1
10:08 +07 Thứ tư, 01/05/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 170

Máy chủ tìm kiếm : 5

Khách viếng thăm : 165


Hôm nayHôm nay : 21050

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 21050

Tổng cộngTổng cộng : 28140298

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Chia sẻ Lời Chúa các tuần I, II, III, IV và V TNC

Thứ sáu - 08/01/2016 20:08-Đã xem: 2993
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã dạy chúng con phải thương xót như Cha trên trời, và cho chúng con biết: ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha. Xin tỏ cho chúng con thấy nhan thánh Chúa, và chúng con sẽ được cứu thoát. Ánh mắt yêu thương của Chúa đã cứu Giakêu và Matthêu khỏi vòng nô lệ tiền bạc; đã giúp người đàn bà ngoại tình và Mađalêna không còn kiếm tìm hạnh phúc nơi thụ tạo; đã khiến Phêrô khóc lóc vì trót phản bội Chúa, và đã hứa Thiên Đàng cho người trộm cướp có lòng ăn năn.
Chia sẻ Lời Chúa các tuần I, II, III, IV và V TNC

Chia sẻ Lời Chúa các tuần I, II, III, IV và V TNC

LỄ CHÚA GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA C
Is 40,1-5.9-11 ; Tt 2,11-14;3,4-7 ; Lc 3,15-16.21-22


LUÔN SỐNG HIẾU THẢO ĐỂ LÀM VUI LÒNG CHÚA CHA
 
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Lc 3,15-16.21-22

(15) Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gio-an: Biết đâu ông chẳng phải là Đấng Mê-si-a ! (16) Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước. Nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến. Tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và Lửa”. (21) Khi toàn dân chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa. Sau đó, đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra (22) và Thánh Thần ngự xuống trên Người như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.

2.Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay được chia làm hai phần: Trong phần đầu: dân chúng thắc mắc và nghĩ Gio-an có lẽ là Đấng Mê-si-a. Nhưng ông đã khiêm tốn phủ nhận điều này và còn giúp họ phân biệt giữa phép rửa bằng nước sông do ông làm khác với phép rửa trong Thánh Thần và Lửa do Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện. Trong phần hai: Khi Đức Giê-su vừa chịu phép rửa do Gio-an thực hiện thì một cuộc Thần hiện đã xảy ra: Chúa Cha giới thiệu Đức Giê-su chính là Người Con độc nhất được sinh ra trước mọi thời gian và được Chúa Cha rất mực yêu quý..

3.CHÚ THÍCH:
-C 15-16: +Đấng Mê-si-a: Mê-si-a trong tiếng Do thái có nghĩa là Đấng Thiên Sai. Từ Mê-si-a này mang nặng ý nghĩa về mặt chính trị ái quốc cực đoan. Mê-si-a đồng nghĩa với Chris-tos trong tiếng Hy lạp hay Ki-tô tiếng La tinh, nghĩa là “Người được Chúa xức dầu” (x. Lc 22,67; 23.3). Về sau tại An-ti-o-ki-a, lần đầu tiên các tín hữu đã được gọi là Ki-tô hữu, nghĩa là người thuộc về Đức Ki-tô (x Cv 11,26). +Cởi quai dép: Là hành vi của các nô lệ người ngọai quốc. +Làm phép Rửa trong Thánh Thần: Ở đây và trong sách Công vụ (1,5;11,16), Lu-ca phân biệt giữa phép rửa bằng nước do Gio-an thực hiện với phép rửa thanh tẩy bằng quyền năng Thánh Thần. Phép rửa mới này sẽ được khai diễn vào lễ Ngũ Tuần khi Thánh Thần lấy hình ngọn lửa hiện xuống trên đầu mỗi tông đồ hay môn đệ của Đức Giê-su. +Lửa: “Lửa” tượng trưng tác động của Chúa Thánh Thần thanh luyện tâm hồn các tín hữu, đang khi “nước” chỉ có tác dụng để tẩy rửa bên ngoài thân xác mà thôi (x. 1 Pr 1,7). Câu này tiên báo việc Chúa Thánh Thần sẽ tác động trên các tông đồ vào lễ Ngũ Tuần, tức ngày thứ mười sau khi Chúa lên trời (x. Cv 2,3-4).
-C 21-22: +Đức Giê-su cũng chịu phép rửa: Người khiêm tốn hòa nhập vào đoàn người sám hối đang xếp hàng lần lượt xuống sông Gio-đan để được Gio-an làm phép Rửa thanh tẩy cho +Đang khi Người cầu nguyện: Lu-ca thường ghi nhận những lần Đức Giê-su cầu nguyện trước các biến cố quan trọng (5,16; 6,12; 9,18.28-29). +Trời mở ra: Tin mừng Mác-cô viết: “Các tầng trời xé ra” (Mc 1,10). Còn ở đây Lu-ca viết: “Trời mở ra” có vẻ nhẹ nhàng hơn. Đức Giê-su chấm dứt thời kỳ Cựu ước của Do thái giáo và bắt đầu một kỷ nguyên mới là thời kỳ Tân ước. Từ đây trời đất đã giao hòa. Cửa Trời không còn đóng lại, nhưng đã được mở ra (x. Cv 7,56).+Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu: Chim bồ câu là hình dáng mà Thánh Thần mượn khi muốn cho người phàm xem thấy. Đây cũng là hình ảnh nhắc lại cuộc tạo dựng vào lúc khởi nguyên, báo hiệu một cuộc tạo thành mới (x. St 1,2). Trong biến cố đại hồng thủy thời No-e, chim bồ câu cũng báo trước về một thế giới mới (x. St 8,8). Cuối cùng, chim bồ câu ở đây còn bao hàm một ý nghĩa nữa là: Thần Khí đã xức dầu thiêng liêng cho Đức Giê-su (x. Cv 10,38), để tấn phong Người là Đấng Mê-si-a (x. Mt 12,18). +“Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”: Đây là Lời Chúa trích trong Thánh kinh (x Tv 2,7 ; Cv 13,33 ; Dt 1,5). Qua lời này, Đức Giê-su được Chúa Cha tấn phong làm Đấng Mê-si-a và bắt đầu sứ mệnh cứu độ dân Chúa. Cũng qua câu này, Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm quan trọng: “Đức Giê-su là Con Một Thiên Chúa” (x. Lc 1,35).

4.CÂU HỎI: 1-Ý nghĩa của từ Ki-tô và Ki-tô hữu là gì? Các tín hữu của Chúa Giê-su lần đầu tiên được gọi là Ki-tô hữu tại đâu? 2-Phân biệt phép rửa của Gio-an và phép rửa tội của Đức Giê-su giống và khác nhau thế nào? 3-“Lửa” trong câu Lc 3,16 có ý nghĩa ra sao và tiên báo về điều gì? 4-Tại sao Đức Giê-su là Đấng vô tội mà lại đứng xếp hàng chung với các tội nhân để xin Gio-an làm phép rửa ? 5-Câu nào cho thấy Đức Giê-su đã được Chúa Cha tấn phong làm Đấng Mê-si-a?

II. SỐNG LỜI CHÚA:
1.LỜI CHÚA: “Con là Con Cha. Cha hài lòng về Con” (Lc 1,35)

2.CÂU CHUYỆN: SỨC MẠNH CỦA GƯƠNG SÁNG
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Bác sĩ nói: “Cháu ạ, trước khi giải phẫu, ta phải làm cho cháu ngủ đã!” Cô bé, vốn được bà mẹ đạo đức huấn luyện từ nhỏ về thói quen cầu nguyện trước khi đi ngủ, liền đáp: “Ồ, nếu bác sĩ làm cho cháu ngủ, thì xin hãy để cho cháu được cầu nguyện trước đã”. Rồi em ngồi dậy sốt sắng cầu nguyện. Sau một phút, em nói: “Bây giờ thì bác sĩ có thể cho cháu bắt đầu ngủ được rồi đấy!” Sau đó, chính bác sĩ giải phẫu cũng âm thầm cầu nguyện khi sắp bắt tay vào việc chuyên môn gây mê và giải phẫu khối u cho em nhỏ. Đây là lần cầu nguyện đầu tiên của ông sau 30 năm xa Chúa. Không biết sức mạnh nào ở nơi cô bé yếu đuối kia đã làm khơi dậy niềm tin nơi vị bác sĩ đáng bậc cha chú của em!
3.THẢO LUẬN: Khi chịu phép rửa tội, chúng ta đã được công nhận là con yêu dấu của Chúa Cha như Đức Giê-su xưa. Người cũng truyền cho các môn đệ phải làm chứng cho Người (Cv 1,8). Vậy ngày nay các tín hữu cần làm chứng cho Đức Giê-su bằng cách nào?

4.SUY NIỆM:
1) PHÂN BIỆT HAI LOẠI PHÉP RỬA:
- Gioan Tẩy Giả đã phân biệt hai loại phép rửa với dân chúng Do Thái như sau: “Tôi rửa anh chị em trong nước, nhưng có Đấng cao trọng hơn tôi đang đến sau tôi …Nhưng Người có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi giây giày cho Người. Người sẽ rửa anh chị em trong Thánh Thần và Lửa”. Gioan cũng làm chứng về Ngôi vị Con Thiên Chúa của Đức Giêsu như sau: “Tôi không biết Người, nhưng  Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Tôi đã thấy và tôi làm chứng Người Chính là Con Thiên Chúa…”
- Như vậy ta thấy có hai loại phép Rửa: Phép rửa sám hối bằng nước sông của Gioan Tẩy Giả, và phép rửa trong Thánh Thần và lửa hay bí tích rửa tội của Đức Giêsu như sau:
+Phép rửa sám hối bằng nước sông: Đức Giêsu đã đến xếp hàng xin Gioan làm phép rửa bằng nước sông Gio-đan để được Thiên Chúa xác nhận là Đấng Thiên Sai, như Gioan Tẩy Giả đã nói: “Để Ngài được tỏ mình ra với dân Israel, nên tôi mới đến làm phép rửa trong nước”. Người chịu phép Rửa bằng nước được Gio-an dìm mình xuống dưới mặt nước bày tỏ lòng “sám hối để được ơn tha tội” (x. Mc 1,4), và được gia nhập vào đoàn ngũ những người sẽ đón nhận ơn cứu độ của Đấng Thiên Sai sắp đến ban cho.
+Phép rửa tái sinh trong Chúa Thánh Thần: Đây là phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi do Chúa Giêsu thiết lập. Trước khi lên trời, Chúa Giêsu Phục Sinh đã truyền cho các môn đệ cử hành phép rửa tội như sau: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…” (Mt 28,18-19). Phép rửa của Chúa Giêsu ám chỉ toàn bộ công trình cứu độ bằng sự chết và phục sinh của Người như Người đã nói trước cuộc khổ nạn: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12,50). Những ai chịu phép rửa do Đức Giê-su thiết lập sẽ nhận được Thần Khí tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi, sẽ được Chúa ban tặng một quả tim mới bằng thịt biết yêu thương, thay cho quả tim đã hóa ra chai đá (x. Is 44,3).
2) PHÉP RỬA TỘI GIÚP LOẠI TRỪ CÁC THÓI HƯ THUỘC XÁC THỊT:
- Hôm nay Hội thánh cũng muốn nhắc lại những cam kết trong ngày chịu phép rửa tội. Qua nghi lễ thanh tẩy bằng nước, diễn tả mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Giê-su, Hội thánh nhắc nhở các tín hữu phải chết đi cho những gì thuộc về ma quỉ, thế gian cùng các đam mê tội lỗi bất chính để cùng Người sống lại một cuộc sống mới làm con Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần.
- Chết đi cho các thói hư chính là lọai trừ óc bè phái cục bộ, gây chia rẽ nội bộ, thói tự cao tự đại cho mình là nhất và hay phê phán kẻ khác, thói tự ái cao không chấp nhận những góp ý phê bình của tha nhân đối với các sai sót khuyết điểm của mình. Chết đi cho những việc làm xấu xa như: tham ô hối lộ, ăn cắp của công, bóc lột người nghèo, giết người cướp của, chè chén say sưa, cờ gian bạc lận, gian tham tục tĩu, loại bỏ những ý nghĩ đen tối, những lời nói hành, “gắp lửa bỏ bàn tay người”, lên án bất công cho những kẻ mình không ưa, nói sai sự thật, thói ưa tọc mạch soi mói vào đời tư kẻ khác…
3) PHÉP RỬA TỘI TÁI SINH TA LÀM CON THIÊN CHÚA:
- Ngày lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta ý thức và sống ơn gọi khi chịu phép rửa tội: Được biến hóa nên con của Thiên Chúa giống Đức Giê-su như Tin Mừng đã ghi nhận: “Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Như vậy, phép rửa tội không những là một lễ nghi để được ghi tên gia nhập đạo, mà còn là khởi đầu của một cuộc sống mới làm con Thiên Chúa và sẽ kéo dài trong suốt cuộc đời mỗi người tín hữu. Chúng ta phải sống thế nào để Thiên Chúa có thể xác nhận chúng ta là con thảo như đã từng xác nhận khi Đức Giêsu sau khi chịu phép Rửa của Gioan: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).  
- Vậy thế nào là một “người con yêu dấu luôn làm Chúa Cha hài lòng? :
+ Hiểu biết ý muốn của cha mình: Đức Giêsu luôn cầu nguyện kết hiệp với Chúa Cha và hiểu biết thánh ý của Chúa Cha và luôn theo ý Chúa cha. Người cũng cho các môn đệ biết: ”Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Trước cuộc khổ nạn, sau bữa Tiệc Ly, Người đã đến vườn Cây Dầu và cầu nguyện với Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
+ Chiếu ánh sáng đức tin bằng các việc lành: chúng ta phải chiếu ánh sáng của Chúa bằng việc thăm viếng để chia sẻ và phục vụ cụ thể như lời Chúa Giêsu phán: ”Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).  Cần năng cầu nguyện với Chúa Cha với tâm tình con thơ phó thác như lời kinh Chúa dạy: ”Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời…”
Cuộc sống của chúng ta phải biểu lộ cho người khác biết chúng ta là con Thiên Chúa như ông vua Bo-les-las nước Ba lan luôn đeo mẫu ảnh vua cha trước ngực, và luôn cầu nguyện với Chúa Cha: ”Con quyết tâm không làm điều gì bất xứng với chức vụ làm con thảo của Chúa cha”.
 4) PHÉP RỬA GIÚP TA CHU TOÀN SỨ VỤ LÀM CHỨNG CHO CHÚA: Sau khi chịu phép Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta sẽ được thánh hóa nhờ Thần Khí của Chúa Kitô Phục Sinh. Từ đây chúng ta có bổn phận làm chứng cho Chúa Giêsu bằng các việc như sau:
+ Làm chứng bằng một cuộc sống hiếu thảo luôn làm hài lòng Thiên Chúa như Đức Giê-su (x Mt 3,17): Mỗi tín hữu cần năng kết hiệp bằng sự đọc kinh cầu nguyện sớm tối; Dành ra thời gian để đọc một đoạn Lời Chúa rối suy niệm để tìm hiểu ý Chúa muốn cho mình phải làm gì và cầu xin Chúa giúp thực hành theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu (x Dt 10,9; Mt 26,39); Cần ý thức phải tích cực góp phần xây dựng xã hội mình đang sống trở nên “Trời Mới Đất Mới” (Kh 21,1-4), nghĩa là ngày một an tòan sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn…
+ Làm chứng cho Đức Giê-su là không phải lúc nào cũng nói về Chúa, nhưng là luôn sống đức tin bằng việc thực hành đức cậy  chiếu sáng đức ái qua cách ứng xử với tha nhân: Câu chuyện bé gái sắp bị mổ đã yêu cầu được một phút cầu nguyện với Chúa, đã có sức lay động đức tin chai đá nguội lạnh của viên bác sĩ giải phẫu đã bỏ cầu nguyện trong nhiều năm.
+ Làm chứng bằng việc quyết tâm loại bỏ con người cũ xác thịt bằng cách xin ơn Thánh Thần luôn làm theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu như thánh Phao-lô đã viết: "Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 1-2).
+ Làm chứng bằng việc chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng, nghĩa là làm cho “danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”(Mt 6,9-10), bằng lời nói việc làm chia sẻ quảng đại và khiêm tốn phục vụ những kẻ bệnh tật hoặc bị bỏ rơi… Nhờ đó anh em lương dân sẽ dễ dàng nhận biết tin yêu Chúa như Đức Giêsu đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). 

5.NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin cho chúng con luôn biết nhận ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình để tu sửa đời sống. Xin cho chúng con tránh cố ý nổi trội hơn anh em nhưng luôn chọn những gì nhỏ hơn tha nhân về quyền lợi địa vị, nhưng nhiều hơn anh em về trách nhiệm phục vụ. Xin cho chúng con luôn ăn nói khiêm tốn nhỏ nhẹ, tránh la mắng to tiếng với người dưới, cho chúng con biết nói ít làm nhiều như Gioan đã nói: “Người cần phải lớn lên còn tôi phải nhỏ bé đi”... Nhờ đó, “hữu xạ tự nhiên hương”: qua chúng con, anh em lương dân sẽ nhận biết yêu mến Chúa để cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ trong gia đình Hội Thánh với chúng con.
X)HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ)XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
 
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
KITÔ HỮU ĐÍCH THỰC
+++
A. DẪN NHẬP 
          Trước khi bước vào đời sống công khai đi rao giảng Tin mừng cứu độ, Chúa Giêsu đến xin ông Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình tại sông Giorđan. Ngài hòa nhập với dòng người đến nhận phép rửa, không phải để xin ơn tha tội vì Ngài là Đấng trong sạch vô cùng, nhưng Ngài nêu gương khiêm hạ cho mọi người; đồng thời thánh hóa nước để thanh tẩy trong phép Rửa tội mà Ngài sẽ thiết lập.
          Sau khi được kéo ra khỏi nước và đang khi cầu nguyện, Chúa Giêsu thấy” trời mở ra và Thánh Thần hiện hình giống như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán rằng :”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”(Lc 3,21-22). Đấy là lời Chúa Cha tuyên phong Đức Giêsu là  Đấng Messia để ra đi rao giảng Tin mừng cứu độ. 
          Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Rửa tội để tha tội cho chúng ta. Mọi người đã được chịu phép Rửa tội đều được gọi là Kitô hữu, một danh hiệu vô cùng cao quí. Vì thế, mỗi Kitô hữu phải sống cho xứng với  hồng ân được mang danh Chúa Kitô, được sát nhập vào Chúa Kitô. Mọi người phải lo chu toàn sứ vụ của mình đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo hội và đối với mọi người, để đời sống của chúng ta phải được ca ngợi là chứng nhân trung thành của Chúa, có một đời sống “nội thánh ngoại vương”.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          Bài đọc 1 : Is 42,1-4.6-7. 
          Khi ấy dân Do thái bị thử thách nặng nề, phải đi đầy ở Babylon. Để khích lệ họ,ïtiên tri Isaia loan báo : họ vinh dự được Thiên Chúa chọn làm đầy tớ lý tưởng của Ngài, có trách nhiệm giới thiệu Thiên Chúa cho dân ngoại. 
          Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách đệ nhị Isaia. Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là   Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại, Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, “không lớn tiếng”, “không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét”. 
          Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu.  Chính Đức Giêsu sẽ đảm nhận vai trò Người Tôi Tớ. Vai trò này, Ngài sẽ hoàn thành khi biến tôn giáo của đức tin thành một sự ưng thuận thắm tình con thảo mà mọi người đều có thể nói lên, dù người ấy thuộc bất cứ nền văn hoá hay quốc gia nào. Theo gương Đức Kitô, các Kitô hữu cũng phải thực hiện nhiệm vụ trên.
 
          Bài đọc 2 : Cv 10,34-38. 
          Đây là phần đầu bài giảng của thánh Phêrô ở Cêsarêa cho ông Corneliô, viên sĩ quan Rôma và gia đình của ông để giúp họ hoán cải và chịu phép rửa. Đây là một việc làm có tính cách cách mạng vì từ trước đến nay các tông đồ chưa nghĩ đến việc cho người ngoại gia nhập Giáo hội.
          Trong bài nói chuyện với người Do thái, Phêrô cho biết sở dĩ Ngài dám làm như vậy vì “Thiên Chúa không thiên tư tây vị ai, hễ ai thực hành sự công chính, đều được Ngài đón nhận”. Chính Đức Giêsu Nazareth đã được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng xức dầu tấn phong Ngài  và Ngài đã đi khắp nơi để ban phát ơn lành.
 
          Bài Tin mừng : Lc 3,15-16.21-22.
           Cả 3 bài Tin mừng của lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa có rất nhiều điểm giống nhau. Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành 2 phần :
           * Phần một : Ông Gioan thanh minh là mình không phải là Đấng Kitô như người ta tưởng. Có Đấng sẽ đến sau ông và cao trọng hơn ông. Hiện nay ông chỉ rửa họ bằng nước, còn Đấng đến sau sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
           * Phần hai : Đức Giêsu nhận phép rửa của ông Gioan và trong nghi lễ này Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu thế. Đó chính là ý nghĩa việc Thánh Thần hiện xuống,”các tầng trời mở ra”, cách diễn tả lấy lại của Isaia 63,11-14.19 khi công bố tấn phong một vị giải phóng mới. Có tiếng nói từ trời vang trên Đức Giêsu, tiếng nói ấy cũng thuộc về nghi thức phong vương một vị vua mới :”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
                                                Kitô hữu đích thực
I. CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
 
1.    Phép rửa tại sông Giorđan
           Chúng ta đang ở bên bờ sông Giorđan, nơi Gioan Tẩy giả rao giảng, kêu gọi mọi người sám hối, nhận phép rửa để được ơn tha thứ. Thế nhưng, chúng ta thấy rằng điều quan trọng không phải chỉ nhằm ở việc ông Gioan rao giảng, mọi người tuốn đến lãnh nhận phép rửa,… mà đó còn xẩy ra một sự kiện hết sức trọng đại : Chúa Giêsu cùng với bao nhiêu người khác đi vào dòng sông Giorđan để lãnh nhận phép rửa từ tay ông Gioan. 
          Sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa không chỉ là bước khởi đầu cho sứ vụ rao giảng Tin mừng mà Chúa sẽ thực hiện sau này; biến cố chịu phép rửa cũng không chỉ là việc Chúa Giêsu được Gioan Tẩy giả giới thiệu mà đó còn là một sự kiện xuất phát từ chính Thiên Chúa được minh chứng bằng những việc lạ lùng như việc trời mở ra và việc Thánh Thần dưới hình chim bồ câu ngự trên Người cùng với lời tuyên phong của Chúa Cha.
          Đời sống công khai của Chúa Giêsu bắt đầu bằng việc Người chịu phép rửa (Lc 3,21). Mặc dầu phép rửa mà Chúa lãnh nhận không phải là bí tích rửa tội, nghĩa là không để được tha tội vì Người không có tội, phép rửa đó cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Phép rửa đánh dấu cái sứ mệnh công khai của Người trong việc rao giảng và chữa lành.  Người chịu phép rửa để thánh hóa nước để trở thành chất thể trong bí tích rửa tội do Người thiết lập.
 
2.    Chúa Giêsu được tấn phong 
          Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi lên ý tưởng một cuộc lễ phong vương.  Ngày xưa khi một vị hoàng vương được tôn lên làm vua thì họ phải trải qua một cuộc phong vương gồm ba sự việc :
                             - Phải tắm rửa sạch sẽ.
                             - Phải được xức dầu.
                             - Phải được tôn phong làm vua. 
          Hôm nay khi sắp ra giảng đạo để thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Chúa Giêsu cũng được tấn phong làm vua qua ba nghi lễ như sau : 
          + Trước tiên Người chịu phép rửa của Gioan dưới sống Giorđan như một dấu ăn năn sám hối, mặc dầu Người là con chiên trong sạch. 
          + Sau đó, “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người”(Cv 10,38b; Is 61,1), để trở nên Đấng Thiên Sai :”Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”(Cv 10,38c). 
          + Cuối cùng, Người đã được Chúa Cha công nhận là Vua Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, như Tin mừng Luca viết:”Khi Người cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng :”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”(Lc 3,22).
 
3.    Dấu chỉ Bí tích Rửa tội
          Câu hỏi tại sao Chúa Giêsu lại chịu phép rửa ? Các thánh sử đưa ra nhiều khía cạnh như Matthêu (3,14-15), Luca (3,21) hay Gioan (1,31-34). Các thánh giáo phụ còn đưa ra nhiều lý do khác, ví dụ  Chúa chạm đến nước để thánh hóa nước  và làm cho nước được thần lực tẩy xóa tội lỗi trong Bí tích Rửa tội… 
          Chúa Giêsu xin đến rửa, không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Người chịu phép rửa là có ý nói lên : từ nay, Người chung số phận với người tội lỗi và đó là tất cả ý nghĩa đời Người, và cuộc đời này chỉ hoàn tất với Phép Rửa cuối cùng, của sự chết (Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi, con người bị sa ngã và là số phận bi đát nhất, tệ hại nhất. 
          Chúa Giêsu đến với ông Gioan để lãnh nhận phép rửa, nhưng chính ông Gioan đã khẳng định ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Chúa Giêsu là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.  Chúa Giêsu đã khai mở bí tích Rửa tội cho những kẻ theo Người bằng việc đích thân Người xin lãnh phép rửa từ Gioan. Chúa Giêsu muốn chúng ta có sự tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới, tiếp nối giữa lời rao giảng của vị tiên tri cuối cùng cao đẹp hơn tất cả các vị trước  với lời rao giảng của chính Người để thiết lập Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, lễ rửa này Người đã biến đổi để có thể thực sự khai mào cho Bí tích Rửa tội.
 
II. HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI. 
          Khi Chúa Giêsu để cho Gioan dìm mình trong nước không phải là để thanh tẩy Người vì Người không vương tội lỗi, Người muốn nói lên một ý nghĩa khác, đó là loan báo cái chết và sự phục sinh của Người : dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại.
           Khi chúng ta nhận lãnh bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta  tham dự vào sự chết và sống lại của Người.  Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội.  Trong phép rửa tội chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, tội tổ tông và tội riêng.  Do đó, nó biến chúng ta thành “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), một nghĩa tử của Thiên Chúa (Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (2Pr 1,4), trở nên chi thể của Chúa Kitô (Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6,15).
           Đó chính là ơn siêu nhiên, “ơn thánh hóa”, “ơn sủng của sự công chính hóa” mang lại các nhân đức đối thần và luân lý, cùng các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Tóm lại, “toàn bộ cơ thể của sự sống siêu nhiên của người Kitô hữu bắt nguồn nơi bí tích Rửa tội (Giáo lý Công giáo, số 1266). 
          Ngày được chịu phép rửa tội là một ngày trọng đại, ngày đáng ghi nhớ của chúng ta. Đức Giáo hoàng Piô XI đã nói với hàng ngàn thanh niên nhân ngày kỷ niệm rửa tội của Ngài :”Ngày chịu phép rửa tội  là ngày cao quí nhất của đời Cha. Cũng như ngày các con chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời các con”.
          Chúng ta đã được chịu  phép rửa tội, một hồng ân cao quí Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng nên có một vài cảm nghĩ về phép Rửa tội. 
          Phép rửa không chỉ được ban một lần khi chúng ta được mang đến giếng Rửa tội trong nhà thờ.
          Chúng ta được rửa bởi tất cả các biến cố xẩy ra trong đời :
          - Chúng ta được rửa bởi những cực nhọc, khó khăn : đó là những dòng nước biến động thanh luyện chúng ta  khỏi những gì gian trá và vô dụng.
        - Chúng ta được rửa bởi những đau khổ, buồn rầu : đó là những dòng nước u ám nhưng chỉ có khả năng giúp ta lớn lên trong đức khiêm tốn và cảm thông.
          - Chúng ta được rửa bởi niềm vui : đó là dòng nước róc rách khiến ta cảm nghiệm được vị ngọt của cuộc đời.
          - Chúng ta được rửa bởi tình yêu : đó là dòng nước ấm áp làm cho đời ta tươi nở như hoa  dưới ánh nắng mặt trời.
          Phép rửa là một hạt giống, cần phải nảy mầm trong suốt cả đời sống.
             (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm C, tr 119)
 
III. KITÔ HỮU, NGƯỜI LÀ AI ?
 
          Tất cả những người chịu phép rửa tội đều được gọi là Kitô hữu, một danh hiệu cao quí mà chính thánh Phaolô đã gọi  lần đầu tiên ở Antiochia :”Barnabê và Saulê đến thành Antiochia. Hai người gặp dân chúng trong nguyện đường và dạy dỗ nhiều người. Chính ở Antiochia lần đầu tiên, những tín hữu được gọi là Kitô hữu”(Cv 11,26) 
          Nhờ phép rửa tội, chúng ta được mang tước hiệu là Kitô hữu. Kitô hữu là người có Đức Kitô, được mang danh Chúa Kitô. Kitô hữu là một Kitô khác (Alter Christus). Mỗi Kitô hữu là một nối dài của chính Đức Kitô. Đó là tước hiệu cao cả của chúng ta. Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những  dịp lễ lạc, hội hè mà phải luôn chiếu tỏa từng giây phút của cuộc sống.
 
Truyện : Kitô là gì ?
          Sau đệ nhị thế chiến, tại một vùng mỏ than bên Anh, người ta hỏi tụi con nít :
          - Kitô là gì ?
          Chúng trả lời :
          - Là một tiếng chửi thề.
          Điều tra ra mới biết người lớn ở vùng này dùng từ Kitô để chửi thề. 
          Ở Việt nam, trước giải phóng, có một hãng bột giặt lấy tên Kitô mà đặt cho một loại sản phẩm của họ, cũng như một hãng mì ăn liền lấy tên Phật Tổ để đặt tên cho  mì chay họ sản xuất 
          Vậy mà người Công giáo lẫn Phật giáo chẳng  thấy ai phản đối. Trong khi đó, ở Pháp, hồi cuối thập niên 50, hãng phô-mai sản xuất loại “con bò cười”,  trước tiên gọi nó là “con bò cầu nguyện” (La vache qui prie), đã bị các Kitô hữu kiện, vì đã nhạo báng tôn giáo.
                   (Thiện Cẩm, Trái chín đầu mùa, tr 13) 
          Kitô hữu phải là người mặc lấy Chúa Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài như thánh Phaolô đã khuyên nhủ tín hữu Rôma :”Anh em hãy mặc lấy Chúa Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”(Rm 13,14). Mặc lấy Chúa Kitô  là trở nên chính Chúa Kitô để có thể nói :”Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”(Gl 2,20). 
          Một người đàn bà quan sát người ta  phân phát quần áo cũ cho người lang thang ngoài đướng phố. Thình lình một ý tưởng đến với bà : Nếu mang áo quần của người khác, gầy dép của người khác, thì mình sẽ như thế nào ? Và từ đó bà khám phá ra ý nghĩa của Kitô giáo.  Kitô hữu là người mang giầy của người khác : giầy của Chúa Kitô. Họ đi đến nơi mà Chúa Giêsu muốn đến và làm những gì Ngài muốn thực hiện.  Và đó cũng là ý nghĩa của việc muốn trở thành Chúa Giêsu trong thế giới ngày nay. 
          Khi mang giầy của Chúa Giêsu, tôi cảm thấy dễ chịu đến mức độ nào ? Và đôi giầy làm tôi khó chịu ở chỗ nào ? Mỗi đặc tính  đều có một động lực bên trong. Xin hãy để cho Chúa Kitô là động lực đó. Mỗi hành động đều có một ý nghĩa chính. Xin hãy để cho Đức Kitô là ý nghĩa chính đó (Henry Drummond). 
          Định nghĩa trên nghe cũng hay hay. Dùng những từ như : việc mặc lấy, mang lấy giầy của Chúa Kitô, để diễn tả phần nào thực thể  người Kitô là ai, việc dùng từ như vậy, không diễn đạt hết thực thể của người Kitô. Người Kitô không phải chỉ là  là kẻ mang giầy của Chúa mà phải là chính Chúa Kitô, Ngài như thế nào, chúng ta phải như thể ấy. 
          Khi nói về Kitô hữu, sử gia Tertullianô viết :
“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa. 
          Câu :”Kẻ muốn theo Ta thì phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cũng như bị cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng hiện hình. Hèn gì mà trên tín trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường” .
 
IV. SỨ VỤ NGƯỜI KITÔ HỮU. 
          Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa là ngày Ngài được tôn phong để đi rao giảng Tin mừng cứu độ. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng Thiên Sai, mà dân tộc Israel hàng ngàn năm mong đợi. 
          Đức Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo. Mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi :”Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo hội và đối với những anh em không cùng tín ngưỡng” ? 
          Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu phép rửa không thể không nhắc nhở chúng ta  nhớ đến sứ vụ của người Kitô hữu. Nhờ Bí tích Rửa tội chúng ta được nhận làm con Thiên Chúa, được hưởng gia tài vĩnh cửu của Thiên Chúa và nhất là cùng được sai đi  đến với mọi người.  Không việc làm gì cụ thể khác hơn là chúng ta học theo mẫu gương của Đức Giêsu và thực thi sứ mạng rao giảng Tin mừng, để nối tiếp công việc của Ngài. 
          Là con cái Thiên Chúa quả là một hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Nhưng chúng ta phải làm gì để Chúa Cha được hài lòng ? Nếu Bí tích Rửa tội được cử hành cần đến nước thì cuộc sống người Kitô hữu cũng cần được gội rửa trong nước để trở nên thanh sạch và bắt đầu cuộc sống mới, trở nên con người mới thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa. Muốn được như vậy mọi suy nghĩ, lời nói, và hành động của chúng ta  phải phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, hơn là ý riêng của mình, và hãy để cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt như Đức Giêsu.
 
Truyện : Nội ngoại đồng nhất. 
          Có hai người bộ hành đi đường xa mệt nhọc, đêm đến phải vào ngủ trong một cái miếu nổi tiếng  là có ma quái. Một người là Kitô hữu tin tưởng vào sự che chở của Chúa nên không chút sợ hãi.  Trái lại, người bộ hành không phải Kitô hữu lại cảm thấy lo sợ, nên đã đề nghị với người bạn cho mình mượn Thánh giá đeo cổ.
          Quả thực, đêm đó yêu tinh xuất hiện, nó lần mò đến từng người, sờ vào cổ người Kitô để sát hại. Con yêu tinh mới thốt lên :”Người này có trong mà không có ngoài”, nghĩa là người này là Kitô đích thực, dù không đeo một dấu hiệu nào.
          Sang người bộ hành kia, con yêu tinh chạm đến Thánh giá trên cổ người ấy mà nói :”Người này có ngoài mà không có trong”, nghĩa là người này tuy mang Thánh giá, nhưng không phải là Kitô hữu đích thực. 
          Chúng ta là những Kitô hữu. Chúng ta thi hành các bổn phận đạo đức, chúng ta mang trên mình nhiều hình ảnh của Chúa và Đức Mẹ, nhưng liệu tâm hồn chúng ta  có đích thực là tâm hồn Kitô hữu không ? Hay có lẽ chúng ta  chỉ có cái bên ngoài hào nhoáng của thời trang, mà bên trong lại trống rỗng  (Mỗi ngày một tin vui, tr 119). 
          Chúng ta thường gọi vua Đavít là thánh vương. Người Á đông cũng gọi các vua đạo đức thánh thiện là “thánh vương” như vua Văn, vua Vu thời xưa. Người ta lấy câu nói của Vương Dương Minh làm châm ngôn cuộc sống của các vị ấy :”Nội thánh, ngoại vương”, bên trong là vị thánh, bên ngoài là một ông vua. 
          Người Kitô hữu được tham dự vào chức tư tế vương giả của Đức Kitô, và cung cách vương giả của Đức Kitô chính là lòng quảng đại, biểu hiệu một tâm hồn luôn liên kết với Thiên Chúa Tình yêu.
          Ước gì mọi tư tưởng, mọi hành động của chúng ta đều là một thể hiện của niễm tin sâu xa của đời sống đạo đích thực, chân thành và không giả dối.
------------------------------------------------------------------------------------- 

CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN C
Is 62,1-5 ; 1 Cr 12,4-11 ; Ga 2,1-11

HÃY MỞ CỬA ĐÓN CHÚA ĐẾN NHÀ
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 2,1-11

(1) Ngày thứ ba, có tiệc cưới tạCa-na miềGa-li-lê. Trong tiệc cưới, có thân mẫĐức  Giê-su. (2) ĐứGiê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. (3) Khi thấy thiếu rượu, thân mẫĐứGiê-su nói với Người : “Họ hết rượu rồi”. (4) ĐứGiê-su đáp : “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Con? Giờcủa Con chưa đến. (5) Thân mẫu Người nói với gia nhân : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. (6) Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi línước. (7) ĐứGiê-su bảo họ : “Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” và họ đổ đầy tới miệng. (8) Rồi Người nói với họ : “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc”. Họ liền đem cho ông. (9) Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lạ(10) và nói : “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ”. (11) ĐứGiê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tạCa-na miềGa-li-lê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

2.Ý CHÍNH:
Đức Giê-su và các môn đệ đã cùng với Mẹ Ma-ri-a đến tham dự một bữa tiệc cưới tại thành Ca-na miền Ga-li-lê. Bữa tiệc mới được nửa chừng thì rượu sắp hết. Mặc dù chưa tới Giờ hành động, nhưng do lời Mẹ Ma-ri-a cầu bầu mà Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon. Qua dấu lạ này Đức Giê-su biểu lộ quyền năng hầu giúp các môn đệ mới đi theo tin Người là Đấng Thiên Sai.

3.CHÚ THÍCH:          
-C 1-2: +Có thân mẫĐứGiê-su: Tin mừng Gio-an 2 lần nhắc đến Đức Ma-ri-a trong thời gian Đức Giê-su ra giảng đạo: Lần đầu khi Đức Giê-su bắt đầu đi thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Đức Ma-ri-a đã hiện diện trong bữa tiệc cưới tại thành Ca-na và đã can thiệp khiến Đức Giê-su làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon, dù chưa đến Giờ của Người. Lần hai nhắc đến việc Đức Ma-ri-a đứng dưới chân thập giá trong cuộc tử nạn của Đức Giê-su, để hiệp công cứu độ loài người.
-C 3-5: +Thiếu rượu: Người Do thái vẫn thường ăn uống tiết độ. Nhưng trong dịp cưới xin, họ lại hay uống quá chén. Vì thế bữa tiệc cưới này mới nửa chừng thì đã hết rượu. +Thân mẫĐứGiê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi”: Đức Ma-ri-a tỏ ra nhạy cảm trước nhu cầu của đôi tân hôn, nên đã nói với Đức Giê-su rằng: “Họ hết rượu rồi” với hy vọng Người sẽ giúp đỡ đôi tân hôn. +Thưa Bà: Ở đây và trên cây thập giá (x Ga 19,26), Đức Giê-su đều dùng từ “Bà” (gune) để gọi thân mẫu của Người, giống như bà E-và xưa cũng đã được gọi là “Bà” (x. St 3,15.20). Điều này ngầm ám chỉ Đức Ma-ri-a là “E-và Mới” của thời Tân ước, là Mẹ của một “nhân loại mới” được ơn cứu độ. +Chuyện đó can gì đến Bà và Con?: Đây là một kiểu nói Do thái nhằm từ chối một sự can thiệp không đúng lúc (x. 2 Sm 16,10). +Giờcủa Con chưa đến: Đức Giê-su không làm gì trước Giờ của Người (x. Ga 7,30). Ở đây có ý nói rằng: tuy Giờ được tôn vinh chưa đến, vì Người chưa trải qua cuộc tửnạn và phục sinh, nhưng ngay bây giờ Người muốn biểu lộ Giờ ấy cho các môn đệ thấy hầu tin vào Người, qua dấu lạ Người sắp thực hiện. +“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”: Trực giác khiến Đức Ma-ri-a tin cậy chắc chắn Đức Giê-su sẽ can thiệp, nên đã căn dặn gia nhân hãy làm theo lệnh Người truyền. Câu này nhắc lại lời Pha-ra-on vua Ai Cập vào thời tổ phụ Gia-cóp và Giu-se xưa: “Cứ đến với Giu-se. Ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo” (St 41,55).           
-C 6-8: +Sáu cái chum đá dùng vào việc thanh tẩy: Theo phong tục Do thái, người ta thường để những cái chum đựng nước trong sân trước hay sân sau nhàmỗi khi có đám tiệc, để khách mới đến có thể rửa tay rửa mặt theo tục lệ thanh tẩy trước khi dùng bữa (x. Mt 15,2). Ở đây có 6 chum đá, mỗi chum chứa được hai hay ba thùng 40 lít, tức vào khỏang từ 80 đến 120 lít nước ! +“Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” và họ đổ đầy tới miệng: Đức Giê-su ra lệnh cho gia nhân đổđầy nước vào sáu cái chum đá. “Đổ đầy tới miệng” cho thấy ơn Chúa được ban cho đôi tân hôn cách dư đầy. Với khoảng 600 lít rượu thì cả làng sẽ được uống no nê thỏa thích!
-C 9-11: +Dấu lạ đầu tiên: Dấu lạ là một việc làm khác thường, diễn tả một điều thiêng liêng đang ẩn dấu. Dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới Ca-na này để tỏ bày vinh quang và quyền năng của Đức Giê-su trước các môn đệ (c 11b), giúp các ông vững tin vào Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 2,11c).

4.CÂU HỎI: 1) Qua việc nhắc đếĐứMa-ri-a vào lúc đầu và cuối thời gian rao giảng Tin mừng củĐứGiê-su, thánh Gio-an muốn nói gì về vai tròcủĐứGiê-su và thân mẫu Người trong công trình cứu độ? 2) Tại sao ĐứGiê-su lại dùng tiếng “Bà” khi thưa chuyện vớĐứMa-ri-a? 3) Qua câu “GiờCon chưa đến”, ĐứGiê-su muốn nói gì về sứ mệnh Thiên Sai của Người? 4) Tại sao ĐứMa-ri-a lại dạy gia nhân làm theo lệnh truyền củĐứGiê-su? 5) ĐứGiê-su làm phép lạ đầu tiên này tại tiệc cướCa-na nhằm mục đích gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5)
2.CÂU CHUYỆN: MỜI CHÚĐẾN NHÀ.
Cách đây ít lâu, có một phụ nữ đã kể lại câu chuyện xảy ra trong gia đình bà như sau : “Từ trước đến nay hai vợ chồng tôi luôn nhất trí trong việc mua sắm vàtrang trí nhà cửa. Tuy nhiên, gần đây, chồng tôi tự nhiên mang về một khung ảnh Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng kiếng, có kích thước 40x50 cm, bên trong có thiết kếánh sáng đèn điện. Mỗi khi đèn sáng thì hình Thánh Tâm Chúa lại sáng lên trông rất đẹp mắt. Ông chồng tôi đòi treo bức ảnh này ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Theo ý tôi thì không nên treo tại phòng khách vì nhà chúng tôi có nhiều khách lạ thường lui tới. Nhưng lần này chồng tôi quyết tâm bảo thủ ý muốn của mình. Trong lúc tranh cãi, tự nhiên lời Chúa xuất hiện trong tâm trí tôi : “Ai nhìn nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy,Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Cuối cùng tôi đã bằng lòng theo ý của chồng tôi. Giờ đây, sau mấy năm, tôi thực sự không hối tiếc gì về việc đã chiều theo ý muốn của chồng. Vì bức ảnh Thánh Tâm Chúa đã phát sinh hiệu quả tốt trên gia đình tôi và các khách đến thăm ngôi nhà của chúng tôi. Ngày nọ, có một ông khách sau khi chăm chú nhìn vào bức hình, đã phát biểu như sau: “Bà biết không? Khi nhìn vào khuôn mặt Đức Giê-su trên bức hình này, tôi có cảm tưởng như Người đang nhìn thấu qua tâm hồn tôi !”. Rồi vào một buổi tối kia, một bà bạn sau khi ngồi ngắm bức hình khá lâu cũng đã thốt lên : “Mỗi lần đến đây, lúc nào tôi cũng có cảm giác trong nhà chị chan hòa sự bình an”... Nói chung, khi nhìn vào hình Chúa Giê-su, thì tâm hồn của các người khách đều được nâng cao ! Có thể mọi người sẽ cười nhạo những nhận xét này của tôi, nhưng tôi không quan tâm. Theo thiển ý của tôi: Một khi bạn mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được ơn biến đổi nên tốt hơn, không giống như lúc trước nữa !”.
3.SUY NIỆM:
          Tin Mừng Chúa nhật hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giê-su dù chưa tới Giờ bày tỏ quyền năng, nhưng nhờ lời Đức Ma-ria cầu bầu, Người đã làm dấu lạ biến nước lã thành rượu ngon, để bày tỏ quyền năng giúp các môn đệ mới theo nhận biết, tin Người là Đấng Thiên Sai như Tin Mừng Gio-an đã kết luận: “Những điều đả được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su chính là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).Ngoài ra, phép lạ đầu tiên này cũng cho thấy ơn cứu độ do Đức Giê-su thực hiện có Mẹ Ma-ri-a hiệp công và bắt đầu từ việc xây dựng hạnh phúc của gia đình tín hữu.
-Hãy mời Chúa Giê-su đến nhà: Trong Tin mừng, những ai đón nhận Đức Giê-su đến nhà đều nhận được những ơn lành hồn xác. Chẳng hạn: Đức Giê-su đến thăm gia đình ông Si-mon và đã chữa cho bà nhạc mẫu của ông khỏi cơn sốt nặng (x. Mt 1,29.31); Người cũng đến nhà ông Gia-ia để phục sinh con gái của ông vừa chết nằm trên giường (x. Mc 5,22.38-43); Người đến dự tiệc tại nhà viên thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu và đã chữa lành cho một người mắc bệnh phù thủng (x. Lc 14,1-4); Người đến ở trọ nhà viên trưởng thu thuế Gia-kêu để biến ông từ một kẻ tham lam trở thành người lương thiện, là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham. (x. Lc 19,8-10); Người vào ở trọ nhà hai môn đệ làng Em-mau để mở lòng hai ông tin vào Người đã từ cõi chết sống lại qua nghi thức “bẻ bánh” (x. Lc 24,13-32)... Tin mừng hôm nay cũng cho thấy đôi tân hôn đã mời Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến nhà dự tiệc cưới và nhờ lời Mẹ cầu bầu, Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon giúp đỡ đôi tân hôn.
-“Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”: Cuộc sống của mỗi người cũng như của gia đình chúng ta không thiếu những bất trắc và sự cố bất ngờ. Tuy nhiên, nếu biết mời Chúa đến nhà, Người sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, với điều kiện là chúng ta phải làm theo lời dạy của Mẹ Ma-ri-a: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Mỗi gia đình tín hữu có thể mời Chúa Giê-su đến nhà qua việc thiết lập bàn thờ Chúa trong gia đình và tổ chức giờ kinh tối hằng ngày. Trong giờ kinh tối, các thành viên gia đình cùng nhau nghe Lời Chúa phán và cầu nguyện cho nhau, động viên nhau thực hành lời Chúa bằng cách ứng xử lịch sự tế nhị với tha nhân. Mỗi sáng khi vừa thức dậy, mỗi người chúng ta hãy dành một giây phút dâng lên Chúa một lời cầu nguyện để xin giúp thực thi ý Chúa trong ngáy.
-“Nầy, Ta đứng ngoài cửa mà gõ”: Ngày nay Chúa Giê-su vẫn đang đứng ngòai gõ cửa. Những ai mở cửa đón Chúa, thì Người sẽ vào nhà kẻ ấy, sẽ dùng bữa tối với kẻ ấy, và kẻ ấy sẽ dùng bữa chung với Người (x Kh 3:20). Vậy ngay hôm nay chúng ta có sẵn sàng mở cửa lòng đón Chúa vào nhà linh hồn hầu nhận được ơn cứu độ của Chúa hay không?
4.THẢO LUẬN: Một người kia có dịp nghỉ hè tạnhà một bạn thân. Sau kỳ nghỉ đã viết thư cáơn bạy. Trong thư có đoạn nhận xét về gia đình của bạmình như sau : “Tôi cảm thấy gia đình bạn là một gia đình công giáo đạo đức thực sự : Cách bài trí trong nhà bạn thật ấn tượng với những tranh ảnh đạo được treo trên tường thay vì những tranh lịch người mẫăn mặc hở hang. Tôi không quên được những lời cầu nguyện sốt sắng của từng thành viên trong gia đình bạn trước các bữăn. Tôi cảm thấy một bầu khí đầm ấm yêu thương và bình an ở trong ngôi nhà của bạn: Các thành viên đều quan tâm săn sóc lẫn nhau. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng tranh cãi to tiếng, những lời tục tĩu hay những lời chỉ trích nói hành người vắng mặt trong ngôi nhàcủa bạn”... Còn gia đình của chúng ta hiện nay có những phẩm chất đạo đức như gia đình trong câu chuyện trên hay không?

5.NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy đến chúc phúc cho gia đình chúng con. Ước chi cánh cửa nhà chúng con luôn rộng mở để tiếp đón những kẻ ngay thật không nhà. Xin chúc lành cho ngôi nhà của chúng con luôn có sự hiện diện của Chúa, thể hiện qua việc trưng bày bàn thờ và các tranh ảnh đạo trong nhà, nhất là qua cách ứng xử lịch sự tế nhị giữa các thành viên gia đình. Xin cho gia đình chúng con luôn biết nghe lời Mẹ Ma-ri-a để thực hành Lời Chúa trong cuộc sống.
- LẠY CHÚA. Xin cho đôi tay chúng con luôn rộng mở để sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những kẻ đói nghèo bất hạnh. Xin cho trái tim chúng con luôn hướng vềChúa là nguồn sống và là hạnh phúc của chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ có khả năng chu toàn sứ mệnh làm chứng cho tình yêu của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay.
X)HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN C
TIỆC CƯỚI CANA
+++
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Chúa nhật hôm nay có liên quan đến lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu phép rửa vì trong cả ba lễ đó, Đức Giêsu đều tỏ vinh quang của mình ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau. 
          Chúa nhật 2 thường niên hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm phép lạ biến nước thành rượu là có ý hé mở cho các môn đệ một chút vinh quang của Ngài, mặc dầu giờ của Ngài chưa tới, để củng cố niềm tin cho những môn đệ mới được kêu gọi. Đồng thời cũng loan báo cho mọi người biết, qua việc thiếu rượu và biến nước thành rượu, Ngài sẽ lập một đạo mới thay thế cho đạo cũ không còn hợp thời. 
          Ngoài ra, việc Đức Giêsu đến dự tiệc cưới vào những ngày đầu sứ vụ công khai minh chứng rằng Ngài rất quan tâm đến đời sống hôn nhân gia đình và Ngài sẽ lập bí tích hôn phối.
Sự hiện diện của Đức Mẹ trong tiệc cưới này cũng nói lên vai trò rất đắc lực trong việc cầu bầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Hãy sống theo phương châm :”Per Mariam ad Jesum”.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Is 62,1-5. 
          Sau khi đi lưu đầy về, tiên tri Isaia ca ngợi vinh quang của Giêrusalem và đất thánh. Nhìn ngược về quá khứ, ta thấy Israel đã được Thiên Chúa yêu thương, được coi như hôn thê của Ngài, nhưng Israel đã bất trung, phải đi lưu đầy vì những lầm lỗi, Giêrusalem trở nên hoang tàn. Tuy vậy, Thiên Chúa vẫn không ngớt yêu thương và tha thứ.  Nay Thiên Chúa đưa Israel trở về, không còn bị người ta chế diễu là “đồ bị ruồng bỏ” và xứ sở không còn mang tiếng là “phận bạc duyên đơn”. 
          Bây giờ Giêrusalem hoan hỉ tưng bừng vì được thay đổi số phận, được Chúa yêu thương như người chồng rất mực yêu thương người vợ mới cưới, như tiên tri Isaia mô tả:”Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo nên ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui của chú rể, ngươi cũng là niềm vui của Thiên Chúa ngươi thờ (Is 62,5). 
          Lời tiên tri ấy đã được hoàn thành trong Đức Giêsu, Đấng đã thay thế trật tự cũ bằng trật tự mới. Điều này được tượng trưng bằng sự biến đổi nước thành rượu (Tin mừng).
 
          Bài đọc 2 : 1Cr 12,7-11. 
          Thánh Phaolô thấy giáo đoàn Côrintô có sự chia rẽ, Ngài phải viết thư nhắc nhở họ.  Trong đoạn thư hôm nay, thánh Phaolô nhắc lại cho họ ba điểm :
          1) Những ân huệ, những tài năng, những chức vụ thì đa dạng, nhưng tất cả đều do Chúa Thánh Thần ban.
          2) Những ân huệ do Thánh Thần ban thì khác nhau nơi từng người, người được ơn này, người được ơn khác.
           3) Nhưng tất cả những ân ban đó đều nhằm mục đích chung của Hội thánh là để phục vụ.  Việc Chúa ban cho Hội thánh nhiều ân sủng  chứng tỏ rằng Chúa hằng trung tín với Hội thánh, là hiền thê của Ngài. 
          Bài Tin mừng : Ga 2,1-11. 
          Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu làm nước hoá thành rượu tại tiệc cưới Cana. Bài tường thật này không nhằm mô tả phép lạ hoá nước thành rượu mà nói lên “một dấu chỉ đầu tiên” qua đó, Đức Giêsu bầy tỏ vinh quang của Ngài để các môn đệ tin vào Ngài. 
          a) Đức Giêsu cho thấy Ngài là Đấng Thiên sai khai mở một thời kỳ hoan lạc mới cho nhân loại. Thánh kinh thường hay dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Cứu thế, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Messia. Theo nghi lễ, hôn phu phải cung cấp rượu (c. 10), trong trường hợp này, hôn phu bước đi  và Đức Giêsu một cách kín đáo để thay thế ông. Với tư cách là hôn phu của nhân loại, chính Ngài cung cấp rượu. 
          b) Đạo cũ của người Do thái đã lỗi thời không còn thích hợp , Ngài đến thiết lập một đạo mới thay thế cho đạo cũ. Việc thiết lập đạo mới này được tượng trưng bằng việc biến sáu chum nước thành sáu chum rượu ngon. Rượu ngon mới này ám chỉ rằng tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề ngoài, nay không thích hợp nữa. 
          c) Tuy giờ vinh quang của Đức Giêsu  chưa tới, nghĩa là vinh quang ấy chỉ được biểu lộ trên thập giá, nhưng vì có lới yêu cầu của Đức Maria, nên Ngài đã tỏ chút vinh quang cho các môn đệ thấy và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                          Tiệc cưới tình thương
I. TIỆC CƯỚI TẠI CANA.
 
          1. Diễn tiến tiệc cưới. 
          Vào ngày thứ ba tính từ khi rời Nazareth đến Galilê, tức là vào tuần đầu  đời công khai của Đức Giêsu, có một tiệc cưới ở Cana. Có lẽ tiệc cưới này là của bà con thân thuộc gì đó. Mẹ Đức Giêsu cũng được mời và đã đến đó trước rồi. Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên cũng được mời dự tiệc cưới đó. 
          Theo phong tục của người Do thái, có rất nhiều nghi lễ và cuộc vui kéo dài từ 3 đến một tuần lễ, tùy theo tài sản của đôi bên, và cuộc lễ thường đuợc tổ chức vào ban đêm. Trường hợp của bà goá tái giá thì chỉ trong ba ngày. Đám cưới này chắc hẳn của đôi tân hôn còn trẻ . 
          Đám cưới mà Đức Giêsu đến dự có lẽ là của một bậc khá giả vì cần nhiều nước dự trữ để làm lễ tẩy, lại thêm một viên quản tiệc tức là ngưới đứng đầu trông nom cỗ bàn. Thường thường thì người Do thái rất tiết kiệm, nhưng trong những dịp vui này người ta không ngại tốn kém, tổ chức cho linh đình để lấy tiếng cho gia đình mình. Trong tiệc vui như thế này người ta không ăn uống bình thường như mọi ngày mà có thể nói được người ta “nhậu nhẹt”, chén tạc chén thù, có thể đi đến say sưa. Có lẽ chính vì đó mà xẩy ra cảnh “hết rượu”. Chủ nhà đó đã tính hụt. Điều này làm cho gia chủ và những người phục vụ rất lo lắng vì đang bữa tiệc mà hết rượu thì cả là một sự xấu hổ và nhục nhã cho gia đình.
          Đứng trước cảnh lúng túng của gia chủ, Đức Maria đã có cách tháo gỡ thế bí cho gia chủ : Ngài nhờ Đức Giêsu giúp đỡ. Ngài âm thầm từ dưới bếp đi lên, ghé vào tai Đức Giêsu mà nói nhỏ :”Họ hết rượu rồi”. Một lời gợi ý có tính cách van xin và đầy tin tưởng.
          Đức Giêsu có phản ứng ngay và có tính cách lạnh nhạt:”Tôi với bà có can chi đâu, giờ tôi chưa đến”. Tiếng Việt nam và thói tục Việt nam nói như thế không có gì khó nghe cả. Những chàng thanh niên nhất là có địa vị, hay khi đã có gia đình và có con, khi nói với mẹ mình trước mặt một số người thường cũng hay dùng chữ “” với chữ “tôi”. Đối với người Việt nam, dùng chữ “bà” và “tôi” cũng vẫn thân mật. Tuy câu trả lời của Đức Giêsu có vẻ từ chối nhưng thực tế ai cũng hiểu lời ấy vẫn ngầm chứa sự đồng ý. 
          Giờ của Chúa tuy chưa tới, nhưng trước lời cầu xin của Đức Mẹ thì việc làm phép lạ phải đến trước “giờ” : 6 chum nước chứa được từ 800 đến 1200 lít  đã biến thành rượu ngon. Đức Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên để cứu đôi tân hôn khỏi khổ nguy trong ngày đầu hết đời sống hôn nhân, dầu chưa đến giờ của Ngài. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu rất quan tâm đến đời sống hạnh phúc của hôn nhân.
 
          2. Ý nghĩa tiệc cưới. 
          Phép lạ ở Cana liên kết Chúa nhật này với ngày lễ Hiển linh và lễ Đức Giêsu chịu phép rửa - tất cả là sự biểu lộ vinh quang của Ngài. Nếu chúng ta hiểu phép lạ ở Cana theo nghĩa đen, chúng ta sẽ giản lược nó thành một điều kỳ diệu chỉ trong nháy mắt là xong và giới hạn ý nghĩa của nó.
           Thánh Gioan đã có dụng ý dùng từ “dấu lạ đầu tiên” để chỉ ý nghĩa sâu xa của nó và nó có giá trị trong mọi thời đại. Trong nỗ lực mô tả mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Người, Kinh thánh dùng hình ảnh của hôn phu và hôn thê. Và để mô tả niềm vui mà Thiên Chúa tìm thấy ở giữa dân Người, Thiên Chúa dùng hình ảnh tiệc cưới.
           Bài đọc 1 gợi lên cho chúng ta ý tưởng : dân Israel là hôn thê của Thiên Chúa đã bất trung, phải bị lưu đày, nhưng hôn phu của nàng là Thiên Chúa đã không quên nàng. Sẽ có một tiệc cưới mới. Thiên Chúa sẽ phục hưng dân Ngài.  Lời hứa này đã được thực hiện khi dân chúng trở về từ chốn lưu đầy, nhưng đặc biệt hơn khi Đức Giêsu đến. Người ta không ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai ở một tiệc cưới. Ở tiệc cưới ấy, người ta thiếu rượu. Cách nói này muốn ám chỉ tôn giáo cũ, giao ước cũ vẫn còn thiếu sót. Đã đến lúc mọi lời hứa phải đuợc thực hiện, cũng là thời kỳ của luật mới và tinh thần mới.  Điều Đức Giêsu đã thực hiện ở Cana không phải là một việc làm hời hợt, nó nói lên điều phải xẩy ra trong suốt sứ vụ của Ngài. Hoá nước thành rượu là một biểu tượng của việc Ngài cần phải thực hiện.  Bất cứ nơi nào Ngài đến, cái cũ được trở thành cái mới (McCarthy). 
          Đức Giêsu hiện diện trong tiệc cưới để cùng cảm thông niềm vui của con người, đồng thời cũng là dịp để Chúa thu phục niềm tin của các môn đệ mới theo Ngài. 
          Đối với việc Đức Giêsu và Đức Maria đi ăn cưới thì điều này rất bình thường trong cuộc sống của con người. Nhưng lần này khi đến tham dự tiệc cưới và thực hiện phép lạ hoá nước thành rượu, Đức Giêsu muốn nói lên mối quan tâm của Ngài đối với gia đình. Trong tiệc cưới này Ngài đã cứu cho gia đình nhà chủ tiệc một bàn thua hết rượu và để cho cuộc vui không bị gián đoạn. Như vậy, Đức Giêsu đặc biệt quan tâm đến đời sống gia đình. Ngài muốn làm nổi bật về vai trò của gia đình, nhất là tính bền vững của gia đình Công giáo. Đứng trước những khó khăn của cuộc sống gia đình, Chúa vạch ra một đuờng lối để cho gia đình luôn được êm ấm, hạnh phúc.
 
II. TIỆC CƯỚI VÀ HÔN NHÂN.
 
          1. Đức Giêsu lập bí tích hôn nhân. 
          Đức Giêsu đến dự tiệc cưới Cana là dấu chỉ Ngài sẽ lập bí tích hôn nhân sau này, Ngài quan tâm đến đời sống gia đình và chúc phúc cho hôn nhân. 
          Tại sao lại có hôn nhân ? Thánh Gioan Tông đồ nói:”Thiên Chúa là tình yêu”. Ngài là nguồn gốc của tình yêu, Ngài san sẻ tình yêu cho con người để họ yêu Ngài và yêu nhau. Vì thế ai cũng có tình yêu : trẻ con thì yêu cha mẹ, anh chị em, lớn lên thì có tình yêu nam nữ. Tình yêu luôn hướng đến sự kết hợp. Do đó, tình yêu nam nữ dẫn đến hôn nhân. 
          Hôn nhân là một hành vi tự nhiên và có tính cách nhân linh. Sở dĩ nói hôn nhân có tính cách nhân linh là vì con người không chỉ đến kết hợp với nhau do bản năng mà còn do sự suy nghĩ lựa chọn , tự do : tự đặt câu hỏi có nên kết hôn chăng, kết hôn với ai, vào lúc nào... 
          Mọi cuộc hôn nhân không phải phát xuất từ con người mà từ Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ và cho họ kết hợp với nhau. Chính Đức Giêsu đã nói:”Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,8-9). 
          Ta cần phân biệt hai loại hôn nhân : hôn nhân tự nhiên và hôn nhân theo bí tích .  Những người ngoại giáo lấy nhau theo hôn nhân tự nhiên, đó là điều tốt và Chúa chúc lành cho họ. Chúng ta là những người công giáo, phải ý thức rằng Đức Kitô đã thiết lập bí tích hôn nhân, nên ngoài hôn nhân tự nhiên ra, chúng ta còn phải cử hành bí tích hôn phối theo bí tích để chính thức nên vợ nên chồng. 
          Hôn nhân theo bí tích có hai đặc tính : đơn hôn và vĩnh hôn. Đơn hôn là hôn phối một vợ một chồng, không chấp nhận chế độ đa thê hay đa phu. Còn vĩnh hôn là không được ly dị. Hai đặc tính này được trích ra từ Lời Chúa:”Cả hai sẽ thành một xương một thịt”(Mc 10,8) và “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,9)
 
          2. Nền tảng của hôn nhân
          Chúng ta phải khẳng định rằng tình yêu la ønền tảng của hôn nhân. Chúng ta không thể xây dựng hôn nhân trên nền tảng khác như chức quyền, danh vọng, tiền của, sắc dục, những thứ đó dễ bị mai một và nếu không còn những thứ đó thì hôn nhân sẽ ra sao ? Vì thế, muốn đi đến hôn nhân phải có tình yêu trước đã. Đây là điều kiện tiên quyết “sine qua non”(không có không được), đúng như ông Alphonse Karr nói:”Hôn nhân không có tình yêu là ngày không có rạng đông”. Nếu mới gặp nhau lần đầu, anh A đã yêu chị B một cách say đắm. Anh không còn tìm hiểu làm gì, anh nói với cha mẹ cho cưới chị B. Anh cho là hai người tâm đầu ý hợp. Đấy chưa hẳn là tình yêu có nền tảng mà chỉ là “tiếng sét ái tình”. 
          Hoặc một anh tỷ phú muốn chọn cho mình một người vợ lý tưởng. Anh ta dùng máy móc để đo vòng ngực, vòng eo và vòng mông đúng tiêu chuẩn. Thêm vào một chút là cái mũi dọc dừa hơi cao, tóc mầu hung, con mắt lá răm, lông mày lá liễu... Anh coi vậy là người yêu lý tưởng ! Nhưng đấy đâu phải là người yêu mà chỉ là một con “robot”. 
          Muốn trở thành người yêu còn phải tìm hiểu tính tình, ước vọng, nghề nghiệp, sở trường sở đoản, gia đình của cô ta vì “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Sau đó, anh còn phải quyết định xem có nên lấy cô ấy không vì chưa nắm vững tương lai. Khi đã có một quyết định đứng đắn và dứt khoát thì phải nói đến sự  “dấn thân” (engagement). Khi đã nói đến dấn thân thì luôn ngầm chứa một chút “liều” trong đó : 
                                      Một liều ba bảy cũng liều
                                Cầm bằng con trẻ chơi diều đứt dây.
                                                (Ca dao) 
          Khi đã kết hôn thì vợ chồng phải thương yêu nhau tha thiết. Tình yêu vợ chồng phải noi theo và nắm giữ là theo mô hình  của tình yêu giữa Chúa Giêsu và Hội thánh:”Nguời làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô thương yêu Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh”(Ep 5,25).
 
          3. Hạnh phúc của hôn nhân. 
          Con người từ bẩm sinh, ai cũng muốn được hạnh phúc, kể cả người tự tử (theo Pascal). Nhưng hạnh phúc không phải là một cái gì tiền chế có sẵn đấy, muốn chọn bao nhiêu hay muốn mua bao nhiêu thì mua, nhưng hạnh phúc phải là cái gì do con người tạo ra. Hôn nhân thực ra chỉ là một cái hộp rỗng, chưa có hạnh phúc, phải bỏ gì vào đấy rồi mới lấy ra được vì nếu không bỏ hạnh phúc vào thì có gì mà lấy ra ? Hạnh phúc không phải tự nhiên mà có hay do người khác tặng cho mà hạnh phúc phải được trả bằng giá đắt. 
          Có nhiều cách để đạt tới hạnh phúc. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến 3 phương cách tạo ra hạnh phúc : hy sinh,  nhẫn nhục và thánh thiện. 
          a) Tinh thần hy sinh
          Không có tình yêu nào chỉ toàn mầu hồng, bay lượn trên không, mà tình yêu phải được dệt bằng hy sinh, đau khổ , gian nan , thử thách vì không có hoa hồng nào mà không có gai. Càng hy sinh nhiều, tình yêu càng sâu đậm, và hy sinh tỷ lệ thuận với hạnh phúc. Ông Chamfort nói:”Muốn thử nghiệm tình yêu, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, thì đó là tình yêu thật”. Một người vợ dấn thân theo chồng đã hy sinh tất cả để mưu cầu hạnh phúc cho gia đình, đã tâm sự :
                                       Một ngày ba bận trèo non,
                                Lấy gì mà dòn mà đẹp hỡi anh.
                                      Một ngày ba bận trèo đèo
                               Vì ai vú xếch, lưng eo hỡi chàng ?
                                                (Ca dao)
          b) Nhẫn nhục chịu đựng. 
          Bà De Scudéry nói:”Bắt đầu yêu là bắt đầu sống”, nhưng có người nói ngược lại : Bắt đầu yêu là bắt đầu chết. Vậy yêu là sống hay là chết ? Có lẽ chúng ta phải nói : yêu vừa là sống vừa là chết.  Nhưng muốn cho tình yêu được trọn vẹn, bao giờ cũng phải nhịn nhục chịu đựng. Tại sao? 
          * Đã yêu thì phải chết :
                   “Yêu là chết trong lòng một ít” (Xuân Diệu)
          Đã yêu thì phải chết, không chết trước thì chết sau :
                   - Chết trước : chết trước là phải nhẫn nại chờ đợi cho đến ngày kết hôn, phải giữ mình được trinh tiết :
                                      Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ,
                                 Đôi ta trinh tiết để chờ lấy nhau.
                                                (Ca dao)
                    - Chết sau : Trong cuộc sống gia đình sẽ có sự lộn xộn, xích mích , va chạm, bất hòa, không thể nào tránh được cảnh “cơm chẳng lành canh chẳng ngọt”. Bao nhiêu sự khó khăn xẩy đến cho gia đình mà hai người phải kiên trì chịu đựng. 
          * Đã yêu thì phải nhẫn nhục :
                   Chúng ta có thể nói về tình yêu thật :
                             Đã yêu thì nhẫn
                             Đã nhẫn thì nhục
                             Vì thế mới có Nhẫn nhục. 
          Chữ nhẫn ở đây không phải là nhẫn vàng hay kim cương mà là nhẫn nại chịu đựng. Chúng ta phải chấp nhận sự nhẫn nại, đã nhẫn thì phải nhục, nhưng chắc chắn sẽ đi đến kết quả tốt:”Ai kiên nhẫn đến cùng thì sẽ được rỗi”(Mt 10,22).
          Vì thế văn hào Hypolite Taine nói một cách mỉa mai :
                             “Người ta tìm hiểu nhau ba tuần
                             Yêu nhau ba tháng
                             Cãi nhau ba năm
                             Rồi chịu đựng 30 năm... để con cái lại trở về cái vòng luẩn quẩn”.
 
          c) Đời sống thánh thiện. 
          Chìa khoá mở cửa vào chốn hạnh phúc là sự thánh thiện. Nếu vợ chồng yêu thương nhau như mối tình giữa Chúa Kitô và Hội thánh thì chắc chắn phải có đời sống thánh thiện.  Phải rước Chúa vào trong đời sống gia đình. Bài Tin mừng hôm nay chứng tỏ chính nhờ Chúa mà gia đình ở Cana này không vỡ mộng hạnh phúc. Không có Chúa, làm sao gia đình tránh khỏi sự đau khổ phiền muộn lúc ban đầu.
          Nhà nào có Chúa ngự trong gia đình thì nhà ấy có hạnh phúc. Kinh nghiệm cho hay những gia đình nào hay đi dự lễ, buổi tối đọc kinh trong gia đình thì gia đình ấy thường là sống yêu thương, nhường nhịn, thuận hoà, giúp đỡ nhau, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc ngay khi gặp những khó khăn trong gia đình. Một trong các tiêu chuẩn hàng đầu phải có trong khi chọn người yêu để lập gia đình là sự thánh thiện, hay ít ra có đời sống đạo đức bình thường.
 
Truyện : Sẩy hết. 
          Có một chị kia muốn lập gia đình với một anh thanh niên trong xứ. Muốn hỏi ý kiến cha xứ xem chị ta có nên lấy anh ấy không.
          Cha hỏi :
          - Anh ấy thế nào ?
          Chị thưa :
          - Anh ấy có bằng Thạc sĩ, cha ạ.
          Cha xứ trả lời :
          - Hết sẩy. Còn gì nữa ?
          - Anh ấy chơi dương cầm hay lắm.
          - Hết sẩy.
          - Anh ấy là hoạ sĩ nữa.
          - Hết sẩy !
          - Anh ấy lại có tài ngoại giao nữa.
          - Hết sẩy !
          - Anh ấy lại là con nhà giầu nữa .
          - Hết sẩy.
          - Nhưng còn một điều con hơi thắc mắc, đó là anh ta khô khan, không xưng tội rước lễõ !.
          Cha xứ trợn mắt, lắc đầu :
          - Ồ ! SẨY HẾT.
 
III. TIỆC CƯỚI VÀ ĐỨC MARIA. 
          “Người bảo gì thì cứ làm theo”. Mặc dầu câu trả lời của Đức Giêsu có vẻ từ chối:”Giờ con chưa đến”, nhưng Mẹ Maria cứ tin rằng, Con mình sẽ thực hiện theo lời yêu cầu của mình nên đã nói với gia nhân :”Người bảo gì cứ làm theo”. Đức Mẹ biết Con mình rất hiếu thảo, không bao giờ làm buồn lòng cha mẹ. Do đó, khi đề xuất việc hết rượu với Con mình, Đức Mẹ tin chắc Con mình sẽ can thiệp, dĩ nhiên bằng phép lạ, dù trước đó Ngài chưa từng làm. 
          Điều này cũng nói lên giá trị thật sự trong lời bầu cử của Đức Mẹ đối với Con mình. Nói đến việc con cái hiếu thảo đối với cha mẹ, chúng ta liên tưởng đến một người con rất hiếu thảo, qúi trọng mẹ mình, không bao giờ muốn làm buồn lòng mẹ mình, đó là vua Salomôn trong Cựu ước. Trong sách Các vua có thuật lại khi mẹ của Salomon đi gặp ông, ông đi ra đón và sấp mình chào bà ; đoạn ông ngồi trên ngai, đồng thời truyền đặt một ngai cho bà ngồi bên hữu, và nói:”Thưa mẹ, mẹ cần gì cứ nói, con không từ chối mẹ điều gì”( 1V 2,19-20).
           Mẹ Maria có mặt trong tiệc cưới không phải là sự ngẫu nhiên mà do sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngày nay Mẹ đang có mặt trong cuộc sống gia đình chúng ta. Mẹ cùng chia sẻ nỗi lo với mọi người chúng ta. Mẹ biết những khó khăn mà gia đình chúng ta đang gặp phải. Mẹ hiểu gia đình chúng ta đang thiếu những gì và cần gì. Mẹ đón nhận cái khổ của các gia đình như là cái khổ của mình. Chính vì thế khi cuộc sống gia đình gặp sóng gió, chúng ta tìm đến với Mẹ Maria. Mẹ sẵn sàng làm những gì có thể để giúp gia đình chúng ta như năm xưa Mẹ đã báo cho Chúa biết việc hết rượu.  Nhờ Mẹ cầu bầu, Chúa lại sẽ làm phép lạ để cho rượu yêu thương trong hũ của gia đình chúng ta được đầy tràn (JKN).
 
Truyện : Xin tài trợ.
          Linh mục Sylvano và mục sư Tin lành Henri cùng nhau đến lâu đài Pa-xi-an để xin hoàng tử trợ giúp tài chính cho dự án của mình.
          Linh mục Sylvano có ý định xin tiền để xây nhà thờ. Còn mục sư Henri thì xin tiền để xây trường học.
          Đến nơi, họ được hoàng tử Auguste tiếp kiến riêng từng người một. Người được vào trước là mục sư Henri. Nhưng chỉ vài phút sau người ta thấy mục sự bước ra với vẻ mặt buồn thiu, vì dự án không được hoàng tử chấp nhận.
          Mục sư ngồi lại chờ linh mục Sylvano để cùng về chung. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy linh mục bước ra khỏi phòng tiếp kiến của hoàng tử, vẻ mặt hớn hở, tay xách một túi tiền khá nặng. Mục sự Henri liền thắc mắc hỏi :
          - Tại sao linh mục lại được tài trợ như thế ?
          Linh mục Sylvano trả lời :
          - Dĩ nhiên đúng như vậy. Thoạt đầu hoàng tử chối từ lời xin của tôi. Nhưng khi nhìn qua bên cạnh thấy có hoàng thái hậu, tôi liền đến trước hoàng thái hậu để xin ngài bầu cử cho. Và hoàng tử đã đổi ý kiến, nghe lời khẩn cầu của hoàng thái hậu mà tài trợ cho dự án của tôi. Hoàng tử đã thưa với mẹ:”Mẹ đồng ý thì con cũng đồng ý”(D. Wahrheit, Món quà giáng sinh, 79-80).
           “Mẹ đồng ý thì con cũng đồng ý”. Đó là điều mà câu chuyện trên đây muốn nhắc nhở.
          Người công giáo chúng ta có lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria. Chúng ta đến với Chúa Giêsu qua Mẹ Maria. Mẹ khẩn cầu cho chúng ta và cùng với chúng ta thì làm sao Chúa Giêsu có thể từ chối.
 
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------


CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN C
Nkm 8,2-4a.5-6.8-10 ; 1 Cr 12,12-30 ; Lc 1,1-4; 4,14-21

GÓP PHẦN THI HÀNH SỨ VỤ THIÊN SAI  
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Lc 1,1-4; 4,14-21

(1) Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công biên soạn tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta. (2) Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ Lời Chúa truyền lại cho chúng ta. (3) Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài. (4) Mong ngài sẽ nhận thức được rằng: giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc. (4,14) Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miềGalilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. (15) Người giảng dạy trong các hội đường của họ, và được mọi người tôn vinh. (16) RồĐứGiê-su đến Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngàSabát, và đứng lên đọc Sách thánh. (17) Họ trao cho Người cuốn sách Ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: (18) “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, (19) công bố một năm hồng ân của Chúa. (20) ĐứGiê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. (21) Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.

2.Ý CHÍNH: ĐỨGIÊ-SU CÔNG BỐ VỀ NĂM HỒNG ÂN CỦA CHÚA
Tin Mừng hôm nay gồm có bài tựa mở đầu sách Tin Mừng thứ ba, nêu ra lý do khiến Lu-ca viết Tin Mừng dựa vào truyền thống và có tính khoa học, và việc ĐứcGiê-su khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng với một chương trình hành động cụ thể, đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm trước đó khá lâu.

3.CHÚ THÍCH:
-C 1-2: +Ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính: Thê-ô-phi-lô là một người giàu có và đáng kính thời bấy giờ. Ong này đã được tác giả Lu-ca gửi tặng cuốn Tin Mừng đểnhờ ông làm người bảo trợ cho việc sao chép ra nhiều cuốn sách trên các tấm da thuộc, hầu có thể phổ biến đi nhiều nơi.
-C 3-4: +Cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự: Vì Lu-ca không thuộc Nhóm 12 Tông đồ theo Đức Giê-su ngay từ đầu, nên ông phải tra cứu đầu mối căn nguyên về cuộc đời và Tin Mừng của Người rồi viết lại. +Tuần tự viết ra: Ông viết Tin mừng theo thứ tự văn chương và các đề tài giảng huấn, chứ không theo đúng thứ tự thời gian trước sau.
-C 14-15: +Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy: Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa để ăn chay và chịu ma quỷ thử thách. Giờ đây Thần Khí lại thúc đẩy Người trở về Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng. +Người giảng dạy trong các hội đường của họ: Hội đường là nơi người Do thái đến hội họp, cầu nguyện và nghe giảng Kinh thánh vào các ngày Sa-bát. Ở mỗi làng khắp xứ Pa-lét-tin cũng như tại những nơi có người Do thái cư ngụ đều có hội đường.
-C 17b-19: +Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Chữ gặp ở đây cho thấy Đức Giê-su đã không chọn hay sửa soạn trước, nhưng mở ra đã gặp ngay một đoạn sách phù hợp cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa,. +Thần Khí Chúa ngự trên tôi...: Đoạn văn được trích dẫn trong sách I-sai-a (x. Is 61,1-2) nói về việc xức dầu tấn phong của một ngôn sứ (x. 1 V 19,16). Nhưng Đức Giê-su đã ứng dụng vào sứ mệnh của Người : Người mới được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa của Gio-an, và coi đó là nguồn gốc phát sinh các hoạt động cứu độ của Người. +Công bố một năm hồng ân của Chúa: Năm Hồng Ân hay năm Toàn Xá của Thiên Chúa. Theo Luật Mô-sê, cứ năm mươi năm lại cử hành một lần (x Lv 25,10-13). Năm Toàn Xá là hình thức mở rộng của Năm Sa-bát được cử hành cứ bảy năm một lần (Đnl 15: 1-11). Năm này tiêu biểu lý tưởng công bình xã hội một cách thiết thực cụ thể. Đây là tin mừng giải thoát cho những người nghèo, những kẻ cô thân cố thế bị chèn ép áp bức, dưới bất kỳ hình thức nào, đến nỗi phải mất nhà cửa đất đai, trở nên nghèo khổ và đem thân làm nô lệ cho những kẻ giàu có quyền thế. Đó cũng là năm mời gọi hết mọi người hãy ăn năn sám hối, vì đã góp phần vào sự bất công hay đã nhắm mắt làm ngơ trước những đau khổ của đồng loại.
-C 20-21: +Hôm nay: Chữ này xuất hiện nhiều lần trong Tin Mừng Lu-ca, để nhấn mạnh tính cách hiện tại của ơn cứu độ. Chẳng hạn: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,11) ; “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22) ; “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21) ; “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19,5b) ; “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19,9) ; “Hôm nay gà chưa kịp gáy, thì ba lần anh đã chối không biết Thầy” (Lc 22,34.61) ; “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).

4.CÂU HỎI: 1) Lu-ca đã viết lời tựa sách Tin Mừng gửi cho ông Thê-ô-phi-lô nhằm mục đích gì? 2) Lu-ca không thuộc Nhóm 12 Tông đồ. Vậy ông đãlàm gì để có thể viếvề cuộc đời và lời rao giảng củĐứGiê-su cách chính xác được? 3) Hội đường Do thái là gì và dùng để làm gì? 4) Câu trích trong sách ngôn sứ I-sai-a đượĐứGiê-su đọc tại hội đường Na-da-rét đã ứng nghiệm vào sứ mệnh cứu thế của Người như thế nào? 5) Bạn hãy kể ra 5 câu Kinh thánh có chữ “hôm nay” trong Tin mừng Lu-ca.

II SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18).
2.CÂU CHUYỆN: CHÚA NÓI VỚI CHÚNG TA BẰNG CÁCH NÀO?
Cách đây khá lâu, một vở kịch mang tựa đề là “Hoàng Gia đi săn mặt trời” kể lại cuộc chinh phục của người Tây ban nha đối với dân da đỏ ở Pê-ru. Trong đó cómột màn kể lại câu chuyện về một người Tây ban nha tặng cho viên tù trưởng của bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và nói với viên tù trưởng rằng : “Đây là Lời Chúa. Ngài nói với chúng ta trong cuốn sách này”. Viên tù trưởng cầm lấy cuốn Thánh Kinh, xem xét thật kỹ và sau đó áp cuốn sách vào một bên tai để nghe ngóng. Nhưng dù đã cố gắng hết sức mà cũng chẳng nghe thấy có tiếng nói nào từ cuốn sách phát ra. Cử chỉ ngây thơ của viên tù trưởng khiến những người Tây ban  nha có mặt cười ồ lên. Viên tù trưởng nghĩ mình bị mấy người ngoại quốc kia chơi khăm, liền nổi giận và ném mạnh cuốn Kinh Thánh xuống mặt bàn trước mặt !
3.SUY NIỆM:
1) Đức Giê-su công bố sứ vụ Thiên Sai: Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ khắp miền Ga-li-lê, danh tiếng Đức Giêsu đã lan truyền khắp nơi, Người trở về thăm quê hương Na-da-rét. Vào ngày sa-bat, Người đến hội đường cầu nguyện theo thông lệ, viên trưởng hội đường đưa cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở trúng ngay đọan nói về sứ vụ của Đấng Thiên Sai như sau: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Sau đó gấp sách lại, Người ngồi xuống và tuyên bố: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,18-19).
2) Hội Thánh tiếp tục sứ vụ Thiên Sai: Ngày nay sứ vụ của Đức Giê-su được Hội Thánh tiếp tục thực hiện. Đức Giê-su đã đổ Thần Khí cho các Tông đồ để các ông đi công bố Năm hồng ân của Thiên Chúa, loan Tin mừng cho mọi người, giải phóng con người khỏi các hậu quả của tội lỗi là bệnh tật, đau khổ và sự chết: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân dnh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).
3) Các tín hữu thi hành sứ vụ bằng việc tông đồ: “Ơn gọi Kitô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ”. Mọi hoạt động của Nhiệm Thể nhằm “làm cho Nước Đức Ki-tô rộng mở trên khắp hoàn cầu” đều được gọi là “việc tông đồ”» (GLCG, 863); Là ki-tô hữu, là cánh tay nối dài của Đức Giê-su, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Chúa để làm bùng lên ngọn lửa yêu thương mà Đức Giê-su đã đem xuống trần gian, bằng việc thực thi giới luật yêu thương ngay trong gia đình rồi đến khu xóm, giáo xứ và ra ngòai xã hội. Đó cũng là con đường nên thánh, là chìa khoá để mở cửa thiên đàng cho chúng ta trước tòa phán xét sau này.
4) Làm tông đồ là sống đời chứng nhân cho ChúaĐức Gio-an Phao-lô II đã nói: “Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu h có nghe nhng thy dy thì đó là vì những thy dy này là nhng chng nhân. Thực vậy, lời giảng thường khó thuyết phục cho bằng gương sáng như người ta thường nói: ”Trăm nghe không bằng một thấy”. Lời giảng mà thiếu gương sáng sẽ vô ích và có khi còn phản tác dụng: làm cho người ta thù ghét đạo Chúa hơn. Các tín hữu cần thực hành theo lời khuyên trong lễ phong chức như sau: “Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy”. Cần áp dụng lời Chúa khi suy nghĩ, ứng xử giữa đời thương. Cần sống hiệp nhật yêu thương noi gương các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai đã được sách Công Vụ ghi lại như sau: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn sống hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng…Tất cả đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).
4.THẢO LUẬN: Một ông chủ nhà kia muốn cho vợ con học sống Lời Chúa nên đã làm như sau: Ông găắn một tấm bảng trên bức tường trong phòngăn. Mỗi tuần ông viết lên bảng một câu Lời Chúa chủ đề và một vài quyết tâm thực hành. Trước mỗi bữăn và trong giờ kinh tốgia đình, các thành viên sẽ cầu nguyện tự phát dựa theo câu Lời Chúa và những việc làm đề nghị. Vậtheo bạn, cách làm của ông gia trưởng trên có tác dụng thực sự hay không? Bạn quyết định sẽ làm gì để gia đình bạn trở thành một gia đình sống chứng nhân của Chúa?

5.NGUYỆN CẦU:
-LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con nhận ra Thánh Thần Chúa vẫn đang ngự giữa thế giới và trong lòng mọi người. Thế giới hôm nay tuy còn nhiều tội lỗi, nhưng vẫn chan hòa ánh sáng tin yêu nơi các gia đình tín hữu, trong các xóm đạo, nơi các cộng đoàn quyết tâm học sống Lời Chúa. Ngày nay người ta đã biết ngồi lại với nhau để giải quyết các tranh chấp và tìm kiếm hòa bình; Các tổ chức quốc tế đều hợp tác chống lại sự kỳ thị chủng tộc, mầu da, tôn giáo, phái tính, bệnh tật; Các cơ quan đoàn thể hợp tác để chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác... Xin cho các tín hữu chúng con cũng biết hợp tác để góp phần làm cho ngôi nhà chung của nhân lọai là trái đất ngày một tốt đẹp hơn.
-LẠY CHÚA. Xin cho chúng con cũng được đầy Thánh Thần để sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân : nở nụ cười thân thiện với một người chưa quen, dấn thân phục vụ dân nghèo ở những vùng sâu vùng xa... Xin cho mọi người khắp nơi không còn đau khổ, nước mắt và thù hận, nhưng chỉ còn tình thương và biết quan tâmphục vụ cho nhau.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN C
LỜI TIÊN TRI ĐÃ ỨNG NGHIỆM
+++
 
A. DẪN NHẬP 
          Trong cuộc lưu đầy ở Babylon, dân Do thái bị quân thù hành hạ áp bức, nhiều người đã tuyệt vọng vì tương lai rất mịt mờ, nhưng tiên tri Isaia đã báo cho họ biết là họ sẽ được giải phóng.  Khi trở về quê hương, họ đã qui tụ lại làm việc thờ phượng Chúa, ghi lại các hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ suốt dòng lịch sử và nhớ lại Giao ước bị bỏ quên (Bài đọc 1).
          Từ nhiều thế kỷ trước, tiên tri Isaia đã báo cho họ biết sẽ có Đấng Messia đến giải thoát họ và họ nóng lòng chờ đợi.  Nhân dịp về thăm quê hương Nazareth, ngày sabat, Đức Giêsu vào giảng ở hội đường, đọc nhằêm đoạn sách tiên tri Isaia mô tả về Đấng Messia và Ngài xác nhận chính Ngài là Đấng Messia ấy, khi Ngài nói:”Hôm nay ứng nghiệm lời Sách thánh mà quí vị vừa nghe”(Lc 4,21). Nhân dịp này Ngài đọc bản tuyên ngôn mô tả sứ mạng và chương trình hành động của Ngài, chính yếu là Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ…Và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. 
          Ngày nay, Hội thánh và mọi Kitô hữu, theo căn tính, phải tiếp tục sứ mạng mà Đức Giêsu đã làm:”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con ra đi”(Ga 17,18). Sứ mạng của Kitô hữu được sai đi là làm tông đồ cho Chúa, loan báo Tin mừng Đức Kitô cho mọi người bằng đời sống chứng tá, yêu thương và hiệp nhất.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. 
          Bài đọc 1 : Nhm 8,2-6.8-10. 
          Lần đầu tiên khi từ chốn lưu đầy trở về, dân Do thái đã tụ họp lại để làm việc thờ phượng, được tiên tri Nêhêmia trình bầy như một lễ hội, nhắc lại Giao ước. Tư tế Esdras tập họp mọi người lại tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Esdras đọc và giải thích cho họ hiểu, và khi đã thông suốt thì họ đồng thanh thưa :”Amen”.
          Khi nghe đọc Sách Thánh, họ cảm động đến muốn khóc. Họ khóc một phần vì nhớ đến những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ qua dòng lịch sử, phần khác vì họ hối tiếc vì sự bất trung của họ đối với tình thương bao lao của Thiên Chúa. 
          Vì thế, tư tế Esdras yên ủi họ :”Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã vì niềm vui của Chúa là thành trì bảo vệ anh em”(Nhm 8,10).
 
          Bài đọc 2 : 1Cr 12,12-30. 
          Thánh Phaolô gửi thư cho tín hữu Côrintô để tiếp tục việc giáo huấn cho họ bằng một ví dụ cụ thể, dễ hiểu:”một thân thể có nhiều chi thể”. Cũng giống như một thân thể có nhiều chi thể, Giáo hội dù bao gồm nhiều thành viên với những ơn gọi khác nhau tạo thành một sự thống nhất trong Đức Kitô.
          Qua đoạn thư này, chúng ta có thể rút ra được 3 ý chính :
          - Giáo hội là thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, trong đó Đức Giêsu là đầu, và các Kitô hữu là chi thể.
          - Các chi thể khác nhau nên cũng có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng không chống đối nhau mà còn bổ túc cho nhau.
          - Mọi chi thể phải đoàn kết với nhau và phải dùng những đặc ân Chúa ban cho mình để phục vụ ích lợi chung của Hội thánh.
 
          Bài Tin mừng : Lc 1,11-4 ; 4,14-21. 
          Trong lời mở đầu sách Tin mừng của mình (Lc 1,1-4), thánh Luca nói lên mục đích của sách Tin mừng Luca là điểm qua lịch sử đời Chúa Giêsu, để giáo hữu thêm lòng tin. Truyện về Chúa được truyền qua lời kể của các môn đệ của Chúa, là những người đã tận mắt chứng kiến việc Chúa làm và tận tai nghe lời Chúa nói. 
          Trong đoạn sau (Lc 4,14-21) thánh Luca cho biết Đức Giêsu sau một thời gian hoạt động, đã trở về Nazareth và giảng dạy trong hội đường. Ngài đọc một đoạn sách về lời sấm của tiên tri Isaia (61,1-2) và Ngài kết luận :”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh mà quí vị vừa nghe”(Lc 4,21). Theo đó, Ngài xác nhận mình chính là Messia mà tiên tri Isaia đã loan báo từ lâu. Với tư cách là Messia vừa được xức dầu tấn phong, Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ… và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.  Sứ vụ của Ngài là mở ra một kỷ nguyên hồng ân, tức là kỷ nguyên của Tin mừng.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. 
                                                Loan báo Tin mừng cho mọi ngươi
I. SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIÊSU.
 
          1. Đức Giêsu là ai ? 
          Xét về nguồn gốc, ai cũng biết Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth xứ Galilê, con bác thợ mộc Giuse và bà nội trợ Maria. Còn người đồng hương thì quá biết Ngài vì đã sinh sống với họ gần 30 năm, và xét theo bề ngoài, Đức Giêsu không có gì đặc biệt, chưa hề làm một phép lạ nào, chỉ là một thanh niên lam lũ, kiếm sống bằng nghề thợ mộc. 
          Rời khỏi Nazareth một thời gian, tự nhiên danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi qua việc rao giảng Tin mừng và làm nhiều phép lạ chữa mọi bệnh tật, trừ quỉ và làm cho kẻ chết sống lại. Tuy thế, đối với dân làng thì họ vẫn còn  nhửng nhưng, hoặc  bán tín bán nghi. Nói chung, đối với dân làng Nazareth, Ngài vẫn chỉ là một thanh niên xuất thân từ Nazareth không hơn không kém. Nay trở về quê hương, dân làng cũng chỉ coi Ngài bình thường như các thanh niên khác, chưa tỏ ra thái độ kính trọng hay kiêng nể gì.
 
          2. Quang cảnh làng Nazareth.
           Nazareth có lẽ không phải là một thôn làng, nó được gọi là “Polis” nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân. Nazareth tọa lạc trong vùng đất của sườn đồi của Galliê, có ba con đường lớn vòng quanh, tiện lợi cho việc thông thương và kinh doanh.
          Có lẽ người ta sai lầm nếu nghĩ rằng Đức Giêsu lớn lên tại một làng quê hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ. Chính nơi đây Đức Giêsu đã giảng một bài quan trọng trình bầy nội dung chương trình hành động của Ngài, hay cũng có thể được gọi là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.
 
          3. Đức Giêsu giảng ở hội đường.
          Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ, danh tiếng Đức Giêsu đã lan rộng khắp nơi, Ngài trở về thăm quê hương Nazareth. Vào một ngày sabat, Ngài vào hội đường cùng với bà con cô bác để ca tụng Chúa và nghe đọc Sách Thánh, tất cả mọi người nóng lòng muốn nghe một người mà họ quen biết nhiều, thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu, hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh thánh của tiên tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa.
          Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đầy từ Babylon. Hay nói đúng hơn đoạn sách nói về Đấng Cứu thế :”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”(Lc 4,18-19).   Đọc xong, gấp sách lại, ngồi xuống như các diễn giả thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, xem Ngài cắt nghĩa đoạn sách này như thế nào. Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Ngài tuyên bố chính Ngài là Messia (Cứu thế) đã được hứa, khi trịnh trọng nói:”Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các vị vừa nghe”(Lc 4,18-19). 
          Chúng ta nhận thấy trong các buổi nhậm chức của tân Tổng thống, bao giờ cũng đọc một bài diễn văn quan trọng đầu tiên, trong đó ông vạch ra đường hướng, chính sách và chương trình hành động  trong nhiệm kỳ mới.  Bài Tin mừng hôm nay miêu tả bài diễn văn đầu tiên của một vị tân Lãnh đạo tôn giáo. Đó là bài nói chuyện đầu tiên của Đức Giêsu Kitô tại Nazareth, quê quán của Ngài. Ngài đưa ra một phác thảo về đường hướng và sứ mạng của Ngài, Đấng Thiên Sai, qua lời tiên tri Isaia :”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…”(Lc 4,14-21) 
          So sánh lời công bố của Đức Giêsu Kitô và các diễn văn của các tân tổng thống trong ngày nhậm chức, chúng ta thấy có sự khác biệt rõ ràng. Quí vị tổng thống nói rất nhiều, hứa đủ thứ, nhưng sau cùng chẳng thực hiện được bao nhiêu trong thời gian tại chức. Trái lại, Đức Giêsu đã nói rất ít nhưng đã thực hiện tất cả những điều Ngài đã tuyên bố.
 
          4. Chương trình hành động của Ngài
          Nếu ngày xưa tác giả sách tiên tri Isaia loan báo một thời kỳ cứu độ chỉ để cho dân Chúa được bình an mà sống những ngày tháng sau lưu đầy, thì đây, với lời tuyên bố:”Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà tai các vị vừa nghe”(Lc 4,21), Đức Kitô đã chính thức công bố thời kỳ cứu độ ấy đã đến. Ngài không chỉ ban bình an trong cuộc đời mà còn là bình an vĩnh cửu.
          Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo : chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết:”Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta”(Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất:”Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này ? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Rm 7,24-25). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế , trong đó mọi người đối xử với nhau bằêng chân lý, công lý và tình thương.
 
Truyện : Xóa nợ.
          Ngày xưa có một lãnh chúa, và các tá đền của ông thì nợ ông tiền thuê đất. Chẳng bao lâu họ thấy mình nợ nần chồng chất. Họ thấy mình không tài nào thoát ra tình cảnh khó khăn ấy, tuy ông lãnh chúa là người nhân ái và nhẫn nại. Nhưng các tá điền tự hỏi, ông cho họ thêm bao nhiêu thời gian để trả hết nợ. Điều đáng sợ là cả khi ông cho họ đến ngày họ chết, họ cũng không thể trả hết nợ. 
          Kế đó một quản lý mới của lãnh chúa xuất hiện và bắt đầu làm một cuộc kinh lý. Trong suốt cuộc kinh lý ấy, quản lý đã hỏi mỗi tá điền mắc nợ bao nhiêu. Nhưng thật đáng kinh ngạc, quản lý không dừng ở đó. Ôâng đi thăm từng nhà, ông hỏi người ta ăn uống ra sao. Ôâng hỏi thăm người già, người bệnh, người khó ở. Chính ông thấùu hiểu những vấn đề và những lo lắng của họ.
           Rồi một ngày kia, ông tập họp họ lại, nói rằng ông có một sứ điệp quan trọng mà lãnh chúa tức chủ đất gởi cho họ. Các tá điền họp lại trong sợ hãi và run rẩy, tưởng rằng cái ngày thanh toán khủng khiếp sau cùng đã đến. Các tá điền đã biết hoặc nghĩ rằng mình đã biết những lời mà ông quản lý sắp nói. Hẳn ông sẽ nói rằng:”Trong suốt cuộc kinh lý, tôi đã khám phá rằng không một người nào trong các anh lo lắng việc trả nợ. Các anh chỉ nên tự trách mình. Các anh chỉ là một đám lười biếng, chẳng làm được việc gì. Chủ đất đã chán ngấy các anh. Ôâng ấy đã cho các anh vô số cơ hội, nhưng các anh vẫn không làm ra của cải. Các anh khiến ông ấy không còn chọn lựa nào khác là lấy lại đất đai khỏi tay các anh và đưa nó cho những người khác và họ sẽ trả được nợ của họ”.
           Đó là những gì họ chờ đợi ông quản lý nói, dù rằng trong lòng họ, họ mong mỏi một điều gì khác. Rồi người quản lý bắt đầu nói:”Chủ đất biết rằng tất cả các anh đều mắc nợ số tiền lớn. Oâng ấy nhờ tôi nói với các anh những điều sau đây”. Quản lý ngừng nói. Họ chờ đợi cơn bão ập tới và gắng hết sức mình để chống lại nó. “Thế thì”, quản lý nói tiếp “Tôi có một tin mừng cho các anh”. Một lần nữa ông ngừng lại. Tin mừng ! Họ không thể tin điều họ nghe.”Chủ đất nhờ tôi nói với các anh rằng các anh có thể quên hết nợ nần. Oâng ấy xóa hết nợ nần cho các anh. Từ hôm nay, các anh có thể bắt đầu lại từ đầu”.
           Họ reo hò mừng rỡ. Các tá điền ôm hôn nhau. Một số người bắt đầu nhảy múa, đã lâu rồi họ không  nhảy múa. Khi họ trở về nhà mình với tâm hồn thanh thản, lần đầu tiên trong nhiều năm, họ nhận thấy mặt trời chiếu sáng, chim hát ca và những bông hoa rực rỡ nở rộ trong các cánh đồng.
           Tin mừng Đức Giêsu loan báo trong hội đường Nazareth cũng như thế. Ngài là người quản lý mới mà Thiên Chúa sai đến với dân mắc nợ Người. Theo người Pharisêu, ngày của Chúa phải là ngày phán xét. Và ở đây, Đức Giêsu tuyên bố rằng đó là ngày của ân huệ Thiên Chúa, không chỉ dành cho những người đáng khen mà dành cho tất cả mọi người.
                   (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 365-366).
 
II. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA.
 
          1. Sứ mạng của Giáo hội.         
          Sứ mạng của Đức Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua  Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, Khi Đức Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gửi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện  sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ tuần phải tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách tiên tri Isaia thâu tóm sứ mạng của Đức Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
 
          2. Sứ mạng của mỗi Kitô hữu. 
          a) Mỗi người được sai đi.
           Qua bài Tin mừng này, thánh Luca trình bầy Đức Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi. Tất cả chúng ta là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta cũng được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đi, rồi đến phiên Đức Giêsu lại sai chúng ta đi. Đức Giêsu đã phán:”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi”(Ga 17,18). Bởi vậy lời Thánh Kinh mà Đức Giêsu đã áp dụng cho bản thân Ngài “Chúa đã sai tôi đi”, cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta “Chúa cũng sai tôi đi”.
           Sai đi để làm gì ? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vatican II còn nói mạnh hơn:”Làm tông đồ là bản tính chủa người Kitô hữu”. Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.
 
          b) Phải mộ mến Lời Chúa. 
          Muốn đi loan báo Tin mừng thì phải biết Tin mừng, muốn biết Tin mừng mà không mộ mến Lời Chúa thì làm thế nào mà biết rao giảng Lời Chúa, nhất là biết sống theo lời Chúa dạy. Dĩ nhiên, nếu chỉ tin rằng những gì được nói trong Thánh kinh, nhất là Tin mừng, đều là sự thật mà thôi thì chưa đủ, vì đó là thái độ luôn phải có đối với bất cứ cuốn sách phàm tục nào mà chúng ta cho là đúng đắn.  Trái lại, khi đọc Tin mừng là phải đọc với tất cả niềm tin cao độ và lòng mến thiết tha nghĩa là tin tưởng tất cả những gì trong đó đang được thực hiện. Thánh Giêrônimô nói:”Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Khi đọc Kinh thánh, chúng ta hẵy lắng nghe những điều Chúa nói với chúng ta qua ân sủng, với tất cả con tim nồng cháy của mình.
 
Truyện : Chẳng nghe được gì hết. 
          Trong vở kịch “The Royal Hunt of the sun” (Hoàng gia đi săn mặt trời) có kểû lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của  người Tây ban nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và bảo ông ta :”Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này”. Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ôâng cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất.
 Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ:”Vậy chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa như thế nào” ?  Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng ba cách thức : bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn…(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 166-167).
          Chúng ta phải làm sao để Lời Chúa được diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
 
III. CÁCH THI HÀNH SỨ MẠNG.
 
          1. Sống đời chứng tá. 
          Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói :”Người thời nay thích những chứng tá hơn là thầy dạy”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói:”Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Nếu thầy dạy mà thực hành điều mình dạy thì lời ấy càng có tính thuyết phục; nếu ngược lại, những lời giảng dạy ấy hoàn toàn trở nên vô ích, có khi còn phản tác dụng : không làm cho người ta đến với Chúa mà còn làm cho người ta lìa xa Chúa nữa. Muốn cho lời rao giảng của mình có tác dụng, người truyền giáo nên thực hành lời Đức Giám mục chủ phong trong thánh lễ truyền chức Linh mục khuyên tân Linh mục :                
                             “Hãy tin vào điều con đọc,
                             Hãy giảng điều con tin,
                             Và hãy thực hành điều con giảng dạy”. 
          Về vấn đề làm chứng này, chúng ta hãy trở lại thời Giáo hội sơ khai, các tín hũu đầu tiên đãõ sống với nhau như thế nào  theo một tác giả thế kỷ thứ ba :
 
“Người Kitô hữu không khác với những kẻ khác về cư trú, về ngôn ngữ hay lối sống. Bởi vì họ  không cư ngụ một thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người nọ…
 
          Họ ở trong xác thịt nhưng chẳng theo xác thịt. Họ cư ngụ trên mặt đất nhưng có thành trì ở trên thiên đàng. Họ tuân theo mọi lề luật đã được đặt ra, nhưng lối sống của họ còn hơn cả lề luật. Họ yêu mến mọi người mà mọi người bách hại họ. Họ bị giết nhưng nhờ vậy mà được tái sinh. Họ thật nghèo nhưng lại làm cho bao người trở nên giầu có. Thiếu thốn mọi sự nhưng họ được tràn đầy mọi sự. Người ta khinh khi họ, nhưng trong sự khinh dể đó họ tìm được vinh quang. Danh giá họ bị nhục mạ nhưng nhờ đó họ được minh chứng là công chính. Bị chửi bới, họ chúc lành cho người ta, người khác hành hạ họ nhưng họ một niềm kính trọng. Khi làm lành họ bị trừng phạt như những kẻ bất lương, và chính lúc bị trừng phạt như vậy họ lại vui mừng, dường như được sống. Người Do thái khai chiến với họ như với những kẻ ngoại, đang khi đó dân ngoại bắt bớ họ, nhưng chẳng ai có thể nói tại sao lại thù ghét người Kitô hữu như vậy” (Trích Các bài đọc 2, mùa Phục sinh, tr 84-85).
 
          2. Sống đời yêu thương. 
          Đức Giêsu đã phán:”Người ta cứ dấu này mà biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”(Ga 13,35). Cốt lõi của đạo Công giáo là Bác ái bởi vì chỉ có một lề luật là mến Chúa yêu người. Nếu người ta chỉ yêu Chúa mà không thương yêu tha nhân là một điều khó hiểu vì như thánh Gioan nói, những người chung quanh sờ sờ ra trước mắt mà người ta không yêu thương được, thì làm sao người ta có thể yêu thương Thiên Chúa là Đấng vô hình ?  Vậy nếu muốn giới thiệu cho người khác Đấng mà thánh Gioan gọi “Thiên Chúa là tình yêu” thì phải có một hình ảnh nào, để qua đó người ta biết Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Hình ảnh đó chính là tha nhân và nếu yêu tha nhân là hình ảnh của Chúa thì người ta sẽ dễ nhận ra Chúa hơn.
 
Truyện : Bà có họ hàng với Chúa.
           Dan Clack kể lại một câu chuyện rất ngắn nhưng cũng rất ấn tượng : Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một em bé khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần trước một siêu thị sang trọng. Đứa bé đi chân đất, khoác trên người bộ quần áo cũ kỹ, tơi tả, trông như miếng giẻ rách.  Có một thiếu phụ đi ngang qua trông thấy cậu bé và đọc được nỗi thèm muốn trong đôi mắt mầu xanh đó. Bà cầm tay đứa trẻû, dẫn vào tiệm  và mua cho em đôi giầy mới và bộ quần áo ấm.
          Sau đó, họ bước ra phố, và thiếu phụ nói với cậu bé :
          - Chúc cháu vui vẻ và một đêm ngủ ngon.
          Đứa bé trố mắt nhìn thiếu phụ, rụt rè hỏi :
          - Thưa bà, bà có phải là Chúa không ?
          Bà cúi xuống mỉm cười với cậu bé, vỗ nhẹ vào vai cậu trả lời :
          - Con ơi, không phải đâu, bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi !
          Cậu bé như khám phá được điều gì mới lạ :
          - Cháu đã biết ngay là bà có họ hàng với Chúa mà.
                   (Thiên Phúc, Lời gọi yêu thương, tr 3-4). 
          Sống đời bác ái yêu thương là dấu chỉ con cái Chúa và là dấu chỉ anh em với nhau. Đức Giêsu đã xác nhận:”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”(Lc 6,21). Quả thật,  thiếu phụ trong câu chuyện trên đã nghe và thi hành lời gọi yêu thương của Chúa:”Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”(Lc 6,38). Được làm anh em, họ hàng của Chúa không là một vinh dự  vô cùng lớn lao cho con người sao ?
 
          3. Đời sống hiệp nhất. 
          Trong thân thể con người có rất nhiều chi thể. Thân thể tạo nên một thể thống nhất dù bao gồm nhiềâu chi thể. Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau : dĩ nhiên có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau. 
          Giáo hội cũng như thế. Chúng ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô. Nhận thấy trong giáo đoàn Corintô có sự chia rẽ, thánh Phaolô đã viết thư khuyên nhủ các tín hữu tránh sự chia rẽ mà phải hợp nhất trong Chúa Kitô:”Tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể… Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận”(Bài đọc 2). 
          Gia đình là Hội thánh tại gia. Hội thánh tại gia cũng phải có những đặc tính như Hội thánh toàn cầu : duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Một trong các đặc tính là sự hiệp nhất. Thánh Phaolô cũng trưng Sách Thánh ra để nói lên sự hiệp nhất vợ chồng là cần thiết:”Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”(Ep 5,32). Nếu trong gia đình Kitô hữu, mọi người hiệp nhất với nhau, nhất là vợ chồng không ly dị, thì đây là chứng tá hùng hồn để giới thiệu cho người ta một Chúa Ba Ngôi duy nhất, nguyên lý của mọi tạo vật, và mọi loài thọ sinh phải tùng phục thờ lạy Ngài.
 

 
---------------------------------------------------------------
 
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN C
Gr 1,4-5.17-19 ; 1 Cr 12,31-13,13 ; Lc 4,21-30

ƠN GỌI VÀ SỨ VỤ NGÔN SỨ
I.  HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 4,21-30

(21) Đức Giê-su bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”. (22) Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: “Ông này không phài là con ông Giu-se đó sao?”.(23) Người bảo với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào! (24) Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (25) “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: thiếu gì bà góa ở trong nước Ít-ra-en vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội. (26) Thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả. Nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền Xi-đon. (27) Cũng vậy, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en vào thời ngôn sứ Ê-li-sa. Nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri-a thôi”. (28) Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. (29) Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành (thành này được xây trên núi). Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. (30) Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.

2. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU BỊ NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG BÁCH HẠI.
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã bị người đồng hương Na-da-rét không tin và bách hại: vì họ đã không được thỏa mãn khi đòi hỏi Người phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai. Người đòi họ phải có đức tin là điều kiện để có phép lạ, Người trưng dẫn hai nhân vật là bà góa nghèo ở Sa-rép-ta thời Ê-li-a và quan Na-a-man ở xứ Sy-ri-a thời Ê-li-sa đã được phép lạ nhờ có đức tin. Do không được thỏa mãn yêu cầu, nên dân Na-da-rét đã biến từ thán phục ban đầu sang tức tối muốn bách hại Người.

3. CHÚ THÍCH:           
- C 21-22: + “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”: Đức Giê-su trình bày sự xuất hiện của Người như khai mở thời kỳ hồng ân mà các ngôn sứ đã loan báo, nhưng không dành riêng cho dân Ít-ra-en mà dành cho mọi dân tộc. Tin mừng Lu-ca thường nhấn mạnh đến tính cách hiện tại của ơn cứu độ bằng từ “hôm nay” (x. Lc 2,11). + “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?”: Khi ra giảng đạo Đức Giê-su được 30 tuổi và thiên hạ vẫn cho rằng Người là con của ông Giu-se (x. Lc 3,23).           
C 23-24: + “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính mình!”: Đức Giê-su đã dùng câu tục ngữ này để nói lên tâm trạng của dân Na-da-rét, muốn được ưu tiên nhìn thấy Người làm phép lạ phục vụ đồng hương như Người đã từng làm ở nhiều nơi khác. + Ca-phác-na-um: là một thành phố nằm về hướng Tây Bắc biển hồ Ga-li-lê, và là trung tâm hoạt động của Đức Giê-su. Tại đây, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân và làm nhiều phép lạ (x. Mc 1,21-28), tha tội cho người bại liệt (x. Mc 2,1-12), quan tâm những người tội lỗi (x. Mc 2,15-17), khoan dung về luật ăn chay và hưu lễ (x. Mc 2,18-27). + “Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem nào!”: Dân Na-da-rét đang lặp lại cơn cám dỗ của Xa-tan là muốn thử thách Người. Họ tính lợi dụng lòng tốt của Người để phục vụ cho ích lợi của họ (x. Lc 4,1-14). Cũng vì tưởng mình đã biết rõ nguồn gốc Đức Giê-su, nên họ không tin Người là Con Thiên Chúa từ trời mà đến. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai của Người (x. Lc 11,16). + “Không một Ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”: Ngôn sứ hay tiên tri là phát ngôn viên của Thiên Chúa để an ủi những người đau khổ tuyệt vọng, tiên báo một tương lai tốt đẹp sắp dến và động viên dân trung thành với đức tin vào Thiên Chúa (x. Is 49,8-15); Cáo trách tội của vua quan và dân chúng như Sa-mu-en đã trách phạt vua Sa-un (x. 1 V 15,12-23); Na-than cáo trách tội “giết chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít (x. 2 Si-mon 12,1-15); Giê-rê-mi-a lên án dân chúng phụng thờ tà thần (x. Gr 7,30-34)... Chính vì “Trung ngôn nghịch nhĩ”-“Lời thật khó nghe” mà nhiều ngôn sứ đã bị người đời giết hại (x. Lc 6,23b). Câu “Không một ngôn sứ nào được tiếp nhận tại quê hương mình” ở đây đồng nghĩa với câu “Bụt nhà không thiêng” của Việt Nam chúng ta.
C 25-27: + Tôi nói cho các ông hayĐức Giê-su muốn trình bày tính phổ quát của ơn cứu độ, nghĩa là cho mọi dân mọi nước, chứ không chỉ dành cho dân Ít-ra-en hay cho quê hương Na-da-rét mà thôi. Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su cũng thường đề cao đức tin của dân ngọai như: khen viên đại đội trưởng Rô-ma (x. Lc 7,9) ; Dạy làm theo người Sa-ma-ri (x. Lc 10,36-37) ; Khen người đàn bà Ca-na-an (x. Mt 15,28). Ê-li-a và bà góa ngoại giáo thành Xa-rép-ta được qua cơn đói kémÊ-li-a là một ngôn sứ rất nổi tiếng, sống vào thế kỷ thứ chín trước công nguyên. Một bà góa ở thành Xa-rép-ta miền Xi-đon sắp bị chết đói vì nạn hạn hán mất mùa. Bà may mắn gặp được ngôn sứ Ê-li-a. Nhờ tin và làm theo lời Ê-li-a dạy mà bà đã được ông làm phép lạ cho hũ bột và bình dầu nhà bà đầy mãi cho tới khi hết nạn hạn hán (x. 1 V 18,1tt). Ê-li-sa và quan Na-a-man ngoại giáo bị phong cùiÊ-li-sa là đồ đệ của Ê-li-a, nổi tiếng vì khả năng chữa bệnh lạ lùng. Tại xứ Xy-ri-a có viên sĩ quan Na-a-man bị bệnh phong cùi. Nhờ được một nữ tì mách bảo, ông đã sang nước Ít-ra-en tìm tới ngôn sứ Ê-li-sa để xin chữa bệnh. Nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa và khiêm tốn làm theo lời ngôn sứ xuống sông Gio-đan tắm 7 lần và sau đó ông đã được khỏi bệnh (x. 2 V 5,1-14).
C 28-30: + Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộHọ phẫn nộ vì Đức Giê-su đã không thỏa mãn đòi hỏi của họ muốn xem phép lạ. Họ còn tức giận vì Người đã đề cao dân ngoại hơn dân Do thái được Đức Chúa ưu tuyển. Họ ganh tị vì Người coi trọng thành Ca-phác-na-um ngoại giáo, hơn quê hương Na-da-rét của Người. Sự kiện này tiên báo Người sẽ bị người đời chống đối, mà ông già Si-mê-on đã báo trước (x. Lc 2,34), và sau này Người sẽ bị kết án tử hình thập giá (x. Lc 20,15). + Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi: Trước sự chống đối của dân Na-da-rét, Đức Giê-su đã băng qua giữa họ mà đi trên đường của Người sẽ chỉ kết thúc tại thành Giê-ru-sa-lem (x. Lc 13,33).

4. CÂU HỎI: 1) Tin mừng Lu-ca cho biết khi ra giảng đạo Đức Giê-su được bao nhiêu tuổi và người đời nghĩ Người là con của ai? 2) Ngôn sứ và tiên tri giống hay khác nhau và sứ vụ của họ là gì? 3) Tại sao dân Na-da-rét đòi Đức Giê-su phải làm phép lạ cho họ xem và họ đã có thái độ thế nào khi không được như ý? 4) Hãy kể ra một số trường hợp Đức Giê-su đã đề cao đức tin của dân ngọai? 5) Khi nêu ra hai phép lạ của ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa đã làm cho hai người thuộc dân ngoại, Đức Giê-su muốn nói gì với người đồng hương Na-da-rét? 6) Tại sao các người Na-da-rét nổi giận và muốn giết hại Đức Giê-su?

II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,30).
2. CÂU CHUYỆN: SỨC MẠNH CỦA SỰ THẬT.
Thôi Trữ là một quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công để đoạt ngôi báu. Ông ta cho mời các quan chức triều đình đến tư dinh để cùng bàn mưu tính kế và uống máu ăn thề với nhau. Sau khi nghe Thôi Trữ công khai tuyên bố chống lại nhà vua, các quan chức triều đình có mặt đều tỏ ra khiếp nhược trước uy thế của Thôi Trữ và răm rắp nghe theo. Duy chỉ có Án Tử là vẫn điềm nhiên tự tại và không chịu thề hứa chi cả. Bấy giờ Thôi Trữ bảo Án Tử rằng: “Nếu ngươi theo ta, thì sau khi ta thâu đoạt được ngai vàng, ta sẽ chia một nửa nước cho. Còn nếu không nghe ta thì ngươi sẽ lập tức bị tiêu diệt!”. Trước khí thế của quân phản loạn, Án Tử vẫn giữ bình tĩnh. Ông trả lời rằng: “Lấy cái lợi để nhử và bắt người ta chống lại Quân vương là bất trung. Lấy binh khí để hiếp đáp làm lòng người sợ hãi phải nghe theo là thất đức. Giết thì giết! Ta đây quyết không làm theo việc bất trung thất đức của ngươi đâu!”. Nói xong Án Tử đứng dậy ung dung ra về, thế mà Thôi Trữ cũng không dám ra lệnh cho quân lính ngăn lại và giết hại như đã đe dọa trước đó.
3. SUY NIỆM:
1. Ơn gọi và sứ vụ của ngôn sứ: Ngôn sứ là những người được Đức Chúa tuyển chọn và cho thấy trước trong giấc chiêm bao về những hình phạt Ngài sắp giáng xuống trên những kẻ quyền thế hay trên tòan dân, để kêu gọi họ phải cấp thời ăn năn sám hối các tội đã phạm, hoặc tiên báo tin mừng họ sẽ được Chúa cất đi những hình phạt đang phải chịu nếu trung thành giữ giao ước. Những lời sấm ngôn của các ngôn sứ trong Cựu Ước ít nhiều đều liên quan đến Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) sẽ đến. Lời sấm ngôn của các ngôn sứ về sau đã được ghi lại thành sách trong Thánh Kinh Cựu Ước. Trong số 16 ngôn sứ có 4 ngôn sứ lớn (để lại nhiều sấm ngôn) là: I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en và 12 ngôn sứ nhỏ (để lại ít sấm ngôn hơn) như: Hô-sê, Giô-en, A-mốt, Ô-va-di-a, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi. Ngôn sứ có nhiệm vụ đại diện Đức Chúa để giáo huấn dân Ít-ra-en và phải nói điều Chúa muốn họ nói dù người nghe có nhận hay không (1 Cr 9,15-16)).
2. Đức Giê-su thi hành sứ vụ ngôn sứ:
- Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã công bố chương trình cứu độ của Người: Nhân dịp về thăm quê hương và theo thói quen ngày sa-bát, Người đã vào hội đường Na-da-rét và đọc một đọan trong sách ngôn sứ I-sai-a về sứ vụ của Đấng Thiên Sai rồi sau đó tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe’ (Lc 4,21).
- Phản ứng của người đồng hương: Lúc đầu họ thán phục về tài ăn nói lưu lóat khôn ngoan của Đức Giê-su, nhưng không chấp nhận sứ vụ Thiên Sai của Người vì họ mang thành kiến về nghề thợ mộc thấp kém và về gia thế tầm thường của Người. Họ muốn xem Đức Giê-su làm dấu lạ như Người đã làm trước đó tại thành Ca-phác-na-um. Khi Người không thỏa mãn đòi hỏi ấy vì họ không tin thì họ sinh ra tức giận vì cho rằng Người coi khinh đồng hương và hè nhau lôi Người lên triền núi để xô xuống vực cho chết đi. Nhưng “người đã băng qua giữa họ mà đi” vì Giờ của Người chưa đến..
3. Sứ vụ ngôn sứ của người tín hữu hôm nay: Mỗi tín hữu hôm nay nhờ phép rửa tội và phép thêm sức cũng được Chúa mời gọi làm ngôn sứ cho Người. Vậy chúng ta cần tránh những gì và cần phải làm gì rút ra được từ Tin Mừng hôm nay để chu tòan sứ vụ ngôn sứ này?
-Cần tránh thành kiến với tha nhân: Thành kiến hay định kiến là sự đánh giá người khác không dựa trên lời nói việc làm của họ, mà dựa vào gia thế và tình cảm yêu ghét dành cho họ. Đây là thói xấu mà có lẽ ai trong chúng ta cũng ít nhiều mắc phải: Cùng một lời nói hay một việc làm mà nơi một người địa vị cao hay có uy tín thì được mọi người khen ngợi và đánh giá cao, đang khi nếu do một người thấp cổ bé miệng thực hiện lại bị chê và đánh giá thấp!
-Cần tránh thái độ ích kỷ cục bộ: Đức Giê-su muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ. Người muốn các tín hữu chúng ta tránh đóng khung các họat động truyền giảng Tin Mừng hay chia sẻ bác ái chỉ trong phạm vi khu vực của mình, đang khi lẽ ra phải biết mở rộng tầm nhìn đến với mọi người cần được giúp đỡ.
-Cần trung tín nói lời Chúa cho tha nhân: Làm ngôn sứ không dễ, vì một đàng phải nói lời Chúa cách trung thực cho người khác, mà sự thật thường hay mất lòng. Nhưng đã là ngôn sứ thì phải trung thành nói lời Chúa muốn và sẵn sàng đón nhận những hậu quả thiệt thòi cho bản thân như lời Đức Giêsu cảnh báo: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước … Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,18-20).  
-Cần dũng cảm bênh vực công lý: Làm ngôn sứ nhiều khi phải lội ngược dòng, không thể chiều theo dư luận xấu hay theo số đông lầm lạc bất công, nhưng phải biết khôn ngoan chọn lối ứng xử phù hợp với lợi ích chung tập thể và rịêng cá nhân theo lời Chúa dạy, theo giáo huấn của Hội Thánh và luật pháp xã hội quy định. Chính lối sống ngược dòng này đòi chúng ta phải dũng cảm và khôn ngoan để vừa giữ được hòa khí với mọi người, nhưng đồng thời cũng trung thành với công lý và khi cần sẵn sàng đón chịu thiệt thòi để làm theo lương tâm mách bảo. Chính sự can đảm ấy sẽ làm cho đức tin của chúng ta chiếu sáng trước mặt anh em lương dân như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
4. THẢO LUẬN: Đức Giê-su đã luôn tỏ ra ưu ái và đề cao dân ngoại. Vậy noi gương Đức Giê-su, chúng ta sẽ phải đối xử thế nào với anh em lương dân mà chúng ta có dịp gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, để giới thiệu Chúa cho họ?

5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp chúng con biết chu tòan sứ vụ làm ngôn sứ là rao giảng Lời Chúa trong xã hội hôm nay. Xin cho chúng con năng học sống Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày. Xin cho chúng con biết làm chứng cho Chúa là “Sự Thật” (x Ga 14,6) bằng lối ứng xử thân thiện và khiêm tốn phục vụ, nhất là phục vụ những người đau khổ bất hạnh hay đang lạc xa Chúa. Xin cho chúng con luôn tin vào sức mạnh tất thắng của lẽ phải và sự thật như lời Chúa dạy: “Sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32).  – A-men.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

 


CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN C
THÂN PHẬN TIÊN TRI
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Thời xưa, khi Thiên Chúa muốn dạy dân Chúa một điều gì, Ngài không trực tiếp hiện ra dạy dỗ, nhưng Ngài dùng các tổ phụ hay các tiên tri để tuyên sấm Lời Chúa. Tiên tri phải được Thiên Chúa chọn. Tiên tri không được lựa chọn lời Chúa mà phải trung thành nói hết những lời Ngài muốn nói, không được thêm bớt. Những lời tiên tri nói ra thường không dễ nghe và khó được chấp nhận vì những lời ấy vạch trần những sự sai trái  của mọi người, nhất là của cấp lãnh đạo trong đạo cũng như ngoài đời. Vì thế, tiên tri thường bị người ta chống đối, nhạo báng, lăng nhục và có khi bị giết vì sứ mạng. Tiên tri Giêrêmia là bằng chứng khẳng định điều trên.
 
          Đức Giêsu cũng là vị tiên tri, vì Ngài được Thánh Thần xức dầu, sai đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân. Ngài nói lên sự thật, nhưng Ngài đã bị những người đồng hương chống đối, không chấp nhận mà còn muốn giết đi nữa. Người ta chấp nhận “sứ điệp” của Ngài nhưng không nhận sứ điệp từ nơi Ngài , vì Ngài cũng chỉ là một người Nazareth như ai, con bác thợ mộc Giuse… Vì vậy, số phận của Ngài cũng giống như số phận của các tiên tri bởi vì “Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình”.
 
          Mỗõi Kitô hữu, qua bí tích rửa tội và thêm sức, cũng là tiên tri của Chúa, vì đó là một trong ba chức năng của Đức Kitô mà mọi người được tham gia. Vì thế, mọi Kitô hữu có sứ mạng loan báo Tin mừng cho người khác. Nhiệm vụ ấy đòi hỏi mỗi Kitô hữu phải can đảm thi hành một cách triệt để trong cuộc sống hằng ngày, bằng chứng tá sống động, mặc dầu bị người ta chối bỏ hay chống đối.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          Bài đọc 1 : Gr 1,4-5.17-19.
 
          Giêrêmia là một trong những tiên tri lôi cuốn nhất. Tính ôn hòa và nhạy cảm của ông không thích hợp để trở thành tiên tri đối với một xã hội suy đồi. Nhưng Thiên Chúa đã gọi ông và ông phải vâng lời. Ôâng vẫn biết mình không có khả năng, và cũng ý thức rằng ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Vì thế, ông đã phải cố gắng đi rao truyền Lời Chúa trước mặt dân Israel và các dân ngoại. Trước sự chống đối và bắt bớ, ông vẫn tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông không hề nao núng. Tiên tri Giêrêmia chính là hình ảnh của người Kitô hữu.
 
          Bài đọc 2 : 1Cr 12,31 – 13,13.
 
          Trong đoạn thư gửi cho tín hữu Corintô, thánh Phaolô khẳng định  sự cao trọng của đức Mến. Chúa ban cho Kitô hữu nhiều ơn riêng để họ góp phần xây dựng cộng đoàn (Chúa nhật trước), nhưng đức Mến vẫn là cao trọng hơn cả.
          Đức Mến làm cho các ơn khác có giá trị, bởi lẽ nếu không có đức mến thì những ơn khác  chỉ là hư không, và đức mến mới khiến chúng ta tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa.
 
          Bài Tin  mừng : Lc 4,21-30.
 
          Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước nói về những hoạt động của Đức Giêsu tại quê hương Nazareth của mình. Theo đó, chúng ta thấy có ba ý chính :
 
          -  Ngày sabat, Đức Giêsu vào hội đường Nazareth đọc Sách Thánh. Nhân dịp này, Ngài tuyện bố lời tiên tri Isaia cách đó 8 thế kỷ mà Ngài mới đọc, được áp dụng vào chính Ngài, và Ngài công bố sứ mạng của Ngài là mang Tin mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.
 
          - Dựa trên lời đồn thổi về Ngài, người đồng hương cảm thấy phấn khởi qua bài giảng của Ngài. Họ hy vọng Ngài sẽ ưu tiên làm nhiều phép lạ tại quê hương, nhưng đã bị từ chối, bởi vì Ngài là  Đấng cứu độ của mọi người  chứ không phải của riêng ai :”mọi xác thịt sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa”(Lc 3,6).
 
          - Thất vọng vì sự từ chối của Đức Giêsu, họ tức giận và trục xuất Ngài khỏi thành bằng cách đưa Ngài lên đồi cao để xô xuống vực. Điều này hé mở cho ta thấy bóng dáng ngọn  đồi Golgotha, nơi họ sẽ giết Ngài, như cha ông họ đã từng giết các tiên tri.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Hãy làm tiên tri của Chúa.
I. NGƯỜI LÀM TIÊN TRI.
 
          1. Ơn gọi Tiên tri.
 
          Trong đạo cũ, muốn dạy dân một điều gì thì Thiên Chúa thường gửi những vị Tiên tri đến để tuyên sấm lời Chúa.  Tiên tri, theo từ gốc Hy lạp, có nghĩa là người nói nhân danh người khác. Thánh Kinh nhắc đến 16 vị Tiên tri tất cả, gồm 4 Tiên tri lớn và 12 Tiên tri nhỏ. Không phải ai muốn làm tiên tri thì làm nhưng phải được Thiên Chúa chọn như Tiên tri Eâlia, Giêrêmia…
 
          2. Tiên tri Giêrêmia.
 
          Giêrêmia là một trong 4 tiên tri lớn thời Cựu ước, đã được Thiên Chúa cho biết :”Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm tiên tri cho chư dân”. Đúng là Thiên Chúa đã chuẩn bị, Ngài chọn Giêrêmia từ xa xưa, sai ông đi “để nhổ và lật đổ , để hủy và để phá”.Ôâng dám tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp. Nghe ông thuyết giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm kêu lên:”Ôâng nội Giêrêmia này  dám nghĩ mình là ai mà bầy đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy”.
 
          Tiếc thay, sứ vụ của ông quả đã thất bại, chính ông cũng chết tại Ai cập, nhưng dung mạo của ông không ngừng lớn lên sau khi ông chết. Ôâng là người có tâm hồn dịu hiền, sinh ra để được yêu mến, luôn luôn nêu cao những liên lạc thân mật tâm hồn  phải có đối với Thiên Chúa, ông đã quên mình, chịu đau khổ để phục vụ Thiên Chúa, nên ông trở thành một dung mạo của Chúa Kitô.
 
          3. Sứ mạng của tiên tri.
 
          Tiên tri là phát ngôn nhân của Thiên Chúa. Làm tiên tri chẳng dễ chịu chút nào, phiền toái là đàng khác. Tiên tri không thể chọn lựa điều phải nói, mà phải nói điều Thiên Chúa muốn, ông nói và nói nhân danh Chúa. Tiên tri phải tập trung vào việc diễn tả Lời Chúa, cho dù dân chúng đón nhận hay không (1Cr 9,15-16)). Các tiên tri phải nói sự thật (2Cr 11,10 ; 13,8) và sự thật thì hay mất lòng. Vì thế, mệnh lệnh ông mang lại cho dân chúng và cách riêng cho giới cầm quyền, nhiều khi bị đả kích chống đối và nhà tiên tri phải chết vì sứ mạng.
 
          Giêrêmia trong bài đọc 1 hôm nay nói với chúng ta điều đó một cách thật đau đớn. Thiên Chúa không phải lúc nào cũng nói những lời dễ nghe, làm vừa lòng người ta. Chính vì tính chất khó nghe ấy mà tiên tri phải chết:”Giêrusalem ! Ngươi giết các tiên tri và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi”(Mt 23,37).
 
Truyện : Án Tử cương trực.
 
          Thôi Trữ quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.
          Thôi Trữ bảo Án Tử :
- Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức.
          Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Aùn Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc, ung dung nói rằng :
          - Lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng . Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm C, tr 51).
 
II. ĐỨC GIÊSU, VỊ TIÊN TRI TUYỆT VỜI.
 
          1. Giảng dạy tại hội đường Nazareth.
 
          Bài Tin mừng hôm nay cũng giống như Tin mừng của thánh Marcô,( Chúa nhật 14 B). Thánh Luca kể chung vào làm một hai lần Đức Giêsu trở về Nazareth. Có lẽ cả hai lần, người đồng hương của Ngài đối xử với Ngài cùng một cách, nên thánh Luca kể chung vào một.
 
          Ngày sabat, Đức Giêsu vào hội đường cầu nguyện với bà con đồng hương và chú giải đoạn Sách Thánh vừa mới đọc, tức là đoạn sách của tiên tri Isaia nói về Đấng Cứu thế:”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…”. Mọi người chăm chú nghe Ngài giảng vì danh tiếng Ngài đã vang rộng. Ngài nói đơn sơ, hùng hồn, hấp dẫn, khôn ngoan và sâu sắc, khiến tất cả ai nghe đều thán phục. Họ ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài:”Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”.
 
 
          2. Người đồng hương thay đổi thái độ.
 
          Người đồng hương hài lòng với “sứ điệp” của Đức Giêsu, nhưng người ta không muốn nhận sứ điệp ấy từ Ngài. Vì sao ? Vì Ngài là con ông Giuse ! Họ thấy trước đây Ngài làm nghề thợ mộc như ai, cha mẹ bình thường như họ, vì thế họ đâm ra hoài nghi và đòi Ngài làm phép lạ như đã làm ở Capharnaum. Ngài thấy họ không có lòng tin nên không làm cho họ phép lạ nào.
 
          Thế là từ sự thán phục, thình lình đổi sang ghen tức. Họ ghen tức và trách Ngài tại sao không làm phép lạ nào nơi quê hương mà lại làm ở Capharnaum chỉ cách đó có 30 km ! Nhưng Đức Giêsu đã “đi guốc trong bụng họ”, Ngài biết họ đang nghĩ gì, nên Ngài nói đón đầu ngay:”Có lẽ các ông muốn mượn câu ngạn ngữ :”Hỡi thầy thuốc hãy chữa lấy mình” và các ông đòi tôi làm những việc hiển hách ở quê hương trước các nơi khác. Nhưng tôi bảo cho các ông biết:”Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”. Ngài đem câu ngạn ngữ đó ra để chứng minh cho thái độ của Ngài. Vì trước đây tiên tri Êlia được sai đến cùng bà góa ở Sarepta làm cho hũ bột của bà không vơi đi, bình dầu không bao giờ cạn. Và tiên tri Êâlisê được sai đến cùng ông Naaman, người Syria, khiến ông được khỏi bệnh cùi.  Còn người Nazareth cứng lòng thì Ngài không làm phép lạ. Vả lại, Ngài cũng cho họ thấy họ có thể bị loại để nhường chỗ cho dân ngoại, là những dân có thiện chí và ngay thẳng hơn họ.
 
          Họ đã hiểu hai ví dụ trên ám chỉ về họ, nên họ nổi giận, lòng đầy căm phẫn trục xuất Ngài ra khỏi thành, và còn định dẫn Ngài lên triền núi và xô Ngài xuống vực cho chết quách đi. Đây là sự tiên báo số phận sau cùng của Đức Giêsu . Ngài bị giết bên ngoài thành (Lc 20,15; Cv 7,57).
 
III. THỰC HÀNH SỨ MẠNG TIÊN TRI.
 
          1. Chúng ta cũng làm tiên tri.
 
          Nhà thần học Karl Rahner của thế kỷ 20 viết:”… Chính bản thân Giáo hội là sự hiện diện vĩnh cửu của Lời tiên tri, Đức Giêsu Kitô”. Bởi thế Giáo hội phải tiếp tục nhiệm vụ tiên tri, nói lên tiếng nói của Thiên Chúa. Điều này luôn luôn là một thách đố lớn trong mọi thời đại, cho từng người Kitô hữu.  Giáo hội thật khôn ngoan khi sắp xếp bài đọc của thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại muốn dạy chúng ta về đức “Aùi”, dạy chúng ta đừng cay đắng cáu kỉnh khi người khác không đồng ý với niềm tin của mình. Ngược lại, Giáo hội dạy chúng ta tiếp tục can đảm làm nhân chứng, làm tiên tri qua lời nói và việc làm.
 
          Người tín hữu chúng ta hôm nay cũng được kêu mời sống, làm tiên tri cho Đức Giêsu, trở thành một dung mạo của Ngài. Chúng ta hãy nhớ cho chỉ có Chúa mới ban dức tin cho chúng ta, đây là một ơn nhưng không. Chính Ngài đã có kế hoạch riêng cho từng người, còn kết quả thành hay bại là do từng người chúng ta quyết định. Biết bao lần ta được nghe Ngài, hay Giáo hội của Ngài nhắc nhở, thế nhưng chúng ta vẫn sợ thiên hạ hơn sợ các giáo huấn của Ngài. Đến nỗi nhiều người không dám làm một việc tuyên xưng đức tin dù đơn giản như không dám làm dấu thánh giá trước mặt người ta…
 
          2. Những việc cần tránh.
 
 
          a) Tránh thành kiến.
 
          Thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi :”Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cũng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.
 
          Đứng trước thái độ khinh khi đó, Đức Giêsu đã cho người Nazareth thấy rằng tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình. Xét về mặt tâm lý, điều này thật chính xác. Bởi sự thường cho dù một người có tài năng, giúp ích và phục vụ rất hiệu quả cho nhiều người, nhiều nơi, nhưng khi trở về gia đình, trở về nơi sinh trưởng của mình thì lại bị những người bà con xóm giềng chỉ xem ở “mức độ thường thường”, do ảnh hưởng điều mà chúng ta vẫn thường gọi:”Gần chùa gọi bụt bằng anh”. Đức Giêsu không nằm ngoài sự thường này.
 
Truyện : Sư huynh hỗn xược.
 
          Ở Canada, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh”(Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.
 
          Một hôm trường Đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ : Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ Viện trưởng, các Giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.
          Đức thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường Đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 Giáo sư và sinh viên.
          Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứùng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ.
          Cả trường Đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức phấn khởi như lần này chưa ? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế ?
          … Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh … thứ giả ! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh… để thực tập một phen !
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một Sư huynh”  chưa từng thấy này.
          Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mãnh liệt đến chừng nào.
                   (Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).
 
          b) Tránh thói vị kỷ.
 
          Phần đầu bài giảng bữa trước đã được những người đồng hương nhiệt liệt khen ngợi:”Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”. Nhưng trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu áp dụng bài giảng của Ngài để chứng tỏ cho người Do thái thấy rằng chương trình cứu độ của Thiên Chúa cũng bao gồm cả những dân ngoại. Để chứng minh, Ngài đã dùng câu chuyện của tiên tri Êlia đang bị đói và người đàn bà góa đã giúp ông lại là một người dân xứ Siđon. Thời tiên tri Êâlisê, những người cùi Do thái đã không được chữa lành mà là một người cùi dân ngoại, ông Naaman, xứ Syria. Điều này làm cho họ giận dữ.
 
          Đức Giêsu không muốn cho dân đồng hương của Ngài có đặc quyền hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa mà Ngài muốn cho mọi người, kể cả dân ngoại cũng được hưởng. Ngài dạy họ hãy tránh thái độ ích kỷ, phải biết mở rộng lòng ra đối với mọi người. Thiên Chúa là Chúa của mọi người chứ không của một riêng ai hay của một dân tộc nào.
 
Truyện : Thái độ ích kỷ
 
          Xưa kia có một bà nông dân dữ tợn. Khi bà chết chẳng để lại một việc lành phúc đức nào, do đó ma quỉ chờ lệnh của Thiên Chúa đưa bà xuống hỏa ngục để dìm vào trong hồ lửa. Nhưng thiên thần bản mệnh vẫn đứng bên cạnh bà, cố gắng suy nghĩ, may ra tìm được một việc lành nào do bà đã làm  để bầu cử cho bà trước tòa Thiên Chúa. Sau cùng, thiên thần nhớ ra một điều : nó không lớn lắm, nhưng là điều thiên thần  có thể đưa ra biện minh trước Thiên Chúa. Thiên thần nói với Thiên Chúa :
          - Xưa kia, bà đã nhổ một cọng hành trong vườn của bà và đem cho một người ăn xin nghèo khó.
          Thiên Chúa trả lời :
          - Được lắm. Hãy lấy cọng hành, để bà bám chặt vào nó, rồi kéo bà lên thiên đàng. Nếu thiên thần kéo bà lên được, hãy cho bà vào thiên đàng. Còn nếu cọng hành bị đứt, bà ấy sẽ ở dưới hỏa ngục muôn đời.
          Thiên thần đưa cho bà cọng hành :
          - Nào, mau lên ! Hãy nắm chặt lấy nó để ta kéo ngươi lên thiên đàng.
          Và thiên thần kéo rất cẩn thận. Vừa kéo bà lên được một chút, những người tội lỗi khác nhìn thấy bèn cố gắng giành nhau bám vào chân của bà để họ cũng sẽ được cứu thoát. Nhưng người đàn bà đã vùng vẫy dữ dội, đá họ văng ra, đồng thời la hét rằng :
          - Ta đã được cứu chứ không phải các ngươi. Đây là cọng hành của ta, không phải của các ngươi.
          Ngay khi bà vùng vẫy la hét như vậy, cọng hành đã bị đứt, và bà bị rơi xuống hồ lửa.Vị thiên thần bản mạnh chỉ thương tiếc cho thân phận của bà rồi quay bước ra đi mà thôi.
                       (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 74)
 
          3. Những việc cần làm.
 
          Hãy nhớ lại lời Chúa:”Không tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình”. Số phận của tiên tri là thế đó. Làm tiên tri không phải là chuyện dễ. Phức tạp lắm ! Một đàng phải nói lời Chúa một cách trung thực, một đàng lời Chúa không mấy êm tai dễ nghe vì vạch những cái xấu của họ ra. Nhưng đã là tiên tri thì phải nói lời Chúa và đồng thời cũng phải nhận những đau khổ màø người nghe dành cho kẻ làm tiên tri.
          Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta trước. Ngài từng bảo các môn đệ:”Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước … Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con”(Ga 15,18-20). Bất cứ ai sống đúng là Kitô hữu sẽ hiểu được những lời nói trên chân thực thế nào.
 
          Làm tiên tri nhiều khi phải lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào, sống theo dư luận hay theo chủ trương của một số người nào, mà phải sống theo chân lý, sống theo lời Chúa qua Sách Thánh hay qua lời giáo huấn của Giáo hội. Chính cách sống như thế làm cho người làm tiên tri cảm thấy lẻ loi, lạc lõng và đau khổ giữa những người khác. Có những người không dám tuyên xưng đức tin như không dám làm dấu thánh giá trong quán cơm, trong sở làm. Có người không dám khước từ để không đến những nơi gặp dịp tội như sòng bài, quán rượu, quán karaokê… Có người không dám giữ mình trong tiệc vui giữa những bạn đang “quậy” tứ tung…
 
          Người làm tiên tri cũng đừng đòi Chúa làm phép lạ khi gặp sự khó khăn. Chúng ta muốn có một Thiên Chúa tỏ mình ra thêm chút nữa, một Thiên Chúa giải quyết những vấn đề của chúng ta thay cho chúng ta. Vả lại, Thiên Chúa không thích vai trò mà chúng ta ép Ngài làm. Thiên Chúa không thích điều ngoại lệ, kỳ diệu và ly kỳ… Khi Ngài chữa lành một người mù không phải để làm cho chúng ta kinh ngạc mà để ám chỉ cho chúng ta biết rằng Ngài muốn chữa sự mù lòa vốn có của tất cả chúng ta. Khi chữa lành một người bị liệt nằm trên cáng, vì Ngài muốn chữa lành mọi người chúng ta khỏi bệnh liệt còn nặng hơn nhiều là tội lỗi chúng ta. Điều đó được nói rõ ràng trong Tin mừng (Lc 5,17-26).
 
          Chúng ta là Kitô hữu được kêu gọi làm tiên tri của Chúa Cha cho thời đại chúng ta, cũng như Đức Giêsu từng là tiên tri của Chúa Cha cho thời đại của Ngài. Đây chính là sứ vụ mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép rửa tội và thêm sức. Chúng ta hãy lặp lại lời thánh Phaolô:”Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao  giữa lòng thế giới tối tăm này”(Pl 2,15).
 
          Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu :
 
          “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.
          Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.
          Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước những gánh quá nặng đè lên chúng con.
          Xin giúp chúng con là muối ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin giúp chúng con tỏa sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối này”(M. Link).
 

CHÚA NHẬT  5 THƯỜNG NIÊN C
THIÊN CHÚA KÊU GỌI CON NGƯỜI
+++
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Có thể nói chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là “Ơn gọi”. Thiên Chúa muốn con người tham gia vào công cuộc cứu chuộc của Ngài. Vì thế, mỗi người đều có ơn gọi làm tông đồ, hay nói cách khác, mỗi người có ơn gọi làm chứùng nhân.
 
          Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa xa cách mà gần gũi với con người, Ngài muốn cho con người gặp Ngài khi Ngài muốn để cho kẻ ấy có kinh nghiệm đặc biệt về Ngài và chọn kẻ ấy làm chứng nhân. Chuyện đã xẩy ra như thế cho Isaia, cho Phêrô và các bạn, cho Phaolô. Chuyện đã xẩy ra cho họ ngày xưa chính là chuyện đời của mỗi người chúng ta, chuyện ơn gọi của cá nhân chúng ta hôm nay.
 
          Dựa trên phép Rửa tội và Thêm sức, mỗi Kitô hữu có nhiệm vụ phải làm chứng cho Chúa trong đời sống thường ngày. Ngày xưa, các Tông đồ đã lãnh nhận sứ mạng đi truyền giáo, ngày nay Giáo hội và mỗi người chúng ta  cũng phải tiếp tục công việc của các ngài. Với tư cách là một Kitô giáo dân, mỗi người có trách nhiệm tham gia vào việc tông đồ giáo dân như công đồng Vatican II đã  dạy. Việc tông đồ giáo dân phải được thực hiện trong môi trường sống hằng ngày của mỗi người.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          Bài đọc Is 6,1-2a.3-8.
 
          Ngày nay Thiên Chúa không còn tỏ mình ra nơi sa mạc hay trên núi nữa. Ngày nay Thiên Chúa ba lần chí thánh tỏ vinh quang của Ngài ra cho tiên tri Isaia trong đền thờ. Trong một thị kiến, Isaia thấy mình đang ở trong đền thờ, qua những cảnh huy hoàng và ngoạn mục ông trông thấy, Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, ông cảm thấy mình tội lỗi quá, vô cùng bất xứng nên đã kêu lên :”Khốn thân tôi, chết tôi rồi, vì tôi là một người môi miệng ô uế…” Nhưng khi Thiên Chúa sai thiên thần thanh tẩy miệng lưỡi ông, tha thứ tội cho ông và sau đó gọi ông làm tiên tri, thì ông đầy lòng tin tưởng và mạnh dạn đáp lời:”Có con đây, xin Chúa sai con đi”(Is 6,8). Và Isaia đã trung thành làm chứng về lòng tin của mình.
 
          Bài đọc 2 : 1Cr 15,1-11.
 
          Tại Corintô, nhiều người chống đối Phaolô, cho rằng ông không đủ tư cách làm Tông đồ. Ngài cũng ý thức về điều đó. Ngài tự coi mình là tông đồ nhỏ nhất như đứa con sinh sau đẻ muộn, nhưng dù sao, ông cũng được Chúa chọn làm tông đồ để đi rao giảng Đấng Phục sinh cho dân ngoại. Ngài đã truyền đạt cho họ những điều chính yếu mà Ngài đã nhận được, đó là mầu nhiệm Phục sinh và lời chứng về Đấng Phục sinh của những người có thẩm quyền.
          Ngày nay Giáo hội vẫn rao giảng mầu nhiệm đó, và cũng vẫn trung thành rao giảng vì niềm tin này chính là nền tảng cho đời sống Kitô hữu chúng ta.
 
          Bài Tin mừng : Lc 5,1-11.
 
          Không phải vô cớ mà thánh Luca nối kết ơn gọi của Tông đồ với một mẻ cá đặc biệt dồi dào. Theo Ngài, rao giảng Tin mừng là một việc cứu nạn, kéo nhân loại ra khỏi chỗ đắm chìm. Tông đồ là kẻ thu phục người ta. Nói cách khác, một người giải phóng.
 
          Bài Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện về mẻ cá lạ lùng. Phép lạ này gợi lên cho ta mấy ý tưởng :
          - Sở dĩ có phép lạ này vì Phêrô không tin vào sự thành công của mình, nhưng vì nể lời Chúa ông mới thả lưới.
          - Thuyền đầy cá là hình ảnh báo trước là hình ảnh nhân loại sẽ tin theo Chúa, gia nhập vào Giáo hội và Giáo hội sẽ được lan truyền khắp nơi.
       - Mẻ cá lạ lùng khiến các ông nhận ra uy quyền của Đức Giêsu và đồng thời nhận ra sự yếu đuối bất lực và thân phận tội lỗi của mình :”Lạy Thầy, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”.
          - Các môn đệ cứ đi rao giảng Tin mừng, còn việc có nhiều người ăn năn trở lại, vâng theo Tin mừng hay không, là việc của Chúa.
          - Qua biến cố này, các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Các ông đã mau mắn đi theo tiếng Chúa gọi để đi truyền giáo.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                          Sống ơn gọi làm Tông đồ.
I. CHÚA KÊU GỌI CON NGƯỜI.
 
          Qua các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, Giáo hội muốn cho chúng tôi nhận ra ý nghĩa của việc tông đồ trong Giáo hội, để nhờ đó, chúng ta đáp lại tiếng Chúa gọi bằng cách quảng đại dâng hiến cuộc đời cho Chúa và sẵn sàng theo Chúa làm việc tông đồ.
 
Truyện : Tổng thống Abraham Lincoln.
 
          Một ngày nọ, Tổng thống Abraham Lincoln đi đến thành phố Charleston, tiểu bang South Carolina. Khi đi ngang qua trung tâm thành phố, ông trông thấy người ta đang tổ chức một cuộc đấu giá buôn bán nô lệ. Chứùng kiến cảnh buôn bán người, tận đáy linh hồn ông cảm thấy bị khuấy động lên cơn giận dữ của Thiên Chúa, và một nỗ lực phải làm để cứu những người nô lệ. Do đó ông đã làm một điều độc đáo và bất thường nhất. Ôâng bước vào trong đám đông, khi cuộc trả giá bắt đầu, trước tiên là một em gái nô lệ rất nghèo, ông đã bước ra trả giá trước. Cuộc đấu giá càng lúc càng sôi động, ông tham gia rất tích cực, và sau cùng đã trúng giá, đánh hạ tất cả mọi người. Ôâng trao tiền để lấy người nô lệ. Cô bé gái được đem đến cho ông. Con bé sợ hãi hỏi ông sẽ làm gì đối với nó. Abraham Lincoln trả lời:”Tôi sẽ để cho cô được tự do”. “Tự do ? Tự do để làm gì” ? Cô bé kinh  ngạc hỏi. Ôâng trả lời :”Tự do để làm bất cứ cái gì cô muốn”. Cô bé thắc mắc có phải mình được tự do đi đến bất cứ chỗ nào cô muốn, làm bất cứ điều gì cô thích, nói bất cứ điều gì cô nghĩ, và làm bất cứ nghề nào cô ước muốn. Sau cùng cô bé mỉm cười và nói :”Cháu sẽđi theo ông”.
 
          Abraham Lincoln đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, ông là một con người gương mẫu và biết cách “kêu gọi” dân chúng “theo ông”. Ôâng đã gọi họ bằng chính gương sáng của mình. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi Phêrô, rồi Giacôbê, Gioan và Anrê cũng đi theo Ngài. Đức Giêsu đã cho họ biết Ngài là ai qua việc giảng dạy, chữa lành, và bằng các đức tính tốt lành, nhân từ và tha thứ của Ngài.
 
          1. Ơn gọi của các Tông đồ.
 
          Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng 3 tên : biển Galilê, biển Tibêriat và hồ Giênêxaret. Hồ này dài 20,8 km, rộng 12,8 km. Hồ ở vào chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225 mét dưới mặt biển, vì thế nó có khí hậu giống khí hậu nhiệt đới.  Ngày nay cư dân không đông đúc lắm, nhưng vào thời Đức Giêsu, có 9 thị trấn chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào dưới 15.000 người.
 
          Đức Giêsu rao giảng Tin mừng ở đây, dân chúng chen nhau lại gần để nghe Ngài giảng. Việc đó diễn tả hiệu quả hấp dẫn do lời giảng dạy của Ngài. Vì dân chúng quá đông nên Đức Giêsu phải xuống thuyền của ông Simon đang đậu gần bờ, ra xa bờ một chút để có thể dễ dàng giảng dạy… Giảng dạy xong, Đức Giêsu bảo ông Simon đưa thuyền ra chỗ nước sâu mà bắt cá. Simon, một ngư dân dày kinh nghiệm trong nghề chài lưới, đã cho Chúa biết kết quả thạm bại : sau một đêm cực nhọc vất vả mà chả bắt được con cá nào. Ôâng nói đúng, nhưng không biết nghĩ ngợi thế nào, ông đã thưa với Chúa:”Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Kết quả thật bất ngờ, cá nhiều vô kể đến nỗi lưới muốn rách.
 
          Đây là một phép lạ? Hồ Giênêsaret có nhiều cá. Nhưng suốt đêm các ông không bắt được gì mà bây giờ bắt được nhiều như thế là một phép lạ . Biết được chỗ có nhiều cá, để bảo Simon thả lưới phải do sự hiểu biết của Thiên Chúa. Thường thì ban ngày ít đánh được cá hơn ban đêm, đây ban đêm không được gì mà ngày thì lại được cá nhiều quá sức tưởng tượng thì phải coi là cái gì khác thường. Chính những người bắt cá xác nhận là phép lạ.
 
          Trước mẻ cá lạ lùng này, ông Simon sụp lạy dưới chân Ngài và thưa :”Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Cả ông Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc như ông. Nhung Đức Giêsu phán bảo ông Simon:”Đừng sợ ! từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
 
          Đây là những môn đệ đầu tiên đi theo Ngài. Họ đi theo Ngài từ đây. “Đi theo” theo nghĩa thần học, động từ này ám chỉ sự dâng hiến chính mình, thoát khỏi mọi sự ràng buộc. Vì thế ở đây ta liên tưởng đến ý nghĩa từ bỏ của cải vật chất (Mc 10,21), từ bỏ cha mẹ, bạn bè và tất cả (Lc 5,11).
 
          2. Ơn gọi của tiên tri Isaia.
 
          Tiên tri Isaia, trong bài đọc 1, được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa và nghe tiếng các Thiên Thần Sốt mến luân phiên tung hô:”Thánh, thánh, thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binhtrời đất đầy vinh quang Chúa”. Điều đó khiến ông run sợ  và cảm thấy mình bất xứng, nên đã thốt lên lời:”Vô phúc cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn”. Trước sự khiêm tốn ấy, Chúa sai sứ thần đến thanh tẩy ông bằng than lửa hồng, ông trở nên thanh sạch và được Chúa tuyển chọn, ông đã can đảm đáp lại :”Này  con đây, xin hãy sai con”.
 
          3. Ơn gọi của tông đồ Phaolô.
 
          Thánh Phaolô, trong bài đọc 2, sau khi được Chúa kêu gọi và cải hóa từ tay bắt bớ Đạo Chúa, nay trở nên một vị Tông đồ nhiệt thành truyền bá giáo lý của Chúa, là thầy dạy dân ngoại. Ngài đã khiêm tốn thú nhận mình hèn mọn nhất trong các Tông đồ, nhưng nay được như thế này là nhờ ơn Chúa ban. Bởi ngài đã can đảm đáp lại tiếng Chúa gọi khi thưa với Chúa:”Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì” ?
 
          Phaolô là con người đầy nhiệt huyết, đã đi vòng quanh đế quốc La mã 4 lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy lửa ấy ? Thưa vì người đã gặp gỡ Chúa Kitô. Cuộc gặp gỡ đó đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và Ngài vui mừng vì được trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích” : 5 lần bị đánh đòn 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu một ngày một đêm chơi vơi trong lòng biển (2Cr 12,24-25).
 
          4. Ơn gọi của chúng ta.
 
          Chúa vẫn còn kêu gọi mọi người chúng ta, và ngày nay nhu cầu ấy càng to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Ngài. Một số người (như các Tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế “chuyên nghiệp”. Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.
 
          Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì ? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của mình ở bất cứ nơi nào mình có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin mừng của Ngài hơn nữa.
 
          Một số người Kitô hữu khi ý thức về tội lỗi mình thì tự ý miễn trừ cho mình những việc hoạt  tông đồ hay những việc phục vụ dân Chúa. Họ nghĩ rằng Chúa không gọi họ làm việc tông đồ. Họ cho rằng việc tông đồ là thuộc phạm vi linh mục và tu sĩ nam nữ.  Đọc lịch sử Giáo hội, ta thấy khi Chúa muốn để lại một ấn tượng sâu xa về quyền năng của Ngài, Chúa không ngừng dùng những phương thế khác thường, nghĩa là dùng quyền năng Chúa biến đổi họ tức thời, như Chúa đã biến đổi Phaolô, người bách hại Đạo trở thành người hăng say rao giảng Tin mừng, như Augustinô, một thanh niên trụy lạc trác táng, thành một giám mục thánh.
 
II. SỐNG THEO ƠN GỌI.
 
          1. Ơn gọi là hồng ân của Thiên Chúa
 
          Mọi người đều có ơn gọi. Ơn gọi phải phát xuất từ Thiên Chúa, con người chỉ biết đón nhận với lòng thành thực và biết ơn. Con người không chọn Chúa, mà chính Chúa chọn con người : Isaia tin có Chúa đang hiện diện trong Đền thờ, nhưng ông không dám nghĩ tới việc được “thấy” Chúa và được Ngài “gọi” (bài đọc 1). Phaolô đang trên đường lùng bắt các môn đệ Đức Kitô thì được ơn gọi (bài đọc 2). Còn Phêrô và các bạn chài thì đang lo đánh lưới bắt cá nhưng lại được gọi  làm những kẻ quăng lưới bắt người (bài Tin mừng). Đúng như lời Đức Giêsu nói:”Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”.
 
          Chúa có thể gọi ta trong những hoàn cảnh đặc biệt, nhưng ngày nay, Chúa thường gọi con người trong những hoàn cảnh rất thông thường và qua trung gian. Dù được gọi trong hoàn cảnh đặc biệt hoặc trong cuộc sống bình thường thì tất cả là hồng ân Thiên Chúa. Con người phải đáp lại tình thương yêu của Chúa.
 
          2. Con người bất xứng trước ơn gọi.
 
          Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người và mỗi người đều cảm thấy mình bất xứng, tội lỗi. Chúng ta có 3 ví dụ về ơn gọi :
          - Isaia thốt lên :”Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế”(bài đọc 1).
          - Phaolô tự nhận “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đô, vì đã ngược đãi Hội thánh của Thiên Chúa”.
          - Phêrô, sau mẻ cá lạ lùng, sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà thưa :”Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”.
 
          Tuy thấy mình bất xứng nhưng vẫn được Thiên Chúa tín nhiệm. Đáp lại hồng ân của Chúa, các ông cố gắng chu toàn nhiệm vụ Chúa trao :
          - Isaia mạnh dạn thưa lại với Chúa:”Dạ, có con đây, xin sai con đi”.
          - Phaolô dám khoe:”Tôi đã làm việc hơn tất cả các vị khác, nhưng không phải tôi, mà là Thiên Chúa ở cùng tôi”.
          - Còn Phêrô thì “đưa thuyền vào bờ và đi theo Ngài”
 
          3. Cần có ơn Chúa trợ lực.
 
          Ôâng Simon thưa với Đức Giêsu:”Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Đúng vậy, ông đã mất công toi cả một đêm với kinh nghiệm đánh cá. Nhưng Đức Giêsu thuyết phục ông thử thêm một lần nữa mà ông đã thành công rực rỡ giữa thất bại. Câu chuyện này nhắc cho các ông và cho chúng ta một bài học : Khi Đức Giêsu bắt đầu tham dự vào sự việc, thì lập tức sự việc  ấy sẽ đổi thay. Những lần buông lưới trước đó – có lẽ từ 20 đến 30 lần suốt đêm ấy – các môn đệ làm một mình. Nhưng lần cuối cùng, Đức Giêsu bắt đầu can dự vào, thì sự tình quay hẳn 180 độ. Việc diệu kỳ xẩy ra đã vượt quá ước mơ của họ.
 
          Trên mảnh đất chuyên môn của mình, Simon tưởng mình có khả năng, nhưng Đức Giêsu đã đánh trúng ông, đã chỉ cho ông thấy những giới hạn của mình : ông không là gì cả nếu không có Ngài. Chúng ta cũng thế, trong chiếc thuyền của chúng ta, chúng ta thường  phải nhường chỗ cho một Đấng Khác, để thả lưới ở nơi mà chúng ta không tự mình làm được.
 
          “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấéc bổng trái đất lên”. Nếu Archimède dám khẳng định như vậy thì tại sao ta lại không dám xác tín rằng : Dựa vào Đức Giêsu,  Đấng đã hiến mạng vì tình yêu, tôi có thể chinh phục mọi tâm hồn ? Như Simon đã dựa vào Lời Chúa mà thả lưới và bắt được mẻ cá lớn, thì chúng ta cũng có thể trở thành người chinh phục các tâm hồn cho Chúa một khi chúng ta biết dựa vào quyền năng của Chúa hơn là vào sức riêng mình.
 
Truyện : Thánh Gioan Vianney.
 
          Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục chăng ?
           Tuy đã cố hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.
          Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói:”Vianney, anh dốt đặc như con lừa ! Với một con lừa như anh, Giáo hội hy vọng làm nên trò trống gì “?
          Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời:”Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao”?
 
          4. Thực hành ơn gọi tông đồ.
 
          a) Về phần các Tông đồ.
 
          Sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ chia nhau ra đi truyền giáo. Các ông đã hăng say hoạt động, hy sinh rất nhiều vì danh Chúa và sau cùng đã nhận lấy cái chết để tỏ lòng trung thành với Chúa..
 
          Trong bài đọc 2, chúng ta được nghe thánh Phaolô bộc bạch tâm tư của mình. Phaolô là một con người đầy nhiệt huyết, đã vòng quanh đế quốc La mã 4 lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy lửa ấy ? Thưa vì ngài đã gặp gỡ Chúa :”Rồi sau cùng Ngài đã hiện ra với tôi như một đứa con sinh non”(1Cr 15,8). Phải, cuộc gặp gỡ đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và ngài được vui mừng trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích”: 5 lần bị đánh đòn 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, 1 lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu, 1 ngày 1 đêm chơi vơi trong lòng biển (2Cr 12,24-25).
 
          b) Về phía Giáo hội.
 
          Trước khi về trời, Đức Giêsu trao sứ mạng truyền giáo cho các Tông đồ:”Các con hãy đkhắp nơi giảng dạy cho muôn dân”. Các ngài đã ra đi rao giảng và cũng đã chu toàn sứ mạng Chúa trao  phó. Nối tiếp các Tông đồ, Giáo hội tiếp tục sứ mạng đó như Công đồng Vatican II đã dạy :
 
Vốn phát sinh từ ơn gọi làm Kitô hữu, việc tông đồ giáo dân không bao giờ có thể khiếm khuyết trong Giáo hội. Trong những buổi đầu Giáo hội, việc tông đồ này thật là hăng say và kết quả biết bao ! Chính Thánh kinh chứng minh cách phong phú điều đó (Cv 11,19-21; 18,26; Rm 16,1-16). Càng ngày dân số càng gia tăng, khoa học và kỹ thuật càng tiến triển, những mối tương quan mật thiết hơn giữa con người không những mở rộng môi trường hoạt động tông đồ giáo dân đến bao la, môi trường mà phần lớn chỉ dành riêng cho họ, và còn tạo nên nhiều vấn đề mới đòi hỏi họ phải đặc biệt lưu tâm học hỏi” (Apostolicam Actuositatem, đoạn 1).
          Theo giáo huấn của công đồng, ta thấy người giáo dân thực hành việc tông đô có hiệu quả hơn các linh mục và tu sĩ. Bởi vì các Linh mục đâu có đến các gia đình hay gặp gỡ được những người không có đạo,  và họ cũng đâu có đến nhà thờ để nghe các linh mục giảng. Chính các giáo dân là những Tông đồ cụ thể, trực tiếp và hữu hiệu nhất.
 
          Lời Chúa hôm nay, cùng với lời kêu gọi của công đồng Vatican II đối với mỗi Kitô hữu trong việc phục vụ Giáo hội, nhắc nhở cho chúng ta về sứ vụ truyền giáo. Sự thường chúng ta hay tìm đủ mọi lý do để từ chối hay không tích cực đáp lại lời mời gọi này. Chúng ta thường viện lý do cho rằng mình không đủ phẩm chất để theo Chúa, thiếu kiến thức, thiếu lòng đạo đức, không xứng đáng được mời gọi đến phục vụ. Tuy nhiên, Thiên Chúa không mời gọi chúng ta theo sự xứng đáng, phẩm chất hay kiến thức. Ngài gọi chúng ta theo ân sủng và tình yêu của Ngài. Khi Thiên Chúa mời gọi, nếu chúng ta đón nhận ơn gọi của Ngài, Ngài sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta trở nên giống như Ngài, và ban cho ta những ơn cần thiết để thi hành điều Ngài muốn chúng ta làm (Lc 1,38).
 
          Thiên Chúa không bao giờ khước từ thiện chí của chúng ta. Bất kể chúng ta là ai, có khả năng gì, yếu đuối thế nào, Ngài luôn cần chúng ta trong công việc phục vụ Giáo hội của Ngài. Ngài luôn mời gọi chúng ta đi theo Ngài và trở thành những Tông đồ đồng hành với Ngài trong công cuộc cứu rỗi nhân loại .
 
          Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho mọi người chúng ta biết tin theo Chúa, tham gia vào công việc tông đồ giáo dân một cách tích cực, quảng đại để đem về cho Chúa nhều linh hồn, theo kinh của thánh Inhaxiôâ Loyola :
 
“Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại,
Biết phụng sự Chúa cho xứng đáng,
Biết cho đi mà không cần tính toán,
Biết chiến đấu mà không sợ thương tích,
Biết làm việc mà không tìm an nghỉ,
Biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác
Ngoài việc biết mình đang thi hành thánh ý Chúa.
Sưu tầm
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn