1
14:46 +07 Thứ bảy, 27/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 218

Máy chủ tìm kiếm : 24

Khách viếng thăm : 194


Hôm nayHôm nay : 17546

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 321668

Tổng cộngTổng cộng : 27875952

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Suy niệm Chúa nhật Mùa Vọng và Giáng Sinh

Thứ tư - 27/11/2019 19:39-Đã xem: 715
Mùa Vọng là một mùa trong niên lịch phụng vụ của Giáo Hội – chính xác hơn, thuộc niên lịch của Giáo Hội Latinh, là Giáo Hội lớn nhất hiệp thông với Đức Giáo Hoàng.

 
CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH

Ca nhập lễ

Này Chúa Tể càn khôn ngự đến, tay nắm trọn vương quyền, thế lực và vinh quang.

Dẫn vào Thánh Lễ

Anh chị em thân mến, Lễ Hiển Linh cử hành biến cố ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa. Họ là ba người ngoài Do Thái, được coi là dân ngoại nhưng đã tìm hiểu và tin nhận Chúa Giêsu là Chúa của mình. Vì thế ngày lễ này được coi là ngày lễ của niềm tin. Chiêm ngắm cuộc hành trình đức tin của ba nhà đạo sĩ, chúng ta có dịp để hâm nóng lại niềm tin của mình. Tất cả chúng ta đây là các đạo sĩ của thời nay, có nhiệm vụ làm cho cả thế giới nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nhiệm vụ đặc biệt của chúng ta là làm cho mọi người sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón tiếp Lời Chúa, để có thể nhận ra Chúa Giêsu trên khắp nẻo đường đời, Người cần chúng ta cộng tác để nối dài công trình cứu thế của Người. Xác tín như thế, chúng ta cùng thành tâm thống hối.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin...

Bài Ðọc I: Is 60, 1-6

"Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.

Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.

Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.

Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13

Ðáp: Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa

Xướng: Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực.

Xướng: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.

Xướng: Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ.

Xướng: Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.

Bài Ðọc II: Ep 3, 2-3a. 5-6

"Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 2, 2

Alleluia, alleluia! - Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đã đến để triều bái Người. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 2, 1-12

"Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".

Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.

Ðó là lời Chúa.

SUY NIỆM LỄ CHÚA HIỂN LINH

Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng vụ cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh.

Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.

Gaspar, Melchior và Balthasas là ba nhà đạo sĩ nổi tiếng ở Ðông phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bêlem, xứ Giuđêa để thờ lạy Ðấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.

Chỉ có hai hạng người đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem. Đó là các mục đồng và những nhà đạo sĩ.

Ðức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.

Khi các mục đồng canh giữ chiên ở ngọn đồi Bêlem, họ bỡ ngỡ vì vẽ đẹp của thiên thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Ðấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Ðavit, Người là Ðấng Kitô Ðức Chúa (Lc 2,10-12). Còn các đạo sĩ ở bên kia xứ Mêđia và Batư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến hang đá tìm gặp Hài Nhi.

Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các mục đồng và các đạo sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Ðó là các mục đồng và các đạo sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.

Các mục đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Ðêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết, Ðấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong hang đá Bêlem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Ðấng Chăn Chiên của họ.

Các đạo sĩ tìm gặp Ðấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Ðối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba đạo sĩ làm cho họ lên đường khám phá. Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Ðối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các đạo sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Ðến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các đạo sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Ðạo sĩ đã tìm gặp được Ðấng khôn ngoan.

Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Ðấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: "Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc" (Ðức Cha Bùi Tuần).

Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri...nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hêrôđê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các mục đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các đạo sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.

Ðiều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các đạo sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.

Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Ðó là một cử chỉ khiêm nhường. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Ðấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, có lẽ các đạo sĩ ghen với các Mục đồng vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.

Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Ðức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.

Các Thượng tế, các kinh sư thông hiểu Thánh kinh, họ cắt nghĩa cho Hêrôđê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Ðấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ.

Những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các đạo sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.

Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh kinh, qua Giáo hội, qua các Bí tích, qua cuộc sống hàng ngày. Ðể gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.

Lời nguyện tín hữu

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Vì tình thương, Chúa đã dùng mọi biến cố để tỏ mình cho con người, giúp con người biết được ý Chúa qua các dấu chỉ, và sẵn sàng làm theo ý Ngài. Nhờ đó, mọi người có thể đạt được ơn cứu độ. Ý thức như thế chúng ta cùng dâng lời nguyện xin :

1.“Nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi”.- Xin cho các vị Chủ chăn, biết tìm nơi kho tàng Thánh Kinh những giải đáp cho việc hướng dẫn đoàn chiên, cũng như giúp mọi người tìm đến nguồn sống thật là Đức Kitô, hầu trở nên những người loan báo cho Tin Mừng.

2. “Người sẽ giải thóat kẻ nghèo khó và cứu thoát người bất hạnh”.- Xin cho các tín hữu biết can đảm nhẫn nại trong hành trình về quê trời, để giữa muôn thử thách, họ luôn vững tin như các đạo sĩ, nhờ đó, họ luôn gặp được Đức Kitô trong mọi biến cô cuộc đời.

3. Nhờ nghiên cứu các hiện tượng thiên nhiên, các đạo sĩ đã nhận ra điềm báo sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế.- Xin Chúa chiếu soi tâm trí những người chưa biết Chúa, giúp họ khám phá ra sự hiện diện của Ngài, qua những công trình nghiên cứu khoa học nơi vũ trụ vạn vật, để họ dễ dàng tin theo Chúa.

4. “Lúc nhìn thấy ngôi sao họ hết sức vui mừng...”.- Xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta trở thành ánh sao dẫn đường đưa nhiều người về tới bến cứu độ.

Chủ tế: Lạy Chúa, xin ánh sáng Chúa chiếu soi đến những tâm hồn đang sống xa Chúa, giúp họ nhận ra chỉ mình Chúa là lẽ sống, mà tìm về tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, hầu trở nên những chi thể sống động và hữu dụng cho Tin Mừng cứu độ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô    

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin đoái nhìn lễ vật Hội Thánh Chúa tiến dâng: đây không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược, nhưng là bánh rượu tượng trưng cho Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã tự hiến tế và trở thành lương thực nuôi dưỡng chúng con. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lời tiền tụng Hiển Linh

Ca hiệp lễ    

Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở Phương Đông, và chúng tôi mang của lễ đến bái thờ Người.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con tham dự vào bí tích Thánh Thể, xin thương ban ánh sáng bởi trời hướng dẫn chúng con mọi nơi mọi lúc, để từ đây chúng con biết chiêm ngưỡng và đón nhận bí tích này với niềm tin sâu sắc là lòng mến thiết tha. Chúng con cầu xin...



Nền Hoà Bình Tuyệt Đẹp

CN I VỌNG A

  1. Hòa bình xây dựng trên nền tảng “sự tin tưởng lẫn nhau”.

Trọng tâm chuyến tông du thứ 32 của Đức Giáo Hoàng Phanxicô tới Thái Lan và Nhật Bản, chính là bài diễn văn được đợi chờ nhiều nhất trong sáng Chúa Nhật 24/11/2019 ở Nagasaki, tại “Công Viên Trung Tâm Trái Bom Nguyên Tử” (Atomic Bom Hypocenter Park), đài tưởng niệm vụ thả bom nguyên tử ngày 9/8/1945…Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố tại Nagasaki, phải dấn thân xây dựng niềm tin: “Sự tin tưởng lẫn nhau, bẻ gãy động thái của nghi kỵ đang thắng thế hiện nay”. Ngài đã viện dẫn sứ điệp của Giáo Hoàng Gioan XXIII “Pacem in Terris” để nhắc nhở rằng hòa bình chỉ được xây dựng độc nhất trên “sự tin tưởng lẫn nhau”. (x.“Một thế giới không vũ khí hạt nhân là có thể và cần thiết”-Lời khẩn thiết kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô; baigiangdtc.dk).

Bài đọc 1 trích sách Ngôn sứ Isaia: “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Gicop hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường” (Is 2,1-5).

Ngôn sứ Isaia ước mơ về một tương lai thế giới hoà bình, không còn đánh nhau, không còn chinh chiến nữa, gươm đao giáo mác trở nên liềm hái làm dụng cụ lao động. Bức tranh về một nền hoà bình tuyệt đẹp: sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm như bò (Is 65,25), trẻ con thọc tay vào hang rắn lục …

Isaia hướng nhân loại về niềm hy vọng: Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan (Is 65,17-18).

Khát vọng của Ngôn sứ Isaia cũng như của nhân loại ngàn đời là một nền hoà bình vĩnh cữu. Chính trong niềm khát vọng ấy mà Tu sĩ Hermann Schaluck, Ofm đã ước mơ đến:Trình Thuật Mới Về Công Việc Sáng Tạo :

– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách thức loài người khắp cõi trần, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, không phân biệt nòi giống, nam nữ, đang khởi công liên hệ cùng nhau cách chân tình. Các dân tộc tự chọn giữa họ những người nam nữ tốt lành nhất và gởi họ tới lâu đài trứ danh bằng kính trên hòn đảo Manhattan (Trụ sở Liên Hiệp Quốc), nơi mở cửa đón tiếp tất cả các quốc gia hoàn cầu. Tại đây, họ lắng nghe đối thoại thân mật, thông cảm lẫn nhau và khai triển những dự án cộng đồng.

Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đây là ngày đầu tiên của kỷ nguyên mới.

– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách các chiến sĩ hoà bình tách biệt các đạo quân đang lâm chiến với nhau, các tranh chấp được dàn xếp bằng lẽ phải và điều đình, chứ không phải bằng khí giới. Các nhà lãnh đạo quốc gia biết lắng nghe tiếng nói của các dân tộc, biết cùng nhau khởi sự coi trọng lợi ích toàn cầu và hoà bình thế giới kết hợp với lợi ích riêng biệt.

Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đó là ngày thứ hai của hành tinh mới.

– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách loài người bắt đầu yêu chuộng và bảo vệ thay vì khai thác tạo vật: bầu khí quyển với lớp ozon, nước sông, nước biển, trái đất và nguyên liệu cũng như tất cả những gì sinh sống và phát triển tại đó. Và Thiên Chúa cũng thấy rằng bắt đầu loài người không còn thống trị và khai thác lẫn nhau, nhưng tự coi là con một Cha duy nhất và đối xử đồng đều với nhau.

Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đó là ngày thứ ba của kỷ nguyên tư tưởng mới.

– Và Thiên Chúa thấy cách loài người khắp hoàn cầu khởi công khám phá và loại trừ các nguyên nhân gây nên đói khát, bệnh tật, dốt nát và nghèo đói bất công. Họ khởi sự san sẻ cùng nhau những gì thuộc về tất cả và vì lợi ích chung và sự sống còn của toàn cầu, họ khởi sự xem xét các khía cạnh tích cực và quan điểm chung của các dân tộc và tôn giáo.

Và Thiên Chúa phán: “Sự việc phải như vậy”. Và đó là ngày thứ tư của cuộc sáng tạo mới.

– Và Thiên Chúa thấy cách loài người, với một ý thức hoàn hảo, có trách nhiệm chứ không vì ham muốn quyền lực, khởi sự sử dụng tài nguyên thiên nhiên được giao phó cho mình, đặc biệt là chất đốt rút ra từ lòng đất và năng lượng nguyên tử. Thiên Chúa thấy cách lương tâm họ luôn thức tỉnh thúc đẩy họ tự vấn xem lại các dự án mới mà họ định nghiên cứu có thích hợp với việc phục vụ Thiên Chúa và nhân loại không. Họ từ bỏ ương ngạnh để chủ trương tế nhị, từ bỏ tham lam để chủ trương không vụ lợi, ích kỷ cá nhân và quốc gia để chủ trương tinh thần liên đới.

Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Đó là ngày thứ năm của một thế giới nhân đạo hơn.

– Và Thiên Chúa thấy cách loài người năm châu khởi sự tháo gỡ và phá bỏ các dàn phóng hoả tiễn, các kho bom đạn, vũ khí hoá học, vi trùng cũng như các vệ tinh do thám và hệ thống truy tầm, giải phóng quân đội và vì thế phổ biến trong học đường và chương trình giáo dục những mô hình sư phạm về hoà bình minh bạch và hữu hiệu đến nỗi các cuộc tranh chấp có thể được giải quyết bằng đường lối hoà bình.

Và Thiên Chúa phán: “Tất cả như thế là tốt”. Đó là ngày thứ sáu của một bầu trời mới.

– Và Thiên Chúa nhận thấy cách loài người bắt đầu tái nhận biết Ngài nơi mọi sự, Ngài, Thiên Chúa hằng yêu quý sự sống. Họ coi cuộc tranh đấu cho sự sống, cho phẩm giá và cho việc nhìn nhận quyền lợi mỗi cá nhân là một việc phụng vụ Thiên Chúa. Và mỗi lần một trong những ý thức hệ họ sụp đổ, lúc thảo lại một hiến pháp mới, họ ghi vào đó rằng: Ta đừng bao giờ quên lãng Thiên Chúa là nguồn gốc và tận cùng một thế giới công bình và nhân đạo. Và họ nhìn nhận con người được sống và được giải phóng là dấu chỉ của Thiên Chúa trong lịch sử.

Và Thiên Chúa phán: “Bây giờ, tất cả đều trở nên tốt lành”. Đó là ngày thứ bảy của việc sáng tạo hoàn cầu. Từ đây hoàn cầu đồng thuộc về nhân loại mới và Thiên Chúa.

Một nền hoà bình đích thực dẫn đưa con người đến “trời mới, đất mới” (Kh 21,1) hiệp thông với Đấng là sự Thật và là Sự Sống. Loại bỏ những việc làm đen tối (Rm 13,13), mặc lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14), nhân loại sẽ xây dựng được nền hoà bình vĩnh cửu. Niềm hy vọng một nền hòa bình vĩnh cửu gắn liền với lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại bởi lẽ: Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn. Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử. Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.

Thiên Chúa là Sự Sống, là Tình Yêu. Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm Người. Đức Giêsu Kitô chính là Tin Mừng Sự Sống và Tình Yêu.Tin Mừng cứu độ mà Đức Giêsu loan báo cho loài người là Tin Mừng Sự Sống, Tin Mừng Tình Yêu. Ngài luôn mời gọi mọi người thiện tâm chung sức kiến tạo nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương.

  1. “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”.

Trong Sứ Điệp Hòa Bình năm 2019, Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết: Hòa bình là một sự hoán cải tâm hồn, và thật dễ nhìn nhận ba chiều kích không thể tách rời nhau của thứ hòa bình nội tâm và cộng đoàn ấy:

 – Hòa bình với chính mình, từ khước thái độ khăng khăng nhất mực, giận dữ và thiếu kiên nhẫn, và như thánh Phanxicô đệ Salê đã khuyên nhủ, hãy thực thi “một chút” dịu dàng đối với bản thân, để cống hiến “một chút” dịu dàng đối với người khác.

 – Hòa bình với tha nhân: thân nhân, bạn hữu, người ngoại quốc, người nghèo, người đau khổ..; dám gặp gỡ và lắng nghe sứ điệp họ mang trong mình.

 – Hòa bình với thiên nhiên, tái khám phá sự cao cả của hồng ân Thiên Chúa và phần trách nhiệm của mỗi người chúng ta, trong tư cách là người dân của thế giới, công dân và là tác nhân xây dựng tương lai.

Mùa Vọng là mùa hoán cải tâm hồn để sẵn sàng đón Chúa đến, Ngài là Hoàng Tử Hòa Bình là Vua Bình An.

Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Vọng dặn dò mỗi người Kitô hữu là “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”.

Tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người và đối với cả nhân loại nên phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện.

Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, là không quá mê say danh, lợi, thú. Luôn tỉnh thức như khi đang lái xe, luôn nhìn trước ngó sau, tay ga vững vàng, chân thắng sẵn sàng, đi đường an toàn.Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.

Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.

Có tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời. Cầu nguyện trong tỉnh thức để luôn sẵn sàng vì không biết ngày giờ Chúa viếng thăm. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”.

Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.

Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện, chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.

Mùa vọng được khai mở với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.

Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như như sách Nho có câu : Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân (Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).

Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ. Luôn tỉnh thức và cầu nguyện để trở nên người xây dựng hòa bình như lời những bài thánh ca dâng lễ: “Với bánh rượu con dâng Ngài, nầy đây tâm tình hòa bình! … Chúa không nhận chiên bò hy tế, Ngài chỉ nhận tâm hồn thanh khiết. Chúa không ưa lễ dâng cao quý, nhưng chỉ ưa trái tim hòa bình!”

Lạy Chúa xin dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa.
 

 
CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG
HÃY SÁM HỐI
VÀ NHỎ BÉ NHƯ GIOAN ĐỂ ĐÓN CHÚA


Tin mừng Mt 3: 1-12
 

 

Mùa vọng là mùa trông đợi. Chúng ta trông đợi Chúa đến trong đêm giáng sinh. Đó là một sự trông đợi có tính cách nghi lễ nhằm kỷ niệm sinh nhật Chúa Giêsu tại Bêlem. Nhưng đồng thời mùa vọng còn là trông đợi Chúa lại đến vào ngày sau hết như lời Ngài đã hứa. Và lời rao giảng của Gioan được coi như là một lời kêu mời chúng ta tích cực chuẩn bị để bước vào thời đại mới ấy.

Trước hết ông đã rao giảng sự ăn năn hối cải vì Nước Trời đã gần đến. Những hình ảnh ông sử dụng gợi lên một cảnh tượng tiêu điều của sa mạc cát nóng, của hoang địa khô chồi cằn cỗi. Thế nhưng, người Do Thái và nhất là giai cấp lãnh đạo đã coi thường lời kêu gọi ấy. Họ nghĩ rằng mình là dân riêng của Chúa, nhưng thực ra họ chỉ là một loài rắn độc. Con rắn của ma quỷ, đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế Gioan đòi buộc họ phải sám hối ăn năn, đừng nại vào dòng dõi xác thịt. Dân riêng của Chúa trong thời đại mới được tạo nên nhờ sám hối khi lãnh nận dòng nước thanh tẩy.

Sám hối là lo buồn về điều đã vấp phạm hay hối hận vì điều mình đã không làm. Thực vậy, tâm tình sám hối không phải chỉ là việc quay trở về dĩ vãng, bằng cách ăn năn những gì đã lỗi phạm, mà hơn thế nữa còn phải hướng tới tương lai, bằng cách dốc quyết uốn nắn sửa đổi lại những sai lỗi vấp phạm ấy, để thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời. Và như vậy, sám hối đòi hỏi phải có một cái nhìn mới, một thái độ mới, một cuộc sống mới, và cốt lõi của nó bao gồm sự trở về cùng Chúa.

Trong cuộc sống thường ngày, rất nhiều lần chúng ta đã không thực hiện những điều làm vui lòng Chúa chẳng hạn như: cầu nguyện, học hỏi giáo lý, cảm thông và giúp đỡ những người chung quanh. Trái lại, chúng ta thường hay làm những điều Chúa không muốn, và chẳng bao giờ làm điều Chúa muốn cả.

Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…

Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào ‘trời mới đất mới’ mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.

Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm.

Lòng ăn năn tích cực không dừng lại trong ý thức nhìn nhận tội lỗi của mình, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ dày vò lương tâm bất bình bất ổn bất an bất toàn; hay thành một thứ hối hận theo tự điển tra ngược, là “hối thì ít mà xem ra hận lại nhiều!”. Không phải thế, lòng ăn năn tích cực là cả một tâm tình sống ơn tha thứ, sống do ơn tha thứ và cũng sống cho ơn tha thứ, có nghĩa là một sức sống được chuyển dịch một cách cụ thể qua những việc lành mọi lúc mọi nơi cho Chúa và cho anh chị em mình.

Trong phần thứ hai của trang Tin Mừng, Gioan giới thiệu Đấng đến sau ông nhưng lại quan trọng hơn ông gấp bội. Gioan tự nhận không xứng đáng làm một kẻ nô lệ hèn hạ nhất của Ngài.

Những câu hỏi đặt ra cho ông Gioan cho ta thấy dân Do thái đang chờ đợi Đấng Kitô đến trong tương lai rất gần. Nhưng với tất cả các câu hỏi: “ông có phải là Đấng Kitô?”, “ông có phải là Êlia?”  “ông có phải là một vị ngôn sứ?”, Gioan Tẩy Giả đều trả lời bằng một phủ định: “không”. Khi được yêu cầu nói về chính mình, ông chỉ nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa : hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi.” (Ga 1, 23)

Gioan Tẩy Giả chính là người kêu gọi dân hãy thay đổi cách sống cũ, hãy đón nhận phép rửa thống hối và sẵn sàng đón nhận Đấng Messia đang sống một cách kín đáo giữa họ: «có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người. » (Ga 1, 26-27)

Gioan Tẩy Giả chính là vị nhân chứng khiêm nhường, trung thực, không kheo khoang, khoác loác. Ông đã từ bỏ tất cả những danh hoa phú quí để trở nên tiếng kêu trong sa mạc, để trở nên người mở đường cho Con Thiên Chúa đến.

Gioan sống đẹp khi được dân chúng ngưỡng mộ, xem mình như một ngôn sứ cao cả, thì Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cởi quai dép cho (Ga 1, 27), để cho đám đông thôi ngưỡng mộ Gioan mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giê-su.

Thánh Gioan làm cho mình nhỏ bé lại, để cho Chúa lớn cao hơn. Thánh Gioan thực hiện khi nói: tôi cần phải nhỏ đi, mà Chúa cần phải lớn lên. Nghĩa là Gioan phải bỏ mình, phải chịu thiệt thòi, để Chúa được vinh danh hơn. Gioan đã vui lòng mất hai môn đệ, để Anrê và Gioan theo Chúa.

Noi theo và sống gương của Thánh Gioan Tẩy Giả, ta hãy trở nên những ngôn sứ cho thời đại hôm nay, hãy là người dọn đường khiêm hạ cho nhiều người đến gặp Chúa. Ước mong mỗi người chúng ta biết mở rộng lòng để đón nhận niềm vui và trở nên những chứng nhân của niềm vui, của niềm hy vọng về Đấng sẽ đến trong vinh quang. Hãy vui lên vì Chúa sắp đến gần!


 

Chúa Nhật III Mùa Vọng – Năm A

Cập nhật lúc 08:12 09/12/2016
Suy Niệm I
Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi phải đợi Đấng nào khác?
------------------------
 
Qua câu nói này trong bài tin mừng hôm nay, Gioan Tẩy Giả do dự và bối rối. Liệu ông có sai lầm không? Ông tin rằng Đấng Mesia đến như một quan án nghiêm nghi và công minh thưởng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại viếng thăm người thu thuế và tội lỗi, chữa lành bệnh nhân, công bố “phúc cho những ai hiền lành và xây dựng bình an”. Chúa Giêsu còn nói: “không được xét đoán người khác và phải yêu mến kẻ thù”. Gioan bắt đầu có một số điều nghi ngờ về căn tính của Chúa Giêsu và vì thế ông sai đồ đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác”? ( Mt 11, 3).
Chúa Giêsu trả lời: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta” (Mt 11, 4-6)
Qua câu nói này, chúng ta thấy Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa trả thù và chiến thắng, nhưng là Thiên Chúa tốt lành đối với những ai đau khổ, mù lòa, tàn tật, phong cùi, điếc lác, thu thuế và tội lỗi. Vì biết rằng Đấng Mêsia như vậy không phù hợp với lòng mong đợi của dân tộc Dothái, nên Chúa Giêsu nói thêm: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Nếu đem so sánh, chúng ta thấy bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe rất phù hợp với bài đọc I của tiên tri Isaia: “ Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: hãy can đảm lên, đừng sợ hãi. Đây Thiên Chúa các ngươi sẽ đến và cứu độ các ngươi…Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy và tai những người điếc sẽ được nghe, người què sẽ nhảy như nai..”( Is 35, 3-6a).
Tại nguyện đường Nagiaret, Chúa Giêsu còn sử dụng một bài đọc khác của tiên tri Isaia để giới thiệu cho chúng ta biết Ngài là Đấng Mêsia Cứu Độ: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo tin mừng cho người nghèo khó. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”.
Cách mô tả này về Đấng Mêsia cứu độ cũng được Gioan tông đồ lặp lại trong Sách Khải Huyền: “Tôi nghe từ phía ngai có tiếng kêu to: Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. họ sẽ là Dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất”. Thiên Chúa hoạt động khi một hành động tốt lành hướng tới những người đau khổ, những người nghèo, những người bị xã hội bỏ rơi..
Chúa Giêsu đến đem bình an và khẳng định rằng sự cứu độ thế giới xuất hiện mỗi khi sự dữ lùi bước. Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô không phải là Thiên Chúa chiến thắng và báo thù, nhưng là Thiên Chúa cảm thông và yêu thương.
Trong đời sống đức tin, đôi lúc chúng ta cũng giống như Gioan khó phân biệt được Sự Thật luôn được trình bày một cách mới mẻ. Chúng ta thường quên rằng Thiên Chúa luôn luôn trẻ trung từ đời đời và cho đến muôn đời. Ngài tạo dựng từ cái không trở nên có, cái cũ trở nên cái mới. Công đồng chung Vaticano II được gọi là công đồng đổi mới. Công đồng này cũng va phải bức tường của một số người chưa hiểu biết được cái mới giống như Chúa Giêsu trong bài tin mừng hôm nay va phải bức tường của đồ đệ Gioan và cả Gioan nữa.
Ngày nay chúng ta đang phải đối diện với nhiều giáo phái lẫn lộn giữa thật và giả. Các giáo phái này sợ thực hành tự do mà Thiên Chúa đã ban miễn phí cho chúng ta. Chúng ta hãy nhớ rằng SỰ THẬT thì chỉ có MỘT và chúng ta chỉ tìm được sự thật đó trong Lời của Thiên Chúa và trong tình yêu mến. Nếu chúng ta còn nghi ngờ gì về đức tin, thì ít ra là hãy bắt chước đồ đệ của Gioan, hãy đến với Nguồn Mạch, Lời Chúa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần… Tất cả là ở đó.
Ở đó Chúa Giêsu nói với chúng ta tất cả những gì mà các tiên tri đã loan báo nay đã được thực hiện. Chúng ta cứ đến với nguồn mạch của Lời Chúa. Nhờ nguồn mạch của Lời Chúa và đặc biệt là Tin Mừng, chúng ta biết giới răn quan trọng nhất đó là Tình Yêu…Ở đó chúng ta sẽ đi theo quỹ đạo của Thánh Ý Thiên Chúa.
Vì thế, ngay cả việc rao giảng, chúng ta cũng phải trở về nguồn của Tin Mừng, chứ không phải là những tư tưởng cá nhân chúng ta, mà là những tư tưởng của Thiên Chúa. Loan báo Tin Mừng thì phải rao giảng điều mà đã viết trong Tin Mừng: “Thiên Chúa đầy lòng từ bi và nhân hậu, Ngài là Đấng không làm cho ai phải lo sợ, Ngài là một Thiên Chúa gần gũi với chúng ta biết những nối vui mừng, thành công, thất bại, khó nhọc và đau khổ của chúng ta, Ngài đồng hành với chúng ta trên khắp nẻo đường cuộc đời chúng ta”.
Chúng ta tìm lại được Đấng Mêsia nhập thể tại hang đá Belem. Chúa Giêsu, hài nhi hoàn toàn bé bỏng và yếu ớt, hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ và những người xung quanh. Dân tộc Dothái và một số người thời đại chúng ta mong đợi Ngài mạnh mẽ, quyền lực và thắng trận…Nhưng Ngài lại đi vào thế giới một cách ẩn dấu như một người không giấy tờ, một người nhập cư không hợp pháp: “không có chỗ cho Người trú ngụ”. Những người viếng thăm Ngài đầu tiên là những người chăn chiên nghèo. Ngài chết giữa hai têm trộm. Đó là Đấng Mêsia cứu độ mà Thiên Chúa đã chọn lựa.
Vì thế Gioan Tẩy giả đã có những nghi ngờ: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?” ( Mt 11, 3).
Trong thời gian chuẩn bị cho ngày Đại lễ Giáng Sinh, Chúa Kitô mời gọi chúng ta hãy nhận ra Ngài bé bỏng, nghèo khó và đơn hèn trong máng cỏ Belem. Như Ngài, chúng ta hãy đến gần tất cả những anh chị em đang đau khổ: mù lòa, tàn tật, ốm đau, cô đơn và đang bị bỏ rơi.
Hãy mở chân trời và con tim chúng ta ra, đừng quá chú trọng về những thiệp chúc mừng và món quà Noel. Trong những ngày này, những người có trách nhiệm nhất là cha mẹ, phụ huynh của các em thiếu nhi và nhi đồng, hãy giáo dục con em mình đừng chỉ nghĩ đến những món quà mà chúng nhận được mà còn phải nghĩ đến những món quà mà chúng cần cho đi. Có rất nhiều món quà chúng ta phải cho đi, cho những người cần đến chúng ta. Đó là những anh chị em đang đau khổ: mù lòa, tàn tật, ốm đau, cô đơn và đang bị bỏ rơi.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con khao khát tình yêu, công lý và bình an...Chính Chúa đến đem ơn cứu độ. Chúa đến với người nghèo và người bé mọn. Chúa đến với những ai đau khổ nơi thân xác cũng như nơi con tim. Chúa đến với tất cả những ai cần đến Chúa.
Ôi lạy Chúa, con tim chúng con nhảy mừng vì Chúa loan báo Tin Mừng cho chúng con. Chúa không dành ưu tiên Tin Mừng đó cho một thành phần ưu tú nào. Chúa đã không đợi chờ chúng con phải hoàn thiện thì Chúa mới ban ân huệ sự sống cho chúng con.
Xin ban cho chúng con con tim nghèo khó để chúng con biết đón nhận Chúa. Chúa đã trở nên nghèo giữa những người nghèo. Chúa đã trở nên trẻ thơ để cảm nghiệm những yếu đuối của chúng con. Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường thật trong lòng, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa.
Nếu mỗi người chúng con biết cố gắng liên đới với những người đau khổ bằng một chút tình yêu và tâm tình trìu mến, thì Noel sẽ có một ý nghĩa đích thực trong đời sống họ cũng như đời sống chúng con. Lúc đó, chúng con sẽ không còn nghi ngờ về Chúa nữa và chắc chắn chúng con sẽ nói với Chúa: “Lạy Chúa Kitô, chính Chúa là Đấng phải đến và chúng con không trông đợi Đấng nào khác nữa”.
 

=================
Suy Niệm II
Anh em hãy vui lên
(Mt 11, 2-11)
 
Bước vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta: “Hãy tỉnh thức” (Mt 24, 44). Sang Chúa nhật thứ II, tiếng hô lớn của Gioan Tẩy Giả vọng vang: “Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến”. Chúa nhật thứ III hôm nay, Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng như Chúa nhật IV Mùa Chay, đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng được đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete” Hãy vui lên.
Vui lên, vì theo tiên tri Ôsê loan báo: “Với Ítraen Đức Giêsu sẽ như làn sương mai làm nó vươn lên như bông huệ ” (Os 14, 6). Chúng ta tỉnh thức, làm việc lành chứng tỏ lòng thống hối nhưng không buồn rầu, trái lại vui tươi “anh em hãy vui luôn trong Chúa…vì Chúa đã gần đến”  (Ph 4,4-5). Với những lời trên của thánh Phaolô Tông Đồ làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên. Niềm vui này nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với con người sinh động là Chúa Giêsu.
“Gaudete” là chủ đề của Chúa nhật này; “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên!” (Ph 4,4-5). Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề”.
Chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ: “Các tầng trời, hãy trổ hoa công chính, và ngàn mây hãy mưa ơn cứu độ! Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao! Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Giêrusalem, hãy mạnh dạn cất tiếng! Hãy cất tiếng cao đừng sợ, hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Đây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực” (Is 40, 9).
Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (Is 35, 4) Và làm sao không thể không mừng khi “nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nẩy chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is 35, 1). Lại nữa: “Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa” (Is 35, 6).
Đọc trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp một nhân vật có vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị đón Chúa Giêsu giáng sinh đến với nhân loại là Gioan Tẩy Giả. Ngài xuất hiện trong tư cách là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Ngài được các tiên tri báo trước: “Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, người sẽ dọn đường cho con đi ” (Mt 11, 10). Chúng ta đang vui sẵn, sự xuất hiện của ngài làm cho chúng ta vui thêm, vì lời hứa đã trở thành hiện thực. Việc ngài sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu có phải là Đấng phải đến không cho chúng ta câu trả lời đầy niềm vui vì Chúa đã đến thật rồi.
 “Gaudete” Hãy vui lên, chúng ta lặp lại lời thánh Phaolô lần nữa: “Anh em hãy vui lên!”  (Ph 4,4). Niềm vui chân thực không phải là kết quả sự vui chơi giải trí, nhưng gắn liền với một cái gì sâu xa hơn, đó là quan hệ với Thiên Chúa. Ai đã gặp được Chúa Kitô trong cuộc đời, người ấy sẽ cảm nghiệm sự thanh thản và niềm vui trong tâm hồn mà không một ai hoặc hoàn cảnh nào có thể tước mất. Thánh Augustinô đã hiểu điều đó rất rõ. Trong cuộc tìm kiếm của ngài đối với chân lý, an bình và mừng vui, sau khi đã kiếm tìm trong nhiều sự mà không có kết quả, thánh nhân đã kết luận với câu thời danh rằng: “Tâm hồn bất an của con người chỉ tìm được thanh thản và an bình cho đến khi được an nghỉ trong Chúa” ( Le Confessioni, I,1,1). Niềm vui đích thực không phải chỉ là một tâm trạng chóng qua, cũng chẳng phải là điều ta đạt tới bằng sức riêng của mình, nhưng là một hồng ân, nảy sinh từ sự kiện ta dành chỗ cho Chúa trong chúng ta. Trong Mùa Vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và tiếp tục đổi mới sự hiện diện an ủi, yêu thương và vui mừng của Ngài. Chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô cũng đã quả quyết, do kinh nghiệm của ngài: “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).
Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.


 
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG A

Tin Mừng Luca nói đến việc truyền tin cho Đức Mẹ. Tin mừng Matthêu kể câu chuyện truyền tin cho Giuse.
 
“Bà Maria, mẹ của Đức Giêsu, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”... Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” (Mt 1,18 – 21.24).

Sứ thần Chúa đến báo tin cho Giuse biết, thai nhi nơi người vợ chưa cùng ông chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi ông cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình.Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Ông đón lấy những mầu nhiệm mà ông không hiểu hết.

Tin mừng giới thiệu về những đóng góp của Thánh Giuse vào công trình Nhập Thể. Với sự quảng đại, Thánh Giuse đã bỏ dự định của mình để thi hành chương trình của Thiên Chúa. Đó là cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Vua Đavit. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ thời Cựu Ước. Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu, nhận Ngài  là con mình theo pháp lý. Từ nay Giuse bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu. Isaia loan báo: “Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Is 7,14). Lời ngôn sứ có một tầm quan trọng trong nhiệm cục cứu rỗi. Lời đó khẳng định "chính Thiên Chúa" sẽ ban cho Đavid một người thuộc dòng dõi, như là "dấu chứng" lòng trung tín của Người. Lời hứa này đã thực hiện với sự sinh ra Chúa Giêsu bởi Đức Trinh nữ Maria. Giuse đựơc vinh dự tham gia vào nhiệm cục cứu rỗi đó.

Đức Giêsu Kitô là Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Người là Đấng Cứu Độ, Đấng đến giải thoát và ban bình an cho dân Chúa. Nhưng qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Thiên Chúa đã gây một cú sốc quá lớn cho Thánh Giuse. Khi biết Maria bỗng dưng có thai, Giuse đau khổ, âm thầm mang lấy nổi đau riêng mình. Là người công chính nên Giuse luôn lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì thế mà ngài trở nên Thánh Cả và là mẫu gương cho mọi tín hữu.

1. Mẫu gương đức tin, công chính và cầu nguyện.

Thánh Giuse, con người đức tin, công chính và cầu nguyện. Đức tin liên kết với sự công chính và sự cầu nguyện, đó là thái độ xứng hợp để gặp “Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

Tự thâm sâu, tình yêu của Giuse vẫn trổi vượt. Giuse không hề quay lại bản thân mình để cảm thấy bị lừa dối xúc phạm, nhưng chỉ hướng về Maria để tiếp tục tin rằng vị hôn thê của mình vẫn thật sự trong sạch vẹn tuyền. Không hề tra hỏi Maria một lời nào, Giuse chỉ im lặng ôm lấy phiền muộn, một cõi riêng tư.

Vì yêu Maria nên Giuse không muốn làm hại bạn mình. Ngài đã chọn con đường rút lui trong âm thầm, một giải pháp thua thiệt cho bản thân vì sẽ mang tiếng là “sở khanh”. Một quyết định can đảm nói lên tình yêu và tấm lòng quảng đại của Ngài. Giuse đúng thật là người công chính. Nơi Thánh Giuse, "sự công chính nội tâm" trùng với "tình yêu". Tình yêu dâng hiến luôn hướng về người khác, sẵn sàng hy sinh để làm người mình yêu có giá trị hơn và đựơc hạnh phúc hơn. Chấp nhận chịu thiệt thòi để người yêu được thuận lợi, chấp nhận đau khổ để người mình yêu hạnh phúc. Sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho người mình yêu khi có lầm lỗi. Giuse đã yêu Maria bằng tình yêu dâng hiến như thế.

Giuse là một người mở lòng đón nghe Lời Chúa trong cầu nguyện. Thiên thần giải thích cho Giuse biết "người sinh bởi Đức Maria là do Chúa Thánh Thần", theo lời ngôn sứ phán xưa: "Này đây: Trinh nữ sẽ thụ thai", và Giuse sẵn sàng tiếp nhận những ý định của Chúa, những ý định vượt quá những giới hạn của loài người.

Giuse như là một con người đích thực sống đức tin. Đức tin liên kết với sự công chính và cầu nguyện, đó là thái độ phù hợp để gặp Đấng Emmanuel. Tin có nghĩa là sống trong lịch sử mở lòng đón nhận sáng kiến của Thiên Chúa, đón nhận sức mạnh sáng tạo của lời Người.

2. Mẫu gương luôn vâng theo thánh ý Chúa.

Thánh Giuse là người công chính như Kinh Thánh đã khen tặng. Trong suốt cuộc đời Giuse hằng luôn vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25; 2,13-23; Lc 2,1-7.22).

Thánh ý Chúa, được sứ thần truyền đạt đến cho thánh Giuse, vừa xoá tan mọi nghi ngờ đang dằn vặt ngài vừa mạc khải cho ngài về lai lịch và sứ mạng của thai nhi đang được cưu mang. Đó là Đấng Thánh vì được thụ thai do quyền năng của Thiên Chúa. Đó cũng là Đấng sẽ giải phóng dân tộc của ngài khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Sứ thần xác nhận Maria mang thai do Chúa Thánh Thần và bảo ông đừng rút lui mà hãy đưa Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng. Giuse sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Người. Dự tính muốn ra đi âm thầm không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự Maria thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thụt lại vì kinh kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến gần bụi gai đang cháy rực (St 3,5), tựa như Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh (Is 6,5), tựa như ông Simon sau khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng (Lc 5,8). Giuse được biết là Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui. Để cũng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng, cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ {mầu nhiệm}, quyết định rời bỏ bà cách kín đáo. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy lạp) tự nó chỉ có nghĩa là thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse đựơc bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này. (x.Lm Phan tấn Thành, Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội thánh).

Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai, và Ngài đã cùng bạn mình là Đức Maria, thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan, cả về vật chất lẫn tinh thần.

Người Công Chính Giuse suốt cuộc đời luôn luôn thức tỉnh trước thánh ý Thiên Chúa, thức tỉnh ngay cả trong giấc ngủ.

Ở Bêlem: “Sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi !” Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.” (Mt 2, 13 – 14) .

Ở Aicập: “Sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Aicập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi. ”Ông liền chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ítraen.” (Mt 2, 19 – 21)

Ở Giuđê: “Vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông Giuse sợ, không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét.” (Mt 2, 22 – 23).

Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.

Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời.

Hãy “học trường” Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác.


 


LỄ GIÁNG SINH - NGƯỜI KHÁCH LẠ
Tin mừng Lc 2: 15-20
Giáng Sinh đang về khắp muôn lối. Noel gõ cửa từng nhà. Lung linh ánh đèn, rực rỡ sắc màu, nhộn nhịp thanh âm, chan hòa niềm vui. Nhạc Giáng Sinh rộn ràng ngân vang mùa bình an. 

Nhạc sĩ Thông Vi Vu (ĐGM Giuse Vũ Duy Thống) đã viết hơn 30 ca khúc kể chuyện Giáng Sinh. Những đêm nhạc “Réo Rắt Noel” - “Rộn Ràng Noel”- “Rộn Rã Noel”… đã được tổ chức đó đây vào Mùa Noel. Các đĩa nhạc “Réo Rắt Noel” - “Rộn Ràng Noel” đã được quần chúng đón nhận với tất cả lòng mến yêu ngưỡng mộ. Những ngày này, đi đâu cũng nghe âm vang những bài ca Giáng sinh, khi cầu nguyện thiết tha, lúc réo rắt câu chuyện kể, khi rộn rã niềm vui.
 
Tôi rất tâm đắc ca khúc “Người khách lạ”. Ns Thông Vi Vu đã dệt nhạc từ câu chuyện giàu ý nghĩa giáo lý và lịch sử cứu độ. Kể chuyện Thánh Kinh bằng ngôn ngữ âm nhạc là một cung cách chuyển tải Tin mừng vào cuộc đời. Gần gũi dễ hiểu, ai cũng có thể nghe và hát ngâm nga bất cứ ở đâu và lúc nào. “ Người khách lạ” là một ca khúc sâu lắng dệt trên âm giai rê thứ như lời tự sự về nổi lòng của Eva. Giai điệu dìu dặt kể về gánh nặng Nguyên Tổ đã trở nên nhẹ nhàng khi “Người khách lạ” đến Máng Cỏ gặp Chúa Hài Nhi, dâng trao quả táo năm xưa thưở địa đàng. Một quả táo cám dỗ, đau khổ và sự chết tràn vào thế gian. Giờ đây dâng cho Hài Nhi, Đấng xóa tội thế trần, Eva hạnh phúc, đứng thẳng lên lòng ngập tràn niềm vui.
 
“ Người khách lạ” được phổ nhạc từ câu chuyện “Người Khách Cuối Cùng” của Jérôme và Jean Tharaud thuộc Hàn lâm viện Pháp (Trích tuyển tập:Những mẫu chuyện Giáng Sinh của các tác giả lừng danh trên thế giới).

Câu chuyện xảy ra tại Bêlem vào lúc hừng đông. Ngôi sao vừa lặn, người hành hương cuối cùng đã rời chuồng bò, Người Trinh Nữ đã vun rơm lại, cuối cùng rồi Hài nhi cũng sắp ngủ. Nhưng một đêm Giáng Sinh thì có ngủ được chăng?…

Cánh cửa nhè nhẹ hé ra, cứ như là do gió thổi hơn là do một bàn tay đẩy ra, một bà lão xuất hiện nơi ngưỡng cửa, ăn mặc rách rưới; bà già nua và nhăn nheo đến độ miệng bà giống như một lằn nhăn thêm vào bao nét chằng chịt trên gương mặt bà.

Nhìn thấy bà, cô Maria hoảng sợ, như có một yêu tinh nào đó bước vào. May thay, Hài nhi Giêsu vẫn ngủ ! Bò lừa nhai rơm trong bình yên và nhìn người lạ bước vào mà không hề ngạc nhiên gì, cứ như là chúng biết bà từ lâu lắm rồi. Trinh Nữ nhìn bà chằm chặp. Mỗi bước bà đi như kéo dài hàng thế kỷ.

Bà lão tiếp tục bước đến, và giờ đây đã ở cạnh máng cỏ. Đội ơn Chúa, Hài Nhi Giêsu vẫn ngủ. Nhưng một đêm Giáng Sinh thì có ngủ được chăng?…

Bất giác, cậu mở mắt ra, và người mẹ nhận ra rằng mắt của người phụ nữ và mắt của con mình giống hệt nhau và long lên cùng một niềm hy vọng.

Thế rồi bà lão cúi mình xuống lớp rơm; bà đưa tay lục lọi trong bộ đồ rách bươm của mình một vật gì mà dường như hàng thế kỷ bà mới tìm ra. Cô Maria vẫn lo lắng dõi mắt nhìn theo. Mấy con thú cũng đưa mắt nhìn, nhưng vẫn không ngạc nhiên gì, cứ như là chúng biết trước chuyện gì sắp xảy ra.

Cuối cùng, sau một thời gian thật lâu, bà lão rút ra từ lớp áo mình một vật bà giấu kín trong bàn tay và bà trao cho Hài Nhi.

Sau những vàng bạc của Ba Vua và của lễ các mục đồng, giờ đây Chúa nhận được quà gì? Từ nơi cô Maria đứng, cô không thể nhìn thấy món quà ấy. Cô chỉ thấy chiếc lưng vốn còng xuống vì tuổi tác càng còng thêm khi nghiêng mình bên nôi Hài Nhi. Bò lừa thì nhìn thấy, nhưng chúng cũng chẳng hề ngạc nhiên.

Việc này cũng kéo dài lâu thật lâu. Rồi bà lão thẳng người lên, như thể đã trút được gánh thật nặng kéo gập người bà xuống sát đất. Lưng bà không còn còng nữa, đầu bà gần chạm đến mái tranh, gương mặt bà đã trở lại nét tươi trẻ. Khi bà rời chiếc nôi để đi về phía cửa rồi biến đi trong đêm tối, nơi bà đã đến, bấy giờ Maria mới nhìn thấy quà dâng của bà.

Eva (vì bà là bà Eva) vừa trao cho Hài Nhi một quả táo, cái quả táo gây nên tội lỗi đầu tiên (và kéo theo bao tội lỗi khác!). Và quả táo đỏ lấp lánh trên đôi tay của Hài Nhi như quả địa cầu vừa ra đời cùng lúc với cậu.
 
Câu chuyện được chuyển thể âm nhạc thành bài ca tuyệt đẹp gợi những suy niệm về mầu nhiệm Giáng Sinh.
 
     Tin mừng Lc 2,1-20, kể lại một câu chuyện tầm thường nhất nhưng cũng là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.
 
Một biến cố tầm thường nhất:

Một gia đình nghèo khổ không tìm ra chỗ trọ trong lữ quán. Số người Do thái trở về Giêrusalem để làm sổ khai sinh quá đông. Hai ông bà Giuse, Maria không có tiền để vào khách sạn, vào các nhà nghỉ đắt tiền. Các quán trọ đã hết chỗ. Mùa tăng giá và bắt chẹt khách hàng. Tăng giá để loại trừ người nghèo. Ở đó không có chỗ trống cho tình người. Hai ông bà đành phải qua đêm ngoài đồng hoang tại Bêlem, trong một hang đá nơi dành riêng cho chiên bò nghỉ ngơi. Đêm đông hôm ấy trong cảnh sương tuyết gió lạnh, Maria đã hạ sinh một con trai. Bà đặt con trẻ trong máng cỏ. Bạn hữu thân nhân chẳng có ai. Chỉ có vài mục đồng đến thăm viếng. Sự kiện chỉ có thế. Thật đơn giản.
 
Một biến cố vĩ đại nhất.

    Thế nhưng, em bé ra đời trong cảnh nghèo hèn đó lại là một vị Thiên Sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần, trước công nguyên và sau công nguyên, trước và sau ngày giáng sinh của Ngài. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía. Thiên Chúa đã chọn làm một người nghèo, sinh ra trong một gia đình nghèo chứ không phải quyền quý giàu sang.

Bởi vậy, biến cố Giáng sinh hôm nay bên ngoài xem ra thật tầm thường nhưng lại là một biến cố vĩ đại. Quá vĩ đại đến nổi nhiều người đã không tin. Ngay trong số những người tin có Thiên Chúa cũng đã có người không dám nghĩ rằng Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Tin vào một Thiên Chúa là Đấng thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều tin nhận; nhưng tin vào một Thiên Chúa nhập thể làm người, chấp nhận thân phận con người thì còn rất nhiều tranh luận. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường như được cưu mang, được sinh ra? “Một sự kiện táo bạo, táo bạo đến độ sững sờ sợ hãi,chẳng phải vì khó tin giật gân cho bằng vì không dám tin vào điều vượt tầm quan niệm.Thiên Chúa Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được,Thiên Chúa Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình,và Thiên Chúa Đấng cứu độ trước đây chỉ muốn bày tỏ với con người khốn khổ qua trung gian của các thụ tạo được tuyển chọn,giờ đây lại ngõ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nắm trong máng cỏ.Quả là sự kiện táo bạo”. (x. CG và DT số 1437, ĐGM Vũ Duy Thống).
 
Vậy mà Giáo hội chúng ta suốt hơn 2000 năm qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc vào Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Và để khẳng định niềm tin vào một Thiên Chúa nhập thể ấy, trong phụng vụ lễ Giáng Sinh khi đọc Tin mừng Gioan 1,14: “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” thì mọi người đều quỳ gối; và trong Lễ Truyền Tin khi đọc Kinh Tin Kính, mọi người cũng quỳ gối khi đọc câu : “Người đã nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người”.
 
Vậy chúng ta tự hỏi: Niềm tin vào Thiên Chúa làm người mang lại cho chúng ta, cho nhân loại điều gì?

Ngôn sứ Isaia từ ngàn xưa đã nhìn thấy việc Hài Nhi sinh ra cho ta đêm nay như là một luồng ánh sáng mở mắt nhân loại đang bước đi trong bóng tối sự chết.

Nhìn vào xã hội Việt Nam, nhìn ra thế giới, ta thấy bóng tối của sự chết, chiến tranh hận thù đang đe dọa sự sống con người.

- Bão lụt Miền Trung, thiên tai nhân tai đã gây nên biết bao thiệt hại tài sản, nhân mạng, môi trường, nhiều gia đình mất nhà mất cửa, thiếu thốn lương thực…

- Tội ác gia tăng đến mức báo động, sự xuống cấp của đạo đức xã hội nạn tham nhũng đã thành phổ biến, xì ke ma tuý len lỏi vào các trường học. (x.Vài suy nghĩ về tình trạng suy đồi đạo đức xã hội hiện nay, Nguyệt san CG và DT số 107). Nạn phá thai đến mức báo động như lời vị nữ bác sĩ giám đốc bệnh viện phụ sản Từ Dũ: “TP.HCM: tỷ lệ nạo phá thai cao nhất nước !” ( x.Ephata 144). Trong hai thập niên vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế, có nhiều điều đáng lo ngại cho tiền đồ của dân tộc. Nạn phá thai, ly dị, ma túy, mãi dâm, sự gia tăng cách biệt giầu nghèo, tình trạng bất công, bóc lột, tham nhũng, tàn phá môi sinh… tất cả đang có chiều hướng gia tăng và là những dấu hiệu cụ thể của “nền văn hóa sự chết”. (Sứ điệp Đại Hội Dân Chúa 2010, số 6). 

-  Hơn hai mươi thế kỷ qua, chiến tranh luôn diễn ra khắp nơi. Chưa một ngày nào thế giới hoàn toàn im tiếng súng. Hết chiến tranh thế giới lần I đến chiến tranh thế giới lần II. Hết chiến tranh giữa hai khối tư bản và chủ nghĩa xã hội đến chiến tranh diệt chủng ở Ruanđa. Chiến tranh giữa Israel và Palestin, chiến tranh Bosnia và Sesbia. Cuộc chiến Afganittan rồi Irắc. Xung đột bán đảo Triều Tiên. Khủng bố toàn cầu hiện nay gieo rắc chết chóc sợ hãi…
 
Những cảnh tượng chết chóc đau thương của thiên tai, của chiến tranh làm chúng ta nhớ đến Chúa Giêsu xuống thế làm người đêm nay. Đêm mà Thánh Gia đã phải sống kiếp bơ vơ không nhà, không cửa. Trẻ thơ Giêsu đã phải nếm mùi giá rét của mùa đông khắc nghiệt. Mùa giáng sinh năm ấy, Bêlem loang máu trẻ thơ vô tội, thành Rama vang tiếng khóc của trẻ thơ mới chào đời.
 
Mọi cố gắng xây dựng hoà bình của con người, của các tổ chức quốc tế đều không thể dập tắt hận thù và chiến tranh.
Chỉ khi nào tước bỏ khỏi lòng người sự thù hận, tham lam, kiêu căng thì mới có hòa bình. Tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush (tổng thống bố) đã tặng cho chủ tịch Liên Xô Gorbachov một viên gạch trơ trụi, không một lời ghi khắc trên đó, ngay sau cuộc họp thượng đỉnh cuối năm 1989 tại đảo Malta.

- Sao lại là một viên gạch chứ? không phải là một món quà sang trọng? - Nhiều người tự hỏi.

- Nó là một viên gạch nhưng khác với tất cả mọi viên gạch, vì ông ta lấy nó từ bức tường ô nhục Bá Linh sau khi bức tường sụp đổ.

Là gạch, là đá nhưng nó nói lên nhiều điều quá. Nó nói lên khát vọng sâu lắng của tâm tư: khát vọng hoà bình. Quà trơ trụi, nhưng lòng thì tràn ngập yêu thương. Nó là tiếng vọng công lý của những ai yêu chuộng hoà bình. Gói ghém trong mớ đất sét đã nung thành gạch ấy là tâm tình của những người có tâm hồn không còn khô như gạch, không còn cứng như đá, nhưng đong đầy cảm thông. Đã có một thời, nó là phần tử của bức tường ngạo nghễ vươn cao ngăn cách lòng người. Nay nó sụp xuống dưới đáy cuộc đời để mở lối cho hoà bình bước tới. Rồi người ta dùng nó để trao nhau tâm tình hoà bình. (Đỗ Thảo Nam SJ).

Chỉ khi nào con người nhận ra người khác là anh em con một Cha thì nhân loại mới hết hận thù ghen ghét, không còn chiến tranh giết chóc.
 
Chính Chúa Giêsu đến thế gian để thực hiện điều đó. Ngài đem hoà bình cho nhân loại. Ngài đến để tước bỏ khỏi lòng người sự thù hận. Ngài tỏ cho nhân loại biết: tất cả anh em là con cùng một Cha, Thiên Chúa nhân lành. Giáo lý quan trọng nhất của Chúa Giêsu là dạy cho mọi người biết Thiên Chúa là người Cha rất yêu thương và tất cả nhân loại là con cái của Người và là anh chị em ruột thịt với nhau. Chỉ có giáo lý cao đẹp này, chỉ có Tin mừng này mới giải thoát nhân loại khỏi chiến tranh để xây dựng hoà bình.
 
 Sự sa ngã của người phụ nữ già nua còng lưng Eva đã làm cho tội lỗi vào trần thế gây nên hận thù và sự chết chảy dài trong lịch sử nhân loại. Đêm nay, Con Thiên Chúa làm người, Bà lão Eva đã dâng quả táo, quả địa cầu rực nóng cho Hài Nhi.Giờ đây Bà thanh thản, lưng đứng thẳng, nét mặt tươi trẻ lại vì đã trút được gánh nặng của năm tháng hối hận chồng chất đè nặng. Quả địa cầu lấp lánh tình thương và hoà bình trên tay Hài Nhi mở ra viễn ảnh an hoà cho nhân loại.
 
Trong đêm hồng phúc này, bên Hài Nhi trong máng cỏ. Chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên thế giới được đón nhận giáo lý cao đẹp của Chúa Giêsu. Đó là Tin Mừng dẫn đường soi lối cho nhân loại xây dựng hoà bình trên công lý và tình yêu, cùng nhau kiến tạo nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương.

Bên máng cỏ, nhìn ngắm Đức Mẹ và Thánh Giuse chăm chút nâng niu con trẻ vừa hạ sinh, chúng ta cầu nguyện cho các bậc cha mẹ trong trọng trách nuôi dưỡng dạy dỗ và bảo vệ con cái. Cách riêng trong năm mục vụ gia đình “Đồng hành với các bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân”, xin cho các bạn trẻ biết chiêm ngưỡng tình yêu từ máng cỏ để đón nhận hành trang xứng đáng cho quyết định quan trọng nhất của đời mình.
 
Lạy Chúa Giêsu Hài Nhi, xin cho con mỗi lần dừng lại bên máng cỏ trong mỗi mùa Noel, con cũng biết dừng lại bên máng cỏ nơi chính lòng mình, để cảm nghiệm rằng có một Đấng yêu thương đang cư ngụ trong con. Xin cho đời con cũng là một mùa Giáng Sinh liên lỉ, đón Chúa và đem Chúa đến với anh em trong bình an và ơn thánh. Amen.


 

CÁC BÀI SUY NIỆM
LỄ ĐÊM - RẠNG ĐÔNG - AN NGÀY GIÁNG SINH

Cách đây hai ngàn bảy trăm năm, có một người được Thiên Chúa ban cho ơn đặc biệt, đó là tiên tri Isaia, ông hướng về tương lai của nhân loại mà thần của Thiên Chúa đã hé mở cho ông, ông nói những lời mà chúng ta vừa được nghe lại.

Kể từ ngày đó, nhân loại đợi trông Con trẻ đã được tiên báo ra đời. Rồi người ta thấy một Người có những điểm rất kì diệu xuất hiện.

Ngài là Con Trời nhưng lại chịu làm con một người thợ mộc tầm thường. Dầu sống bình thường, nhưng tuổi thơ ấu của Ngài làm cho vị Vua Hêrôđê đầy kiêu ngạo và gian ác phải khiếp sợ. Ngài  là Đấng Tạo Hóa quyền năng, nhưng gặp nhiều hiểm nguy có liên hệ đến tính mạng nên cha mẹ Ngài đã phải ẵm Ngài đi tị nạn.

Ngài là Đấng giàu có tột đỉnh trong nước trời, nhưng lại chịu trở nên nghèo nàn vô cùng trên trái đất. Ngài nghèo đến nỗi, khi sinh ra, không có chỗ đặt lưng. Phải nằm nhờ trên một máng cỏ trong hang chứa súc vật của một người không quen biết. Ngài không có tiền đến nỗi phải bảo một môn đi câu để tìm một đồng bạc nơi miệng cá để đóng thuế. Muốn đãi toàn dân một bữa ăn, Ngài phải nhờ bánh và cá của một em bé. Khi muốn qua bên kia bờ biển, Ngài phải đi nhờ thuyền của người chài lưới. Muốn vào thành Giêrusalem Ngài phải dùng con lừa mượn của người khác. Khi chết, Ngài chỉ còn một cái áo, nhưng bọn lính cũng lấy cái áo đó của Ngài. Sau khi chết, Ngài không có tiền để lại để mua một cái huyệt, mà người ta phải chôn Ngài trong một cái huyệt của người khác. Thế mà ngày nay đâu đâu cũng có nhà của Ngài.

Ngài không có cấp bằng đại học, nhưng cho dù sự khôn ngoan cao nhất ở đại học từ cổ chí kim, cũng không sao so sánh được với sự khôn ngoan của Ngài. Khi mới mười hai tuổi, Ngài đã làm cho bao người thông thái phải ngạc nhiên vì những lời đối đáp cao siêu của Ngài. Nghe lời Ngài giảng dạy, mọi người phải ngạc nhiên vì Ngài giảng dạy có uy quyền…..khác hẳn những người khác, vì Ngài có đầy đủ thẩm quyền phán quyết cho mọi vấn đề. Ngài có quyền trên định luật thiên nhiên. Một đám tiệc cưới bất ngờ thiếu rượu, Ngài đã biến nước thành rượu để giúp chàng rể khỏi bẽ mặt trong ngày vui của chàng. Chỉ dùng một phần ăn của anh em nhỏ, năm cái bánh và hai con cá, Ngài đã đãi hơn năm ngàn người một bữa ăn no nê lại cò dư ra mười hai giỏ đầy những miếng bánh vụn. Một đêm khuya kia trong một cơn giông dữ dội, Ngài đã coi thường định luật hấp lực của trái đất, Ngài đã đi trên mặt biển rộng đang lộng gió để đến với các môn đệ. Họ đang kinh hãi vì các ngọn sóng biển cao gầm thét, nhưng Ngài không sợ mà trái lại, Ngài đã quở gió và biển, chúng phải vâng lệnh ….. im lặng như tờ. Việc lạ lùng đến nỗi các môn đệ kinh ngạc hỏi nhau “Ngài là ai ?”

Các bác sĩ phải dùng thuốc để chữa bệnh, nhưng Ngài chỉ dùng lời phán để chữa lành mọi bệnh tật. Thật lạ lùng! Ngài đã giải tán đám tang bằng cách rờ vào quan tài của cậu trai đã chết và cho cậu sống lại để trở về nhà cùng bà mẹ của cậu. Ngài biến cảnh đau thương biệt ly của Mátta thành cảnh vui mừng sum họp bằng cách gọi Ladarô sống lại, ra khỏi mồ, dù chàng đã chết và đã chôn được bốn ngày.

Ngài chẳng hề viết một cuốn sách nào nhưng hiện nay trên thế giới, không có một thư viện nào có đủ chỗ để chứa những sách người ta viết về Ngài. Ngài không hề vẽ một bức tranh nhưng ngày nay không biết bao nhiêu bức tranh người ta vẽ về Ngài. Ngài không sáng tác một bài nhạc hay một bài ca nào để nói về Ngài, nhưng những bản nhạc đại hòa tấu chúc tụng Ngài nhiều vô kể và đang vang tiếng khắp bốn bể năm châu!

Ngài không hề có vũ khí trên tay. Ngài cũng không hề tuyển mộ binh sỹ để thành lập quân đội, nhưng không có một tướng lãnh nào hay bất kì vị lãnh tụ nào có nhiều người bằng lòng tuân lệnh Ngài. Đã có hàng tỉ người tự nguyện tuân lệnh Ngài từ hai ngàn năm nay và mãi mãi về sau. Trong lịch sử loài người đã có rất nhiều người quyết tâm chống trả Ngài với tất cả khả năng quyền lực của họ, nhưng rồi trong số đó đã có người phải chịu quy hàng, đầu phục Ngài. Không phải vì Ngài đã chinh phục họ bằng vũ lực, nhưng Ngài đã chinh phục họ bằng tình yêu nhân lành Ngài dành cho họ.

Các đế quốc hưng thịnh rồi suy tàn. Các vua chúa lần lượt ra đi, nhưng Ngài còn lại đời đời. Vua Hêrôđê không giết được Ngài, đế quốc Lamã không tiêu diệt được Ngài. Sự chết không có quyền trên Ngài. Mồ mả không giữ được Ngài, vì vị trí của Ngài là ở bên hữu Đấng Toàn Năng.

Tất cả ai nấy đều chết vì mình, nhưng Ngài lại chết vì tội nhân. Tất cả mọi người đều bị khuất phục trước sự chết, nhưng ngài đã chiến thắng sự chết và bước ra khỏi mồ một cách khải hoàn. Người đới thường rời cuộc đời trần thế bằng nắm mồ chôn ba tấc đất, nhưng ngài rời cuộc đời trần thế bằng cách thăng thiêng về trời. Lúc đó một đám đông ngơ ngác, ngước mắt lên nhìn theo Ngài vì việc quá lạ lùng xảy ra trước mắt họ!

Ngài đã từng bị khinh bỉ nhục nhã, nhưng nay Ngài đang ngồi trên ngai vinh hiển của Thiên Chúa. Trước khi trở lại ngôi trời, Ngài đã hứa một điều lạ lùng cùng những kẻ thuộc về ngài rằng: Ta đi và sắp sẵn cho các con một chỗ. Khi Ta đã sắp sẵn cho các con một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các con đi với Ta, hầu ta ở đâu thì các con cũng sẽ ở đó với ta. Lời hứa lạ lùng này sẽ thành tựu trong tương lai gần đây. Lúc đó những người của Ngài sẽ vui mừng trọn vẹn vì được sống hạnh phúc vĩnh cửu với Đấng kì diệu của họ.

Đấng kì diệu ấy là ai? Thưa Ngài chính là Chúa Giêsu. Ngài là con trẻ đã sinh ra tại chuồng chiên nằm trong máng cỏ cách đây hơn 2000 năm. Ngài đã từ trời giáng thế để đem những ai tin nhận Ngài từ trần gian về cõi trời.

Xin kính chúc tất cả một mùa Giáng Sinh vui vẻ và đầy hồng ân của Chúa Giêsu .

 

ĐÊM THÁNH – ĐÊM CHAN HÒA ÁNH SÁNG

(Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6); Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14)

Có rất nhiều người thuộc các tôn giáo bạn thường hay thắc mắc: “Tại sao lễ Giáng Sinh lại được cử hành vào ban đêm?” Khi mừng lễ như vậy liệu có tính lịch sử không?”.

Thực ra thời khắc Con Thiên Chúa hạ sinh không đề cao ý nghĩa và giá trị lịch sử cho bằng ý nghĩa thần học, thiêng liêng của ngày lễ.

Vì thế, khi cử hành lễ Giáng Sinh vào đêm ngày 24, rạng sáng ngày 25, Giáo Hội muốn làm nổi bật lên vai trò và sứ mạng của Đấng Thiên Sai, vì Ngài là: “Ánh Sáng đến để chiếu soi nhân loại”.

1. Ánh sáng tách lìa bóng tối

Khi nói đến ánh sáng trong lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy nó xuất hiện ngay từ thủa nguyên sơ bình minh của nhân loại. Sách Sáng Thế đã cho thấy rõ vai trò của ánh sáng khi ánh sáng xuất hiện trong công cuộc tạo dựng.

Lúc ban đầu, mọi sự còn trong tình trạng hỗn mang, nhưng khi ánh sáng hiện hữu, tức thì một lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối xuất hiện. Nhờ vào ánh sáng, mọi vật được quang hợp và nhờ đó mà có sự sống.

Sau khi sáng tạo trời đất và con người, Thiên Chúa đã dùng ánh sáng để phân biệt ngày và đêm cũng như để cho con người được sống trong ánh sáng.

Như vậy, tác giả sách Sáng Thế cho thấy: ánh sáng được biểu trưng cho sự sống. Còn bóng tối là hình ảnh của sự chết.

Tuy nhiên, vì bóng tối là hình ảnh của sự chết, nên nó đối lập với ánh sáng là biểu tượng của sự sống! Vì vậy, nó đã không ngừng len lỏi vào trong tâm khảm của con người, khiến con người hướng chiều về nó và muốn thoát ra khỏi ánh sáng để mong ước đạt được một cái gì đó tốt đẹp hơn hiện tại!

Chính vì sự yếu đuối và ngộ nhận này mà Nguyên Tổ của chúng ta là Ađam và Evà đã đi theo bóng tối và có một sự khát khao cuồng tín rằng: khi đã thoát ra khỏi ánh sáng thì sẽ được ngang hàng với Đấng Tạo Hóa là nguồn Ánh Sáng.

Nhưng sự hoang tưởng này đã không đem lại cho ông bà như ý muốn, mà cả hai đã nhận một cái kết đầy đắng cay, đó là: bị Thiên Chúa trừng phạt và đẩy lùi về với bóng tối khi Người đập tan ý định kiêu ngạo, phá ta niềm hy vọng hão huyền, và đã đuổi ông bà ra khỏi Vườn Địa Đàng là nơi đầy ánh sáng và bình an. Cũng kể từ đó, ông bà không được hưởng hạnh phúc thủa ban đầu, không còn tình nghĩa với Đấng dựng nên mình và cũng kể từ đó, Thiên Chúa đã đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh (x. St 3,24).

Cứ thế, trong suốt giai đoạn Cựu Ước, dân chúng đã lầm lũi bước đi trong bóng tối của sự chết.

Đây chính là thảm họa buồn mà nhân loại phải lãnh nhận do Nguyên Tổ loài người gây ra.

Trước thực trạng ấy, dân mong chờ ánh sáng biết chừng nào! Họ mong chờ một nguồn ánh sáng đến để giải cứu họ thoát khỏi bóng tối tử thần, thoát khỏi sự đau khổ, chết chóc và thân phận nô lệ đắng cay.

2. Đức Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi thế gian

Niền hy vọng của họ đã thấu tới trời cao và đã được Thiên Chúa xót thương khi sai Con của Người xuống thế là Đức Giêsu Kitô. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực thi sứ vụ Thiên Sai trong vai trò giải thoát và chiếu giãi Ánh Sáng vào trong bóng đêm tội lỗi.

Đây là niềm vui mừng khôn xiết, vì: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”; “Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người, cái gông nằm trên vai, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian” (x. Is 9, 1-3).

Như vậy, khi mừng sinh nhật của Đức Giêsu vào lúc nửa đêm, lúc mà ngày cũ đã chấm dứt và nhường chỗ cho một ngày mới bắt đầu, Giáo Hội muốn làm toát lên ý nghĩa cũng như giới thiệu cho mọi người biết rằng: Đức Giêsu chính là Ngày Mới của Thiên Chúa. Ngày Mới này tràn ngập ánh sáng như thủa ban đầu.

Cuộc hạ sinh của Đức Giêsu cũng được ví như một cuộc tạo dựng mới. Một cuộc tạo dựng hoàn toàn tinh tuyền không vướng nhơ tội lỗi bởi một người Mẹ là Đức Maria đồng trinh, bởi một vị cha nuôi là thánh Giuse - Đấng Công Chính, và trên hết, Đức Giêsu xuất phát từ “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Kinh Tin Kính).

Chính vì lẽ đó mà Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).

 

3.  Đón nhận và bước đi trong Ánh Sáng

Đi theo ánh sáng hay sống trong bóng tối? Đây là câu hỏi muôn thủa được đặt ra cho chúng ta. Đây cũng là thách đố đầy cam go và kịch tính mà ai ai cũng phải đối diện trong đời sống thường ngày.

Chính vì thấu hiểu sự giằng co này mà thánh Gioan đã phải thốt lên: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).

Đây là câu chuyện buồn của hơn 2000 năm qua. Đây cũng là sự giằng co nội tâm của mỗi người chúng ta. Một cuộc nội chiến không ngừng diễn ra ngay trong nội tại của mỗi người.

Chính vì vậy, đã biết bao lần, chúng ta không ngừng chiến đấu để mình thuộc về Ánh Sáng và đẩy lui bóng tối ra khỏi cuộc đời mình. Tuy nhiên, bóng tối bao giờ cũng hấp dẫn và ánh sáng bao giờ cũng là kẻ thù của bóng tối, vì thế, lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối rất mong manh, khiến cho biết bao người đã ngã quỵ trước ma lực của bóng tối.

Đứng trước thách thức đó, thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta: “… phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2, 12- 13). Thi hành điều đó, ấy là chúng ta đang đi trong ánh sáng của đường lối cứu chuộc mà Đức Giêsu đã đem lại cho nhân loại. Đồng thời cũng trở thành con người xứng đáng với tước vị làm Con Thiên Chúa (x. Ga 1,12).

Tuy nhiên, tin và bước theo Ánh Sáng không thôi thì chưa đủ, mà phải trở thành ánh sáng soi đường cho người khác để họ cũng được hưởng niềm vui do ánh sáng đem lại như lời Đức Giêsu đã nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”;  và: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 14.16).

Vậy ánh sáng của chúng ta là gì? Thưa! Ánh sáng của chúng ta chính là một đời sống đạo chân thành; một mối tương quan thật thà thẳng thắn; lương thiện trong công việc; khiêm nhường trong cuộc sống; bác ái, yêu thương, liên đới với người nghèo…. Những đức tính này giúp ta và anh chị em của mình vượt ra khỏi bóng tối là sự ích kỷ, kiêu ngạo, bảo thủ, ghét ghen, dửng dưng, vô cảm, gian dối, thất tín….

Mong sao mỗi khi mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy khao khát cho mình được thuộc về Ánh Sáng để được cứu độ. Đồng thời cũng không ngừng khát khao loan truyền Ánh Sáng sự sống ấy cho mọi người chung quanh bằng chính cuộc sống gương mẫu của mình. Amen.

 

 

1. GLCN/37- GIÁNG SINH

Gần lễ Giáng sinh ta thường nghe nói : “Chúng ta không còn những lễ Giáng sinh ngày xưa nữa, không còn bầu không khí của ngày ấy nữa”. Thậm chí một số người còn nói : Lễ Giáng sinh càng qua mau càng tốt. Đối với tôi chẳng làm gì có lễ Giáng sinh… Và như thế cũng chẳng sao cả. Vậy những lễ Giáng sinh của chúng ta về sau này đã bị thay đổi nhiều ; chúng đã già đi nhiều, đã hao mòn, tàn héo đi.

 
Dĩ nhiên những lễ Giáng sinh ấy là lễ Giáng sinh những năm xưa, nhưng nếu chúng ta đã thay đổi như thế thì không phải do Thiên Chúa ; vì các ngày lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không hề thay đổi, không già đi, không bạc màu. Trái lại, lòng chúng ta có thể già cỗi, tàn phai, hao mòn và chán chường. Và nếu những ngày lễ Giáng sinh đã thay đổi đến như thế, chắc hẳn là vì lòng chúng ta đã thay đổi. Những ngày lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không thay đổi, ta phải xác tín như vậy. Chúng không thay đổi vì Thiên Chúa không thay đổi, vì tình yêu của Ngài muôn thuở và luôn luôn hiện đại, vì lòng âu yếm của Ngài đối với nhân loại không hề thay đổi. Mỗi lễ Giáng sinh, khi Thiên Chúa đến sống với chúng ta, ở giữa chúng ta và ban cho chúng ta Con Một Ngài, đều mang đến Tin Mừng, niềm vui và sự bình an đã được ban cho nhân loại ngày lễ Giáng sinh đầu tiên tại Belem. Cùng một sứ điệp – cùng một sức mạnh và tính năng động – được lặp lại từ lễ Giáng sinh này đến lễ Giáng sinh khác.
 
Sứ điệp ấy chính là Thiên Chúa đến ở với loài người để cho loài người được ở với Ngài ; chính Thiên Chúa đi vào trong thế giới của chúng ta để chúng ta đi vào thế giới của Ngài , chính Con Một của Thiên Chúa đến hiệp thông với cuộc sống chúng ta để cho sự sống chúng ta được hiệp thông với sự sống của Ngài và sự sống của Thiên Chúa, thân phụ Ngài. Sứ điệp ấy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, mang lấy nhân tính của chúng ta để chúng ta mang lấy thiên tính của Ngài. Đó là sứ điệp bao giờ cũng mới mẻ, cũng đẹp đẽ, cũng phấn khởi, cũng tuyệt vời, từ năm này qua năm khác.
 
Sứ điệp Giáng sinh không già cỗi, không hao mòn, ta hãy xác tín như vậy ! Hãy xác tín rằng lễ Giáng sinh của Thiên Chúa không tàn phai ! Vậy nếu lễ Giáng sinh của ta bây giờ không còn như trước kia nưã có lẽ bởi vì chúng ta không còn muốn… hoặc không dám nghe sứ điệp chân chính của Giáng sinh… Giáng sinh mà Thiên Chúa đã thực hiện, và sẽ kéo dài đến tận thế. Nếu những lễ Giáng sinh của chúng ta không còn như trước kia nữa, cũng có lẽ bởi chúng ta không có hoặc không còn can đảm đón nhận Đấng ban ý nghĩa cho lễ Giáng sinh : Hài nhi mang tên Giêsu, Con Thiên Chúa và Con Đức Maria. Đón nhận một trẻ nhỏ không phải bao giờ cũng là chuyện dễ dàng. Một trẻ thơ, nó quấy rầy. Nó bắt thay đổi những thói quen, bỏ một số thói quen và có những thói quen mới.
 
Tôi nghĩ rằng nơi đây chúng ta đụng đến lý do sâu xa của sự nhàm chán và già nua nơi những lễ Giáng sinh của chúng ta. Quả thật làm sao sống niềm vui Giáng sinh khi mình gắn bó với tiền bạc, trong lúc Giáng sinh là mầu nhiệm khó nghèo ? Làm sao đón nhận lòng nhân từ và trìu mến của Giáng sinh khi nuôi dưỡng thù hận trong lòng, khi từ chối yêu thương, tha thứ, khi chỉ chia sẻ cách dè sẻn những gì mình sở hữu?... Trong lúc Giáng sinh loan báo tình thương, lòng nhân hậu và mang món quà lớn nhất : Con Thiên Chúa được ban cho loài người !
 
Làm sao có được niềm hân hoan của Giáng sinh… khi người ta vẫn khép kín nơi mình, nơi những tiện nghi, danh tiếng của mình, mà không quan tâm đến bao người đàn ông, đàn bà, những trẻ em đang đau khổ, khóc than, đói khát ? Tóm lại, làm sao chúng ta có thể sống một lễ Giáng sinh an bình và vui vẻ sâu xa mà lại không chấp nhận sự quấy rầy của Hài nhi yêu cầu được sinh ra nơi chúng ta, và cứ thờ ơ lãnh đạm trước sứ điệp của Ngài ?
 
Phẩm chất của lòng chúng ta sẽ tạo nên phẩm chất lễ Giáng sinh của chúng ta : Có lẽ chúng ta hay quên điều này. Vậy thì chỉ có một lời chúc cho nhau thôi : Xin cho lòng chúng ta ấm lại một chút, xin cho lòng chúng ta thành thật hướng về Thiên Chúa và về Đấng mà Ngài sai đến với chúng ta… Xin cho lòng chúng ta biết xúc động một chút trước tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta… lúc đó chúng ta sẽ sống một cách khác lễ Giáng sinh năm nay. Và những lễ Giáng sinh mà Thiên Chúa đã thực hiện… những Giáng sinh mang bình an và niềm vui sẽ lại trở thành của chúng ta bởi vì chúng ta cho phép Con Thiên Chúa nhập thể nơi chúng ta.

 

 

2. ASTM/24- HÓA THÀNH

 

 Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thực thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào về âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh. Đã có vô số những bài ca bất hủ về Giáng sinh và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về Giáng sinh nữa.
 
Kỳ thực, Lễ Giáng sinh cũng là một bản nhạc bất hủ của Thiên Chúa dành cho con người. Nếu âm nhạc là sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm nhạc. Thánh Gioan tông đồ đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống hòa hợp trong mầu nhiệm ấy và đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau : “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể”.
Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể nghĩa là Ngài đã trở thành một người như chúng ta. Ngài đã nói ngôn ngữ của xứ sở và thời đại của Ngài, lời Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá trên khắp thế giới từ hơn 2000 năm. Lời ấy đã được dịch ra trên 5000 thứ ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và thức ăn cho tất cả nhân loại. Thế nhưng, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng trong hang đá Belem và nhất là thinh lặng trong suốt 30 năm tại Nagiarét.
 
Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế ? Thưa là bởi vì Ngài không chỉ nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả sự thinh lặng. Hơn nữa, Ngài còn muốn nói với chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài nữa.
 
Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở nên thiết thân với mọi người và mỗi một người được sinh ra. Ngài muốn nói với chúng ta rằng : sự sống của con người là một thánh thiêng bất khả di nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng, mỗi một người sinh trong thế gian này dù có xấu xa, thấp hèn mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
 
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2000 năm, sự hiện hữu của Ngài là một sự hiện hữu giới hạn, giới hạn trong không gian, giới hạn trong cách sống, trong thời đại. Chúa Giêsu đã không hề làm một người chồng, Chúa Giêsu đã không hề làm một người cha trong gia đình, thế nhưng cuộc sống nhập thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tái diễn trong dòng lịch sử của nhân loại. Và lễ Giáng sinh mà chúng ta cử hành hằng năm không chỉ đến mỗi năm có một lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
 
Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Lời Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh là khi chúng ta tiếp tục nhận ra ý nghĩa của cuộc đời này, cho dù chúng ta phải trải qua không biết bao nhiêu đắng cay chua xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng sinh khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quí của Thiên Chúa trong mỗi người anh em, và có lễ Giáng sinh khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Như vậy, bài thánh ca mừng Chúa Giáng sinh không chỉ được hát lên mỗi năm có một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
 
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong tâm tư suy nghĩ, hành động và trong cư xử của chúng ta, để mỗi người chúng ta bằng lời nói hay bằng chứng tích thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.
 

 

3. PV/63- QUAN HỆ

 

 Mỗi năm, khi đến lúc gửi đi những tấm thiệp Giáng Sinh, chúng ta lại lấy ra cuốn sổ ghi địa chỉ. Trong đó, chúng ta có thể tình cờ bắt gặp một cái tên, và thốt ra “Trời ơi ! Mình không hề nghe tin gì về anh ta cả bao nhiêu năm nay”. Chúng ta không thể nhớ được mình đã gửi tấm thiệp nào cho người đó vào dịp lễ Giáng Sinh năm ngoái hay không. Thế là chúng ta đang phải có một quyết định : Liệu chúng ta sẽ gửi hoặc không gửi một tấm thiệp cho anh ta ?
 
Trong cuộc sống, hầu hết chúng ta đều có một người bạn nào đó như thế, một người mà có lẽ chúng ta chỉ có quan hệ mỗi năm một lần mà thôi. Có thể chúng ta đã từng rất thân thiết với người đó trong một thời gian. Nhưng hiện nay, vì lý do này hoặc lý do khác, có một khoảng cách giữa chúng ta và người đó. Chúng ta đã bị mất liên lạc. Và bây giờ, đến lúc đáng tiếc là chúng ta chỉ liên lạc với nhau qua một tấm thiệp Giáng Sinh. Điều này cho thấy rằng mối quan hệ không được chăm sóc, thì sẽ bị ảnh hưởng không tốt, giống như một khu vườn bị bỏ bê, vì mối quan hệ như vậy hầu như không được nuôi dưỡng. Trên thực tế, điều này không thực sự ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta.
 
Chúng ta cũng có thể bị mất quan hệ với Thiên Chúa. Điều này không hẳn là chúng ta không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa, mà chỉ là chúng ta không còn giữ quan hệ với Người nữa. Khi còn nhỏ, có thể chúng ta đã từng rất gần gũi với Thiên Chúa, nhưng theo thời gian, chúng ta mất đi mối quan hệ này. Khi người ta tự cho phép mình mất quan hệ với Thiên Chúa, thì xảy ra một sự mất mát to lớn, hậu quả là một sự trống rỗng mênh mông. Không thể hiểu được và không thể nào chịu đựng nổi một cuộc sống, mà không có Thiên Chúa.
 
“Khi đến ngày chúng ta không còn tin tưởng nơi một thần tượng của cá nhân mình, thì chúng ta không bị chết đâu ; nhưng khi đến ngày mà cuộc sống của chúng ta không còn được soi sáng bởi ánh hào quang đều đều, được đổi mới mỗi ngày, của một điều tuyệt vời, mà nguồn gốc của điều tuyệt vời đó vượt ra ngoài tất cả mọi lý lẽ”.
 
Ngày kia, một đứa trẻ lên 6 tuổi, cha mẹ cháu không có lòng tin, xin người giáo viên của cháu dẫn cháu đến viếng một nhà thờ gần đó. Trong suốt cuộc thăm viếng đó, cháu nói với người giáo viên : “Bà của con nói rằng đây là ngôi nhà của Thiên Chúa. Bà nói rằng Thiên Chúa là tình yêu. Bà nói rằng khi bà cầu nguyện với Chúa, có nghĩa là bà nói chuyện với Chúa. Con chưa bao giờ cầu nguyện. Nhưng con thích được nói chuyện với Chúa. Con muốn được nghe Chúa nói. Trong lớp, có một bạn tin vào Chúa. Bạn ấy là người Công giáo. Nhưng bố mẹ con đều là những người không tin vào Thiên Chúa, vì thế, con cũng vậy. Vì không biết Chúa, nên con cảm thấy cô độc”.
“Vì không biết Chúa, nên con cảm thấy cô độc” – đây là câu nói của một đứa trẻ lên 6 tuổi. Quả thật con người rất cô đơn, khi không được biết Chúa. Nếu chúng ta trải qua nỗi cô đơn này, thì chúng ta không nên hốt hoảng. Có thể đây là một cơ hội và là một ân sủng. Trái tim của chúng ta luôn luôn khát khao một điều gì đó nhiều hơn nữa, hoặc nói đúng hơn, chúng ta khát khao một Đấng khác. Nơi mỗi tâm hồn con người, đều có một chỗ trống, chờ đợi một vị khách. Vị khách đó chính là Thiên Chúa.
 
Người ta dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn trong ngày lễ Giáng Sinh, so với bất cứ thời gian nào khác, bởi vì trong lúc này, chúng ta cảm thấy rằng Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta. Đây là một quà tặng của ngày lễ Giáng Sinh. Điều này chứng tỏ rằng chúng ta không cô độc trong vũ trụ. Nếu chúng ta cảm thấy mình bị mất quan hệ với Thiên Chúa, thì ngày lễ này đem đến cho chúng ta một cơ hội, để tự mình lấy lại quan hệ với Người, trong niềm tin tưởng rằng chúng ta sẽ không đón nhận bất cứ điều gì khác, ngoại trừ tình yêu. Nếu biết cởi mở tâm hồn của mình ra, chúng ta sẽ cảm nhận được rằng mình được sự hiện diện thần thánh tác động vào.
 
Quan hệ với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, đem đến sự an bình nội tâm. Chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai con gái yêu quí của Thiên Chúa, là những người được thừa kế vương quốc nước trời.
 
Lễ Giáng Sinh cũng cung cấp cho chúng ta một cơ hội để tự liên lạc với người khác, đặc biệt là với gia đình của chúng ta, nếu chúng ta bị mất quan hệ với họ. Điều đó cũng mang lại cho chúng ta sự an bình và niềm vui.
 
Các mục đồng trở lại với đàn gia súc của họ, “vừa đi vừa ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe”. Không có gì thay đổi cả, tuy nhiên, tất cả mọi sự đều đã thay đổi. Bây giờ, tâm hồn của họ tràn ngập sự kinh ngạc. Họ đã có được một tầm nhìn mới, một niềm hy vọng mới, một sự hiểu biết mới, về tình yêu của Thiên Chúa đối với họ, và về sự hiện diện của Người. Cuộc sống của họ được sáng rực ý nghĩa. Thế giới cũ đã trở nên một thế giới mới, trong đó tất cả mọi sự đều long lanh đều kỳ diệu. Sự phát hiện về Thiên Chúa đem lại kết quả là một thế giới đầy niềm vui.

 

 4. PV/66- NOEL - BÌNH AN

 

 Một trong những điều mà chúng ta luôn liên kết với lễ Giáng sinh, đó là sự bình an. Khi Đức Giêsu sinh ra, các thiên sứ hát rằng “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Đây là một câu, trong số những lời nói đầy yêu thương nhất ở Tin Mừng. Bạn có thể nói rằng những lời nói này tóm tắt cả Tin Mừng.
 
Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích : “Anh em hãy lắng nghe đi !”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
 
Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính đi dạo chung quanh vùng Đất Không Người. Người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện đang gia tăng, thì bắt đầu có một trận đấu bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin này đã lan tới tai các vị tướng, và họ ban bố những mệnh lệnh gay gắt phải chấm dứt tất cả mọi chuyện. Các sĩ quan dồn binh lính trở lại vào hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Trong đêm lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến bắt đầu trở lại.
 
Nếu điều này không chứng tỏ một điều khác, thì nó chứng tỏ được sức mạnh của lễ Giáng Sinh. Nhưng bình an không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh hoặc chia rẽ. Đây còn là một điều sâu xa hơn và phong phú hơn. So với peace của tiếng Anh tiếng Do thái chỉ sự bình an – shalom – chuyển tải một ý nghĩa phong phú hơn. Từ này chuyển tải một ý nghĩa về sự trọn vẹn, một tình trạng hoàn toàn hạnh phúc.
 
Thành phần chủ yếu của bình an là sự công chính. Như vậy, ở đây có sự công chính, thì tại đó có bình an đích thực. Do đó, không thể có bình an đối với kẻ quỷ quyệt. Bình an không đơn giản chỉ là sự hài hòa. Đây là sự hạnh phúc trọn vẹn. Bình an vẫn có thể tồn tại trong một thế giới rối loạn, và thậm chí ngay cả giữa những vấn đề không giải quyết được. Đây là một điều gì đó quá sâu xa, đến nỗi nó không lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài.
 
Bình an là trạng thái yên tĩnh nội tâm, và cho thấy rõ mối tương quan thực sự với Thiên Chúa và với người khác. Theo ý nghĩa đầy đủ này, nếu chỉ bằng nỗ lực của con người, thì không thể tạo ra được sự bình an. Đây là một ân sủng của Thiên Chúa. Đây là một món quà tặng của ngày lễ Giáng Sinh. Thiên Chúa đến với chúng ta trong sự bình an, và Người mong muốn chúng ta tiếp cận với nhau. Bình an là ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta ; quà tặng của chúng ta đối với Thiên Chúa chính là đem bình an đến cho nhau.
 
Bình an là sự kết hợp với Thiên Chúa. Trong ngày lễ Giáng Sinh, dường như Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta. Xin Người giúp chúng ta cảm mến được sự bình an, vượt quá tất cả sự hiểu biết, mà chỉ một mình Người có thể ban, và thế giới này không thể đem đến được. Đó là sự bình an mà không ai có thể tước đoạt khỏi chúng ta.
 

 

5. PV/69- NOEL- VƯƠNG QUỐC

 

 Thông thường trong cuộc sống, ngày mà chúng ta mong đợi nhất, lại hay bị chuyển thành ngày thất vọng nhất. Điều này cũng có thể xảy ra đối với cả ngày lễ Giáng Sinh nữa.
Đôi khi, chúng ta có thể có những ước mong không thực tế về ngày lễ Giáng Sinh. Dường như thể chúng ta mong đợi một điều gì đó kỳ lạ xảy ra, một điều gì đó sẽ mãi mãi thay đổi cuộc sống nhàm chán của chúng ta. Nhờ vào sự xây dựng kéo dài mãi mãi, khi gần đến ngày trọng đại, niềm hy vọng của chúng ta bay lên cao vút. Tuy nhiên, bản chất của những niềm hy vọng này thường bị thị trường ức chế – một sự tràn ngập những đồ ăn thức uống, tràn ngập những chương trình Tivi để chúng ta giải trí.
Nhưng khi bắt đầu đến lễ Giáng Sinh, thì điều đầu tiên mà chúng ta ghi nhận được là gì ? Ngày đó chỉ giống như bất cứ một ngày nào khác. Không ai nhìn thấy các thiên thần, không ai nghe được những giọng hát từ trên trời vang vọng xuống. Tất cả mọi sự đều diễn tiến y như bình thường. Và khi mặt trời của ngày này lặn xuống, thì nhiều người lại cảm thấy trống rỗng và trầm cảm, và họ nói một cách cay đắng “Lễ Giáng Sinh chỉ dành cho trẻ con mà thôi”.
Nhưng ngày này có thể khác hẳn. Mặc dù không hề có dấu hiệu nào trên bầu trời, nhưng ít nhất đối với những người biết cách nhìn, thì vẫn có những dấu hiệu về ngày này. Trong ngày lễ Giáng Sinh, trên thế giới, có nhiều ánh sáng hơn, ấm áp hơn, hy vọng hơn. Người ta trở nên thân thiện với nhau hơn trong ngày lễ này. Không ai đi qua mặt nhau, mà không chào nhau. Trong ngày này, chúng ta cảm thấy mình là một thành phần của gia đình nhân loại, hoặc ít nhất, chúng ta mong muốn được trở nên một phần của gia đình đó. Nếu phải đi một mình đơn độc trong buổi sáng hôm nay, thì dường như đó là một điều kỳ lạ, thậm chí còn sai trái nữa.
Thật vậy, trong ngày lễ Giáng Sinh, Nước Thiên Chúa trở nên rõ rệt. Trong ngày này, nếu biết cởi mở tâm hồn của mình ra, chúng ta sẽ cảm thấy mình được sự hiện diện thần thánh đụng chạm vào. Hugh Leonard một nhà viết kịch người Ailen, đã nói “Có lẽ tôi không biết Thiên Chúa là ai, nhưng tôi biết được nơi Người sinh sống. Người ở chung quanh tôi trong suốt cả năm, nhưng trong ngày lễ Giáng Sinh, Người tiến tới và thọc sâu vào cạnh sườn của tôi”. Đó không chỉ là một cảm giác.
Trong ngày lễ Giáng Sinh, chúng ta có được một cảm giác về sự gần gũi, ấm áp, và về lòng từ ái của Thiên Chúa. Chúng ta cảm nhận được rằng mình không cô độc, rằng cuộc sống của chúng ta có một ý nghĩa, rằng có một ai đó đang săn sóc và hướng dẫn đường lối cho chúng ta. Đó là ý nghĩa cốt lõi của ngày lễ Giáng Sinh. Chúng ta không nên e ngại trong việc sưởi mình nhờ hơi ấm này, giống như chúng ta vẫn vui mừng tắm mình trong ánh nắng ấm áp vào một ngày lạnh lẽo.
Chúng ta cũng có được một cảm giác về sự thành tâm thiện chí của bản thân mình và của những người khác. Chúng ta cảm nhận được rằng cuộc sống thật tươi đẹp và có một ý nghĩa. Chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Thiên Chúa. Chúng ta có một nhân phẩm thần thánh và một vận mệnh vinh quang. Một sự bình an nội tâm xuất phát từ mối quan hệ với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu.
Nếu ngày lễ Giáng Sinh để lại cho chúng ta sự thất vọng, thì có nghĩa là chúng ta đã gắn bó niềm hy vọng của mình vào những điều sai trái. Kẻ nào gắn bó niềm hy vọng của mình vào những thứ do dân buôn bán đưa ra, thì sẽ luôn luôn bị thất vọng, không phải vì họ hứa hẹn quá ít, mà là vì họ hứa hẹn quá nhiều, mà hứa hẹn về những điều sai trái. Tâm hồn chúng ta khát khao nếm được “niềm vui” mà các thiên sứ đã loan báo cho các mục đồng. Đó là niềm hy vọng của ngày lễ Giáng Sinh.
Chúng ta phải cầu xin điều gì đây ? Chỉ cần một điều duy nhất : hãy cởi mở tâm hồn mình ra để đón nhận niềm hy vọng này. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho chúng ta ; Người là Đức Kitô, là Đức Chúa.
 

 

6. PV/72- NOEL- ÁNH SÁNG

 

 Chúng ta cử hành lễ Giáng Sinh vào thời gian tối tăm nhất trong năm (ở bắc bán cầu). Đó là thế gian chúng ta đánh giá được giá trị của ánh sáng. Phụng vụ lễ Giáng Sinh đầy rẫy những câu ám chỉ về ánh sáng. Đức Giêsu đến làm trọn lời tiên báo của ngôn sứ Isaia : “Dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng ; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Mẹ Têrêxa đã kể lại một ngày kia, tại Melbourne, Uc, mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, tại một căn phòng ở trong tình trạng bê bối khủng khiếp. Căn phòng này không hề có ánh sáng, và hiếm khi ông ta vén bức rèm ra. Dường như ông không hề có một người bạn nào trên thế giới này.
Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt “Bà cứ để mọi sự như cũ đi. Tôi quen với cảnh này rồi”. Mặc dù thế, mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc của mình. Trong khi dọn dẹp, mẹ nói chuyện với ông ta. Dưới một đống rác, mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy là nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta “Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Làm thế nào mà không bao giờ ông thắp sáng nó lên vậy ?”.
Người đàn ông này đáp “Tại sao tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó lên ư ? Có ai đến thăm tôi đâu” !
Ông ta trả lời “Vâng, nếu tôi nghe thấy một giọng nói của người nào, thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Hai trong số các nữ tu của mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm viếng ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu “Thưa các sơ, kể từ bây giờ, tôi có thể tự xoay xở được rồi. Nhưng xin nói giùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi, rằng ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.
Bạn có thể nói rằng ngọn đèn đã giải thoát ông ta. Nhưng tất nhiên không phải là bản thân ngọn đèn, nhưng là lòng tử tế và nhân ái mà ngọn đèn này tượng trưng, trước hết, nơi mẹ Têrêxa, sau đó, là nơi các nữ tu của mẹ.
Chúng ta sống trong một thế giới bị tối tăm do chiến tranh, bạo lực và đủ mọi loại đau khổ. Và tất cả chúng ta đều đã từng trải qua cảnh tối tăm trong cuộc sống cá nhân và cuộc sống gia đình của chúng ta – buồn phiền, thất vọng, yếu đuối, đau đớn, lỗi lầm, tội ác, cô đơn v,v…
May mắn thay, ánh sáng mà Đức Kitô đã thắp lên trong thế giới của chúng ta vẫn còn tiếp tục cháy sáng. Không phải là ánh sáng của Người đã được thắp lên tại Bêlem một lần, và rồi tắt ngúm đi. Anh sáng đó vẫn chiếu tỏa ra giữa cảnh tàn phá, đổ vỡ và biến động. Anh sáng đó chiếu tỏa ra tất cả những ai tin tưởng và đi theo Người.
Lịch sử có đầy rẫy những câu chuyện về bao con người mang lại cảnh tối tăm cho thế giới. Không giống như Đức Giêsu. Từ hơn 2000 năm nay, giáo lý của Đức Giêsu đã để lại một ảnh hưởng trên mọi người, theo một cách thức không giống như bất cứ người nào khác. Nhưng tự thân lòng từ ái rạng rời của Người biểu hiện ra, qua tất cả những hành động và những cuộc gặp gỡ của Người với dân chúng. Vô số người đã đến với Người trong tâm trạng tối tăm, và khi ra đi, họ được tắm mình trong ánh sáng.
Lòng từ ái rạng ngời của Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục soi chiếu trên thế giới. Nơi Đức Giêsu và nơi Tin Mừng của Người, chắc chắn chúng ta có được một suối nguồn ánh sáng, mà từ 2000 năm nay, đã chiếu tỏa trên nhân loại. Anh sáng soi chiếu cho các mục đồng đi đến Bêlem trong đêm Giáng Sinh đầu tiên, vẫn soi chiếu trên chúng ta trong đêm Giáng Sinh này.
Anh sáng của Đức Giêsu không đến để phán xét chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta. Anh sáng đó đến để chỉ ra cho chúng ta cách thế sống như thế nào, và hướng dẫn chúng ta hướng về vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có thể trở nên nguồn sáng cho thế giới tối tăm. Nhưng trừ phi ngọn đèn của bản thân chúng ta còn đang chiếu sáng, nếu không, chúng ta sẽ không có khả năng soi sáng được cho bất cứ ai. Được sống trong ánh sáng là một niềm vui lớn. Nhưng có một niềm vui thậm chí còn vĩ đại hơn, đó là được trở nên một nguồn sáng cho người khác.
Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta bước ra khỏi bóng tối, để đi vào ánh sáng tuyệt diệu nơi Con của Người. Chúng ta phải cố gắng sống đúng tư cách là con cái của ánh sáng. Người ta nhận thấy những hiệu quả của ánh sáng qua tấm lòng tốt, lối sống đúng đắn và theo lẽ phải.
Xin cho trong lòng từ ái của Người, Chúa cho chúng ta nếm được niềm vui, mà các mục đồng đã cảm nghiệm được, khi ánh sáng của vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa chung quanh họ, trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đó. Và xin cho chúng ta nghe được những tiếng nói êm dịu vang vọng trong tâm hồn chúng ta “Bất cứ ai đi theo Ta, sẽ không bao giờ phải đi trong tối tăm, nhưng sẽ luôn luôn có được ánh sáng ban sự sống”.
 

 

7. PV/75- NOEL- ÂN SỦNG

 

 Bối cảnh : một thành phố tồi tàn trong một thế giới thứ ba. Mặc dù có ánh sáng mặt trời, bóng tối vẫn bao trùm lên những dãy lán trại lụp xụp. Nhưng lễ Giáng Sinh đang đến, mọi sự sẽ khác hẳn đi, ít nhất là trong một chốc lát.
Tuy nhiên, vào ngày trước lễ Giáng Sinh, có một sự kiện xảy ra càng đào sâu thêm cảnh tối tăm của những túp lều tồi tàn. Một người cha của ba đứa con nhỏ đã phạm tội giết người. Không ai biết được đầy đủ câu chuyện phía sau hành động của anh ta. Nhưng anh ta để cho người khác nhìn thấy sự tối tăm đã xâm nhập vào tâm hồn anh. Một thời gian ngắn trước khi qua đời, anh ta nói với bạn bè rằng anh rất khổ tâm, vì không có món quà tặng nào cho con cái của anh trong ngày lễ Giáng Sinh.
Tặng quà là một phần quan trọng trong việc cử hành lễ Giáng Sinh. Charles Dickens kết luận : “Lễ Giáng Sinh là thời điểm trong tấm lịch dài của cả năm trong đó người ta cởi mở ra với nhau cánh cửa tâm hồn vốn đã khép kín”.
Có thể nói rằng Giáng Sinh là mùa của việc trao tặng quà, mặc dù quà tặng của chúng ta có thể tầm thường và chỉ theo thủ tục. Một món quà tự nó là một cách thế, để nói lên với người được tặng quà rằng chúng ta quí mến họ. Món quà tặng ít liên quan đến lẽ phải, mà liên quan đến tình yêu.
Việc Thiên Chúa ban ân sủng mang chúng ta trở lại với bản thân ngày lễ. Ngày lễ Giáng Sinh được tạo ra bởi một ân sủng. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước. “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con duy nhất của Người, hầu cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người đều không bị hư đi, nhưng có được sự sống đời đời”.
Trong khi trao tặng quà cho nhau, chúng ta hãy đảm bảo rằng chúng ta cũng trao tặng cho nhau chính bản thân mình nữa. Lễ Giáng Sinh không chỉ là dịp để trao tặng quà, nhưng ngày lễ này nói nhiều hơn về sự hiện diện – nghĩa là trao tặng chính bản thân mình. Và phẩm chất sự hiện diện của chúng ta là tất cả mọi sự.
Có sự hiện diện mang tính cách xa vắng, nhạt nhẽo, lãnh đạm – giống như mặt trời vào một ngày mùa đông, đã mọc lên và lặn đi, mà thậm chí không hề làm tan giá cho mặt đất. Và có sự hiện diện gần gũi, ấm áp, quả quyết – giống như mặt trời vào một ngày mùa hè, mang lại sự sống cho tất cả mọi loài.
Việc trao tặng quà quan trọng, nhưng việc tiếp nhận quà cũng quan trọng tương tự như vậy. Lễ Giáng Sinh cũng là một thời gian để tiếp nhận – tiếp nhận những món quà mà người khác trao tặng, và đặc biệt là những món quà mà Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta. Thiên Chúa không trao tặng cho chúng ta món quà là một đồ vật, mà là một con người. Đức Giêsu chính là một quà tặng đối với những người nghèo khổ và thấp kém, để đảm bảo với họ rằng tình yêu mến không bỏ qua họ.
Khi trao tặng quà, chúng ta gói món quà đó trong một lớp bọc có trang trí, mặc dù chúng ta biết rằng giấy gói không gia tăng gì thêm cho món quà, và sẽ bị xé ra và quẳng vào sọt rác. Khi Thiên Chúa làm cho chúng ta một món quà là chính Con của Người, thì món quà đó của Người không hề đến trong một lớp bọc được trang trí. Nhưng Người đã đến trong thân phận con người yếu đuối, mỏng giòn và hay chết. Chính nơi điểm này, mà chúng ta càng nhận thấy được mức độ sâu xa nơi tình yêu của Người.
Mặc dù Đức Kitô đã đến giữa chúng ta với đôi bàn tay trống rỗng và yếu đuối, nhưng Người vẫn mang lại cho chúng ta những món quà vô giá và kéo dài muôn thuở. Người đến để dạy cho chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Cha trên trời, được tiền định vinh quang đời đời.
Vậy chúng ta cần có loại khuynh hướng gì, để có thể đón nhận những ân sủng của Thiên Chúa ? Chúng ta cần ý thức về sự nghèo nàn của bản thân chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Sau đó, điều mà chúng ta phải làm, là cởi mở tâm hồn chúng ta ra, để đón nhận ân sủng Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, sẽ luôn luôn có được điều gì đó, để chia sẻ với những người khác.
“Có một quà tặng không thể nào đánh giá được đã trao tặng từ 2000 năm trước.
Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa không ban tặng như vậy, thì Người vẫn là một kẻ xa lạ ở nơi xa xôi, và không phải là một hài nhi nằm trong máng cỏ”.
 
 

 

8. PV/78- NOEL - HÀNH TRÌNH

 

 Tháng 7 năm 1969, Neil Amstrong cùng với hai phi hành gia đồng đội, đã bắt đầu đi vào một cuộc hành trình lâu dài nhất, chưa từng được con người thực hiện. Mục tiêu của họ là một nơi ở cách xa hàng triệu dặm. Cả thế giới hướng đôi mắt về phía họ, trong khi bay tới một hành tinh trong không gian ở gần chúng ta nhất – mặt trăng. Họ đã đáp xuống tại một nơi trên mặt trăng, được biết đến như là Biển của Yên Tĩnh. Họ khám phá ra rằng nơi đây không có sự sống và cằn cỗi, và đã mang về một nắm đất và bụi. Tuy nhiên, Amstrong mô tả sứ mạng của họ là “một bước nhảy vọt đối với nhân loại”.
Lúc đó, đây là một tin vĩ đại. Bây giờ, dường như cuộc hành trình này mang tính cách khá mơ hồ. Hầu như chúng ta đã quên lãng điều đã từng xảy ra. Người ta đang hỏi nhau không hiểu cuộc hành trình đó đã đạt được gì, bất cứ điều gì ? Và những con người mà danh tính của họ đã từng ở trên môi miệng của tất cả mọi người, thì nay hiếm khi được nhắc nhở đến.
Hôm nay, người Kitô hữu chúng ta cử hành mầu nhiệm Nhập thể – việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đi vào thế giới của chúng ta. Người đã được một người trinh nữ thấp kém sinh ra, vào một thời điểm mà nền thông tin còn chậm chạp, và tại một đất nước nhỏ bé, không hề có biển yên tĩnh, mà chỉ có bối cảnh là những cuộc xung đột triền miên. Chỉ có một nhúm người biết về việc Người đã đến mà thôi.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nói về mầu nhiệm này và cử hành ngày lễ này. Sự nhập thể là giây phút vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Kết quả là mọi việc không bao giờ còn giống như trước nữa. Qua bao thời đại, các nghệ sĩ, nhà thơ, tác giả đã nhận ra tầm quan trọng của biến cố Nhập Thể.
Trong biến cố nhập Thể, chúng ta nhận ra được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Mặc dù Đức Kitô đến giữa chúng ta trong đôi tay trống rỗng và yếu đuối, nhưng Người vẫn mang đến cho chúng ta những ân sủng vô giá và tồn tại muôn thuở. Người đến để dạy cho chúng ta rằng chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quí của Cha trên trời, được tiền định vinh quang đời đời.
Có một người giáo viên rất muốn đưa ra những lời giảng dạy, hướng dẫn, phê bình và sửa sai. Ngay sau khi kết hôn, ông liền dạy cho vợ ông biết cách rửa bát đĩa, bởi vì ông cho rằng nàng làm việc này không đúng cách. Và với cách thức chỉ dạy của ông, nàng phải rửa lại từng cái đĩa, mà nàng đã rửa xong rồi, dưới sự giám sát của ông. Thay vì cho nàng nhìn thấy ví dụ cụ thể, bằng cách tự tay rửa bát, thì ông lại chỉ đưa ra những lời khuyên bảo và hướng dẫn. Đức Giêsu đã không làm như vậy.
Với tư cách Con Thiên Chúa, Đức Giêsu được chia sẻ cùng một bản chất thần thánh, giống như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nhưng trong sự Nhập Thể, Người đã tự mang lấy trên thân mình Người chính thân phận của chúng ta, đó là một thân phận yếu đuối, mỏng giòn, lệ thuộc vào tội lỗi và sự chết. Bởi vì cuộc đấu tranh và chiến thắng ở ngay trong bản chất của chúng ta, nên chúng ta cũng có thể được ích lợi từ bản chất đó. Và Đức Giêsu không hề đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, mà Người lại không tự mình thực hiện.
Từ đó, bạn có được mầu nhiệm Nhập Thể. Đó là mẫu thức của sự cứu độ. Thiên Chúa đã đi vào thế giới của chúng ta, cùng với những điều kiện sống của chúng ta. Người muốn cảm nhận được nỗi đau khổ của kiếp người, và chỉ ra cho chúng ta tính cách vĩ đại của con người. Bây giờ, chúng ta có được một Thiên Chúa, Đấng thấu hiểu chúng ta, mỗi khi chúng ta nói với Người về nỗi đau đớn của chúng ta. Nhưng Người cũng là một Thiên Chúa, Đấng sẽ không cho phép chúng ta được đắm mình trong nỗi đau khổ đó. Người sẽ không thỏa lòng, cho đến khi Người đòi hỏi được điều tốt đẹp nhất nơi chúng ta.
Con Thiên Chúa đến trên trái đất này, để chia sẻ thân phận của chúng ta, sao cho chúng ta có thể được chia sẻ trong sự thần thánh của Người. “Hai ông bà lấy tã bọc con trẻ, và đặt hài nhi trong một máng cỏ”. Đức Giêsu đã lớn lên chính từ nguồn gốc thấp kém này, để chỉ ra cho chúng ta thấy sự vĩ đại của nhân loại chúng ta.
Niềm vui của ngày này tràn đầy trong tâm hồn chúng ta và trên toàn thế giới. Đức Giêsu hướng dẫn chúng ta trên một cuộc hành trình còn táo bạo hơn của cuộc hành trình của các phi hành gia – cuộc hành trình đi đến vương quốc của sự sống đời đời.
 

 

9. Ánh Sáng

 

 Vào chiều Chúa Nhật ngày 1 tháng Sáu, năm 1975, Darrel Dore đang ở trên một giàn khoan dầu tại vịnh Mexico. Bất chợt, cái giàn lắc lư và ngả nghiêng qua một bên. Sau đó, nó đổ nhào xuống biển.
Trong khi xảy ra tai nạn đó thì Darrel đã bị kẹt trong một cái phòng ở trên giàn khoan dầu. Khi cái giàn chìm sâu xuống đáy biển thì ánh sáng trong phòng mà Darrel đang ở cũng dần dần tắt lịm, rồi nước dần dần trào vô ngập căn phòng.
Vùng vẫy trong bóng tối, Darrel bắt chợt bắt gặp một cái bong bóng lớn ở một góc phòng. Anh liền nhanh chân chạy đến và bỏ đầu anh vào cái bong bóng đó.
Sau đó, một ý tưởng rùng rợn "tôi sẽ bị chôn sống" đã xâm chiếm anh. Anh bắt đầu cầu nguyện lớn tiếng. Khi anh làm như thế, một sự kỳ diệu đã xảy ra. Anh phát biểu cảm tưởng đó như sau: "Tôi cảm thấy như mình đang nói chuyện với một ai đó. Chúa Giêsu đã ở với tôi. Tôi nhìn thấy ánh hào quang hoặc hình bóng của Ngài. Tôi cảm nghiệm được sự an ủi của Ngài đang hiện diện bên tôi. Ngài thật là sống động. Ngài đã ở đó."
Trong vòng hai mươi hai tiếng đồng hồ sau đó, sự hiện diện của Thiên Chúa tiếp tục an ủi Darrel. Tuy nhiên, sau đó, khí oxygen trong cái bong bóng bắt đầu hết. Darrel không thể thoát chết, chỉ là chờ thời gian.
Sau đó, một điều kỳ diệu thứ hai đã xảy ra. Darrel nhìn thấy một ánh sao sáng lung linh trong khối nước đen như mực. Ánh sáng đó có thật không, hay đó chỉ là ảo tưởng sau hai mươi hai tiếng đồng hồ của Darrel? Darrel nhắm mắt lại và mở ra. Ánh sáng từ cái ngôi sao đó hình như là càng sáng rõ hơn. Darrel lại tiếp tục nhắm mắt và mở ra.
Anh không phải đang gặp ảo tưởng, ánh sáng đó là ánh sáng thật. Ánh sáng đó phát ra từ cái mũ của người lặn nước. Đoàn cấp cứu đã lặn xuống và tìm thấy anh. Hai mươi hai tiếng đồng hồ hoảng sợ đã chấm dứt. Anh đã được cứu thoát!
Câu truyện có thật này là một minh họa diệu kỳ để diễn tả ý nghĩa ngày Lễ Giáng Sinh.
Tội lỗi đã làm lắc lư thế giới, và làm cho nó nghiêng ngả, rồi làm cho nó sụp đổ vào sự chết. Bóng tối đã tràn ngập tất cả, và loài người đã bị mắc kẹt trong thất vọng. Con người đang sống trong cảnh sụp đổ không thể tránh được.
Sau đó, trong cảnh trời u tối, một điều huyền diệu đã xảy ra. Một ánh sao lấp lánh trong khung trời tối. Thiên thần Chúa bỗng hiện đến bên họ và vinh quang Chúa rạng ngời bao quanh họ, làm họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng thiên thần nói với họ: "Đừng sợ! Này ta đêm tin mừng cho các ngươi về một niềm vui to tát, tức là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi vị Cứu Chúa, tức là Đức Kitô Chúa, trong thành Đavít" (Lc 2:9-11).
Và như thế cơn ác mộng đêm tối đã chấm dứt. Sự cứu giúp đã đến. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã xuống từ trời đến để cứu độ loài người, như là người nhái lặn biển đến cứu Darrel.
Nếu chúng ta có chọn một dấu hiệu gì để tượng trưng cho ý nghĩa của Giáng Sinh, thì chúng ta có thể chọn hình ảnh ánh sáng. Chúng ta chọn ánh sáng vì hai lý do sau:
Thứ nhất, Chúa Giêsu chính Ngài đã chọn ánh sáng để diễn tả tại sao Ngài đến trong thế gian. Ngài nói: "Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tăm tối, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống" (Ga 8:12).
Trước khi Chúa Giêsu đến trong Giáng Sinh, con người đã đi lạc và lảo đảo trong bóng tối. Qua Giáng Sinh, Chúa Giêsu đã biến đổi tất cả những điều đó. Ngài cứu giúp chúng ta từ trong bóng tối và chỉ cho chúng ta con đường đến với Chúa Cha.
Lý do thứ hai, ánh sáng là một biểu tượng hoàn hảo của Mùa Giáng Sinh, bởi vì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài: "Các ngươi là ánh sáng thế gian... Ánh sáng của các ngươi phải chói lọi trước mặt người ta, ngõ hầu họ thấy việc lành các ngươi làm mà tôn vinh Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời" (Mt 5:14, 16).
Nói một cách khác, cũng như Chúa Giêsu là ánh sáng cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải là ánh sáng cho kẻ khác. Chúng ta phải cho người khác biết con đường đi ra khỏi bóng tối, như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
Đó là ý nghĩa của Mùa Giáng Sinh. Chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của ánh sáng dập tan bóng tối. Mùa Giáng Sinh chúng ta cử hành là một sự thật, Chúa Giêsu đã đến như là một ánh sáng trong đêm tăm tối để cứu độ chúng ta và chỉ cho chúng con con đường đến với Chúa Cha. Mùa Giáng Sinh chúng ta cử hành là một sự thật mà Chúa Giêsu đã gọi chúng ta trở nên ánh sáng trong thế gian, như Ngài đã từng là ánh sáng.

 

10. Nhập Thể, một Tin Mừng trọng đại  

 
Suy Niệm của Lm Phêrô Trần Thanh Sơn 
 
 “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi.” Lời loan báo Tin mừng của sứ thần cho các mục đồng tại Bêlem cách đây hơn 2000 năm, cũng là lời mà Giáo Hội muốn gởi đến từng người chúng ta hôm nay.  Thật vậy, sau bao ngày chờ đợi và chuẩn bị, đêm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau nơi đây để mừng đại lễ Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một ngày lễ của Kitô giáo, nhưng còn là ngày lễ hội của tất cả mọi người trên thế giới. Với việc Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa, lịch sử con người đã bước sang một giai đoạn mới. Giai đoạn của niềm vui và hân hoan khôn tả. Chúng ta vui mừng vì Con Thiên Chúa đã đến và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường như chúng ta chỉ trừ tội lỗi (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Chúng ta vui mừng vì với việc Nhập Thể của Ngôi Lời, lời hứa cứu độ từ nguyên thuỷ nay đã trở thành hiện thực. Chúng ta còn vui mừng, vì từ nay, chúng ta đã có Con Thiên Chúa cùng đồng hành trong cuộc sống. Chúng ta không còn cô đơn, vất vả một mình trong kiếp sống con người. 
 1. Tin mừng được giải thoát  Tin mừng này đối với dân Do Thái, trước hết, đó là tin mừng của ngày được giải thoát khỏi ách nô lệ. Để thấy hết được niềm vui này của dân Chúa, chúng ta cần chú ý đến tâm trạng hoàn cảnh của họ lúc bấy giờ. Lúc đó, dân Do Thái đang sống trong cảnh lưu đày, kiếp sống của người nô lệ. Có lẽ, giờ này ngồi đây, chúng ta không cảm nghiệm được hết nỗi buồn khổ, tủi nhục của kẻ bị lưu đày. Để hiểu rõ tâm trạng này của họ, có lẽ chúng ta cần đặt mình trong hoàn cảnh của họ. Đó là tâm trạng của những người bị đày biệt xứ, không biết lúc nào mới được về lại nơi quê cha đất tổ. Cảm nghiệm nỗi buồn mất nước này, tác giả Thánh vịnh đã phải thốt lên: “Châu lệ là cơm bánh đêm ngày, khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi: “Này Thiên Chúa ngươi đâu?” (Tv 42 (41), 4), “Bờ sông Babilon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên… Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người?” (Tv 137 (136), 1-3a. 4).  Chính giữa nỗi buồn day dứt đó, chúng ta mới thấy hết được niềm hy vọng và vui mừng của dân khi nghe lời loan báo của vị ngôn sứ : “Cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. .. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Madian. Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm đẫm máu đào, sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa”. Không vui sao được khi họ sắp được trở về quê hương, được giải thoát khỏi ách nô lệ, đựơc trở lại thành một con người tự do. Niềm vui này thật to lớn, không thể nói hết được. Không chỉ loan báo ngày giải thoát, ngôn sứ còn hé mở cho thấy khuôn mặt của Đấng thực hiện lời hứa giải thoát này: “Bởi lẽ một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng tôi, và một người con đã được ban tặng cho chúng tôi. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai,…Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đavít”. Đây thực sự là một vị vua uy quyền nhưng cũng đầy tình nhân ái: “Thiên hạ sẽ gọi Nguời là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận”.  Lời hứa này đã được thực hiện. Dân Chúa đã được hồi hương vào năm -587. Thế nhưng, thực tế, họ cũng chưa hoàn toàn được tự do. Vì thế, dân Chúa vẫn luôn thao thức trông chờ ngày của Đấng Messia đến để thực hiện trọn vẹn lời hứa này. Và với việc Giáng Sinh của Đức Giêsu, niềm vui này đã trở nên hiện thực như lời thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Galata: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Người sinh bởi người nữ,… ngõ hầu chúng ta được chịu lấy quyền nghĩa tử” (Gl 4, 4-5).
 2. Tin mừng được cứu độ  Như thế, với việc Giáng Sinh của Ngôi Lời, niềm vui được giải thoát giờ đây được trở nên trọn vẹn, thánh sử Luca thuật lại: “Sự việc xảy ra, trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ và đặt nằm trong máng cỏ”. Chính Hài Nhi bé nhỏ nằm trong máng cỏ đơn sơ đó sẽ là Đấng đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, như lời các sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho các ngươi trong thành của Đavít”. Tin mừng giải thoát này cũng được thánh Phaolô chia sẻ với môn đệ Titô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta đã xuất hiện cho mọi người.... Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người”. Đức Giêsu sẽ “luyện sạch chúng ta”, nghĩa là khi Đức Giêsu đến, Ngài không chỉ giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của thân xác, mà quan trọng hơn, Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì như lời Ngài đã nói: “Phàm ai phạm tội, thì là nô lệ” (Ga 8, 34). Dân Do thái và chúng ta hôm nay, tuy không còn bị lưu đày về thân xác, nhưng tâm hồn chúng ta vẫn chưa được bình an. Chúng ta vẫn còn bị những dục vọng, cám dỗ của tội lỗi chi phối. Chắc từng người chúng ta cũng từng có cảm nghiệm của sự bình an và nhẹ nhõm trong tâm hồn sau khi làm hoà với anh chị em hay sau khi lãnh bí tích Hoà giải. Chính sự giải thoát này mới thực là niềm vui lớn nhất, ngôn sứ Isaia trong bài đọc một cũng đã cất tiếng ca mừng về điều đó: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”. Sự sáng mà ngôn sứ đã loan báo giờ đây đã trở nên hiện thực với việc Giáng Sinh của Đức Kitô: “Bấy giờ trong miền đó có những người mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật của mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ”. Ánh sáng của Ngài xóa tan bóng tối của tội lỗi, của sự chết. Với ánh sáng của Thiên Chúa, các mục đồng, những người bị coi là hèn hạ nhất trở thành những chứng nhân đầu tiên cho sự kiện có một không hai trong lịch sử. Sự kiện Con Thiên Chúa làm người. 
 3. Nhiệm vụ loan báo Tin mừng  Hôm nay, nhận được Tin mừng của Chúa, từng người chúng ta có bổn phận phải rao truyền Tin mừng đó cho mọi người như lời mời gọi của tác giả thánh vịnh trong bài đáp ca: “Ngày qua ngày hãy loan truyền ơn cứu độ của Người, hãy loan truyền vinh hiển Người giữa mọi nước, và những việc lạ lùng Người giữa các dân”. Chúng ta không thể loan truyền Tin mừng Giáng Sinh bằng những lễ nghi long trọng, đèn hoa rực rỡ tốn kém, hay những bữa tiệc linh đình, vì Chúa chúng ta chỉ chọn một máng cỏ hôi tanh của súc vật để làm nôi khi Ngài sinh ra. Có lẽ cách loan truyền Tin mừng Chúa Giáng Sinh đúng ý và đẹp lòng Thiên Chúa nhất là chúng ta biết sống yêu thương, kính trọng, đề cao, bênh vực con người, nhất là những con người bé mọn, những người bị thiệt thòi, bị bỏ rơi, bị gạt ra bên lề xã hội, đặc biệt là các thai nhi còn nằm trong bụng mẹ. Chúng ta hãy cho các em một cơ hội sống.  Giờ đây, noi gương Đấng đã tự hiến mình làm tấm bánh bẻ ra cho chúng ta được sống. Sau thánh lễ này, khi trở về nhà, chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ, để bất cứ ai tiếp xúc với chúng ta đều nhận ra được tình yêu của Chúa đang đến với họ. Nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ hưởng được niềm vui trọn vẹn của ngày lễ Giáng Sinh hôm nay. Amen. 

 

11. Ai thực sự mừng Lễ Chúa Giáng Sinh

 
Suy Niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
 
 Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến. Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu “thiện tâm” là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ. Chúng ta nghĩ đến Palextina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palextin lại chìm trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Và một khi bức tường ngăn cách được dựng lên, sự xích mích vốn không thể làm hòa từ bấy lâu nay, lại càng đào sâu thêm chia rẻ, giết chóc và thù hận. Khúc hát thiên thần: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu.  Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất Giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái ra khỏi nhà để vui đêm hội Giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá trị mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa? Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm hội Giáng sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người. Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an. Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa. Xin kính chúc mọi người một đêm an bình, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

 

12. Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người - JKN 

 
Chủ đề: Đức Giêsu đã trở nên người như chúng ta: cùng chịu đau khổ như chúng ta. Như vậy đau khổ ắt phải có giá trị tích cực của nó. Câu hỏi gợi ý :  1. Đức Giêsu có gặp nhiều nghịch cảnh như chúng ta không? Giữa Ngài và ta, ai nhiều nghịch cảnh hơn ai? Ta có thể rút ra kết luận gì về điều này? 2. Có cha mẹ nào yêu thương con mà lại bắt con phải chịu đau khổ một cách vô ích hoặc không cần thiết không? Nếu các ngài cứ bắt ép con mình phải chịu đau khổ, thì người con phải hiểu đau khổ ấy thế nào? có cần thiết hay không? 3. Vì yêu con người, Thiên Chúa muốn chia sẻ đau khổ với con người. Nếu ta yêu tha nhân, ta sẽ phải làm gì khi thấy họ phải đau khổ?
 CHIA SẺ  1. Đức Giêsu cũng gặp bao nghịch cảnh như chúng ta  Đức Giêsu chính là Thiên Chúa nhập thể, mặc lấy thân phận con người y hệt như chúng ta, chỉ khác với chúng ta ở chỗ không có tội lỗi mà thôi. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài cũng gặp biết bao nghịch cảnh như chúng ta, thậm chí ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ và khi vừa mới sinh ra.  Gần tới ngày Ngài chào đời thì cha mẹ Ngài phải lên đường đến một nơi cách nhà mình trên 120 cây số vì lệnh kiểm tra dân số của chính quyền. Tại nơi xa lạ này, gia đình Ngài đã không kiếm được một chỗ trọ để Ngài chào đời một cách xứng với phẩm giá một con người. Vì thế, hai ông bà đã phải chấp nhận cảnh sống bụi đời là tìm một chuồng chiên bò nào đó ở ngoài đồng để sinh con và tạm trú qua ngày. Và Đức Giêsu đã sinh ra trong một chuồng chiên bò. Ôi, thật là nhục nhã! Nghịch cảnh đâu đã hết, nó còn theo Ngài suốt cuộc đời: nào là phải trốn sang Ai Cập, rồi trở về Nadarét, nào là cảnh nghèo khổ, nào là tình trạng bị giới lãnh đạo tôn giáo ghen ghét và bách hại, bị dân chúng và cả môn đệ mình phản bội, bị đánh đòn, bị xỉ vả nhục nhã, bị chết thảm thương, v.v… Xét về hoàn cảnh, chúng ta may mắn hơn Ngài rất nhiều. Ngài vốn là Thiên Chúa, giầu sang quyền quí vô cùng, thế mà phải chịu như vậy. Chúng ta là ai mà lại mong muốn được ưu đãi hơn Ngài? Suy nghĩ điều ấy sẽ phát sinh một niềm an ủi rất lớn cho chúng ta.  2. Đau khổ và nghèo khó có giá trị của nó  Thân phận con người là một thân phận đau khổ và nghèo khó như một hậu quả tất yếu của tội nguyên tổ. Nếu đau khổ hoàn toàn không có ích lợi gì cho chúng ta, chắc chắn vì yêu thương chúng ta vô hạn, Thiên Chúa sẽ dùng quyền năng vô biên để giải phóng chúng ta hoàn toàn khỏi mọi đau khổ. Nhưng nếu Thiên Chúa vẫn để chúng ta phải đau khổ, và chính Ngài cũng sẵn sàng đau khổ cùng với chúng ta, tất nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi rất lớn cho chúng ta. Nếu không như thế, thì phải kết luận rằng: một là Ngài là người tàn ác, không yêu thương gì chúng ta, hai là Ngài không toàn năng, nghĩa là không đủ khả năng để giải phóng chúng ta khỏi đau khổ. Nếu Ngài yêu thương ta vô cùng lại toàn năng, mà lại để chúng ta đau khổ, ắt nhiên đau khổ ấy phải rất cần thiết và rất ích lợi cho chúng ta. Một minh họa tuy què quặt nhưng giúp ta dễ hiểu điều ấy: Cha mẹ yêu thương con không bao giờ muốn con phải khổ, dù chỉ là khổ một chút xíu. Nhưng nếu cha mẹ bắt con cái mình phải uống một thứ thuốc rất đắng, hay phải chịu roi vọt rất đau đớn, và chính cha mẹ cũng phải vất vả vô cùng mới kiếm được thứ thuốc đắng ấy, hay phải quặn ruột nhìn con khóc thét dưới lằn roi, tất nhiên thuốc đắng hay roi vọt ấy phải là cần thiết hoặc ích lợi cho đứa con. Thật vậy, thà bắt con khổ vì uống thuốc, đau vì roi vọt, còn hơn để con phải bệnh hoạn tật nguyền suốt đời, hay trở nên người hư hỏng hoặc vô giá trị sau này.   3. Đau khổ rất cần thiết và ích lợi để nên thánh, để hạnh phúc  Kinh nghiệm cho ta thấy đau khổ nhiều khi rất cần thiết để đạt được những ích lợi lớn hoặc để tránh những tổn thất nặng nề, chẳng hạn như: «quân trường thấm mồ hôi, chiến trường ít đổ máu», «gieo trong nước mắt thì gặt giữa vui mừng» (Tv 126,5-6). Kinh điển Phật giáo cũng nói: «Tất cả các phiền não đau khổ đều là hạt giống Như Lai. Tương tự như nếu mình chẳng lặn xuống biển sâu thì không thể tìm thấy châu báu vô giá. Cũng vậy, nếu mình chẳng chịu ngụp lặn trong bể cả phiền não, ắt mình không thể tìm được của báu là cái trí tuệ biết hết tất ca» (Kinh Duy-Ma-Cật, Phẩm 8: Phật Đạo). Theo Phật giáo, phiền não đau khổ là hạt giống Như Lai, sinh ra trí tuệ giải thoát.  Ta thấy: trên đời, những người có bản lãnh đều là những người phải kinh qua rất nhiều đau khổ, đều được đào luyện trong đau khổ. Đau khổ dạy cho chúng ta - thậm chí cả Đức Giêsu - nhiều bài học quí giá: «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục» (Dt 5,8). Ngay cả đối với Đức Giêsu, thì đau khổ cũng rất cần thiết để Ngài trở nên vị lãnh đạo hoàn hảo: «Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ để trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa con người tới nguồn ơn cứu độ» (Dt 2,10). Muốn sử dụng ai, Thiên Chúa thường dùng đau khổ để sửa dạy, để thánh hóa, để huấn luyện người ấy nên hoàn hảo: «Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt» (Dt 12,6). Gương của các thánh chứng minh điều ấy.  Như vậy, đau khổ có giá trị của nó, và chịu đựng đau khổ không phải là một chuyện vô ích. Nếu đau khổ và nghèo khó cần thiết và ích lợi cho chúng ta, mà Thiên Chúa lại không bắt chúng ta đau khổ và nghèo khó, thì chắc chắn Ngài chưa phải là người yêu thương chúng ta đích thực: vì «yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi». Hoặc Ngài chỉ yêu chúng ta một cách thuần túy tình cảm và điều ấy sẽ làm chúng ta hư hỏng: «con hư tại mẹ, cháu hư tại bà».   4. Thiên Chúa cùng chịu đau khổ và nghèo khó với con người  Dù đau khổ và nghèo túng là cần thiết cho chúng ta chứ không phải cho Thiên Chúa, nhưng nếu Ngài để chúng ta phải quằn quại trong đau khổ một mình, còn Ngài chẳng biết một chút gì về đau khổ, thì chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng cô đơn trong đau khổ, và chúng ta khó có thể tin được rằng Ngài yêu thương chúng ta. Nhưng nếu Ngài đã cùng muốn chịu đau khổ với chúng ta, và còn muốn chịu đau khổ hơn cả chúng ta nữa, thì điều đó chứng tỏ rằng Ngài đã yêu thương chúng ta đích thực. Qua cuộc giáng sinh của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân xuống thế làm người để cùng chịu đau khổ và nghèo nàn với chúng ta. Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của con người, đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của con người (xem lPr 2,24b). Điều ấy làm chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài đối với chúng ta là vô bờ bến, đồng thời cũng nhận ra giá trị của đau khổ và sự nghèo khó.   5. Hãy bắt chước Ngài chia sẻ đau khổ với những người chung quanh ta, nhất là những người nghèo túng, bị áp bức bất công  Nếu tình yêu đích thực đã thúc đẩy Thiên Chúa phải chia sẻ thân phận đau khổ và nghèo nàn của chúng ta, thì ta có thể rút ra một kết luận cho việc thể hiện tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Nếu chúng ta nói mình yêu ai, mà khi người ấy gặp đau khổ, chúng ta không hề cảm thấy phải làm điều gì để giảm bớt đau khổ cho người ấy, hoặc không tìm cách cùng chia sẻ đau khổ với người ấy, thì chúng ta chỉ là kẻ nói dối, tình yêu ấy chỉ là tình yêu ngoài môi miệng. Hễ yêu ai, thì khi thấy người ấy đau khổ, ta không thể khoanh tay đứng nhìn mà không làm gì. Nếu không làm giảm được đau khổ với người ấy, thì cũng có thể làm một việc gì để tỏ ra thông cảm. Chúng ta nghèo, Thiên Chúa cũng đã trở nên nghèo cùng với chúng ta. Vậy, làm sao chúng ta có thể nói rằng mình yêu thương người nghèo, khi chúng ta vẫn vui vẻ sống trên nhung lụa, và không hề quan tâm làm một điều gì cho người nghèo bớt nghèo. Làm sao ta có thể nói rằng mình yêu quê hương, trong khi mà quê hương đang đau khổ, đang tuột dốc xuống bờ vực thẳm, với bao nhiêu người bị bắt bớ, bị đàn áp một cách bất công, ta vẫn thản nhiên như người ngoài cuộc, chỉ biết hưởng thụ cuộc sống an vui mà may mắn đã dành cho ta?  Cầu nguyện  Lạy Cha, Cha đã cho Đức Giêsu nhập thể thành người để chia sẻ thân phận làm người với chúng con: cũng đau khổ, cũng nghèo khó, cũng đói cũng khát như chúng con. Qua sự nhập thể ấy, xin cho con nhận ra tình thương vô biên của Cha và sự cần thiết của những đau khổ trong đời sống của con. Con tin rằng Cha yêu thương con vô cùng và khôn ngoan vô biên, không bao giờ để con phải chịu đựng đau khổ một cách vô lý và không cần thiết. Con biết rằng hễ Cha để đau khổ xảy đến với con, ắt nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi cho con, dù con không hiểu được ích lợi thế nào. Xin cho con biết chấp nhận đau khổ như Đức Giêsu, đồng thời biết yêu thương và cảm thông với đau khổ của mọi người chung quanh con. Amen.

 

II. LỄ RẠNG ĐÔNG (Lc 2,15-20)

ĐÓN CHÚA GIÁNG SINH VỚI TÂM TÌNH NÀO?

(Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2,15-20)

Có lẽ sự nhộn nhịp của thánh lễ đêm hôm qua đã làm cho nhiều người cảm thấy rộn ràng, vui tươi và hạnh phúc. Nhưng bên cạnh đó cũng không thiếu những người cảm thấy mệt mỏi sau một đêm dài với biết bao nhiêu calo phải bỏ ra nơi những cuộc vui chơi, ăn nhậu và nhiều khi trụy lạc nơi những quán bar, nhà nghỉ…

Còn thánh lễ Giáng Sinh vào rạng sáng hôm nay, vẫn quen gọi là thánh lễ Rạng Đông thì lại là một thánh lễ rất êm đềm, không ồn ào, không náo nhiệt, không ca nhạc, kịch nghệ, chẳng có chương trình vui chơi giải trí gì…!

Đối tượng dự lễ cũng chỉ còn lại đa số là những cụ già, hay những người lớn tuổi hoặc một số bạn trẻ đạo đức mà thôi… còn lại, mọi người đang chìm trong giấc ngủ sâu!

Tuy nhiên, trong bầu không khí tưởng chừng như tĩnh lặng này, Giáo Hội lại cho chúng ta nghe bài Tin Mừng do thánh Luca trình thuật nói về việc các mục đồng hối hả đi tìm, thờ lạy và loan truyền về Hài Nhi Giêsu cho người khác. Điều này gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ?

1.              Các mục đồng đi tìm Chúa như thế nào?

“Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2, 15).

Đây là lời của các mục đồng nói với nhau sau khi đã được các thiên sứ báo tin cho biết Đấng Cứu Thế đã giáng sinh trong thành Belem.

Thánh sử Luca cho biết thêm: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).

Như vậy, thánh lễ Rạng Đông của ngày Giáng Sinh giờ này có thể được gọi là lễ Chúa tỏ mình ra cho các mục đồng.

Tại sao Chúa lại không tỏ ra cho những người quyền cao chức trọng, giàu có hay những nhà lãnh đạo tôn giáo, mà lại tỏ ra cho các mục đồng là những người nghèo, đơn sơ chất phát, thấp cổ bé họng…

Thưa đơn giản, bởi vì nơi các mục đồng có điểm tương giao với Hài Nhi Giêsu.

Thật vậy, khi Con Thiên Chúa hạ sinh nơi cánh đồng Belem chốn bò lừa thanh vắng, quạnh hưu và nghèo khó như vậy, phải chăng Đức Giêsu đã phá cách để làm toát lên bản chất của Thiên Chúa là tình yêu khi không cần đến sự giàu sang của con người, nhưng Ngài muốn một sự gần gũi. Không cần đến cái bề ngoài, mà là sự thiêng thánh, chân thành và đơn sơ.

Đây chính là câu trả lời cho chúng ta biết tại sao các mục đồng và Hài Nhi Giêsu lại “Đồng thanh tương ứng”, và họ lại là người đầu tiên được diễm phúc chứng kiến Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh.

Sự đồng cảm này đã làm cho tâm hồn các mục đồng có một ngọn lửa yêu mến đến tha thiết, nên họ đã tỏ ra rất nhạy bén và tinh tế với những gì đã được các thiên sứ loan báo cho họ. Vì thế, giữa đêm tối âm u lạnh lẽo, họ đã đốt đuốc và hối hả ra đi để mong cho được sớm gặp thấy Hài Nhi mới sinh. Khi gặp thấy “Em Bé sơ sinh bọc tả nằm trong máng cỏ”, họ đã tin và nhận ra đó chính là: “Đấng Cứu Độ, là Đấng Kitô, là Đức Chúa” như thiên sứ đã báo.

Cũng trong tâm tình ấy, họ đã nghiệm được ra tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại mà chính họ là những người đầu tiên được tận hưởng ân lộc lớn lao đó, vì thế, sau khi đã ra về, họ luôn kể về những gì đã thấy cho anh em mình.

2.         Con người hôm nay mừng lễ Giáng Sinh như thế nào?

Trên đây là tâm tình mừng Chúa Giáng Sinh của các mục đồng Belem, còn nhân loại và con người hôm nay mỗi khi lễ Giáng Sinh về, chúng ta đi tìm gì và đến với Chúa bằng tấm lòng nào?

Thực trạng thật cho thấy một sự trái ngược đến rõ nét giữa tâm tình và thái độ của các mục đồng thời xưa và con người ngày nay. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi những ngày trước lễ Giáng Sinh, nhiều người ưu tiên lo lắng cho những chuyện như: Giáng Sinh sắp đến rồi, chúng ta đã có tiền để mua đèn hoa trang trí chưa? Giáng Sinh năm nay chúng ta ăn gì, nhậu gì? Liệu có kiếm được món nào “độc” để đãi khách không?

Rồi đến chính đêm Giáng Sinh, nhiều người chủ yếu đi xem ca nhạc kịch, hay đèn hoa rực rỡ nơi các nhà thờ, khu phố…

Lựa chọn ưu tiên và hành động như thế, người ta đã biến lễ Giáng Sinh trở thành thời điểm mua sắm, ăn chơi hay như một lễ hội thuần túy!

Tuy nhiên, điều mà con người tưởng chừng như đem lại cho mình hạnh phúc, thì trên thực tế, hạnh phúc, niềm vui và bình an đích thực lại quá xa vời đối với họ, bởi lẽ những thứ họ tìm chính là những điều hoang tưởng hoặc chỉ là điều phụ thuộc bên ngoài.

Thật vậy, vui mừng sao được khi trong tâm không có sự chân thành. Hạnh phúc sao được khi sâu thẳm tâm hồn vẫn còn đó sự giận hơn chia rẽ. Bình an sao được khi trong tâm không có sự thánh thiện và đơn sơ!

Thiết nghĩ, khi mừng lễ Giáng Sinh với những thứ hình thức bề ngoài như vậy, chắc chắn họ sẽ không thể nào cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại. Và lẽ đương nhiên, họ không thể nào tin Chúa với một đức tin sống động như các mục đồng khi xưa, và lẽ tất yếu, không thể loan báo về Ngài cho người khác trong khi tâm hồn trống rỗng và hoang vu như vậy được.

3.         Lời mời gọi của Giáo Hội

Mỗi lần lễ Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái mình hãy noi gương các mục đồng khi xưa để tìm gặp, yêu mến, tôn thờ và loan báo về Chúa cho người khác.

Nếu xưa kia, các mục đồng đã khao khát, hối hả lên đường, tới nơi họ gặp Hài Nhi Giêsu và đã sấp mình thờ lạy, đồng thời khi ra về, họ kể lại cho những người khác được biết về những gì đã thấy trong niềm tin sâu sắc.

Thì sứ điệp ngày lễ hôm nay cũng gửi đến cho mỗi người chúng ta là: hãy để mầu nhiệm tình yêu Giáng Sinh của Chúa đụng chạm đến tận sâu thẳm tâm hồn. Hãy biết yêu mến, khát khao và tin thờ Chúa, vì chỉ có Ngài là đường, là sự thật, là sự sống, nguồn cội của niềm vui, bình an và hạnh phúc. Đồng thời, hãy cảm nghiệm và ra đi loan báo về tình thương của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh cho anh chị em chưa biết Chúa.

Thứ đến, cần phải có một tâm hồn đơn sơ, chân thành, khó nghèo. Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận trở nên nghèo hèn để cho chúng ta được nên giàu có. Ngài cũng chấp nhận cúi xuống để tôn vinh con người bằng sự nhập thể của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa đã coi trọng đến tuyệt đối nhân phẩm và nhân vị của từng người, nhất là người nghèo. Thế nên, dù trong hoàn cảnh, môi trường nào, đời sống và cung cách của những Kitô hữu không thể trở thành người xa lạ, vô cảm, dửng dưng với một trái tim hóa đá đối với những anh chị em kém may mắn hơn mình.

Chỉ khi nào chúng ta có được tâm tình liên đới, yêu thương và huynh đệ với nhau, chúng ta mới thực sự hạnh phúc và bình an để cảm nghiệm và hát lên bài ca mà các sứ thần đã cất lên trong đêm Con Thiên Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Vẫn một tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, nghèo khó và xác tín mạnh mẽ như các mục đồng khi xưa, giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ, để chỉ lát nữa thôi, mỗi người cũng sẽ được đón nhận chính Chúa Hài Nhi Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vào trong tâm hồn của mình, để Ngài trở thành nguồn suối bình an, vui tươi và hạnh phúc cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin Chúa ban cho chúng con biết sống đơn sơ, trong trắng như các mục đồng khi xưa, để tâm hồn chúng con được diễm phúc đón Chúa đến viếng thăm và ở lại với chúng con. Amen.

 

Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.

 

1. SỐNG LỜI CHÚA - ĐÊM GIAO HÒA

 

 Có một chuyện ngắn, mang tựa đề là “Người khách cuối cùng”, tôi xin được tóm tắt  như sau :
Thôn ấp Bêlem còn chìn trong bóng tối. Hài nhi Giêsu còn thiếp ngủ trong máng cỏ. Bỗng cửa chuồng bò mở ra. Một bà lão xuất hiện. Thân hình gầy guộc. Nước da nhăn nheo. Áo quần rách rưới. Maria nhìn bà lão bằng cặp mắt canh chừng, lo âu và thoáng một chút sợ hãi.
Bà lão tiến lên, tiến lên nữa, đến tận máng cỏ. Rất may là Hài nhi Giêsu vẫn còn ngủ yên. Nhưng rồi bất ngờ, đôi mắt Hài nhi Giêsu khẽ mở và nhìn bà lão. Maria càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy cặp mắt của bà lão giống hệt cặp mắt của Hài nhi Giêsu, vì cả hai cùng sáng lên một tia hy vọng. Bà lão nghiêng mình trên máng cỏ. Bàn tay thọc sâu vào trong túi. Dường như bà lão lấy ra một vật gì đó, rồi đặt xuống bên cạnh Hài nhi Giêsu. Maria thắc mắc không hiểu là vật gì.
Yên lặng một lúc, bà lão đứng lên và cất bước. Như có một sức mạnh thần bí thúc đảy, bà lão bước đi nhanh nhẹn. Lưng không còn còng xuống và nét mặt lấy lại được vẻ tươi trẻ. Bà lão mất hút trên khoảng đồi xa xa. Bấy giờ, ngọn gió không còn lạnh cóng vì hừng đông đã ló dạng. Maria lại gần bên máng cỏ xem bà lão đã để lại vật gì. Maria vô cùng ngạc nhiên và kêu lên :
- Ôi, một quả táo vàng.
Bà lão ấy là hình ảnh tượng trưng cho Evà, đã trao lại cho Hài nhi Giêsu quả táo của tội lỗi đầu tiên. Và giờ đây, Hài nhi Giêsu đang cầm trên tay như cầm một trái cầu nhỏ, cho một thế giới mới xuất hiện.
Bà lão ấy còn là hình ảnh tượng trưng cho toàn thể nhân loại chúng ta. Thực vậy, tội nguyên tổ đã ảnh hưởng trên chúng ta, khiến chúng ta phải cúi đầu lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Tội nguyên tổ là như chiếc móc xích đầu tiên, kéo theo tội lỗi của toàn thể nhân   loại : Từ tội của Cain, tội của ngọn tháp Babel cho đến tội của mỗi người chúng ta, đã làm cho sợi dây xích ấy kéo dài ra tưởng như vô tận, biến con người trở thành thù địch với Thiên Chúa và với nhau. Tội nguyên tổ là như một trái phá, đã giật sập cây cầu cảm thông, nối liền trời với đất, nối liền Thiên Chúa với nhân loại.
Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là vực thẳm ngăn cách, tự sức riêng, con người không thể nào vượt qua để tìm về gặp gỡ. Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là giông tố và xáo trộn, tự sức riêng, con người không thể đem lại một nền hòa bình và ổn định. Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là thất vọng và đắng cay, tự sức riêng, con người không thể thắp lên cho mình niềm hy vọng giải thoát và cứu độ. Con người sinh ra là để kéo lê một kiếp sống đọa đày và sẽ kết thúc bằng cái chết.
Thế nhưng, Thiên Chúa đã lên đường tìm kiếm. Và đêm hôm nay, bàn tay Ngài đã nắm chặt lấy bàn tay nhân loại, cho tình yêu mở hội đâm bông và kéo chúng ta khỏi hố sâu tội lỗi, khỏi vực thẳm diệt vong. Ngôi Lời đã nhập thể. Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta.
Hài nhi Giêsu đã hòa giải nhân loại với Thiên Chúa, đã nối lại nhịp cầu cảm thông giữa trời và đất, đã thắp lên cho chúng ta niềm hy vọng. Hài nhi Giêsu là Adong mới, đã gánh lấy tội lỗi chúng ta, nhờ đó chúng ta được tha thứ, được thoát khỏi bản án của tử thần. Hài nhi Giêsu đã chiến thắng sự chết, để con người phải chết của chúng ta được sống muôn đời. Hài nhi Giêsu đã đem lại cho chúng ta nguồn sống mới, khiến chúng ta lấy lại được vẻ đẹp nguyên thủy, chưa từng bị hoen ố bởi tội lỗi, để từ nay chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Hài nhi Giêsu đã mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của vui mừng và hy vọng, kỷ nguyên của ơn sủng và tình thương. Hài nhi Giêsu là một nhà cách mạng chuyên chính nhất, bởi vì Ngài đã xóa sạch mọi dấu vết của tội lỗi, đã khai sinh một triều đại mới trong công bằng và tự do, cũng như đã xây dựng một con người mới trong yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
Mặt đất này không còn là hoang mạc cằn cỗi, nhưng đã trở thành thửa vườn xanh tươi của Thiên Chúa. Xã hội này không còn là một địa ngục, trong đó người với người là như chó sói của nhau, nhưng đã thực sự trở nên một thiên đàng vì có Thiên Chúa ở cùng.
Hãy cảm tạ tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, đồng thời hãy cộng tác với Ngài trong việc biến đổi bộ mặt thế giới, để mỗi ngày một trở nên tốt đẹp hơn.
 

 

2. SN GLCN/23- SỨ ĐIỆP

 

 Con người đầu tiên Ađam trở nên hữu thể có sự sống, còn Ađam cuối cùng trở nên Thánh Thần ban sự sống. Đức Thánh Cha trích lại lời thơ Côrintô, đó là những lời của thánh Phaolô tông đồ tổng kết mầu nhiệm nhân loại được Chúa Kitô cứu chuộc, một mầu nhiệm được giấu ẩn trong chương trình đời đời của Thiên Chúa; một mầu nhiệm theo một nghĩa nào đó đã trở thành lịch sử với sự nhập thể của Ngôi Lời hằng hữu của Thiên Chúa Cha; một mầu nhiệm mà Giáo Hội đang sống một lần nữa với niềm xúc động sâu xa trong lễ Giáng sinh.
Ađam là con người đầu tiên, Chúa Kitô là thần khí ban sự sống. Những lời của thánh tông đồ Phaolô giúp chúng ta nhìn sâu xa hơn, giúp chúng ta nhìn nhận nơi con trẻ Giáng sinh tại Belem là Con Chiên đã bị hiến tế và là Đấng mạc khải ý nghĩa của lịch sử. Lúc Người Giáng sinh, thời gian và vĩnh cửu gặp nhau, Thiên Chúa sống trong con người và con người trong Thiên Chúa.
Con người đầu tiên Ađam trở thành hữu thể có sự sống, thiên tài bất tử Michel-Ange đã vẽ ra trên trần nhà nguyện Sixtin giây phút Thiên Chúa Cha trao ban hồng ân sự sống cho con người đầu tiên và làm cho nó trở thành hữu thể có sự sống. Giữa ngón tay của Thiên Chúa và ngón tay của con người đưa ra hướng về nhau và gần như là chạm vào nhau nơi mà cách đó xem ra như có một lằn lửa vô hình. Thiên Chúa thông truyền cho con người sức mạnh của chính Ngài khi tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài và giống như Ngài.
Thần khí này là phẩm vị duy nhất của mọi hữu thể con người, của khát vọng vô cùng của nhân tính hướng về cái vô cùng. Tâm tư chúng ta ngày hôm nay hướng về chính lúc đầu tiên của mầu nhiệm không thể hiểu thấu được, giây phút của khởi đầu sự sống con người trên mặt đất. Khi chúng ta chiêm ngắm Con Một của Thiên Chúa Cha trở thành con người, dung mạo đời đời của Thiên Chúa được phản chiếu trong dung mạo của con trẻ. Con người đầu tiên Ađam trở thành hữu thể có sự sống do bởi lằn lửa Thần đặt vào bên trong con người, mà con người là một hữu thể có trí khôn và sự tự do, và như thế có khả năng chịu trách nhiệm quyết định đối với chính mình và vận riêng của mình.
Bức họa nổi tiếng  của nhà nguyện Sixtin được tiếp tục với cảnh về tội nguyên tổ, con rắn cuốn tròn theo thân cây thuyết phục đầu tiên của nguyên tổ chúng ta ăn trái cây đã bị cấm. Thiên tài của nghệ thuật và chiều sâu của biểu tượng của Kinh Thánh được hòa nhập tuyệt vời với nhau để gợi lên giây phút bi thảm đó, khởi đầu của một lịch sử phản loạn, tội lỗi và đau buồn từ phía nhân loại. Nhưng thử hỏi, Thiên Chúa có thể bỏ quên công việc do tay Ngài tạo nên tuyệt tác của tạo vật hay không ? Chúng ta biết được câu trả lời của đức tin như sau : “Khi thời giờ đã nên trọn, Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống sinh ra bởi người nữ, sinh ra trong lề luật để cứu chuộc những ai sống dưới lề luật, ngõ hầu chúng ta có thể trở nên dưỡng tử của Ngài”.
Những lời của thánh tông đồ Phaolô vang lên với sự hùng hồn đích thực khi chúng ta chiêm ngắm biến cố Giáng sinh. Nơi con trẻ mới sinh nằm trong máng cỏ, chúng ta chúc mừng Ađam mới trở thành Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Trọn cả lịch sử của thế giới hướng về Người, Đấng được sinh ra tại Belem, ngõ hầu thiết lập lại niềm hy vọng cho từng người nam, nữ trên mặt đất này.
Từ máng cỏ, đôi mắt của chúng ta hôm nay nhìn về toàn thể nhân loại, một nhân loại được mời gọi lãnh nhận hồng ân của Ađam thứ hai, dù còn lãnh nhận phần gia tài tội lỗi của Ađam thứ nhất. Thử hỏi, có phải lời thưa không đầu tiên với Thiên Chúa  được lặp lại trong mỗi tội con người phạm ? Thử hỏi, có phải lời thưa không đầu tiên đó tiếp tục làm méo mó dung mạo của nhân loại hay không ? Những trẻ thơ phải gánh chịu bạo lực, bị hạ nhục và bỏ rơi. Những người nữ bị hãm hiếp và bị lạm dụng khai thác. Những người trẻ, những người lớn và những vị cao niên bị loại ra ngoài lề xã hội. Những lớp người khốn cùng bị đi đày và đi tỵ nạn, bạo lực và xung đột tại biết bao nơi trên thế giới.
Tôi lo âu nghĩ đến thánh địa, nơi mà bạo lực tiếp tục làm cho con đường khó khăn dẫn đến hòa bình bị nhuỗm máu. Và có thể nói gì về những quốc gia mà giờ đây tôi đặc biệt nghĩ đến Indonesia. Có thể nói gì về những quốc gia nơi mà những anh chị em chúng ta trong đức tin đang phải trải qua những giây phút khó khăn của thử thách và đau khổ. Chúng ta không thể không gợi lại hôm nay rằng, những bóng tối của sự chết chóc đang hăm dọa mạng sống con người ở mọi hạng tuổi và đặc biệt đang hăm dọa mạng sống con người vào ngay lúc khởi đầu và lúc kết thúc tự nhiên của nó. Càng trở nên mạnh mẽ hơn nữa, cám dỗ muốn làm chủ sự chết bằng cách làm cho nó đến sớm hơn dường như thể chúng ta là người chủ của mạng sống mình và mạng sống của những kẻ khác. Chúng ta đang đối diện với những dấu chỉ báo nguy của một nền văn hóa sự chết đang hăm dọa nghiêm trọng tương lai.
Tuy nhiên, cho dù bóng tối xem ra dày đặc đến mấy đi nữa, niềm hy vọng của chúng ta vào sự chiến thắng của ánh sáng đã xuất hiện trong đêm thánh tại Belem còn mạnh mẽ hơn. Quả thật, có biết bao điều tốt đã được thực hiện một cách âm thầm bởi những con người nam, nữ hằng ngày sống đức tin, chu toàn công việc và dấn thân phục vụ gia đình của họ và phục vụ điều thiện hảo của xã hội. Cũng thật là khích lệ vào những cố gắng của những ai, kể cả những con người nam, nữ trong đời sống công cộng, đang cố gắng cổ võ cho sự tôn trọng nhân quyền của mỗi một người và cổ võ sự gia tăng tình liên đới của các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau, ngõ hầu món nợ của những quốc gia nghèo nhất được giải tha, ngõ hầu hiệp ước hòa bình trong danh dự được đạt đến giữa các quốc gia đang xung đột với nhau thật bi thảm.
Với các dân tộc khắp nơi trên thế giới đang can đảm tiến đến các giá trị dân chủ, sự tự do, sự tôn trọng và chấp nhận lẫn nhau. Với tất cả mọi người thiện chí bất luận thuộc về nền văn hóa nào, sứ điệp vui mừng của mùa lễ Giáng sinh hôm nay được gởi đến cho họ là : “Hòa bình dưới thế cho con người được Thiên Chúa yêu thương”.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã Giáng sinh tại Belem vì chúng con, Chúa đã yêu cầu nơi nhân loại đang bước vào ngàn năm mới hãy tôn trọng từng người, nhất là những kẻ bé mọn và những người yếu đuối. Chúa yêu cầu chấm dứt mọi hình thức của bạo lực, chấm dứt chiến tranh, đàn áp và mọi tấn công vào sự sống.
Lạy Chúa Kitô mà chúng con hôm nay chiêm ngắm nằm trong vòng tay của Mẹ Maria, Chúa là lý do cho niềm hy vọng của chúng con, thánh Phaolô đã nói với chúng con rằng, điều cũ đã qua rồi và đây điều mới đã đến. Trong Chúa và chỉ trong Chúa mà thôi nhân loại được ban cho cơ may để trở thành tạo vật mới.
Lạy Con Trẻ Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì món quà này, nguyện chúc tất cả lễ Giáng sinh đầy hạnh phúc.
 

 

3. NOEL : ÁNH SÁNG

 

 Trong suốt 500 năm, mỗi năm cứ vào đêm Giáng Sinh, dân chúng tại một thành phố nọ đều tập trung lại với nhau, không phải để mừng lễ Giáng Sinh, NHƯNG ĐỂ CHỜ ĐỢI NGÀY CHÚA TRỞ LẠI. Trước nửa đêm, họ đốt đèn, hát thánh ca, rồi đi kiệu đến một giáo đ ường đổ nát. Tại nơi đây, họ dựng một hang đá bên trong và với tất cả lòng thành, họ cùng nhau quỳ gối cầu nguyện. Ánh nến cũng như những bài thánh ca như có sức xua đuổi được cái lạnh của đêm Giáng Sinh.Trừ những người ốm đau bệnh tật, tất cả mỗi người trong thành phố đều có mặt ở đó; ai cũng được thúc đẩy bởi niềm xác tín rằng nếu tất cả dân thành đều cầu nguyện một cách thành tín, thì đúng vào lúc nửa đêm, Chúa Giêsu sẽ trở lại. Thế nhưng, NGÀY TRỞ LẠI CỦA CHÚA GIÊSU VẪN CHƯA BAO GIỜ XẢY ĐẾN. Khi được hỏi: “Bạn có thực sự tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong đêm Giáng Sinh tại thành phố của bạn không?” Nhân vật chính của câu chuyện trả lời: “Không, tôi không bao giờ tin như thế!” Một câu hỏi khác được đặt ra: “Vậy, tại sao bạn lại đến đây mỗi năm?” Nhân vật nầy mỉm cười trả lời: “Nếu như Đức Kitô thực sự trở lại trong đêm đó, và nếu tôi là nguời duy nhất vắng mặt thì sao?”
Chắc hẳn câu chuyện trên đây hàm chứa một bài học nào đó. Giữa đêm tăm tối bao trùm vạn vật, Ánh Sáng Chúa Kitô đã bừng lên, mang một bầu khí mới cho nhân loại. Bài Phúc Âm của Thánh Gioan trong Ngày Lễ Giáng Sinh đã nhắc lại nguồn sáng đó: "Ở nơi Người vẫn có Sự Sống, và Sự Sống là Sự Sáng của nhân loại".
Hơn 2000 năm nay, Ánh Sáng Chúa Kitô đã chiếu soi vào trần gian, nhưng vẫn còn bao nhiêu người chưa hưởng nhờ, hoặc chưa muốn nhận Ánh Sáng đó. Lời thánh Gioan đã minh chứng điều đó trong bài Tin Mừng của Ngài như sau: "Sự Sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận Sự Sáng".Thật vậy, chỉ thoáng nhìn vào thực trạng của thế giới hôm nay, chúng ta phải thành thực mà nhận rằng: quyền lực của tối tăm đang hoành hành mạnh mẽ trong thế giới hôm nay. Nhiều mãnh lực đang làm suy giảm nền luân lý của các quốc gia, các thành phố và các gia đình. Bao nhiêu người công giáo đã mất đi ý thức về tội lỗi: Coi phá thai, ngừa thai, ly dị, làm hôn thú giả, kết bạn giả là những việc làm thường tình ở ngoài đời, họ làm được thì người công giáo làm được có sao đâu, vì căn cứ vào luật Hội Thánh và 10 giới răn của Chúa đâu có khoản nào cấm không cho làm đâu?
Giáo Hội mời gọi chúng ta không được đóng khung, nhưng mở rộng lòng chia sẻ nổi khổ của tha nhân. Hãy chia sẻ cho họ những Hồng Ân chúng ta đã nhận lãnh do lòng từ bi của Thiên Chúa. Thánh Nữ Têrêsa đã thường nói: "Tất cả những gì chúng ta có đều do Hồng Ân của Chúa ban". Chúng ta được mời gọi chia sẻ cho tha nhân những Hồng Ân đã nhận được bằng cách nầy hay cách khác để tha nhân cũng nhận biết Ánh Sáng Chúa Kitô. Đây là những điều thiết thực chúng ta sống và thực thi sứ điệp Giáng Sinh trong thế giới hôm nay.
Sau hết, mỗi người thử tự hỏi chính mình chỉ một câu hỏi thôi: Lễ Giáng Sinh năm nay, có ai ngoài thân nhân, bạn bè đã nhận được từ chúng ta một lời cầu chúc Giáng Sinh, một phần quà nho nhỏ theo tinh thần Chúa mời gọi trong Mùa Hồng Ân năm nay không? Chừng nào Chúa Giêsu sẽ trở lại? Chúng ta không thể biết được… Nhưng từng giây phút của cuộc đời, Ngài vẫn gởi đến cho chúng ta những Anh Chị Em của Ngài, chúng ta gặp gỡ Ngài TRONG những Anh Chị Em khốn khổ nầy. Vì chính khi Ngài đến, Ngài sẽ hỏi chúng ta đã làm gì cho những người hèn mọn kém may mắn nầy? Nếu như Ngài sẽ trở lại trong mùa Giáng Sinh nầy và Ngài sẽ hỏi chúng ta rằng: ”Những Anh Chị Em kém may mắn có gặp gỡ chúng ta trong những ngày nầy không?” Chúng ta sẽ trả lời với Chúa Giêsu như thế nào?
 

 

4. NOEL : Đêm Thánh Vô Cùng

 

 Người tín hữu Công Giáo mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sinh xuống trần thế làm người vào đêm 24 sang ngày 25 tháng 12 hằng năm. Đêm mừng kỷ niệm đó là đêm thánh. Tại sao đêm này lại là đêm thánh? Phải chăng đêm này khác hơn mọi đêm? Đêm này đã trở nên đêm thánh, vì Chúa Giêsu, con Thiên Chúa sinh ra xuống thế làm người trong đêm này. Đấng Thánh sinh ra trong đêm này đã biến nó thành đêm thánh.
Đêm 24 sang ngày 25 tháng 12 đối với thời tiết xứ lạnh vào mùa đông như bên các xứ vùng Bắc bán cầu, là đêm dài nhất trong năm. Thời tiết đêm này là đỉnh cao của mùa đông, tối đen dầy đặc. Đêm này khác nào như một mốc trụ, một bản lề xoay chuyển cánh cửa từ từ mở sang phía khác. Bắt đầu từ đây, ngày sáng từ từ dài hơn và đêm tối dần dần ngắn lại. Chúa Giêsu đến trần gian trong đêm tối dầy đặc mù mịt. Ngài đến mang ánh sáng cho đêm tối: Ánh sáng vĩnh cửu mang xuống trần gian tia sáng mới. " Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người ?
Đã có nhiều lần trong đời chúng ta bỗng chốc bừng tỉnh, mặt mày nhất là đôi mắt như chiếu toả một luồng sáng, miệng nở nụ cười tươi thắm, tâm hồn cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng và kêu lên: Tôi đã tìm ra giải đáp rồi! Một tia sáng đã soi giúp tôi nhận ra lối thoát! Một tia sáng bừng lên trong tâm trí! Tia sáng này chúng ta không dùng ngón tay ấn vào nút bật điện ở bờ tường và ánh sáng đền điện toả sáng lên, hay một bạn trẻ bật diêm quẹt lấy lửa châm hút điếu thuốc, đốt sáng ngọn cầy, đốt củi lò sưởi? Không, tia sáng này không do tay ta tác tạo nên. Tia sáng này là quà tặng từ trời cao chiếu thẳng vào tâm trí ta, khiến ta bừng tỉnh. Tia sáng này chiếu soi khắp phủ lục ngũ tạng trong người, khiến ta rạo rực bừng lên niềm vui phấn khởi và chiếu toả ra bên ngoài qua gương mặt đôi mắt! Ánh sáng đèn điện hay đèn xe hơi chiếu toả ánh sáng soi đường lối đi, nhưng chói loà làm đau nhức đôi mắt, khi nhìn thẳng vào nó và phải nhắm mắt hay nhìn sang phía khác. Trái lại, tia sáng chiếu toả từ trong tâm trí khiến đôi mắt mở to và gương mặt rạng sáng.
Các cây thông Noel được trang trí với đèn điện, giây kim tuyến, những quả cầu tròn to nhỏ thật óng ánh rực rỡ. Nhưng hang đá, dù nhỏ hay to trong thánh đường, tại tư gia hay trên các hình chụp, đều chiếu toả ra một bầu khí đầm ấm, không như ánh sáng của những ánh đèn nóng rực cực mạnh chiếu vào. Từ Hài Nhi Giêsu trong hang đá chiếu toả ra một làn ánh sáng nhẹ ấm cúng. Tia sáng này không sáng rõ đủ để có thể đọc được chữ, nhưng nó lan toả vào tận trái tim tâm hồn người đến ngắm nhìn, đến bái lạy Haì Nhi Giêsu là nguồn ánh sáng tình người. Ánh sáng chiếu toả từ Hài Nhi Giêsu trong hang đá không là tia sáng soi mói tò mò, nhưng giúp ta nhận ra giới hạn yếu kém của bản thân con người. Tia sáng này cũng không là một liếc nhìn khiển trách của Chúa là Đấng Thánh, nhưng là lời mời gọi: Các Bạn đừng sợ! ( Lc 2,10). Ánh sáng này mang đến tha thứ niềm vui và bình an cho người đón nhận nó.
Đêm thánh là đêm ánh sáng tình người: Thiên Chúa làm người, để con người giữ địa vị làm người của mình.
 

 

5. NOEL : Chúc Mừng Giáng Sinh

 

 Tháng 9 năm 1897, một bé gái 8 tuổi tên là Virginia đã viết cho một tờ báo Công Giáo Hoa Kỳ để hỏi về ông già Noel. Câu hỏi của cô bé là: Ông già Noel có thật không? Vài ngày sau, trên mục quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau: "Virginia yêu dấu của bác. Điều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu đã bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không có gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được…Chỉ có đức tin, chỉ có tình yêu mới có thể vén mở được bức màn bí mật của thế giới của chúng ta.”
Lá thư gửi cho cô bé Virginia trên đây đưa chúng ta vào trung tâm điểm của ngày Giáng Sinh: Giáng Sinh là lễ của nhi đồng, bởi vì nhân vật chính của ngày lễ là một Em Bé. Một Em Bé cũng như muôn ngìn em bé sinh ra trên cõi đời này. Em Bé đó chính là niềm vui và hy vọng cho tất cả mọi người. Cùng với Em Bé đó, tất cả các em bé đều mang lại niềm vui cho mọi người trong mùa Giáng Sinh. Bầu khí Giáng Sinh là bầu khí của nhi đồng. Từ hoa đèn, âm nhạc cho đến quà cáp, tất cả đều hướng về các em nhi đồng... Người cho đã vui mà người nhận còn vui hơn: chính các em bé là những người đã dạy cho người lớn biết vui với niềm vui ban phát. Bao lâu con người còn có thể mở cửa tâm hồn, bao lâu con người còn có thể mở rộng bàn tay để ban phát, để chia sẻ thì bấy lâu ông già Noel của hy vọng, của quảng đại, của hân hoan vẫn còn sống mãi trong tâm trí của trẻ em và không biết bao nhiêu người sầu khổ.
Giáng Sinh là ngày của nhi đồng do đó cũng là lễ của hòa bình. Một em bé sinh ra là một hy vọng mới chớm nở. Hy vọng là tên mới của hòa bình. Còn hy vọng là còn muốn xây dựng. Xây dựng trên mầm sống đã đành mà còn xây dựng trên những đổ vỡ, mất mát. Qua hài Nhi Giêsu, tất cả các em bé trên thế giới đang nhắn gửi đến từng người trong chúng ta niềm hy vọng vào thiện chí của con người. Hòa bình là hoa quả của hy vọng. Còn tin nơi con người, chúng ta còn có thể xây dựng hòa bình.

 

6. Lễ Sinh Nhật đầu tiên được mừng thế nào?

 

Suy Niệm của Lm Trần Bình Trọng
 
Trong đêm Giáng sinh đầu tiên chỉ có ít nhân vật được chứng kiến cảnh hang đá Bê-lem: Đó là Mẹ Maria, thánh Giu-se, các thiên thần, mấy người mục đồng và đàn chiên bò lừa. Lễ Sinh nhật đầu tiên được mừng nơi hang đá máng cỏ của chiên bò lừa, chứ không phải trong nhà, cũng không ở trong khách sạn, hay tại nhà thương. Ngày nay người ta thường làm những cảnh hang đá máng có trông thật đẹp mắt. Tuy nhiên chính cái nơi Chúa Cứu thế sinh ra chỉ là cái hang mục đồng, có thể là dơ bẩn, hôi hám.
Thánh lễ rạng đông của ngày Giáng sinh quen gọi là lễ mục đồng. Phúc âm hôm nay kể lại: Nào ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xẩy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết (Lc 1:15). Tại sao các mục đồng lại nhanh chóng đáp lại sứ điệp của các thiên thần như vậy? Theo thánh kinh thuật lại, thì các mục đồng là những người canh thức để trông giữ đoàn chiên. Nếu họ ngủ thì đã không nhận ra các thiên thần, không nghe được tiếng các thiên thần, và đã không thấy ánh sáng từ trời toả xuống. Các mục đồng là những người đơn sơ chất phác nên đã đặt tin tưởng vào lời các thiên thần, để làm quyết định đi xem hiện tượng kỳ lạ ở Bê-lem. Các mục đồng là những người sống gần gũi với thiên nhiên, nên dễ nhận ra những dấu vết, những kỳ công của Đấng tạo hoá. Họ dễ có cái cảm giác kính sợ, cái cảm giác lạ lùng trước những quyền lực thiên nhiên của tạo hoá như bão tố, sấm sét.. Đó chính là điều mà Phúc âm hôm nay ghi lại: Ánh vinh quang của Thiên Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng (Lc 2:9). Không phải gắn bó với những ràng buộc vật chất nên khi nghe thấy có hiện tượng lạ, các mục đồng có thể nhẹ gánh ra đi cùng với đàn chiên, không cần phải giàn xếp công việc nhà.
Làm sao mục đồng có thể nhận ra hài nhi mới sinh trong máng cỏ là Đấng cứu thế? Mỗi người có thể tìm ra những câu trả lời khác nhau. Để giúp ta dễ dàng trả lời, ta có thể đặt câu hỏi cách khác. Ai là những người dễ nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời sống? Ai là những người dễ nhận ra những dấu vết, những kỳ công của Thiên Chúa? Người ta phải có tâm hồn hay tạo ra tâm hồn như thế nào để dễ nhận ra sự hiện diện của Chúa. Thời đại và hoàn cảnh ta đang sống không có những điều kiện và môi trường thiên nhiên của người mục đồng để ta dễ dàng nhận ra những dấu vết của Thiên Chúa. Tuy nhiên hàng ngày xung quanh ta vẫn có những dấu vết của việc Thiên Chúa hiện diện. Ta chỉ cần mở mắt tâm hồn là có thể nhận ra được.
Phúc âm hôm nay ghi lại: Các mục đồng trở về vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, về mọi điều họ đã được tai nghe mắt thấy theo như họ đã được loan báo (Lc 2:20). Ước chi hôm nay ta cũng trở về ca tụng Thiên Chúa về những điều ta được nghe và thấy và cảm nghiệm được, sau khi ta đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa để sống và thực thi đức tin.
Còn mẹ Maria mừng lễ sinh nhật đầu tiên ra sao? Thánh kinh nói rất ít về việc mẹ mừng lễ Sinh nhật đầu tiên. Kinh thánh chỉ ghi lại : Còn bà Maria hằng ghi nhớ những sự việc đó và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2:19). Mừng lễ Sinh nhật trong lòng có nghĩa là mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa cứu thế. Tai ta có thể nghe về chuyện giáng sinh, nhưng chỉ có tâm hồn mới có thể rung động trước màu nhiệm giáng sinh. Sau những ngày giờ bận rộn, sửa soạn mừng lễ Sinh nhật như làm hang đá máng cỏ, trang hoàng nhà cửa, gửi thiệp sinh nhật và quà sinh nhật, ta cần tìm thời giờ thinh lặng để suy niệm về màu niệm giáng sinh. Chỉ trong thinh lặng, người ta mới dễ dàng cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa và màu nhiệm giáng sinh. Người công giáo trưởng thành không được coi sinh nhật như một biến cố xa xưa không ăn nhập tới nếp sống hiện tại. Người công giáo trưởng thành phải tìm cho ra ý nghĩa đích thực của việc mừng lễ sinh nhật.

 

III. LỄ BAN NGÀY (Ga 1:1-18 hay Ga 1:1-5,9-14)

 

NGÔI LỜI TỰ HỦY ĐỂ NÊN NGƯỜI PHÀM

(Is 52, 7-10; Dt 1, 1-6; Ga 1, 1-5.9-14)

 

Nếu lễ Đêm Giáng Sinh, Phụng Vụ Giáo Hội tập trung để giới thiệu Đức Giêsu là Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ngài đến để chiếu soi nhân loại và giải thoát con người khỏi bóng đêm tội lỗi. Thánh lễ Rạng Đông thì nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi các mục đồng là đại diện cho những người bé mọn, nghèo khổ và bị loại ra bên lề. Còn thánh lễ này, Phụng Vụ Lời Chúa muốn nhấn mạnh đến sự tự hạ của Đức Giêsu khi giới thiệu Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhận trở nên người phàm và cư ngụ giữa nhân loại để cứu chuộc con người.

1.              Vì yêu, nên Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể

Khởi đầu Tin Mừng thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Đây là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này vượt quá sự hiểu biết, suy tư của con người! Bởi vì theo lẽ thường thì hiểu sao được khi một vị Thiên Chúa toàn năng vô biên, trí tuệ khôn lường; Ngài là Đấng hằng hữu, trường cửu; Đấng tạo dựng đất trời và biển khơi; Đấng làm chủ không gian và thời gian; Đấng là nguồn mạch sự sống và mọi điều thiện hảo…. (x. Dt 1, 3; Cl 1,15). Thế mà hôm nay, Ngài lại trở nên một con người hữu hạn và chịu sự chi phối như một loài thụ tạo bình thường với những truyền thống và văn hóa của một dân tộc nhỏ bé.

Đây quả là điều rất khó hiểu đối với chúng ta!

Nhưng, theo thánh Gioan, chìa khóa để mở ra cho chúng ta hiểu được mầu nhiệm cao cả này, chính là hai chữ “tình yêu”.

Vì thế, ngài viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16 ). Lúc khác ngài khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 16).

Chính vì yêu, Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại món quà quý giá nhất là Con Một của Người. Cũng chính vì yêu, nên khi đến lượt mình, Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (x. Ga 1, 14 ). Khi trở nên một Đức Giêsu – người, Ngài cũng trở thành Đấng Cứu Chuộc, Hoàng Tử Hòa Bình, Vua muôn thủa và Ánh Sáng chiếu soi mọi người để dẫn đưa nhân loại về với nguồn sự thật và sự sống để được hạnh phúc viên mãn.

Đây là điều mà chính Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” ( Ga 1, 18 ), Nhờ sự mạc khải đó mà: “Toàn cõi đất này được xem thấy: Ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 97, 3 ).

Tuy nhiên,  hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (x. Ga 1,9). Tiếc thay, nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, dễ đồng lõa hơn (x. Ga 3,19). Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (x. Ga 1,11).

2.         Đón nhận Ngôi Lời như thế nào?

 

Đây là một nỗi buồn cho nhân loại. Là tấm màn đen của thế giới con người. Là cảnh buồn và ảm đạm trong một thước phim vui. Vì thế, mỗi lần Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái của mình không chỉ mừng lễ với những đèn sao nhấp nháy, tiệc tùng linh đình và những thứ bề ngoài khác. Ngược lại, Giáo Hội không ngớt lên tiếng thúc dục mọi thành phần hãy chuẩn bị tâm hồn cho thật xứng đáng, để đón nhận mầu nhiệm vĩ đại của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu vào trong tâm hồn của mình.

Một trong những cách thiết thực nhất thể hiện việc sẵn sàng đón nhận Chúa đến với mình, đó là mặc lấy tâm tình của Đức Mẹ Maria để suy đi nghĩ lại trong lòng những gì mắt thấy, tai nghe, ngõ hầu mọi sự diễn ra trước mắt lại được ngấm thật sâu trong tâm hồn mỗi người và toát ra nơi cuộc sống. .

3.     Hãy làm cho Ngôi Lời của Thiên Chúa được hiện hữu nơi chúng ta

Như vậy, việc mừng Lễ Giáng Sinh đối với người Công Giáo chắc chắn không phải là mừng một biến cố hay kỷ niệm hoặc lễ hội thuần túy, nhưng ngang qua đó, làm toát lên một mầu nhiệm vĩ đại, mầu nhiệm cứu chuộc.

Chính vì vậy mà ơn cứu độ của Đức Giêsu đem đến không phải chỉ một lần vào đêm Ngài giáng trần, cũng không chỉ là lời hứa hẹn cho cuộc sống mai sau, mà ơn cứu độ, sức sống mới của Đức Giêsu đã được trao ban cho chúng ta ngay ngày hôm nay và lúc này.

Vì thế, nếu Con Thiên Chúa đã nhập thể, đã chấp nhận từ chỗ vị trí là Ngôi Lời, là Thiên Chúa đến chỗ Ngôi Lời hóa thành nhục để làm người và để cứu độ con người đang lầm than tội lỗi. Thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải làm cho Ngôi Lời trở nên sống động và thiết thực trong cung cách sống của mỗi người.

Nói cách khác, chúng ta cũng hãy noi gương Ngôi Lời là Đức Giêsu để làm một cuộc nhập thế ngay trong môi trường, khung cảnh sống của mỗi người.

Sự nhập thế ấy ta hiểu như một sự hóa thân để từ chỗ là một người giàu sang, quyền quý trở nên người cận thân cận lân của những người ốm đau, bệnh tật, cô thế, cô thân, nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột, bỏ rơi. Trở nên những người cha, người mẹ đầy yêu thương của các trẻ em mồ côi nơi góc chợ, vỉa hè, trên đường phố hay gầm cầu, công viên. Trở nên người thầy - cô giáo tận tâm, hướng dẫn, dạy dỗ để chắp cánh cho tương lai đầy xán lạn nơi các học sinh thân yêu. Trở thành người có trách nhiệm với người khác như: bảo vệ môi trường, bênh vực công lý, xây dựng công bình và loan báo sự thật trong tin yêu và hy vọng.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải làm một cuộc nhập thể khác nữa, cần thiết hơn và cấp bách hơn, đó là một cuộc nhập thể ngay trong gia đình của mình.

Nếu là người cha/ chồng nơi gia đình, thì sự nhập thể chính là trở nên người chồng, người cha mẫu mực, biết yêu thương, lo lắng, dạy dỗ con cái nên người; biết quan tâm và sống có trách nhiệm cũng như chung thủy với vợ….

Nếu là người vợ / mẹ, thì sự nhập thể chính là biết sống hiền lành, nhã nhặn, vui vẻ, vun quén cho gia đình; biết giữ hòa khí yêu thương và biết chu toàn trách nhiệm làm vợ và làm mẹ….

Nếu là người con, thì sự nhập thể chính là biết ngoan ngoãn, hiếu thảo với cha mẹ và thầy cô giáo; chú tâm đến việc học văn hóa, giáo lý nơi nhà trường và nhà thờ; chu toàn bổn phận hằng ngày trong gia đình….

Đây chính là kết quả của việc lắng nghe, suy đi nghĩ lại và tuân giữ Lời Chúa trong lòng như Mẹ Maria. Đây cũng chính là sống tinh thần Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Đức Giêsu. Và, đây cũng chính là một hành trình nhập cuộc theo gương Ngôi Lời Thiên Chúa.

Giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ để cùng nhau đi sâu hơn khi cảm nghiệm và sống mầu nhiệm tự hủy của Ngôi Lời Thiên Chúa ngay trong Bí tích Thánh Thể sắp tới.

Đây chính là quà tặng vô giá mà Đức Giêsu không ngừng ban tặng cho nhân loại, để ai tin và đón rước thì được bảo đảm cho hạnh phúc và sự sống đời đời mai sau.

Lạy Ngôi Lời của Thiên Chúa, Ngài là Đấng Emmanuel, xin cho chúng con biết cảm nghiệm sâu xa tình yêu tự hủy của Chúa, để đến lượt chúng con, mỗi người cũng biết sống mầu nhiệm ấy trong cuộc đời của mình, ngõ hầu mang lại cho nhân loại niềm hy vọng, bình an và ơn cứu độ qua mầu nhiệm nhập thể làm người của Chúa. Amen.

 

Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.

NIỀM VUI BÌNH AN

 

Bình an là ước vọng chung của mọi người. Ai cũng muốn bản thân mình thoát mọi tai họa; gia đình được bình an; đời sống được ổn định, để ta an tâm làm ăn sinh sống. Dân tộc nào cũng mong đất nước mình có hòa bình, để mọi người cùng theo đuổi công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế. Có thể nói, toàn thể nhân loại đều mong thế giới được hòa bình, không có thiên tai, không có hiểm họa chiến tranh.

 

Người Kitô hữu lại càng hiểu rõ ý nghĩa của sự bình an hơn, vì bình an là điều Thiên Chúa ban tặng cho loài người, khi Ngài giáng trần. Lời ca của Sứ Thần trong đêm Giáng Sinh đã cho ta thấy rõ điều đó: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương” (Lc 2,14). Được Thiên Chúa yêu thương, đó là bảo đảm chắc chắn nhất của sự bình an. Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương. Nên chúng ta nắm chắc được hưởng sự bình an của Chúa.

 

Vậy tại sao sự bình an vẫn chưa đến? Lời hứa bình an của Chúa Giêsu có đáng tin không, có sức thuyết phục không? Có rất nhiều lý do khiến ta nghi ngờ về lời hứa bình an này. Chẳng hạn: Nhiều người nghĩ: Chúa hứa ban bình an, nhưng sao cuộc sống của tôi vẫn chưa hết long đong? Vẫn cứ ba chìm, bảy nổi, chín cái lênh đênh! Vậy thì sự bình an ở đâu? Người khác nói: Gia đình tôi từ trước tới nay vẫn nếm đủ mùi bất hạnh. Nỗi khổ này chưa qua, thì khổ đau khác đã ập đến! Vậy thì sự bình an ở đâu? Người khác nữa lại bảo: Thế giới này chưa lúc nào được bình an. Vẫn còn biết bao điểm nóng, biết bao cuộc xung đột đẫm máu đang âm ỉ chờ dịp nổ tung! Vậy thì sự bình an ở đâu? Thực ra, thắc mắc như vậy không phải là không có lý. Mặt khác, nó còn giúp ta tìm hiểu kỹ hơn, xem sự bình an của Chúa là thứ bình an nào? Và ta phải có điều kiện gì để hưởng sự bình an ấy?

Trước hết, sự bình an của Chúa là một món quà, nhưng cũng là trách nhiệm của người lãnh nhận. Nhiều khi ta chỉ ngồi chờ ân huệ của Chúa một cách thụ động. Nhưng Thiên Chúa đâu có thể làm thay cho ta. Ngài chỉ giúp ta hoàn thành nhiệm vụ của mình mà thôi. Sự bình an của Chúa không giống như ổ bánh bông lan được đặt sẵn ở nhà hàng, ta chỉ việc mua, sử dụng. Không. Sự bình an không phải là thứ được chế biến sẵn. Muốn được bình an, ta không thế sống thụ động, khoanh tay đứng nhìn, chờ hưởng thụ.

Tiếp theo, ta phải tích cực xây dựng sự bình an cho chính mình và cho mọi người. Làm sao ta có thể bình an được, nếu ta còn để lòng tham lam, vị kỷ, oán hờn, bất công... Nếu con người cứ tiếp tục làm khổ lẫn nhau, người này gây tai họa cho người kia, thì như thế cũng là gây tai họa cho chính mình. Có thể nói, bao lâu lòng người còn chứa đầy tham lam, ích kỷ, thì thế giới này chưa đủ điều kiện để đón nhận sự bình an của Chúa, chứ không phải là Chúa không giữ lời hứa.

Sau cùng, sự bình an của Chúa luôn đòi hỏi một sự hoán cải. Muốn được bình an, ta phải có tâm hồn quảng đại, yêu thương, thanh sạch, tràn đầy Thiên Chúa. Tâm hồn mà không hoán cải, thì sự bình an chỉ là thứ ảo tưởng. Và nếu có chút bình an đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ là một thứ bình an giả tạo, mong manh, luôn bị đe dọa và rất dễ tan vỡ.

Lạy Chúa! Trong mùa Giáng Sinh này, xin Chúa ban cho con sự bình an của Chúa. Xin giúp con trân trọng đón nhận sự bình an này với tinh thần trách nhiệm, tích cực và hoán cải. Con cảm tạ Hồng ân Chúa ban.

AVE MARIA

 

1. SCĐ/78- NOEL - QUÀ TẶNG

 

 Một đôi vợ chồng trẻ. Gim và Đêla, tuy nghèo tiền của nhưng rất giàu tình yêu. Giáng sinh sắp tới, Đêla tự hỏi phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng chàng sợi dây cho chiếc đồng hồ của chàng. Nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế, nàng nảy sinh một sáng kiến : Nàng có bộ tóc dài mượt mà, óng ả, nàng yêu quí và rất hãnh diện vì nó. Nhưng nàng quyết định cắt bộ tóc đi, và đem bán để mua cho Gim sợi dây đồng hồ.
Hôm áp lễ Giáng sinh, từ phố về, nàng cầm trong tay một chiếc hộp rất đẹp đựng sợi dây đồng hồ mạ vàng mà nàng vừa sắm được bằng mái tóc của mình. Bỗng nhiên Đêla cảm thấy lo lắng. Nàng biết Gim rất quí mái tóc nàng cắt và bán nó đi hay không.
Về đến nhà, Đêla mở cửa và thấy Gim đang đợi nàng. Tay chàng cầm một cái hộp thật đẹp, đựng món quà chàng mới mua để tặng nàng. Khi nhìn thấy mái tóc ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không nói gì cả. Cố trấn tĩnh, chàng trao cho nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra, Đêla rất đỗi bàng hoàng. Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp. Còn chàng, khi mở món quà vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không kém :
Chính lúc đó Đêla mới nhận ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ quí nhất của anh, để mua lược chải tóc cho nàng. Phút chốc cả hai đều hiểu rằng họ đã tặng nhau tất cả những gì quí giá nhất.
Nếu có một bài học mà chúng ta có thể rút ra từ việc “tặng quà” của đôi vợ chồng trẻ này, thì đó chính là : khi trao ban cho kẻ khác, người ta lại tìm được chính bản thân và những gì cao quí nhất. Nghĩa là con người chỉ đạt được nhân cách sung mãn bằng sự trao ban vô vị lợi mà thôi.
Đó chính là sứ điệp chạy xuyên suốt Tin Mừng, nhất là trong mầu nhiệm Giáng sinh : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Qua Con Một yêu dấu, Thiên Chúa muốn ban tặng chính Người cho chúng ta. Người không chỉ hài lòng với món quà vật chất mà Người đã ban tặng như vũ trụ bao la với muôn vàn phúc lộc trong đó, nhưng Người đã đích thân ở giữa nhân loại để chia sẻ cuộc sống con người : “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, và đã cư ngụ giữa chúng ta”.
Hài nhi Giêsu chính là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao ban cho con người.
Hài nhi Giêsu chính là hiện thân sống động của một Thiên Chúa tình yêu.
Hài nhi Giêsu chính là sự tỏ bày tấm lòng vô cùng ưu ái của Thiên Chúa dành cho con người.
Giáng sinh là lễ của tặng quà nhưng cũng còn là lễ của tình yêu. Không phải những quà tặng đắt tiền mới có giá trị, mà chính là những món quà thắm đượm tình yêu. Một món quà dù nhỏ bé nhưng gói ghém tất cả tình cảm mến thương, sự trân trọng, lòng biết ơn, có khi cả sự ngưỡng mộ của mình dành cho người đón nhận, thì đó lại là món quà vô giá.
Có thể nói một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban chính bản thân, trao ban không cần tính toán, không so đo hơn thiệt, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói : “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”. Hài nhi Giêsu sau này khi sắp trao ban mạng sống để cứu chuộc nhân loại đã thốt lên : “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì bạn hữu”.
Quà tặng cao đẹp nhất chúng ta dâng lên Hài nhi Giêsu trong đêm Giáng sinh chính là những nghĩa cử yêu thương chúng ta trao tặng cho anh em.
Chúng ta chỉ có thể lớn lên trong tình yêu Chúa khi chúng ta thực thi những nghĩa cử yêu thương.
Chúng ta chỉ sống đích thực khi chúng ta sống trọn vẹn cho tha nhân.
 

 

2. SCĐ/81- NOEL - BÌNH AN

 

 Vào dịp lễ Giáng sinh năm 1914, quân Anh và quân Đức đang đối đầu nhau. Binh sĩ ở dưới những giao thông hào đầy bùn và chuột. Nửa đêm, một người lính Anh cất lên một bản thánh ca. Chẳng bao lâu sau, tất cả các lính Anh cũng cất tiếng hòa ca. Mọi người đang hát say sưa thì một người hô lớn : “Im. Nghe xem có tiếng gì từ bên kia vọng lại”. Mọi người im lặng lắng nghe. Thì ra những người lính Đức bên kia chiến tuyến cũng đang hát thánh ca mừng Chúa ra đời. Một cái gì đó linh thiêng nối kết những kẻ thù ở hai bên chiến tuyến. Tất cả binh sĩ bỏ chiến hào chạy ùa tới nhau. Họ nắm tay nhau nhảy múa theo điệu hát. Họ chia cho nhau những điếu thuốc, những mẫu bánh. Chiến tranh biến đâu mất. Chỉ còn lại hòa bình. Mọi người rất vui.
Nhưng niềm vui không kéo dài lâu. Tiếng hát, tiếng cười ồn ào đến tai các vị chỉ huy. Các vị này lập tức ra lệnh chấm dứt tất cả, mọi người phải trở lại vị trí của mình. Thế là chiến tranh lại tiếp diễn !
Mỗi lần đến lễ Giáng sinh là người ta nghĩ đến hòa bình, bởi vì trong đêm Chúa Giáng sinh, các thiên thần đã hát “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Nhưng hòa bình không phải chỉ là không có chiến tranh, không chỉ là ngưng tiếng súng. Hòa bình là hoa trái sinh ra từ những tâm hồn thiện tâm. Nếu tâm không thiện thì không có hòa bình thật. Hòa bình bền vững không phải do thỏa hiệp của những bên đã từng chống đối nhau, mà là ơn ban của Chúa. Trong lễ Giáng sinh, Chúa ban ơn hòa bình cho ta, để rồi ta cũng mang ơn hòa bình ấy ban cho kẻ khác.

 

3. SCĐ/83- NOEL- ÁNH SÁNG

 

 Ở Bắc bán cầu, lễ Giáng sinh diễn ra vào lúc trời tốt nhất. Đây là thời điểm thuận lợi để chúng ta ngưỡng mộ giá trị của ánh sáng. Bởi vậy, phụng vụ lễ này nói nhiều tới ánh sáng. Chẳng hạn như bài đọc 1 lễ đêm : “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng”.
Mẹ Têrêxa kể rằng lúc ở Melbourne, Australia, một hôm mẹ đến thăm một ông già sống trong một tầng hầm dơ bẩn lộn xộn. Trong phòng ông không có một chút ánh sáng. Trước đây chẳng ai đến thăm ông. Bắt đầu, mẹ Têrêxa quét dọn căn phòng cho sạch sẽ ngăn nắp lại. Nhưng ông cự nự : “Không được đụng đến. Cứ để yên cho tôi”. Mẹ Têrêxa mặc kệ, cứ tiếp tục. Vừa quét dọn, mẹ vừa gợi chuyện nói với ông. Rồi mẹ tìm thấy một chiếc đèn dầu nằm ẩn dưới một đống đồ đạc ngổn ngang. Lau chùi xong, mẹ thấy cây đèn rất đẹp.
- Ông có một cây đèn rất đẹp. Sao bấy lâu nay ông không thắp lên ?
- Thắp lên làm gì ? Có ai đến thăm tôi đâu.
- Vậy nếu nữ tu của tôi đến thăm ông thì ông có hứa sẽ thắp đèn lên không ?
- Xin hứa. Nếu tôi nghe có tiếng ai đến thăm thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Sau đó, hai nữ tu của mẹ Têrêxa đều đặn tới thăm ông già. Mỗi lần họ đến thì ông già thắp đèn lên. Tình hình ngày càng tốt đẹp hơn. Một hôm, ông nói : “Các Sơ ạ. Từ hôm nay tôi có thể tự dọn dẹp phòng được rồi. Nhưng xin làm ơn nói lại với bà nữ tu đầu tiên là ngọn đèn bà đã thắp lên trong đời tôi đến nay vẫn còn cháy sáng”.
Có thể nói rằng ngọn đèn đã cứu ông già ấy. Nhưng thực ra thì không phải ngọn đèn, mà là điều mà ngọn đèn ấy tượng trưng, tức là lòng tốt của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của mẹ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới tối tăm vì chiến tranh, bạo lực, đau khổ v.v… Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm được sự tối tăm trong đời mình và trong gia đình mình : buồn phiền, thất vọng, bệnh tật, tội lỗi, cô đơn, chán chường v.v…
May thay ánh sáng Chúa Giáng sinh đã thắp lên trong thế giới vẫn còn cháy sáng. Anh sáng ấy không chỉ lóe lên ở Bêlem một lần rồi tắt ngúm. Nó vẫn còn chiếu sáng giữa những tàn phá, thảm họa, biến động… Đó là một thứ ánh sáng bền vững không bóng tối nào lấn át được. Nó vẫn chiếu sáng cho tất cả những ai tin Ngài và theo Ngài. Suốt 2000 năm qua, những lời Ngài dạy đã ảnh hưởng đến nhân loại hơn tất cả mọi bậc tôn sư nào khác. Những việc Ngài làm còn ảnh hưởng mạnh hơn nữa. Biết bao người từ chốn tối tăm đã tìm đến với Ngài và ra đi trong ngập tràn ánh sáng. Lòng nhân ái của Ngài vẫn tiếp tục chiếu sáng thế giới.
Mỗi người chúng ta phải là nguồn sáng cho thế giới tối tăm này. Nhưng nếu đời ta không là đèn sáng thì làm sao ta chiếu sáng cho người khác được. Sống trong ánh sáng thật là hạnh phúc. Nhưng còn hạnh phúc hơn khi ta là nguồn sáng cho người khác. Chúa đã gọi ta ra khỏi tối tăm bước vào ánh sáng, thì ta phải sống như là con cái của ánh sáng. Hiệu quả của ánh sáng được thấy rõ nhất trong một tấm lòng nhân ái, một cuộc sống chính trực, chân thành.
 


 

4. Ngôi Lời Là Ánh Sáng Thật

 

Suy Niệm 
 Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát.
Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi. Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp; không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).
Gần hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11). Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay, trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới. Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn.
Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.
 Gợi Ý Chia Sẻ 
 Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang sống?
 Cầu Nguyện 
 Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hàng ngày. Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý. Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con.

 

 5. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa - Lm. Trần Thanh Sơn

 

 Hôm nay cùng với Giáo Hội, và toàn thể thế giới, chúng ta hân hoan mừng ngày sinh nhật của Đức Giêsu, một Hài Nhi sinh ra nơi máng cỏ của súc vật cách đây hơn 2000 năm. Nếu ngồi lại suy nghĩ theo tự nhiên, có lẽ nhiều người trong chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao muôn người trên thế giới lại đi mừng sinh nhật của một con người bé nhỏ như thế? - Câu trả lời cũng thật đơn giản: Bởi vì Hài Nhi Giêsu bé nhỏ nằm trong máng cỏ nghèo hèn trước mắt chúng ta đây chính là Thiên Chúa thật. Với việc Nhập Thể của Ngôi Hai, Con Thiên Chúa đã làm người để đưa từng người chúng ta lên địa vị làm con Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đích thực là Thiên Chúa, cũng chính là điều mà Giáo Hội muốn từng người chúng ta xác tín qua phần phụng vụ lời Chúa trong thánh lễ hôm nay.
 1. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa
 Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy Tin mừng Gioan không có trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu như Phúc Âm Nhất Lãm. Phải chăng đây là một thiếu sót lớn khi thánh sử chẳng nói gì về nguồn gốc của Đức Giêsu, nhân vật chính yếu trong Phúc Âm của mình. Nhưng đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy đây không phải là thiếu sót, nhưng là dụng ý thần học của thánh Gioan. Thánh sử không nói gì về ngày Giáng Sinh của Đức Kitô ở trần gian, nhưng thay vào đó, thánh sử lại có cả một thánh thi dài nói về nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu. Đây quả là một bổ túc thật cần thiết khi tìm hiểu về con người Đức Giêsu Kitô, nhờ đó, chúng ta thấy rằng Hài Nhi Giêsu bé nhỏ sinh ra tại nơi ở nghèo hèn của súc vật mà chúng ta vừa mừng kính cũng chính là Thiên Chúa thật. Như thế, cùng với Tin mừng Nhất Lãm, thánh sử Gioan đã cho thấy Đức Giêsu có hai bản tính. Ngài vừa là người thật và cũng là Thiên Chúa thật.
Chính vì lý do đó, mà trong thánh lễ ban đêm, chúng ta vừa nghe đọc đoạn lời Chúa nói về những chi tiết lịch sử xác định sự xuất hiện của Đức Giêsu trong thời gian, thì trong thánh lễ ban ngày này, Giáo Hội lại mời gọi chúng ta lắng nghe lời mở đầu của Tin mừng theo thánh Gioan, để thấy rõ Đức Giêsu được sinh ra trong lịch sử đó, cũng chính là Thiên Chúa hiện hữu từ muôn thuở.
Ngay từ những lời đầu tiên trong Tin mừng của mình, thánh sử Gioan đã xác định bản tính Thiên Chúa của Ngôi Hai: “Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa”. Ngài cũng chính là Con Thiên Chúa được sinh ra từ trước muôn đời như lời tác giả thư Do thái mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con. Rồi Chúa lại phán: “Ta là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta”.
Hơn nữa vì là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên cùng với Chúa Cha, Ngôi Lời cũng là Đấng tác thành vạn vật như lời xác tín của thánh sử Gioan: “Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành…Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo”. Thánh sử còn viết tiếp: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý”. Như thế, Ngôi Lời, Đấng Tạo Hoá, có từ muôn thuở đó, giờ đây đã được sinh ra trong thời gian, làm người ở giữa chúng ta. Đồng thời, với việc Nhập Thể của Ngôi Lời, mạc khải của Thiên Chúa bước sang một giai đoạn mới. Giai đoạn Thiên Chúa trực tiếp nói với con người như lời tác giả thư Do thái chúng ta vừa nghe: “Thuở xưa nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua người Con”.
 2. Đức Giêsu, Đấng ban ân sủng
 Như thế, Hài Nhi Giêsu nhỏ bé mà chúng ta đang chiêm ngắm nơi máng cỏ đây không những là người thật mà còn là Thiên Chúa thật. Vì là Con Thiên Chúa nên Đức Giêsu có thể nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa, bởi vì: “Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Đấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mặc khải cho chúng ta”. Mặt khác, vì được sinh bởi Đức Maria, nên Đức Giêsu cũng là con người nên Ngài có thể cảm thông với bản tính mỏng dòn của chúng ta. Do đó, Ngài trở nên Đấng duy nhất có thẩm quyền giao hoà đất với trời, giao hoà con người với Thiên Chúa.
Không chỉ giao hoà, Đức Giêsu còn là nguồn ban ân sủng của Thiên Chúa cho từng người chúng ta, như xác quyết của thánh Gioan: “Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban lề luật qua Môisen, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu Kitô”. Nhờ ân sủng của Ngài, chúng ta được giải thoát khỏi ách thống trị của tội lỗi, như lời tác giả thư Do thái chúng ta vừa nghe: “Người Con đó, nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta”.
Tóm lại, với việc cho con mình Nhập Thể làm người, Thiên Chúa một lần nữa chứng tỏ tình yêu bao la của Ngài dành cho chúng ta. Chính vì thế, mượn lời tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca, Giáo Hội không ngừng cất tiếng ngợi khen Ngài:“Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Nguời đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối với nhà Israel”.
 3. Lời mời gọi loan báo Tin mừng
 Con Thiên Chúa đã làm người để đến ở với chúng ta, ban ơn cứu độ cho chúng ta. Đồng thời, Ngài muốn từng người chúng ta, sau khi đã nhận được ơn Ngài, cũng mau chóng lên đường loan báo và đem niềm vui cứu độ đó cho mọi người. Niềm vui được thông chia, niềm vui sẽ được nhân lên. Cảm hứng điều đó, ngôn sứ Isaia trong bài đọc một đã cất tiếng ngợi khen: “Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ”
Rao tin mừng Ơn cứu độ phải chăng là loan báo ơn giao hoà! Giao hoà giữa đất với trời, giữa loài người với nhau. Ngay từ nguyên thuỷ, tội lỗi đã cắt đứt mối tương giao giữa con người với Thiên Chúa. Do đó, giây phút Nhập Thể của Ngôi Hai chính là lúc trời đất giao duyên, con người được giao hoà lại với Thiên Chúa. Giao hoà là đem lại sự bình an như lời sứ thần loan báo trong đêm Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Thiên Chúa đã đoái thương đi bước trước đến với chúng ta để hoà giải chúng ta với Ngài. Nhận được sự hoà giải này của Thiên Chúa, từng người chúng ta cũng phải biết sống hoà giải với anh chị em mình.
Tuy nhiên để thực sự có sự hoà giải này, từng người chúng ta cũng phải làm theo cách Con Thiên Chúa đã làm. Ngài đã đi bước trước đến với chúng ta, chấp nhận bị thua thiệt, sỉ nhục, bị lãng quên khi phải sinh ra trong nơi ở súc vật. Do đó, muốn sống tâm tình hoà giải, chúng ta cũng phải sẵn sàng dẹp bỏ đi những tự ái vụn vặt, chấp nhận bị lãng quên, coi thường để có thể đi bước trước đến làm hoà với anh chị em mình. Những người mình cần làm hoà trước hết là vợ chồng với nhau, là cha mẹ với con cái. Chúng ta cũng cần hoà giải với những người cùng sống, cùng làm việc với chúng ta. Điều này không dễ dàng gì, nhưng suy ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh nơi hang đá bé nhỏ này sẽ là sức mạnh giúp chúng ta thực hiện được sự giao hoà đó. Lúc đó, niềm vui trong ngày Giáng Sinh không dừng ở những lễ hội tưng bừng, những bữa tiệc linh đình, những đèn hoa rực rỡ hôm nay, nhưng sẽ được tiếp tục bởi những nụ cười thân thiện, những ánh mắt thông cảm, những tấm lòng chân thành mở ra của từng người chúng ta đối với nhau. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta sẽ thực sự bình an để hưởng trọn vẹn niềm vui của ngày lễ Giáng Sinh không chỉ hôm nay, nhưng tiếp tục và kéo dài trong suốt cuộc sống thường ngày của chúng ta. Amen.
 

 

6. Nhập thể, quà tặng vô giá

 
- Lm. Vũ Xuân Hạnh
(Nhân Lễ Giáng Sinh, suy nghĩ về ơn gọi Linh mục )
 Người ta nói, bông hồng tượng trưng cho tình yêu. Vì thế, để bày tỏ lòng yêu thương nhau, người ta thường trao tặng bông hồng. Cũng chính vì thế, ngày Valentine, ngày Tình yêu, bông hồng, tự lúc nào, trở thành biểu tượng mà không cần giấy mực ký nhận, chỉ có lòng người yêu nhau đã hợp thức hoá cho ý nghĩa ấy. Bởi thế, dù chỉ với một cành hồng, tình vẫn có thể nồng nàn hơn cả với bảo ngọc trân châu. Vì với lòng yêu thương chân thật, dù chỉ một cành hồng, tình vẫn đằm thắm, vẫn kiêu sa hơn bảo ngọc trân châu mà lòng người đầy tính toán, vụ lợi, manh nha chiếm đoạt…
 
I. NHẬP THỂ VÀ SỰ TỰ HIẾN
Bông hồng đã đẹp. Bông hồng được trao tặng bằng cả một khối tình, lại là một vẻ đẹp không dễ gì thay thế. Nhưng trước sau, đóa hồng vẫn chỉ là một đóa hồng, giá trị của nó vẫn không bao giờ ví được giá trị của chính bản thân người nhận hoặc người tặng. Còn hơn thế, một đóa hồng, dẫu đẹp, sẽ biến đổi theo thời gian như chính lòng người, hôm nay trong vắt, ngày mai có thể vẫn đục …
Hôm nay, trong tư thế của người được lãnh nhận, mọi Kitô hữu đang háo hức chuẩn bị mừng ngày Chúa Giáng sinh. Nói rằng “trong tư thế của người được lãnh nhận” khi chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, là nói đến một ân ban tuyệt diệu mà mầu nhiệm Nhập Thể đã và vẫn tuôn tràn như một dòng chảy không ngơi nghỉ, không suy yếu. Nếu bông hồng là biểu trưng của tình yêu nhân loại thì mầu nhiệm Nhập Thể, một đóa hồng thánh thiện không chỉ là biểu trưng, cũng không đứng chung hàng với tình yêu nhân loại, nhưng là chính Tình Yêu Thiên Chúa, một tặng phẩm vượt trên giá trị của chính bản thân người nhận là toàn thể nhân loại này. Và nếu gọi Tình Yêu phát xuất từ Thiên Chúa là đóa hồng, thì đó chính là đóa hồng vĩnh cửu, đóa hồng mầu nhiệm không bao giờ có thể tàn phai.
Đó còn là một Tình Yêu làm điểm đối chiếu cho mọi tình yêu của nhân loại. Nhân loại hãy nhìn vào Tình Yêu trong mầu nhiệm Nhập Thể để học lấy cho mình bài học quý giá: Thiên Chúa đã phó mình cho trần gian. Vì nơi Thiên Chúa, yêu là tự hiến, là hủy mình. Có hiểu hết sự tự hiến và hủy mình vì yêu trong mầu nhiệm Nhập Thể, ta mới có thể hiểu được làm sao một vì Thiên Chúa cao sang là thế, uy quyền là thế, mạnh mẽ và lớn lao khôn cùng, lại có thể hóa thân nên một con người bé nhỏ, yếu ớt, mong manh. Có hiểu được một tình yêu tự hiến đến mức hủy mình, ta mới hiểu được làm sao một Thiên Chúa lại trở nên trần trụi và nghèo nàn đến thế.
Nếu mỗi người trong chúng ta có nghèo, nghèo lắm, khi sinh ra chắc không ai thiếu thốn, ngay cả một tấm áo che thân, một cái chõng tre, dù cũ kỹ, cũng không có. Khi sinh ra, nếu tệ lắm, có lẽ ta cũng nằm trong một căn chòi… Nhưng Tình Yêu của Đấng làm người đã tự hủy đến mức không những không đòi cho mình bất cứ một điều gì, ngược lại còn trút bỏ hoàn toàn, trút bỏ cho đến mức chối từ cả những điều kiện vật chất căn bản nhất, cần thiết nhất của một con người, đến nỗi sinh ra không phải trong một căn chòi, nhưng còn tệ hơn, sinh ra trong nơi trú ngụ của loài cầm thú; không nằm trong một chiếc nôi, nhưng lại là máng cỏ; không sinh ra trên một chiếc giường nhưng chỉ có cỏ rơm làm chiếu…
Mầu nhiệm Nhập Thể không dừng lại ở sự kiện Giáng sinh. Thiên Chúa làm người còn tiếp tục tự hủy đến giây phút cuối đời. Người đã chấp nhận một cái chết thương đau và ô nhục: bị hành hình như một tên tử tội: chết trần trụi, treo giữa trời, giữa đất, giữa những tên tội phạm, thân thể thâm bầm, đầy thương tích…
Thiên Chúa là Thiên Chúa giàu có. Người quyền năng và mạnh mẽ. Vũ trụ và mọi sự trên trời dưới đất là của Người, thuộc về Người. Một Thiên Chúa giàu có là thế, nhưng khi làm người, đã hiến dâng hoàn toàn, như không còn giữ lại gì cho riêng mình, hiến dâng cả mạng sống. Một Thiên Chúa giàu có đã trở nên nghèo khó đến độ chỉ còn có Tình Yêu.
Như vậy, ngang qua mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô, Thiên Chúa bày tỏ cho trần gian lòng yêu thương vô cùng của Người. Đó là một Tình Yêu mà ngàn đời, nhân loại cứ kiếm tìm, cứ khám phá, vẫn chưa bao giờ đạt tới, vẫn không hiểu thấu.
Nơi biến cố nhập thể, một mặt chính Tình Yêu và trong Tình Yêu, Thiên Chúa đã trao ban cả một mầu nhiệm vi đại. Mặt khác, chính Tình Yêu đã làm cho Đấng Thiên Chúa làm người, Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã hiến dâng lên Thiên Chúa lời “xin vâng” tuyệt hảo, chấp nhận sự tự hủy mình cho trần gian. Lòng vâng phục và sự tự hủy ấy chính là lý do ca ngợi Chúa Kitô của thư Dothái: “Dù là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (5, 8-9).
Để nối lại hình ảnh quà tặng bông hồng với ý nghĩa lớn lao của mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta cần hiểu rằng, tình yêu chỉ quý giá bởi người yêu dám hiến mình trao dâng, dám tự hủy chính bản thân vì người mình yêu, chứ không phải bởi món quà có thể cầm nắm, dẫu món quà đó là một cành hồng tươi hương thắm sắc. Nói cách khác, quà tặng làm cho tình yêu nên giá trị lộng lẫy và sang trọng, chỉ có thể là quà của sự tự hiến đến hủy mình vì người mình yêu.
Và nếu bông hồng chỉ nói thay cho lời yêu chứ không là chính tình yêu, thì Chúa Kitô hiến mình trong mầu nhiệm Nhập Thể là chính Tình Yêu xuất phát từ Thiên Chúa trao tặng loài người. Đó mới chính là Đóa Hồng vĩnh cửu, Đóa Hồng không bao giờ tàn phai: Một quà tặng vô giá, quà tặng của mọi quà tặng.
 
II. TẶNG PHẨM CỦA NGƯỜI NGHÈO.
Có một câu chuyện thế này: Vào đêm lễ Giáng sinh, không riêng người Công giáo, nhưng hầu như mọi người, đều đổ ra đường để đi đâu đó mừng đêm tưng bừng, đêm lễ hội. Vì thế mọi ngã đường sớm đông nghẹt. Theo dòng người đông đảo, Tôi - tác giả kể - bước về hướng nhà thờ. Chiếc loa phóng thanh trên đỉnh nhà thờ trổi bản nhạc mừng Chúa Giáng sinh thật vui, không làm tôi chú ý cho lắm. Một cảnh tượng khác đập vào mắt tôi: Một người đàn ông trạc bốn mươi, chắc là bảo vệ nhà thờ, lôi xồng xộc một em bé ra ngoài khuôn viên nhà thờ. Trên tay em là một xấp vé số dày cộm. Vừa lôi em, miệng anh vừa la lối: “Ra ngoài bán, ở đây không phải chỗ!”. Cùng lúc ấy, tôi nghe một giọng nói ấm áp từ phía sau lưng mình: “Này anh, thôi đừng đuổi em bé nữa. Đêm nay Chúa Giáng sinh là để cho em và cho những người cơ nhỡ, bất hạnh, nghèo khó như em. Anh hiểu chứ?”. Phản xạ tự nhiên, Tôi xoay người lại xem giọng nói của ai? À, chiếc áo chùng thâm. Hóa ra một linh mục. Tôi còn nghe cha nói thêm: “Cần phải có những người như em bé này ở trong nhà thờ đêm nay, để họ hiểu rằng, Chúa cũng nghèo lắm, nghèo như chính bản thân họ vậy”.
Vị linh mục bước đi. Người bảo vệ nhìn theo, ánh mắt vẫn chứa đầy một khoảng không im lặng. Chắc anh ta ngỡ ngàng lắm, nhưng cũng thẹn lắm vì vừa mới nhận ra một bài học quý giá. Tôi nhìn lên bầu trời hít thở không khí đêm đông lành lạnh thật sản khoái, chợt nhận ra ánh sao đêm nay sáng và đẹp tuyệt vời …
Có thể khi dẫn chứng bằng câu chuyện và những hình ảnh mà câu chuyện lột tả, sẽ có nhiều ý kiến khác nhau của nhiều người: đồng ý và không chấp nhận, khen hoặc thấy khó chịu; cũng có thể nhận định rằng, anh bảo vệ đúng, vị linh mục chưa đúng… Riêng tôi, chỉ nhằm một chủ đích duy nhất: minh họa cho những gì đã suy nghĩ, để nhấn mạnh đến một điều quan trọng và lớn lao hơn nhiều: Tình Yêu Thiên Chúa nơi mầu nhiệm Nhập Thể.
Nội dung câu chuyện thật ngắn, thật đơn sơ, nhưng tôi thấy chất chứa bên trong nó một vài cảm nhận. Đó là cảm nhận về một quà tặng của Tình Trời được gởi trao cho người trần, một quà tặng tuyệt đối, quà tặng vô giá được ban tặng nhưng không: Thiên Chúa đã trao tặng chính người Con Một dấu ái của Người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Dù thánh Gioan không nhắc tới cách hiển nhiên hai tiếng “quà tặng”, nhưng khi lặp lại lời của Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa đã YÊU… đến nỗi đã BAN”, thì không là nói bằng ngôn ngữ của quà tặng đó sao. Và trong hai tiếng quà tặng đã hàm chứa tình yêu và sự trao ban. Nơi Thiên Chúa, dù quà tặng chính là một ân ban thần linh diệu kỳ lại quá sức cụ thể nơi một con người mang tên Giêsu Kitô.
Và nơi Thiên Chúa làm người mang tên Giêsu Kitô, đã là Thiên Chúa giàu có, nhưng đã chấp nhận hủy mình để trao dâng tất cả, để tỏ lòng yêu thương, thì lời của linh mục trong câu chuyện kể trên: “Đừng đuổi em bé. Đêm nay Chúa Giáng sinh là để cho em và cho những người cơ nhỡ, bất hạnh, nghèo khó như em”, và “Cần phải có những người như em bé này ở trong nhà thờ đêm nay, để họ hiểu rằng, Chúa cũng nghèo lắm, nghèo như chính bản thân họ vậy”, thật đáng chú ý và đáng suy nghĩ. Cũng vậy, không hề nhắc tới hai tiếng “quà tặng”, nhưng qua lời đối thoại, những kiểu nói: “để cho”, hay “Chúa cũng nghèo như chính họ vậy”, tác giả đã đặt lên môi nhân vật ngôn ngữ của quà tặng, một quà tặng chứa đầy tình yêu.
Nhưng hình như trong lời đối thoại của nhân vật linh mục, chỉ có “những người cơ nhỡ, bất hạnh, nghèo khó” mới đáng lãnh nhận quà tặng Giêsu. Đọc lại Tin mừng của đêm Giáng sinh, ta cũng sẽ thấy rõ điều này. Ngay sau khi Đấng tự hiến mình đã sinh làm người, thiên thần loan tin mừng Giáng sinh. Nhưng lời của thiên thần: “Hôm nay Đấng Cứu Thế giáng sinh cho các ngươi” (Lc 2, 11) không thể nào vang đến dinh tổng trấn Philatô, hoặc ngai vàng vua Hêrôđê hay dinh thượng tế Caipha, lại thuộc về những mục đồng, những người chỉ biết làm quen với cái nghèo, làm bạn với đàn súc vật. Nghèo vật chất đã vậy, họ còn là những người dốt nát, chọn cho mình kiếp sống rày đây mai đó…
Và dấu chỉ của quà tặng vô giá mà thiên thần giới thiệu là gì? Đó là: “Đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 12). Một dấu chỉ quá đỗi đơn sơ, nghèo hèn. Nhưng chất chứa trong dáng vẻ đơn nghèo, dấu chỉ ấy là một dấu chỉ vi đại, dấu chỉ về một tặng phẩm thần linh: Thiên Chúa làm người!
Hóa ra quà tặng thần linh được dâng tặng, được trao ban, không phải chỉ có những người hèn hạ, khốn khổ mới có thể lãnh nhận. Nhưng Đấng ban tặng chính mình cũng trở nên người nghèo. Chỉ có hiến mình dâng tặng như thế, quà tặng Giêsu mới thật là quà tặng cần thiết và tròn đầy ý nghĩa.
Vậy để đón nhận và hiến dâng trọn vẹn quà tặng của yêu thương, đòi người ta phải có sự trút bỏ bằng một tinh thần nghèo khó, bằng một ý thức hiến mình thực sự, không thể làm khác được. Như vậy chính trong sự nghèo khó, người ta lại trở nên giàu có, vì có chính Thiên Chúa làm tặng phẩm vô giá của mình. Bởi vậy, ta mới hiểu vì sao Chúa Giêsu lại nói: “Phúc cho các ngươi là những người nghèo” (Lc 6, 20).
 
III. THÁNH HIẾN LÀ DÂNG TẶNG ĐỜI MÌNH.
Đã gọi là quà, quà tặng cần phải trao ban. Quà không trao ban không phải là quà. Quà chỉ có giá trị khi nó được dâng tặng bằng cả tình yêu. Ai đó đã ví von pha chút mỉa mai: “Linh mục ban của thánh và nhận của phàm”. Không biết lời ví von ấy đúng hay không? Nhưng nếu ít nhiều có sự thật, đó không còn là lời nói cho vui, mà trở thành lời bật thốt từ nỗi xót xa. Hơn nữa, nếu đúng như thế thì đời thánh hiến đã bị lệch, bị méo. Bởi thay vì chức linh mục như một quà tặng dâng cho đời, lại trở thành phương tiện để thỏa ích kỷ riêng, để vụ lợi. Nói cho cùng, đó chính là nỗi bi đát. Như vậy, đời thánh hiến chỉ còn là một phương tiện để xây pháo đài của bản thân. Nếu tin mừng đầu tiên của mầu nhiệm nhập thể đã không thể vọng đến dinh tổng trấn và thượng tế, hay đền vua, thì những pháo đài hôm nay, chắc sẽ rơi vào một mối nguy lớn: Thiếu vắng Tin Mừng Tình Yêu, dẫu Tin Mừng ấy vẫn được rao giảng từng ngày, mọi nơi.
Ơn thánh hiến mà bị lạm dụng, có khác chi lời tiên tri Êgiêkiel cảnh báo từ rất xưa: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc” (Ed 34, 2- 4).
Suy niệm về ý nghĩa của Tình Yêu Nhập Thể như thế, người linh mục nhận ra mình. Một khi bước theo Chúa Kitô trong đời sống thánh hiến, người linh mục chỉ dám nói mình nên giống Chúa Kitô khi đã có thể sống đời hiến dâng như Chúa Kitô. Ngay cụm từ “Đời sống Thánh hiến”, đủ để nói lên ý nghĩa của sự hiến dâng mình trong chức linh mục.
Nói linh mục dâng mình để sống đời thánh hiến trong chức linh mục là điều không khó. Nhưng trước sau, linh mục vẫn là con người. Linh mục sống đời thánh hiến hoàn hảo như Chúa Kitô không dễ chút nào. Tuy nhiên, khó không có nghĩa là không thể thực hiện, càng không bao giờ được phép đầu hàng. Trong đời sống thánh hiến, đầu hàng không chỉ là thua cuộc, mà còn là đánh mất. Vì không dám và không ý thức đời hiến dâng, linh mục chỉ còn danh chứ không còn thực.
Bông hồng tượng trưng cho tình yêu. Nhưng bông hồng chỉ thực sự làm nên ý nghĩa của tình yêu, khi người ta trao tặng cho nhau bằng cả một khối tình chân thật. Nhưng với Chúa Kitô, hơn cả những mối tình mà ta gọi là chân thật nhất, trong cuộc Nhập Thể, từ thân phận Thiên Chúa trở nên phàm nhân, chấp nhận lặn sâu trong kiếp người để chia sẻ thân phận con người của mỗi chúng ta, Người đã trao tặng cho ta không phải một đóa hồng, mà là một Đóa Hồng vĩnh cửu, một quà tặng vô giá là chính bản thân của Người.
Linh mục được Chúa Kitô mời gọi và bước theo Người. Chỉ có một điều duy nhất làm cho linh mục có thể nên giống Chúa Kitô, sống chính sự sống của Chúa Kitô cách trọn nghĩa, là khi linh mục dám ướm thử đời mình theo khuôn mẫu cuộc đời Chúa Kitô. Đó là biết trút bỏ những ham hố, tham vọng, mưu cầu tư lợi… và tự hủy mình trở nên người phụng sự Chúa, phục vụ con người như Chúa muốn.
Hãy nhớ rằng, một khi Chúa Kitô tự hủy để sống nghèo khó, Người trở nên quà tặng vô giá. Linh mục cũng sẽ trở nên quà tặng khi biết trút bỏ, để sống sự nghèo khó như Chúa.
Vì thánh hiến là dâng tặng đời mình. Linh mục sống đời thánh hiến, nghĩa là linh mục tắm mình trong tình yêu Thiên Chúa để hiến dâng tình yêu đã được thánh hiến của mình trao tặng anh chị em. Nhờ thế, linh mục không chỉ sống mầu nhiệm nhập thể, mà còn làm cho mầu nhiệm ấy thẩm thấu trong đời thánh hiến của mình. Xuyên qua những điều tốt lành ấy, linh mục đã sống hoàn hảo ơn gọi nên thánh trong thánh chức.
Bông hồng trao tặng là để bày tỏ lòng yêu thương. Con người biết hủy mình để dâng tặng tình yêu, lời tỏ tình ấy có giá trị gấp ngàn lần những cánh hồng tươi nở. Nhưng nếu hiến dâng đời mình trong ơn gọi thánh hiến, hơn tất cả mọi lời yêu thương, người linh mục trở thành một con đường tình yêu nối trời cao với trần thế, đưa con người đến với Thiên Chúa, và trao ban chính Thiên Chúa cho con người. Có còn nét đẹp nào có thể sánh bằng nét đẹp của ơn thánh hiến để dâng tặng đời mình như thế!
 
 HƯỚNG VỀ VĨNH CỬU 
Sống giữa cộng đoàn dân Chúa và cả những người chưa biết Chúa, linh mục trở thành mẫu gương sống đức tin cho mọi người. Đức tin đòi hỏi người linh mục chấp nhận sự tự hiến mình, mang lại ơn cứu rỗi, trước hết cho mình, sau là anh chị em xung quanh. Sự tự hiến đòi linh mục chấp nhận thập giá. Đó là những khó khăn, có khi cả đau khổ. Chấp nhận thập giá, linh mục sẽ chấp nhận sống nghèo khó, sống dấn thân như Chúa Giêsu để phục vụ con người, phục vụ Giáo Hội và phụng sự Chúa. Chấp nhận thập giá, linh mục sẽ biết chấp nhận và thánh hóa sự độc thân của mình, biết chấp nhận và thánh hóa những hiểu lầm, những chống đối đến từ phía người khác. Biết chấp nhận thập giá như thế, người linh mục sẽ không oán hận mà dễ tha thứ hơn. Chính khi hiến thân trọn vẹn trong thánh chức như thế, linh mục sẽ là một đoá hồng tươi thắm dâng tặng cho đời. Đoá hồng của đời linh mục sẽ biến thành niềm vui mừng, vì một ngày kia, nó sẽ tiễn đưa người linh mục bước vào sự sống của Chúa Kitô, sự sống của chính Thiên Chúa. Vì nếu tội lỗi hôm nay sẽ thành hậu quả vĩnh cửu, cũng vậy, công đức hôm nay sẽ nên phần thưởng đời đời: đó chính là được sống chính sự sống của Thiên Chúa. 
 

 

7. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian

 
Lm. Đan Vinh
 
Học sống Lời Chúa :
 1) Lời Chúa : “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian”
2) Câu chuyện : Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ nào ?
Ngày xưa có một chú bé Phi Châu da đen tên là Em-ma-nu-en. Chú ta là người ưa thắc mắc. Một hôm chú hỏi thầy giáo : “Thưa thầy, Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của nước nào ?”. Thầy giáo chỉ biết gãi đầu trả lời không biết. Em-ma-nu-en hỏi các người được coi là trí thức trong làng, nhưng họ cũng chẳng biết. Thế là chú ta bỏ làng đi đến các nơi khác để hỏi, nhưng ai nấy cũng chỉ biết nhún vai lắc đầu không biết. Dù vậy chú bé vẫn tin chắc phải có người nào đó biết. Chú ta lên đường đến những nước khác và các đại lục khác với hy vọng thỏa mãn thắc mắc : “Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ gì ?”. Rồi một đêm kia, chú bé đến làng Bêlem nước Do Thái và trú chân trong một cái hang ở giữa cánh đồng Bêlem. Khi bước vào hang, chú nhận ra có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú bé, bà mẹ trẻ liền nói : “Hân hạnh đón chào Em-ma-nu-en ! Chúng ta đang mong chờ con đấy”. Chú bé ngạc nhiên khi nghe bà này nêu đích danh tên chú và lại còn trả lời cho thắc mắc bấy lâu nay của chú. Bà nói : “Đêm nay chính mắt con đã thấy Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ của tình yêu : “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16)”. Trái tim Em-ma-nu-en trào dâng niềm xúc động. Chú vội quì gối xuống trước Hài Nhi Giêsu, và sung sướng khóc lên. Giờ đây chú đã biết rằng : Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi dân tộc ở mọi thời đại đều hiểu được.
Và thế là Em-ma-nu-en ở lại đó vài ngày để giúp đỡ Đức mẹ và thánh Giuse. Sau đó, đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người biết : “Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ của Tình yêu”. Lủi thủi một mình, Em-ma-nu-en vừa rảo bước vừa suy nghĩ : “Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức bằng ngôn ngữ tình yêu. Bởi đó là thứ tiếng duy nhất mà mọi người trên thế giới đều hiểu được”. Và từ ngày đó, Em-ma-nu-en bắt đầu bằng ngôn ngữ của thiên Chúa tức là ngôn ngữ của tình yêu. Rồi Em-ma-nu-en khám phá một điều kỳ thú : khi chú nói với người ta bằng tiếng nói của tình yêu thì họ cũng sẽ dùng ngôn ngữ tình yêu ấy để nói với nhau. Vậy trên con đường về nhà, chú bé Em-ma-nu-en đã để lại đàng sau chú một chuỗi phố phường làng mạc sống chan hòa hạnh phúc với nhau. Các quốc gia sẵn sàng chia sẻ nguồn lợi tức và kho tàng kiến thức khoa học kỹ thuật cho nhau, các dân tộc đối xử với nhau bằng sự tương kính, các gia đình đều hòa thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người đều bắt tay nhau trong tình thân ái.
 
3) Suy niệm
+ Đến Belem, chúng ta gặp được một tình yêu tột đỉnh : Thiên Chúa đã ban người Con Một yêu dấu của Người. Con Thiên Chúa đã sinh ra nơi hang bò lừa không chút hào quang qua việc sinh ra trong đêm tối. Chúa sinh ra không chút quyền lực qua việc trở nên một trẻ thơ yếu đuối. Chúa là Đấng siêu việt mà nay lại chịu giới hạn bởi thời gian. Đấng tuyệt đối mà giờ đây lại mang một thân xác hữu hạn. Chúa yêu thương chúng ta nên không muốn làm cho ta bị choáng ngợp, không ban tặng cách cha chú, nhưng kiên nhẫn gõ cửa và chờ đợi. Thiên Chúa giàu có đã trở nên nghèo hèn để chúng ta được trở nên giàu có (x. 2 Cr 8,9).
+ Đã hai ngàn năm kể từ khi Ngôi Lời nhập thể và chiếu ánh sáng xua trừ bóng đêm tội lỗi. Người là ánh sáng thật, chiếu soi cho mọi người (x. Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối tội lỗi, vì bóng tối xem ra dễ chịu hơn (x. Ga 3,19). Ngôi Lời đã đến nhà của Người, nhưng các gia nhân đã không đón nhận Người (x. Ga 1,11).
+ Đức Giêsu còn phải tiếp tục nhập thể cho đến tận thế. Nhập thể là truyền giáo, là làm cho Đức Giêsu được sinh ra tại đây hôm nay, trong văn hóa truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa, trong một thế giới đã bước qua ngưỡng cửa của năm 2000. Sống mầu nhiệm Nhập Thể là noi gương Đức Maria : Đón nhận Đức Giêsu, cưu mang Người, và trao ban Người cho thế giới. Xin thắp lên một ngọn nến để đẩy lùi bóng tối tội lỗi và sự chết.
4) Thảo luận : Noi gương Ngôi Lời Nhập Thể, bạn sẽ làm gì để góp phần làm cho Tin Mừng được hội nhập vào văn hóa dân tộc Việt Nam hôm nay ? Khi bị người ta từ chối tiếp nhận Tin Mừng, bạn nên phản ứng thế nào ?
 
 Hiệp sống nguyên cầu :
 1) Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, hiệp cùng Mẹ Maria và thánh Giuse, con xin thờ lạy Chúa. Chúa đang nằm trong máng cỏ nghèo hèn, nhưng Chúa chính là Đấng tạo thành và ban sự sống cho muôn loài. Chính Chúa đã cho con làm người và muốn ban sự sống đời đời cho con. Dù con yếu đuối tội lỗi, nhưng Chúa vẫn không bỏ mặc con phải ở dưới quyền lực ma quỉ, tội lỗi và sự chết, nhưng đã đoái thương đến cắm lều ở giữa chúng con, cùng đồng hành với chúng con trên mọi nẻo đươ

Sưu tầm


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn