 được nhắc đến, phải chăng là để ám chỉ 72 nước phát xuất từ miêu duệ ông Noê sau đại hồng thủy, hình ảnh thế giới được kêu gọi đón nhận Tin mừng. Luca nhấn mạnh rằng không riêng gì các Tông đồ, mà tất cả mọi người được Đức Giêsu sai đi rao giảng Tin mừng, vì “Lúa chín  đầy đồng mà thợ gặt thì  ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến”(Lc 10,2).
 
          b) Khi đi truyền giáo trở vê.
          Sau một thời gian đi truyền giáo trở vê, các môn đệ vui mừng kể lại cho Đức Giêsu nghe về những thành công của mình, nhất là thành công trên ma quỉ. Trong tình thân mật thầy trò, Ngài chia vui với các ông, đồng thời cũng nhắc nhở các ông rằng những thành công ấy đáng ghi nhận ,  nhưng thành công lớn lao là họ được Thiên Chúa coi họ là công dân Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”).
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Này Thầy sai các con đi
I. CÁNH ĐỒNG TRUYỀN GIÁO HÔM NAY.
 
          1. Cánh đồng lúa chín Sichar .
 
          Đức Giêsu đã ra đi rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa. Ngài nhận thấy dân chúng muốn được nghe rao giảng Tin mừng. Có những người quên ăn quên ngủ đi theo Chúa để được nghe Ngài giảng, đến nỗi thấy họ đói, Ngài đã làm cho bánh hoá nhiều hai lần để nuôi sống họ. Ngài thấy cánh đồng truyền giáo còn rộng rãi bao la bát ngát trải rộng ra trước mắt Ngài.  Cánh đồng lúa chín là mối ưu tư hàng đầu của Ngài, nên khi đi qua cánh đồng lúa chín Sichar, đúng là tức cảnh sinh tình, Ngài đã bộc lộ tâm tư với các môn đệ :”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít,  vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến gặt lúa của Người”(Lc 10,2).
 
          2. Cánh đồng truyền giáo hôm nay.
 
          Chúng ta nhận thấy trên thế giới hôm nay có gần 7 tỷ người, nhưng mới có 1,5 tỷ người biết Chúa. Tại Á châu, trong số 3,5 tỷ người  mới chỉ có 100 triệu tín hữu Công giáo, tính theo tỷ lệ là 2,6%. Như vậy, cứ 100 cánh đồng lúa chín, mới có 2,6 cánh đồng có thợ gặt, còn 97,4 cánh đồng bị bỏ hoang. Chưa kể toàn bộ cánh đồng đã bị bỏ hoang mãi cho đến thế kỷ 16 mới có thợ gặt. Đặc biệt thánh Phanxicô Xaxiê không chỉ là thợ gặt mà là máy gặt.
 
          Riêng tại Việt nam chúng ta, dân số hiện nay lên tới 86 triệu, mà số người Công giáo mới tới hơn 6 triệu, tính ra mới được 7%, còn lại 93% kia thì sao ? Cánh đồng truyền giáo của chúng ta vẫn còn trải ra trước mắt.
 
          Vì thế, trước tình trạng khẩn cấp ngày nay, Thượng Hội đồng Giám Mục Á châu đã được tổ chức tại Roma, từ ngày19/04 đến 15/05/1998, gồâm có 158 vị đại diện hàng Giám mục Á châu và một số Giám mục đại diện các châu lục khác, cùng với một số chuyên viên, tất cả 230 vị dưới quyền hướng dẫn của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II để bàn về vấn đề truyềân giáo của Á châu ngày nay.
 
          3. Đức Giêsu sai các môn đệ đi truyền giáo.
 
          Chỉ có Luca tường thuật việc Đức Giêsu chọn 72 môn đệ và sai đi trước “đến các thành và các nơi mà chính Ngài sẽ tới”. Con số 72 hay 70 (tùy theo thủ bản Hy lạp hay Hy bá) có liên hệ với con số 72 dân tộc làm nên nhân loại theo bản thống kê dân số của Kinh Thánh sau cơn đại hồng thủy (St 10,10).
 
          Theo các giáo phụ của Giáo hội Công giáo, số 72 là con số có tính cách biểu tượng của các dân tộc và quốc gia trên thế giới vào thời  Đức Giêsu sinh sống.
 
          H. Cousin giải thích thêm : Bảy mươi hai ông thực ra  không phải chỉ là những giao liên tiền trạm, nhưng họ chính là những đại sứ đặc mệnh toàn quyền, giống như nhóm Mười Hai, có quyền lực trên các thần dữ (9,17) và có trách nhiệm công bố Nước Thiên Chúa (10,11). Như thế tác giả muốn xác định rằng không chỉ có Mười Hai ông mới được chính thức được Đức Giêsu bổ nhiệm đi truyền giáo trước lễ Vượt qua. Nhưng khi Đấng Phục Sinh hiện ra, thì cả Nhóm Mười Một với những người đồng hành sẽ là những người được Chúa trao cho sứ mạng truyền giáo
(Fiches dominicales C, tr 239).
 
II. TƯ CÁCH CỦA NHÀ TRUYỀN GIÁO.
 
          1. Tinh thần hiệp thông.
 
          Đức Giêsu sai “Cứ từøng hai người” đi trước Ngài vì họ phải hoạt động với tư cách chứng nhân. Theo truyền thống Kinh Thánh, người ta không được đặt tin tưởng vào lời xác quyết của một người duy nhất, mà cần phải có lời của hai hoặc ba nhân chứng.
 
          H. Cousin quả quyết : “Con số hai không do ngẫu nhiên, bởi vì khi có tranh cãi (Đnl 19,15), câu nói đáng tin  phải dựa trên lời của hai hoặc ba nhân chứng, trường hợp giả dụ được nói đến ở câu 10-11. Trong sách Công vụ Tông đồ, Luca sẽ minh hoạ  công việc truyền giáo của “từng cặp”, như Phaolô và Barnabê (13,2-4), Barnabê và Marcô, Phaolô và Sila (15,39-40).   
(Fiches dominicales C, tr 240).
 
          2. Tinh thần chịu đựng.
 
Đức Giêsu nhắên nhủ các môn đệ :”Thầy sai các con đi như chiên con đi giữa bầy sói” (Lc 10,3). Các con hãy ra đi ! Đây là một lệnh truyền. Ngài không che giấùu sự khó khăn trong việc truyền giáo. Sự khó khăn này do kẻ thù của Nước Trời gây ra. Các ông sẽ bị bắt bớ bởi đó là số phận của những kẻ được gọi để rao giảng Nước Trời. Đứng trước những khó khăn, các môn đệ như con chiên giữa sói rừng. Con chiên thì hiền lành. Vì thế các môn đệ phải có lòng khoan dung, nhân hậu và yêu thương thù địch, chứ không thù oán như thái độ của Giacôbê và Gioan đối với người Samaria (Lc 9,54).
 
3. Tinh thần siêu thoát.
 
          “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép...”.  Đức Giêsu đòi các môn đệ phải có tinh thần siêu thoát đối với của cải vật chất. Nói rõ ra, Ngài đòi các môn đệ phải sống khó nghèo thực sự, vì khó nghèo là điều kiện để được vào Nước Trời (Lc 6,20). Không nên ỷ vào các phương tiện của con người. Đức Giêsu đã không sử dụng võ khí của quyền lực, của giầu sang, lộng lẫy, huy hoàng... Do đó, yêu sách đầu tiên của Giáo hội là theo gương của Thầy mình  là trở nên khó nghèo.
 
          4.  Tinh thần nhanh nhẹ.
 
          “Đừng chào hỏi ai dọc đường”.
          Đây không phải là một lệnh về sự vô lễ, nhưng là một sứ  mệnh khẩn cấp không được trì hoãn. Giống như xưa kia người đầy tớ của tiên tri Êlisê trong sách các Vua (2V 4,29), các sứ giả được lệnh lên đường đừng mất nhiều thì giờ trong việc chào hỏi dài dòng  của người phương Đông.
 
          Lời khuyên nhủ này có ý nhắc nhở các môn đệ hãy tránh xa những chuyện vô ích thường thấy trong xã hội Cận đông thời Đức Giêsu. Người môn đệ đi truyền giáo đừng chia trí nhưng dồn nỗ lực vào việc rao giảng Nước Trời là điều cấp bách.
 
          5. Tinh thần kiên nhẫn.
 
          “Vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón”.
          Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về vấn đề này. Ngài đã phải đối diện với những thất bại, những sự khước từ, chống đối, không tin. Do đó, Ngài muốn truyền cho các môn đệ kinh nghiệm đó để các ông đừng ngạc nhiên, đừng thất vọng. Nhưng các ông hãy tin chắc rằng, dù các ông có muốn hay không, một ngày kia, Thiên Chúa sẽ hiển trị, Nước Thiên Chúa sẽ phổ biến khắêp nơi.
 
          Tuy nhiên, về phía các ông, trong thời gian rao giảng Tin mừng, các ông sẽ gặp phải sự chống đối và khước từ. Các ông hãy nhẫn nhục chịu đựng, đừng nổi nóng lên như trường hợp ông Giacôbê và Gioan  muốn xin lửa trên trời  xuống đốt cháy dân làng Samaria đã dám từ chối không tiếp nhận Đức Giêsu và các ông. Sau cùng,  những thất bại cấp thời của các ông vẫn góp phần vào việc làm thành một thành công lớn : Nước Chúa sẽ hiển trị. Đừng sợ thất bại vì ngạn ngữ Pháp có nói :”Thất bại là mẹ thành công”.
 
III. ƠN GỌI RA ĐI TRUYỀN GIÁO.
 
          1. Sứ mạng truyền giáo của mọi người.
 
          Khi xuống thế làm người, một phần nào đó, Đức Giêsu bị hạn chế trong không gian và thời gian, nhưng quyền năng của một Ngôi Vị Thiên Chúa nơi Ngài đâu có bị giảm sút. Thế mà, thay vì sống trăm tuổi hay trường thọ hơn nữa để có đủ thời giờ rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân thì Ngài lại chỉ sống có 33 năm và dành vỏn vẹn có 3 năm để đi giảng đạo. Thêm vào đó, Ngài còn nhờ đến mấy ông quê mùa, dốt nát phụ giúp công việc truyền đạo khi chọn 12 Tông đồ và 72 môn đệ. Kết quả là sau 20 thế kỷ, nhân loại nay đã gần 7 tỷ người  mà chỉ có một tỷ rưỡi Kitô hữu. Tại sao Chúa không dùng quyền phép bắt nhân loại theo đạo cả mà phải nhờ đến con người phụ giúp và còn dạy phải xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt truyền giáo ?
 
          Lý do là vì Chúa muốn mọi tín hữu phải thâm tín rằng việc rao giảng tin mừng, mở rộng Nước Chúa là công việc của con người, chứ không phải để mặc Chúa lo toan, định liệu cả. Vì thế, Khi Đức Giêsu bảo chúng ta xin Chúa Cha sai thêm thợ gặt, điều đó chứng tỏ Chúa muốn trao cho chúng ta trách nhiệm là phải lo lấy phần rỗi của mình và của anh em nữa.
 
          Ngay khi lãnh Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu đã được Chúa Cứu Thế kêu mời tham gia vào sứ mạng truyền giáo.  Trong hiến chế tín lý Lumen gentium, công đồng VaticanII nhấn mạnh rằng ơn gọi nên thánh phổ quát bao gồm trong lời mời gọi mọi người tiến đến sự trọn hảo của lòng bác ái. Sự nên thánh và sứ mạng truyền giáo là những khía cạnh bất khả phân ly của ơn gọi dành cho mọi người đã chịu phép rửa tội. Cam kết trở nên thánh thiện hơn được liên kết chặt chẽ  với sứ mạng truyền bá thông điệp cứu độ.
 
          Trong thông điệp Redemptoris Missio của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô 2, đoạn 9, có nhắc lại rằng :”Mọi tín hữu được mời gọi đến với sự thánh thiện và sứ mạng truyền giáo”.
 
          2. Việc Tông đồ giáo dân.
 
          Bảy mươi hai môn đệ còn là hình bóng của mọi tín hữu được kêu mời tham gia vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm. Đức Giêsu đã nói :”Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”.Vậy thợ gặt là ai ? Trước đây người ta thường dành danh xưng “thợ gặt” cho các Linh mục. các tu sĩ nam nữ, các nhà truyền giáo. Đây là một nhầm lẫn. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không cảm nghiệm nơi  mình nỗi lo âu của Đức Giêsu trước cánh đồng lúa chín mênh mông. Những tác vụ đa dạng  sẽ làm nảy sinh  những hình thức hoạt động khác nhau nơi mỗi người, nhưng ai nấy theo cách của mình, đều được gọi và làm việc ở đồng lúa chín (L. Sintas).
 
          Thánh Luca cho biết  các cộng đoàn Kitô hữu được khai sinh ở giữa các đô thị và vùng đất của dân ngoại. Một số các nhà thờ địa phương ấy được khai sinh không phải do hoạt động của các tông đồ được chính thức ủy nhiệm, nhưng do hoạt động tông đồ của giáo dân, của các ông, các bà phải di chuyển vì nghề nghiệp và họ đã loan báo Đức Giêsu (Rm 16).
 
          Giáo hội được xây dựng trên nền tảng Tông đồø thì đồng thời cũng dựa trên sức mạnh của từng viên gạch nối kết đó đây xuất hiện những Giáo hội địa phương giữa vùng đất “ngoại” do những người đàn ông đàn bà giáo dân gầy dựng. Giáo hội Triều tiên chẳng hạn đã được khai lập đầu tiên không phải do các Linh mục thừa sai mà do chính giáo dân bản xứ, như ngày xưa, tiếng gọi của một người Macédonia :”Hãy vượt biển, đến cùng chúng tôi”(Cv 16,9) đã hấp dẫn Phaolô và là nguyên do của giáo đoàn.
 
Truyện : Đôi tay của Chúa.
 
          Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và tin tưởng của người dân trong làng vừa mới đuợc giải phóng khỏi tay quân Đức Quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng minh cố gắng lượm lại từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở quảng trường trước ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.
 
          Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là không thể nào hàn gắn lại được. Vì các mảnh vụn lớp thì bị bể quá nhỏ, lớp thì đã bị nát thành như bụi.
 
          Sau nhiều giờ bàn luận và gần như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn  những người dân trong làng, mà còn thu hút được nhiều khách du lịch đến vùng này để đọc tận mắt hàng chữ đầy ý nghĩa. Các bạn có thể đoán được hàng chữ này không ? Đó là :
                             “CHÍNH BẠN LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”.
 
          3. Truyền giáo bằng sống niềm tin.
 
          Trong bí tích Rửa tội, Linh mục hỏi người chịu phép rửa :
          - Hôm nay con xin gì cùng Hội thánh ?
          Người chịu phép thưa :
          - Thưa, con xin đức tin.
          Linh mục hỏi tiếp :
          - Đức tin sinh ơn ích gì cho con ?
          Người chịu phép thưa :
          - Thưa, đức tin đem lại cho con sự sống đời đời.
 
          Như vậy, Thiên Chúa đã ban đức tin cho người chịu phép rửa tội, và một khi đã là một Kitô hữu thì phải có đức tin. Một Kitô chỉ có đức tin thôi chưa đủ, còn phải sống đức tin nữa, nghĩa là phải thể hiện đức tin ấy trong cuộc sống hằng ngày. Chính vì thế, thánh Giacôbê đã quả quyết :”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
 
          Có người cho rằng sống đức tin Kitô giáo là biết “sống tử tế” với mọi người. Sống tử tế là sống thế nào cho xứng với danh hiệu là “Kitô hữu”, người được mang tên Chúa, được thuộc về Chúa.  Một trong những cuốn phim gây nhiều chú ý nhất ở ngoại quốc trong thập niên 80 là phim “Truyện tử tế” của đạo diễn Trần văn Thủy. Cuốn phim này được hãng truyền hình Pháp S.R.K mua và được trình chiếu trong chương trình có tên “Đại dương”. Khi một ký giả ngoại quốc hỏi :”Những người Kitô Việt nam có thể làm gì  để giúp dân tộc họ sống tử tế”? Nhà đạo diễn đã trả lời :”Điều người ta mong đợi ở các người Kitô hữu Việt nam  là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin.
 
          Lời phát biểu của nhà đạo diễn trên đây đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một dân tộc  còn nhiều người chưa biết Chúa. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn. Sống trong một xã hội còn nhiều giả dối, gian manh, lừa đảo, tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình  là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người với nhau. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu chúng ta (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng, năm C, tr 161).
 
Truyện : Đức tin sống động
 
          Felix Frankfurter là một quan toà nổi tiếng của toà án tối cao của Hoa kỳ. Một lần kia ông được đưa vào bệnh viện, ở đó ông quen biết một y tá có tên là Lucy. Họ có những lúc ngồi nói chuyện thân mật và ông biết nhiều điều về Lucy.
 
          Trước đó, chưa bao giờ ông gặp được người nào có lòng quảng đại và nhân hậu như chị. Và ông bắt đầu tự hỏi và suy nghĩ, cố gắng phám phá suối nguồn của thái độ của chị. Điều ông khám phá như sau : Suối nguồn ấy không có gì là bí ẩn. Nó đơn giản , chỉ là sự áp dụng thực hành đức tin của chị.
 
          Lucy không bao giờ biết đức tin sống động của chị  có ảnh hưởng như thế nào, nhưng chịâ đã làm cho Đức Giêsu hiện diện cụ thể trong bệnh viện này. Chị đem đến đôi bàn tay mà Đức Giêsu cần đến. Đức Giêsu cần những nhân chứng cho người ta như chị Lucy đến nỗi Người có thể trở thành Đấng an ủi như Người muốn làm.
 
          Một quan hệ thật sự với Đức Giêsu sẽ có một ảnh hưởng cả khi người có mối quan hệ ấy không đề cập đến Đức Giêsu. Dĩ nhiên, những người tin vào Đức Giêsu và yêu mến Người, cũng sẽ, khi thuận lợi, nói về Đức Giêsu một cách rõ ràng cởi mở (McCarthy).
 
          4. Truyền giáo bằng đèøn sáng và muối đất.
 
          Đức Giêsu đã gọi các môn đệ của Ngài là muối cho đời và ánh sáng cho thế gian (Mt13-14). Muối, ánh sáng và thành xây trên núi là những hình ảnh nói lên vai trò chứng tá của môn đệ Chúa trên trần gian.
 
          Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn, nhưng muối có hai công dụng chính : ướp cho khỏi hư và làm gia vị. Người môn đệ phải giữ cho xã hội khỏi suy thoái, đồng thời giúp cho sự thăng tiến của xã hội. Người Kitô hữu mang danh nghĩa là con cái Thiên Chúa, phải hết sức bảo vệ và phát triển danh nghĩa ấy trong môi trường thế gian, nếu không làm như vậy, thì người Kitô hữu đã bị biến chất và trở nên vô dụng, vô tích sự.
 
          Còn ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, nhận rõ các đồ vật. Người Kitô hữu là con cái sự sáng, phải dùng đời sống gương mẫu và chứng tá của mình để soi dẫn cho những người chung quanh biết đường về cùng Thiên Chúa. Việc tỏa sáng bằng đời sống gương sáng và chứng tích để lôi cuốn, phải được coi là bổn phận của người Kitô hữu vì “đèn thắp lên là để soi sáng cho mọi người trong nhà”.
 
          Là muối, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta  cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống toả lan tình nghười. Dù chỉ là ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của một Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho cuộc sống.
 
Truyện : Ảnh hưởng của chứng từ.
 
          Ông Pi-tơ Bơ-rốt là một người ngoài công giáo, ông hằng ước ao chứng kiến đời sống thánh thiện của Giám mục Fénelon. Ngày kia ông đã liên lạc với vị Giám mục thời danh xin ngài cho ông tới thăm một thời gian.
          Vị Giám mục đã niềm nở tiếp đón khách và đối xử ân cần đến nỗi Pi-tơ Bơ-rốt còn thấy thoải mái hơn cả ở nhà mình. Tuy nhiên chỉ lưu lại được vài ngày ông đã thu dọn hành lý, chào vị Giám mục và ra đi trước thời hạn dự định.
          Khi được hỏi tại sao  ông lại vội vàng bỏ đi như vậy, ông Pi-tơ Bơ-rốt đã thú nhận :”Tôi không thể ở lại lâu hơn. Vì nếu còn ở lại sớm muộn tôi cũng sẽ theo đạo Công giáo mất, một điều mà hiện tại bản thân tôi chưa muốn”.
 

 

CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN C
TÌNH YÊU KHÔNG BIÊN GIỚI

 
A. DẪN NHẬP.
 
          Ông Maisen, trước khi từ biệt dân Do thái để đi về đời sau, đã khuyên nhủ họ hãy quyết tâm theo Chúa bằng việc tuân giữ các giới răn của Ngài. Theo họ, luật Chúa ở bên ngoài họ và vượt trên sức họ, nhưng ông Maisen cho họ biết giới răn ấy không ở đâu xa mà ở ngay trong lòng họ (bài đọc 1). Đức Giêsu đã giản lược các giới răn ấy lại còn hai giới răn là “Mến Chúa và yêu người” (Tin mừng).
 
          Đối với luật sĩ và biệt phái thì luật mến Chúa là quá rõ, ai cũng biết vì nó có ở trong kinh Schema mà người Do thái đọc hằng ngày; nhưng còn luật yêu người thì họ còn mù mờ : “Thế nào là yêu người thân cận như chính mình ? Người thân cận là ai” ? Chính vì vậy mà một người thông luật đến chất vấn Đức Giêsu xem người thân cận là ai ? Đức Giêsu không trả lời bằng lý thuyết xuông có thể gây tranh luận, Ngài dùng dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu để nói cho người thông luật biết rằng : người thân cận không phải chỉ là người Do thái, mà là bất cứ ai không phân biệt giai cấp, mầu da, chủng tộc hoặc tín ngưỡng, đang cần sự giúp đỡ của chúng ta.
 
          Một khi đã công nhận “Tứ hải giai huynh đệ” : bốn bể là anh em thì mọi người phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, phải thực hành bác ái bằng những việc làm cụ thể chứ không phải chỉ ở trên đầu môi chót lưỡi. Mọi việc làm phải có tính cách vô vị lợi, không tính toán, bởi vì những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa và Ngài sẽ trả công cho xứng đáng và còn dư dật nữa.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Đnl 30,10-14.
 
          Lề Luật của Thiên Chúa được ghi trong Thánh Kinh. Lề Luật được truyền qua ông Maisen và Luật ấy không vượt quá sức con người, không cần tìm ở trên trời hay ngoài biển khơi mà ở sát bên con người, nơi miệng con người và ở ngay trong con người.
 
          Luật Maisen là phương tiện giúp dân Israel xây dựng một tình huynh đệ chân thành. Luật ấy không dựa trên những nguyên tắc trừu tượng, nhưng được khắc ghi trong lòng con người đến nỗi ai cũng biết, nên mọi người phải ra sức thi hành với lòng yêu mến.
 
          +  Bài đọc 2 : Cl 1,15-20.
 
          Tín hữu Côlôssê tuy đã tin vào Đức Giêsu Kitô, nhưng còn làm những việc trái với lòng tin đó. Vì thếù, thánh Phaolô đã khẳng định sự ưu việt của Đức Giêsu Kitô. Trước hết trong trật tự tự nhiên : Ngài siêu việt hơn các tạo vật, vì chính Ngài là đầu hết và chung cuộc của công trình sáng tạo.
 
          Còn trong trật tự cứu độ : Ngài là khởi nguyên mọi ơn cứu độ, vì Ngài giao hoà tạo vật với Thiên Chúa. Như vậy, địa vị của Đức Kitô là địa vị trung tâm, là Đấng trung gian duy nhất.
 
          Bởi vậy, muốn được cứu độ thì chỉ cần tin vào một mình Đức Giêsu Kitô, không cần nhờ bất cứ một tôn giáo hay thần thánh nào khác.
 
          +  Bài Tin mừng : Lc 10,25-37.
 
          Sách Luật gồm có 613 khoản. Người ta chưa đồng ý với nhau về câu hỏi : điều khoản nào trọng nhất. Vì thế, một thầy thông luật đã đặt ra cho Đức Giêsu một câu hỏi hết sức căn bản :”Điều răn nào trọng nhất” ? Đức Giêsu hỏi lại, và ông đã đáp trúng, đó là mến Chúa yêu người (Đnl 6,5; Lv 19,18). Nhưng vấn đề ông đặt ra là  “Tha nhân hay nguời thân cận là ai” ? Phải chăng, người thân cận chỉ là những đồng bào Do thái của mình ?
 
          Đức Giêsu trả lời bằng một dụ ngôn về một người Samaritanô nhân hậu đối với một người bị nạn, để Ngài có ý nói rằng người thân cận là bất cứ ai, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm...
 
          Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ mình ra là người thân cận đối với những người đang cần mình giúp đỡ (câu 36).
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Người thân cận của tôi là ai ?
I. GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG.
 
          1. Một câu hỏi.
 
          Những người luật sĩ và biệt phái có ác cảm với Đức Giêsu, họ lợi dụng mọi dịp để bắt bẻ Ngài, cốt làm giảm uy tín. Dựa vào sự hiểu biết Kinh Thánh của mình, một luật sĩ đến chất vấn Ngài trong câu hỏi :”Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời”? Chắc ông tưởng rằng Ngài sẽ kể ra một lô những nghi lễ, những qui tắc mới lạ và sẽ làm giảm giá trị của Luật pháp. Nhưng ông ta giật mình nghe Ngài hỏi ngược lại :”Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào” ? Câu trả lời dưới hình thức hỏi lại đã tước mất khí giới của đối tượng. Tuy ông ta cũng khôn khéo trả lời rằng Luật pháp gồm tóm trong đòi hỏi kính Chúa yêu người. Ngài bảo :”Ông trả lời đúng. Cứ làm như vậy là sẽ được sự sống đời đời”.
 
          2. Một lời đáp.
 
          Người luật sĩ này đã quá hiểu về luật mến Chúa trên hết mọi sự vì đã có trong kinh Schema, trích ra từ Đệ nhị luật 6,5 mà người Do thái đọc mỗi ngày hai lần. Còn câu “hãy yêu thương thân cận như chính mình” thì không có trong kinh Schema, nhưng lấy ở sách Lêvi (10,18). Theo câu trả lời này, chứng tỏ luật sĩ này đã nhiều lần nghe Đức Giêsu giảng dạy về tính cách bác ái huynh đệ, nên khi trả lời  Ngài về luật yêu thương, ông đã tạm thời theo quan niệm của Ngài.
 
          Tuy thế, ông muốn gây lúng túng cho Đức Giêsu khi đặt cho Ngài câu hỏi :”Thân cận là ai” ? Bởi vì đối với mọi người Do thái “Thân cậm hay tha nhân” được hiểu là người đồng hương con cháu Abraham, còn những người khác mà mình tiếp xúc với người ta phải nghĩ thế nào ? Thay vì trả lời một cách lý thuyết hay gây tranh luận, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn để đưa đến một kết luận dễ dàng.
 
          Một người đi từ Giêrusalem đến Giêricô, một lữ khách không biết rõ quốc tịch bị cướp bóc lột và đánh nhừ tử nằm bên vệ đường. Tình cờ một tư tế đi qua trông thấy, ông tránh né và đi tiếp. Sau đó lại một thầy Lêvi đi qua trông thấy cũng tránh né. Sau cùng có một người dân ngoại Samaritanô đi qua trông thấy, dừng lại, băng bó, xức thuốc thơm và trao nạn nhân cho người chủ quán săn sóc, hết bao nhiêu tiền người ấy sẽ trả.
 
          Đến đây, Đức Giêsu hỏi người luật sĩ :”Theo ông nghĩ ai trong ba người là thân cận của người bị gặp tai nạn” ? Luật sĩ đã trả lời ngay :”Kẻ đã tỏ lòng thương xót đối với người ấy”. Luật sĩ đã có nhận thức đúng về bác ái và ông cho rằng người Samaritanô là người duy nhất đã cảm thông và tỏ ra  mình là người thân cận của kẻ xấu số.
 
          Đức Giêsu đã kết thúc cuộc đối thoại ấy bằng một câu vắn tắt :”Ông hãy đi và làm như vậy”. Đức Giêsu muốn nói rằng khi giúp đỡ một kẻ vô danh như vậy, người Samaritanô đã trở thành kiểu mẫu  của tình bác ái đích thực. và vì vậy, Ngài đã khuyên nhủ luật sĩ  hãy thực thi tinh thần bác ái theo kiểu mẫu đó thì sẽ được sự sống đời đời.
 
II. AI LÀ THÂN CẬN CỦA TÔI ?
 
          1. Tương giao giữõa người Do thái và người Samaria.
 
          Người Samaria cũng là người gốc Do thái, nhưng chia lìa từ năm 935 vì lý do nam bắc (do vua Omri). Họ sống chung với dân ngoại và bị lây nhiễm. Khi Nehemias dẫn họ về quê hương thì dân Do thái cựu đã khinh bỉ và không cho phép họ  góp phần xây dựng Đền thờ. Họ tức giận bèn xây đền thờ tại Garisim. Người Samaria cũng thờ một Thiên Chúa, và tin Ngũ Kinh mà thôi. Giữõa người Do thái và Samaria luôn có sự kỳ thị và kình chống nhau.
 
          Và một sự kiện xẩy ra, cách đấy 20 năm, giữa mùa Lễ Chiên, một nhóm người Samaria này đã cả dám xông vào đền thờ Giêrusalem, đem xương người vung vẫy làm ô uế nơi thánh. Từ đó, hai dân tộc trở nên thù ghét xung khắc nhau như nước và lửa.
 
          Và hôm nay, Đức Giêsu lại đem người Samaria ra làm ví dụ đối đầu với hai vị Tư tế và Lêvi Do thái. Ngài đến phá vỡ những vòng vây bao quanh đạo giáo, tập quán xã hội làm quên lãng giá trị con người và tình nhân loại.
 
 
          2. Thái độ thầy Tư  tế và Lêvi.
 
          “Tình cờ có thầy Tư tế thấy nạn nhân đã tránh né và thầy Lêvi đi qua trông thấy cũng tránh đi”. Phải chăng hai vị này còn nhớ đến đoạn Kinh thánh :”Nếu ngươi thấy anh em có con lừa  hay thấy con bò nằm té ở dọc đường, ngươi đừng đi qua, ngươi hãy lo giúp cho nó đứng dậy”(Đnl 22,4). Huống chi con người ?  Tại sao họ lại bỏ đi qua ?
 
          Chúng ta phải cho rằng vị Tư tế thánh thiện và thầy Lêvi nhiệt thành là những người có trách nhiệm phục vụ để Thiên Chúa được tôn vinh và phụng thờ trên hết mọi sự. Hai người tôi tớ trung thành ấy có lý do chính đáng để giữ sự trong sạch theo luật định, bơiû vì “ai chạm vào xác chết (...), hoặc một người bị ám sát, một người chết (...) sẽ mắc dơ trong 7 ngày”(Ds 19,11-13.16). Trong trường hợp đó vị Tư tế hoặc thầy Lêvi  không được làm việc phụng tự.
 
          Những người giữ luật như vậy lầm rồi. Vì khi giữ luật, họ lại phản bội luật. Khi tưởng rằng họ đang tôn kính Thiên Chúa, họ lại xúc phạm đến Ngài. Thiên Chúa ở đó kìa, Ngài ẩn mình dưới dạng một người bị thương nửa sống nửa chết trong cái hố bên đường. Hai vị này chắc chắn không phải là người không biết tới luật yêu người (Đnl 6,5t), nhưng họ đã viện dẫn lý do để không thực hành (Fiches dominicales).
 
          3. Thái độ của người Samaritanô.
 
          “Người Samaritanô thấy vậy... thì chạnh lòng thương”(Lc 10,33).
Thấy nạn nhân nằm bên vệ đường, thầy Tư tế và Lêvi dửng dưng bỏ đi qua. Trái lại, người Samaritanô không thể bỏ qua trước cảnh tượng thương tâm này. Người này đã đến gần nạn nhân, trông thấy và chạnh lòng thương”. “Đến gần” tức là đi vào trong hoàn cảnh của người bị nạn. Chữ “Chạnh lòng thương” do tiếng La tinh là Compassio, ghép bởi hai chữ cum = cùng với, passio = đau khổ. Như vậy, “chạnh lòng thương” có nghĩa là cùng chịu đau khổ với, chia sẻ đau khổ với người khác.
 
          Theo thần học gia Gustavo Gutierrez , chữ “Chạnh lòng thương” trong tiếng Hy lạp có thể được dịch là “vì con tim của ông ta đã chảy ra”. Bằng việc tiến đến gần người lâm nạn, người Samaritanô đã trở nên người hàng xóm, người thân cận của người ấy. Trong quan điểm này, Gutierrez đã nói :”Người hàng xóm không phải là một người tôi tìm thấy trên đường đi của tôi, nhưng là một người  mà tôi tự đặt mình vào trong đường đi của người ấy, là người mà tôi đến gần và tích cực tìm kiếm” .
 
          Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu đã muốn biến người Samaritanô thành vị anh hùng của lòng nhân ái. Ngài muốn dạy cho người Do thái một tình yêu không biên giới. một tình yêu tìm đến mọi kẻ đang gặp khó khăn, tình yêu không bỏ đi, không dửng dưng, mà là dừng lại  để giúp đỡ, để “dây dưa” vào kẻ đang gặp khốn khó, bất kể đó là ai.
 
Truyện : Đi tìm chén thánh.
 
          Có một câu chuyện huyền thoại về “một người Samaritanô tốt lành” có tên là Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh  mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa Tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu ! Thất bại,  chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà.  Lúc này chàng đã già hơn xưa sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho,  anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại trong cuộc đời. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước  quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.
 
          4. Mọi người là thân cận.
 
          Ngày nay chúng ta hay nói :”Tứ hải giai huynh đệ” : bốn bể là anh em, nhưng người Do thái không chấp nhận quan niệm này. Luật của người Do thái đã giới hạn sự giao tiếp giữa người Do thái  với những người không phải là Do thái. Theo luật của họ, người thân cận được định nghĩa là “những người con trai của riêng xứ sở bạn”. Do đấy, chỉ có những người Do thái mới là hàng xóm, là thân cận của mình.
 
          Đức Giêsu chủ trương ngược lại : người anh em của tôi, người thân cận của tôi là bất cứ ai tôi chọn để trở nên người anh em, người thân cận. Như vậy, không biết ai là người anh em của mình nữa, mà điều quan trọng là  tìm cách để trở nên người anh em, người gần gũi với bất cứ ai đang cần giúp đỡ.
 
          H. Cousin giải thích : “Hỏi ai là người anh em của mình, vị luật sĩ tự  đặt mình làm trung tâm thế giới, và nhìn mọi người như những vệ tinh quay chung quanh mình.. Đức Giêsu đảo ngược vấn đề : người anh em là người thực thi lòng thương xót, chứ không phải người hưởng thụ lòng thương xót”.
 
III. YÊU THƯƠNG NGƯỜI THÂN CẬN.
 
          1. Luật bác ái và phụng tự.
 
          Thầy Tư tế và thầy Lêvi là những chuyên viên lo việc phụng tự trong Đền thờ. Họ phải tỉ mỉ giữ đúng các lễ nghi, các luật lệ, đó là một điều tốt. Nhưng Thiên Chúa muốn gắn cho sự “thực hành” bác ái và phục vụ tha nhân trong đời sống hằng ngày bằng một tầm quan trọng to lớn hơn  việc thực hành phụng tự và cầu nguyện của chúng ta. Việc đạo đức và lòng sùng kính  chỉ là những phương tiện non yếu và tạm thời,  phải nhường cho đức bác ái là cái tuyệt đối nhất định. Đức ái được bầy tỏ ra  trong tình yêu thương người thân cận là bằng chứng cụ thể  tình yêu chân thành của ta đối với Chúa.
 
          Hiểu Luật theo cách của Đức Giêsu, không cần phải tìm ai là người thân cận, nhưng đúng là làm thế nào  để “trở nên thân cận của ai đó”, là biết “chạnh lòng thương”, biết gạt bỏ mọi thành kiến  về giai cấp và chủng tộc, về địa vị và tôn giáo...
 
          2. Yêu thương trong việc làm.
 
          Mọi người chúng ta đã học thuộc lòng luật mến Chúa yêu người. Nhưng yêu có năm bảy đường yêu, yêu trong lý thuyết và trong thực hành. Nhưng thế nào là yêu, là tình yêu ?
 
Ông Robert Ingerson định nghĩa Tình yêu như sau : “Tình yêu là Ngôi Sao Mai, Sao Hôm. Nó chiếu rọi trên vành nôi em bé, và toả ánh huy hoàng trên ngôi mộ vắng. Đó là nghệ thuật làm mẹ, bài thơ của thi sĩ. Nó bao trùm không gian với tiếng nhạc, vì nhạc là âm thanh của Tình yêu. Tình yêu là người diễn viên văn nghệ biến đổi những điều buồn tẻ trở thành niềm vui. Đó là hương thơm của trái tim – một loài hoa tuyệt vời – và nếu không có sự say mê thiêng liêng đó, chúng ta thua kém cả loài vật; nhưng với nó, trần gian là Thiên đàng”.
 
          Định nghĩa Tình yêu như thế thì thật là hoa mỹ và bay bướm. Nếu chỉ nghe biết hay nói rất hay về tình yêu thì chưa đủ, mà điều quan trọng là phải làm, phải thực hiện, phải hành động trong yêu thương, bởi vì như thánh Giacôbê nói :”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Khi nói đến bác ái yêu thương, không phải chỉ nói bi bô ngoài miệng, viết những bài kêu gọi rất xôm, rồi không làm gì cả. Mà bác ái là miệng nói tay làm, là giúp đỡ người ta thật sự theo sức mình. Nếu không thì người ta nói mỉa mai :
 
                                      Thương miệng thương môi
                                      Thương miếng xôi miếng thịt.
 
          Đọc bài dụ ngôn hôm nay, ta nhận thấy thầy Tư  tế và Lêvi là những con người vị ngã, lấy mình làm trung tâm. Khi có sự cố xẩy ra, họ đặt họ lên trước. Trái lại, Người Samaritanô là một người vị tha, ông đặt người khác lên trước.
 
          Thực ra, thầy Tư tế và Lêvi không phạm tội một cách tích cực nhưng đã phạm một tội không mấy người để ý đến, đó là tội thiếu sót :”Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”(Kinh Cáo mình). Tội thiếu sót có lẽ là tội xấu nhất của chúng ta, tuy nhiên chúng ta nghĩ rằng mình chưa làm hại ai là mình tốt rồi. Nhưng phải chăng chúng ta đã từng thấy có người bị làm cho tổn thương mà vẫn không can thiệp để giúp đỡ người ấy ? Có người vẫn giữ mình sạch sẽ bằng cách đứng xa một người gặp cảnh không may.
 
Truyện : Đã đến giờ rồi đấy.
 
          Một ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái làng chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ về sự bất bình thường của người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo :
          - Thầy không biết yêu sao ?
          Vị ẩn sĩ trả lời :
-          Chưa đến giờ đó thôi.
 
          Câu chuyện bỏ lửng tại đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện  người con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố điều trị.
          Cô gái sững sờ nhìn vị ân nhân  mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói :
          - Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng thương xót !
 
          Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và người Samaritanô nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Yêu không phải chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì, mà yêu chính là “miệng nói tay làm”, làm thực sự với hết khả năng của mình.
 
          3. Tình yêu không tính toán.
 
          Hành động bác ái không được xây dựng trên sự tính toán, mà phải do lòng quảng đại tự phát. Tình trạng cao nhất mà chúng ta có thể đạt đến là khi lòng nhân từ trở thành một dòng nước ân sủng một cách dễ dàng, tự nhiên và không tính toán.
 
          Trường hợp người Samaritanô cũng thế. Rõ ràng lòng nhân từ của người Samaritanô trở thành thói quen, tự phát, một bản tính thứ hai. Điều tốt đẹp mà người ấy làm cho người khác thì người ấy không coi là một việc gì đặc biệt. Đối với một số người, lòng quảng đại nằm trong những hành động lác đác, lẻ loi; đối với những người khác, đó là một cách sống (McCarthy).
 
          Làm thế nào để có lòng tốt tự phát như người Samaritanô ? Việc này không phải muốn là được, không phải chỉ cố gắng tập một lần mà có, mà là kết quả của việc thực thi những việc tốt nho nhỏ cách đều đặn và kiên trì. Một hành động tốt cao cả là thành quả của nhiều hành động nho nhỏ đã quen làm trước đó. Phần thưởng đích thực của một hành động tốt là nó giúp ta  có thể làm thêm những hành động khác một cách dễ dàng hơn.
 
          Khi đọc kinh Hoà bình của thánh Phanxicô Assisi với câu “Vì chính khi hiến thân là lúc được nhận lãnh”. Lúc mới nghe câu này thì có người cho là không hợp lý, không bình thường, nhưng nếu xét cho kỹ, không những trong đời sống thiêng liêng, mà ngay trong cuộc sống hằng ngày, chân lý đó vẫn còn đứng vững : Cho đi là lãnh nhận ! Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu đã nói :”Phúc cho ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”(Mt 5,7). Muốn được Thiên Chúa xót thương thì chúng ta phải thương xót người khác đã, vì chúng ta đong cho người khác bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng đong lại cho ta bằng đấu ấy, mà còn dư dật nữa.
 
Truyện : Lòng tốt được đền đáp.
 
          Chuyện xẩy ra tại một làng đánh cá ven bờ biển. Phía sau làng là dẫy núi cao. Cách đây 20 năm, nơi này có một cụ già xa lạ đến cư ngụ và đã bỏ tiền ra làm một ngôi nhà lớn bằng gỗ quí. Dân làng thấy cụ già đơn độc thường lên thăm và đều nhận xét cụ già rất tự hào và quí căn nhà lắm, xem nó như một vật cần thiết trên đời. Thế rồi, một bữa kia biển động mạnh dữ dội. Bỗng đang đêm, dân làng đều thức dậy vì thấy đám cháy lớn trên sườn núi, ngay căn nhà quí của cụ già. Vừa tò mò vừa thương cụ già đơn chiếc, toàn dân làng già trẻ, trai gái rủ nhau mỗi người mang một thau nước, gắng sức trèo lên dốc chữa cháy. Xẩy ra là khi mọi người đã lên núi khá cao, thình lình một cơn sóng thần vĩ đại tràn lên bờ và cuốn trôi mọi thứ trong làng.  Vì bận chữa cháy nên rất ít người bị sóng thần cuốn đi.
 
          Ban đầu ai cũng tưởng rằng họ bỏ công leo lên núi để cứu giúp cụ già, nhưng thực tế cụ già đã cứu giúp họ. Bởi vì, một phần nhờ kinh nghiệm và phần khác ở trên cao nên cụ già thấy trước ngọn sóng thần từ xa đang tiến vào bờ, song đang đêm khuya không biết làm sao  báo tin để cứu dân làng cả. Chỉ còn một cách : hy sinh đốt căn nhà yêu quí nhất mới mong dân làng thấy mà chạy lên chữa cháy chăng.
 
          Có lẽ do quá chủ quan hay quá hẹp hòi nông cạn nên nhiều khi phần đông chúng ta  cứ tưởng mình bố thí ít tiền bạc, đồ vật, hy sinh chút công sức, thời giờ để giúp đỡ kẻ khác là chuyện nhưng không, hoàn toàn vô vị lợi, song thực ra, khi mình hy sinh cho đi như thế không những giúp kẻ khác, mà còn làm lợi cho chính bản thân mình nữa. Ngay cả những việc đạo đức mà chúng ta cố gắng thực hiện như nhẫn nhục chịu khổ, trung thành tuân thủ các giới răn, hãm mình ép xác, siêng năng xưng tội rước lễ, lần hạt... chúng ta cứ tưởng là làm cho Chúa vui lòng, nhưng kỳ thực là làm lợi cho chính chúng ta, vì khi sống ngay lành, thánh thiện sẽ là một bảo đảm cho phần rỗi đời đời của mình (Quê Ngọc).
 
          TÂM NGUYỆN :
                             Người Samaritanô nhân hậu
                             Cúi xuống
                             Ôm lấy nỗi đau của anh em mình,
                             Ôi tấm lòng nhân ái bao dung...
 
                             Nhân loại hôm nay
                             Vẫn còn đầy đau thương và nước mắt
                             Cay đắng cơ hàn
                             Đói lương thực, đói tinh thần và đói cả tình thương !
 
                             Lạy Chúa
                             Xin cho con noi bước Ngài xưa
                             Như người Samaritanô nhân ái
                             Yêu kính những thương đau
                             Vì đó là chính Ngài, Lạy Chúa.
                                  ( Trích Lời hằng sống)
 Lm. Jos. Đinh Lập Liễn
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn