1
14:09 +07 Thứ bảy, 27/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 206


Hôm nayHôm nay : 15773

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 319895

Tổng cộngTổng cộng : 27874179

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Các bài chia sẻ các Chúa nhật Thường niên C

Thứ sáu - 19/07/2019 21:01-Đã xem: 1167
hái độ của Macta là thái độ bận rộn, vồn vã để tiếp đãi Chúa Giêsu cho thật thịnh soạn, chứng tỏ một tấm lòng hiếu khách. Còn Maria thì lại biểu lộ cũng tâm tình ấy bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà lắng nghe lời Người. Hai thái độ, nhưng cùng chung một tâm tình, cùng chung một đối tượng. Chỉ có điều là Chúa Giêsu đã từng coi những mối bận rộn là như một bụi gai làm nghẹt sức sống của Lời Chúa, hay có thể biến thành một ông chủ thống trị trong trái tim con người, chống lại chính Thiên Chúa tình thương, hoặc tệ hơn nữa là làm cho lòng con người ra nặng nề, đến độ không còn nhạy bén để đón chớ Chúa đến.

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 18 -34 TN NĂM C

 
 
LỄ CHÚA KITÔ VUA C
ĐỨC GIÊSU LÀ VUA VŨ TRỤ
+++


A. DẪN NHẬP.
 
          Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo hội dành để biệt kính Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ. Như vậy, năm Phụng vụ được mở đầu bằng 4 Chúa nhật Mùa Vọng, chuẩn bị đón nhận Con Chúa giáng trần; và Chúa nhật 34 thì tôn kính Đức Giêsu là vua cao cả của vũ hoàn. Nhưng danh hiệu và vương quyền của Ngài như thế nào ? Dù Kinh Thánh kể rằng Ngài là “dòng dõi” vua Đavít, nhưng phải chăng Ngài cũng chỉ tương tự như Đavít ?
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca mô tả cảnh Đức Giêsu bị treo trên cây thập giá giữa hai tên trộm cướp và bị mọi người nhạo báng. Hình ảnh này tạo cho ta một cảm tưởng rằng Ngài dường như bị thất thế, bị kết án như một tên tử tội, bị lăng mạ bởi chính các “thần dân” của mình. Nhưng với con mắt đức tin chúng ta thấy chính lúc ấy là lúc thành công, chính trong lúc ấy Ngài được Chúa Cha phong vương cho Ngài và Ngài đã làm lễ đăng quang trên chính thập giá đó. Ngài đã thành công ở chỗ hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc loài người, đã hòa giải nhân loại với Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa Cha phong vương cho Ngài và đặt mọi sự dưới chân Ngài để Ngài làm bá chủ muôn loài. Ngài thực sự là vua và còn là vị Vua Cao Cả, độc nhất vô nhị, mãi mãi vượt trên mọi vua chúa ở trần gian và triều đại Ngài sẽ vô cùng cô tận.
 
          Khi sinh thời, Đức Giêsu đã phán :Ta là đường, là sự thật và là sự sống”, ai theo Ngài thì không sợ bị lạc lối. Vì thế, chúng ta hãy công nhận vương quyền của Ngài, tin theo Ngài và góp phần xây dựng vương quốc Ngài bằng đời sống tin yêu và phục vụ. Con đường về Nước Trời chính là nỗ lực chu toàn bổn phận đối với bản thân, gia đình và xã hội. Không có bổn phận nào là đơn giản và dễ dãi. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn thấu hiểu và phù trợ ta qua lời chuyển cầu của Đức Maria và các thánh. Đức Kitô đã rộng mở cánh cửa tình yêu bằng hy sinh trọn vẹn của Ngài cho chúng ta.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
           + Bài đọc 1 : 2Sm 5,1-3.
 
          Đoạn này thuật lại cuộc phong vương lần thứ hai cho Đavít. Sau khi vua Saulê chết, tiên tri Samuel đã nhân danh Thiên Chúa xức dầu cho Đavít để ông làm vua các chi tộc ở Giuđêa. Sau một thời gian, vì mộ mến tài đức của Đavít, các chi tộc miền Bắc  vốn trung thành với dòng tộc vua Saulê cũng phong Đavít làm vua nữa. Từng bước một Đavít đã trở nên vua của 12 chi tộc Israel. Nhờ bản lĩnh hiếm có, ông đã giữ cho Israel được thống nhất.
 
          Đức Kitô là Đavít mới nhờ thập giá  sẽ kiện toàn sự thống nhất hoàn hảo và mãi mãi của dân Thiên Chúa.
 
          + Bài đọc 2 : Cl 1,12-20.
 
          Thánh Phaolô trích dẫn một bài thánh thi trình bầy địa vị của Đức Giêsu Kitô. Theo đoạn thư này, tư tưởng được trình bầy cho tín hữu Côlôssê như sau :
          - Phải cảm tạ Thiên Chúa Cha, Đấng đã qui tụ họ về Vương quốc của Con Người.
          - Địa vị tối thượng của Đức Kitô : Ngài vượt trên vũ trụ vì Ngài là Đấng sinh thành ra vũ trụ và cùng đích của muôn loài.
          - Đức Giêsu là nguồn mạch cứu độ vì Ngài đã làm hòa vũ trụ với Thiên Chúa.
 Như vậy Ngài đóng vai trò trung tâm và là Đấng trung gian duy nhất thâu tóm mọi kế hoạch của Thiên Chúa Cha.
 
          + Bài Tin mừng : Lc 23,35-43.
 
          Trong bài trình thuật này, thánh Luca mô tả Đức Giêsu chịu treo trên thập giá với đám khán giả hỗn độn.
          Phía dưới chân thập giá có những khán giả :
          - Dân chúng nhìn một cách bàng quan như không liên quan gì đến mình.
          - Các thủ lãnh Do thái chế nhạo :”Hắn đã cứu người khác thì hãy cứu lấy mình đi, nếu hắn là Đức Kitô”.
          - Lính canh cũng chế diễu :”Nếu ông là vua dân Do thái thì hãy cứu lấy mình đi”.
          Trên đầu Ngài có bảng chữ : Đây là vua dân Do thái (INRI).
          Bên cạnh Ngài là hai tên trộm : một tên hùa theo đám đông chế nhạo Ngài, tên kia thì công nhận Ngài là vua.
          Hình ảnh nói lên hai tên trộm lành và dữ này cho ta thấy rằng  ơn cứu độ đến từ Đấng bị đóng đinh. Việc Đức Kitô nhận người trộm lành vào vương quốc Ngài, là dấu chỉ tất cả các tín hữu tin vào Chúa sẽ được vào Nước Trời.
 
          Qua cái chết của Đức Kitô,”Vua người Do thái”, Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô trở nên nguồn suối ơn cứu chuộc cho cả và loài người ta.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
          Đức Giêsu là Vua chúng ta
I. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA.
 
          1. Kinh Thánh hé mở cho chúng ta.
 
          Trong chu kỳ năm Phụng vụ, đã có ba ngày Giáo hội long trọng nhắc đến tước hiệu “Vua” của Đức Kitô, tuy không rõ ràng tôn vinh tước hiệu ấy..
 
          - Lần thứ nhất, trong ngày lễ Hiển linh :”Khi Đức Giêsu sinh ra tại Belem, thời vua Hêrôđê trì vì, có mấy nhà đạo sĩ từ phương đông đến Giêrusalem, và hỏi :”Đức vua dân Do thái mới sinh ra hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người”(Mt 2,1-2).
 
          - Lần thứ hai trong Tuần Thánh, với việc Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem (Mc 11,1tt). Rồi trước tòa án Philatô, ông cho Đức Giêsu ngồi ở Gabata, ghế dành riêng cho quan tòa. Như vậy, vô tình Philatô công nhận Ngài là vua. Chính Ngài cũng khẳng định :”Tôi là vua dân Do thái”(Ga 18,37). Philatô cũng truyền cho người ta  viết tấm bảng trên đầu thập giá với hàng chữ :”Giêsu Nazareth Vua dân Do thái”(Ga 19,19)
 
          - Lần thứ ba, trong ngày Đức Giêsu lên trời, Hội thánh tôn vinh vua oai phong đi vào vinh quang và chờ đợi ngày Người lại đến (Mc 16,19) để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày cánh chung.
 
          2. Nhiều người công nhận Ngài là vua.
 
          Trong đoạnTin mừng ta thấy người ta vô tình hay hữu ý nhận Đức Giêsu là vua : Dân chúng nói Ngài là vua – Kỳ mục nói Ngài là vua – Philatô viết Ngài là vua – Kẻ trộm lành cũng tuyên xưng Ngài là vua – cùng cả và trời đất cũng nói lên Ngài là vua, thì chắc chắn Ngài là vua và Ngài phải là vua nữa.
 
Chúng ta có thể trích ra vài câu Kinh Thánh để làm chứng :
          - Câu 37 : “Nếu ông là vua dân Do thái, ông hãy cứu mình đi”.
          - Câu 38 : Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy lạp, La tinh và Do thái như sau :”Người này là vua dân Do thái”.
          - Câu 42 : “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.
          Các câu này nói lên vương quyền của Đức Kitô, Luca nhắc đi nhắc lại để nêu cao vương quyền đó.
 
          3. Ngày đăng quang của Đức Giêsu .
 
          Nghi thức phong vương thường là thầy thượng phẩm nhân danh Thiên Chúa xức dầu tấn phong ai làm vua trước mặt đông đảo dân chúng chứng kiến và nhiệt liệt tung hô (Bài đọc 1).
          Nhưng, nghịch lý thay, Đức Giêsu được phong vương trên thập giá với bản án trên đầu :”Đây là vua dân Do thái”.
          Ngai vàng là cây thập giá. Từ trên cao, Chúa nhìn xuống thần dân, giang hai tay ra  để ôm lấy dân Ngài.
          Vương miện là vòng gai cuốn trên đầu.
          Ao cẩm bào là thân hình trần trụi ô nhục.
          Những người tham dự : kẻ thù, Mẹ và một số môn đệ.
          Tiếng tung hô là những tiếng đả đảo :”đóng đinh nói đi”, và những tiếng khóc nức nở của người thân.
          Cảnh trí : núi Sọ và bầu trời u ám.
          Diễn từ nhận chức: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ” và sau cùng :”Mọi sự đã hoàn tất”.
 
          Trước đây Đức Giêsu đã từng tuyên bố :”Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta”(Ga 12,32). Trên thập giá, kẻ trộm lành đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu thế, là Vua vũ trụ, anh đã nhận ra tội lỗi của mình, tỏ lòng sám hối và đã thưa với Đức Giêsu :”Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”(Lc 23,42) và như vậy anh muốn thuộc về vương quốc Thiên Chúa. Và Đức Giêsu hứa với  anh:”Ta bảo thật ngươi :”Ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”(Lc 23,43).
 
II. THẾ NÀO LÀ VUA ?
 
          Theo quan niệm Nho giáo, người cầm quyền chính trị là vua. Vua được gọi là Con Trời hay Thiên tử.
          Chữ VƯƠNG (Vua) gồm có 3 nét ngang và một nét dọc, Ba nét ngang là chữ Tam hay quẻ Càn, tượng trưng cho Tam tài hay ba đạo : Thiên đạo, Địa đạo và Nhân đạo. Sổ dọc đứng giữa ngụ ý Vua là kẻ thụ mệnh Trời, đứng ra dung hòa ba đạo : Trời, Đất và người. Dung hòa ba đạo ấy  thành một duy nhất. Khổng Tử nói :”Nhất quán tam vi vương” là thế.
 
          Du khách đến Huế không thể quên được đàn Nam giao, cũng như đến Bắc kinh  không thể bỏ qua Điện Trời. Chính nơi đây, nhà vua thay mặt toàn dân tế Trời.
 
          Tại Huế, đàn Nam giao, cửa Ngọ môn và Điện Thái hòa cùng nằm ngay trên một đường thẳng.
          Điện Thái hòa là nơi vua cùng triều đình lo việc phục vụ dân chúng.
          Cửa Ngọ môn xây hướng về nam, nơi mặt trời lên cực điểm, vào giờ Ngọ, tức là 12 giờ trưa, giờ mặt trời “đứng bóng”, giờ mà hình và bóng nên một.
          Từ điện Thái Hòa, qua Ngọ môn, vua sẽ tiến thẳng về phía nam để đến đàn Nam giao, thay dân tế trời. Sau khi ăn chay nằm đất, vua sẽ tiến lên lễ đàn.  Trước tiên vua sẽ lên đàn hình vuông tượng trưng đất, sau đó mới lên đàn hình tròn, tượng trưng Trời để dâng lễ tế.
 
          Đức Kitô Vua vũ trụ, Vua của chúng ta, là chính Mặt Trời đúng ngọ, là Mặt Trời lên cực điểm, và Ngài cũng muốn chúng ta nên một với Ngài, như hình và bóng nên một vào giờ chính ngọ.  Đức Kitô, Vua vũ trụ, Vua chúng ta đã thay chúng ta  dâng lễ cho Chúa Trời, và nay, bên cạnh Chúa Cha, vẫn hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta :”Đức Giêsu, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta”(Dt 7,24-25).
 
          Người Việt nam chúng ta rất kính trọng vua. Người dân mình kính vua vì vua là “Thiên Tử”, là Con Trời, là người có “thiên mệnh”, là “Dân chi phụ mẫu” – cha mẹ của dân. Một vị vua sẽ được kính tôn là minh quân và thiên tử  nếu vị ấy thực sự thương dân như cha mẹ thương con, xả thân lo cho dân cho nước như cha mẹ hy sinh cho con cái, đôi khi còn dám nghĩ “hay để trẫm nộp mình cho giặc để cứu muôn dân” ? như vua Trần nhân Tông xưa kia.
 
          Vua Kitô của chúng ta không những là “Thiên tử” trong tước hiệu, mà còn là “Con Trời” trong bản tính.  Mừng kính, tôn vinh Chúa Giêsu là vua vũ trụ, chúng ta cũng được mời gọi làm vua như Ngài. Chúng ta là Alter Christus (Chúa Kitô khác), là Đức Kitô toàn thể, là nhiệm thể Đức Kitô. Chúng ta có nhiệm vụ hầu hạ mọi người, dấn thân phục vụ đồng loại.
 
III. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA CHÚNG TA.
 
          1. Tại sao lại gọi Đức Giêsu là vua ?
 
          Chúng ta thường nghe người ta nói : Sư tử là vua vì nó là con vật mạnh mẽ nhất trong muôn loài thú. Ta cũng thấy người ta gọi ông vua dầu lửa, vua thép, vua nhạc rock… Đó là những nhân vật tài giỏi nhất, làm bá chủ về một lãnh vực nào đó. Tương tự như thế, Đức Giêsu được gọi là “vua”, vì Ngài là một con người hoàn hảo nhất, cao thượng nhất, tài giỏi và quyền năng nhất. Nhờ đã hạ mình vâng lời chịu chết, một cái chết thập giá, mà Ngài đã được Thiên Chúa siêu tôn và ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu là :”Đức Giêsu Kitô là Chúa”(x. Pl 2,8-9).
 
          2. Vương quyền của Đức Kitô.
 
          Thiên Chúa đã đặt Đức Giêsu làm vua vũ trụ, đặt mọi sự dưới quyền điều khiển của Ngài. Ngài là vua vĩnh cửu và truyệt đối, vương quyền Ngài không có giới hạn. Chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin kính:”Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng”! Vương quốc của Ngài không bị giới hạn bởi không gian và thời gian như các vua chúa ở trần gian này, nước Ngài là nước thiêng liêng và vĩnh cửu.
 
Truyện : Vua Cảnh Công nước Tề.
         
Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt thương tiếc. Đoàn tùy tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có An Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi :
          - Tại sao ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười ?
          An Tử trả lời :
          - Nếu các đời vua trước mà còn sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy Đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được ?
 
          3. Đức Giêsu là vua thế nào ?
 
          Cứ nhìn vào lịch sử nhân loại sẽ thấy vua Trụ và vua Kiệt là những hôn quân, một Tần thủy Hoàng bạo ngược đến độ đốt sách, giết các nhà trí thức, học trò giỏi trên 2000 mạng để dễ bề cai trị; một Néron hung tàn vì thỏa mãn lòng kiêu căng  đã đốt sạch đế đô La mã để có cớ xây lại huy hoàng hơn; một Napoléon tham vọng đã đẩy hàng triệu người vào cái chết và gần đây một Hitler hiếu chiến hiếu sát đã lôi kéo cả thế giới vào một cơn lốc chém giết, tàn phá nhau kinh khủng. Và biết bao vua chúa quan quyền khác đã cai trị thần dân bằng cách bắt họ lụy phục mình hơn là phục vụ họ.
 
          Vương quyền dầu lớn lao, tuyệt đối,  nhưng Đức Giêsu trước sau chỉ có một đường duy nhất là yêu thương và phục vụ mà thôi. Chính vì tình yêu vời vợi như thế, Đức Kitô đã chấp nhận  chết cho thần dân của mình. Ngài hiến thân hy sinh cho cả Hội thánh, Như vậy, qua cuộc hiến tế của Ngài, chúng ta nhận ra, vua Kitô không chỉ là Vua hiền lành, nhân từ, Ngài còn là vị vua hạ mình đến tận cùng. Đến nỗi khi nhìn ngắm  sự hạ mình của Ngài trong cuộc hiến tế thương đau, ta chỉ còn biết lặng người đi, chiêm ngắm, thờ lạy, cảm tạ, chúc tụng, nguyện một lòng mang ơn Ngài và trung thành theo Ngài đến trọn cuộc đời.
 
Truyện : Chiếc nhẫn.
 
          Cách đây không lâu, những người thợ lặn đã phát hiện ra một con tầu  bị chìm cách đây 400 năm ngoài biển khơi ở vùng phía bắc Ireland. Một trong những kho tàng họ đã tìm thấy trên tầu là một chiếc nhẫn cưới của một người đàn ông. Khi họ đánh bóng, họ thấy trên mặt chiếc nhẫn khắc hình một bàn tay  đang nắm giữ một trái tim. Phía dưới có khắc hàng chữ như sau :”Em không còn gì hơn để cho anh”(I have nothing more to give you). Trong tất cả những kho tàng đã tìm thấy trên con tầu, không có sự gì làm cảm động những người thợ lặn cho bằng chiếc nhẫn và những lời cao đẹp của tình yêu đó.
 
          Hàng chữ được khắc trên chiếc nhẫn –“Ta không còn gì để cho con” – có thể được đặt trên thập giá của Đức Giêsu. Vì từ trên thập giá đó, Ngài đã cho chúng ta tất cả những gì Ngài có. Ngài cho chúng ta tình yêu và mạng sống. Ngài cho chúng ta tất cả những gì một người có thể trao ban cho người mình yêu :”Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu”(Ga Ga 15,13). Chúa Giêsu Kitô là Vua Tình yêu.
 
          4. Ai là vị vua xứng đáng nhất ?
 
          Trong bài đọc 2, thánh Phaolô trích dẫn một bài thánh thư trình bầy địa vị của Đức Giêsu Kitô : Đức Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu mà muôn vật được tạo thành và nhờ cái chết của Ngài trên thập giá mà mọi người được giao hòa lại với Thiên Chúa :
 
          “Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô chỗi dậy từ cõi chết và đặt bên hữu Ngài trên trời. Như vậy, Ngài đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh; mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn”(Ep 1,20-23).
 
          Như thế, Đức Giêsu là vua tối cao trên toàn thể vũ trụ, Ngài là người xứng đáng nhất để nhận lấy cái vinh dự đó.
 
Truyện : Người xứng đáng nhất.
 
          Vào thời thập tự viễn chinh, nhằm bảo vệ thánh địa và đảm bảo an ninh cho khách hành hương, vua Philipphê của nước Pháp đã làm một cử chỉ lạ thường. Trước mỗi lần lên đường, ông tháo gỡ triều thiên đang đội trên đầu, rồi đặt nó lên một chiếc bàn và ghi dòng chữ như sau :”Dành cho người nào xứng đáng nhất”.
         
          Sau đó, ông qui tụ tất cả tướng lãnh, các hiệp sĩ, những người hầu cận lại trước mặt ông và yêu cầu họ hãy quên ông là vua và là người chỉ huy của họ. Ông nói với mọi người rằng chiếc vương miện được dành cho người nào tỏ ra xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.
 
          Cuộc viễn chinh đã hoàn tất cách vẻ vang, mọi người hát khúc khải hoàn trở về quê hương. Họ tụ tập chung quanh vương triều và một tướng lãnh tiến lại cầm lấy triều thiên  đội lên đầu của Philpphê và nói :”Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất”.
 
          Chỉ có một người xứng đáng nhất được tuyên xưng tước hiệu là vua, đó là Đức Giêsu Kitô. Chỉ có mình Ngài là vua đích thực, bởi vì duy mình Ngài mới có thể mang lại sự sống cho con người, duy mình Ngài là chủ của lịch sử nhân lọai, duy mình Ngài là Đấng xứng đáng đội triều thiên vương giả. Ngài là vua duy nhất và đúng nghĩa nhất. Ngài là vua, không những vì Ngài là Đấng trao ban sự sống, mà còn vì Ngài đã thể hiện vương quyền một cách đúng nghĩa nhất.
 
IV. HÃY TIN THEO ĐỨC KITÔ VUA.
 
          1. Chấp nhận vương quền của Chúa.
 
          Hôm nay mỗi người cần tự hỏi mình có chấp nhận vương quyền của Chúa không ? Ta có để cho Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống chưa ? Ta tuyên xưng và loan truyền vương quốc của Chúa thế nào ? Nhận Chúa là vua vũ trụ xem ra là một việc dễ dàng, còn để Chúa làm chủ tâm hồn và đời sống xem ra không phải là một việc dễ dàng.
 
          Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha phong làm vua vũ trụ và dĩ nhiên cũng là vua lòng mọi người. Chúng ta chỉ có hai thủ lãnh để theo : một là Chúa Giêsu, hai là ma qủi. Chúng ta phải chọn một trong hai, hoặc là vị này hoặc là vị kia, là Chúa hay là ma qủi. Trong vấn đề này chúng ta không thể trung lập để “bắt cá hai tay”, bởi vì người ta thường nói :
 
                                      Một nhà hai chủ không hòa,
                                   Hai vua một nước, ắt là không yên.       
 
          Vậy chúng ta phải theo vị thủ lãnh nào ? Chắc chắn chúng ta chọn Đức Giêsu là vua bởi vì tất cả chúng ta  đã được chịu phép rửa tội. Qua phép Rửa tội, mỗi người chúng ta được thông phần cái chết và sự sống của Chúa Giêsu, được tham dự vào chức năng làm vua của Chúa Kitô. Đúng là : “Con vua thì lại làm vua”.
 
          3. Làm cho vương quốc Ngài phát triển.
 
          Ngày xưa, tiên tri Giêrêmia cũng nhắc đến những yêu tố làm cho vương quyền Thiên Chúa phát triển qua sự nhân nghĩa, công bình và chính trực (Gr 9,23). Ngày nay, Giáo hội cũng thúc giục chúng ta  phải làm cho vương quốc Ngài được phát triển nơi mọi người, mọi dân tộc:”Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Vì thế, trong hiến chế Lumen gentium, công đồng Vatican II dạy :
 
          “Vì thế, với ân huệ của Đấng sáng lập, và trong khi trung thành tuân giữ các giới răn bác ái, khiêm nhường và từ bỏ, Giáo hội đã lãnh nhận sứ mạng truyền giáo và thiết lập Nước Chúa Kitô và Nước Thiên Chúa trong mọi dân tộc; Giáo hội là mầm mống và khai nguyên Nước ấy trên trần gian. Đang lúc từ từ phát triển, Giáo hội vẫn khát mong Nước ấy hoàn tất  và thiết tha hy vọng, mong ước kết hợp với vua mình trong vinh quang”(L.G. đ 5).
 
          Sách Khải huyền đã ca ngợi :”Lạy Đức Kitô, Vua vũ trụ, chỉ có Ngài mới xứng đáng nhận vương quyền, vinh quang và vinh dự, vì “Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào cứu chuộc muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân”(Kh 5,9).
 
          Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào cuối năm phụng vụ như một lời tuyên xưng rằng Chúa là một Vương tướng mà chúng ta hết thảy quân đội dưới bóng cờ Ngài, và Ngài hướng dẫn tất cả về cùng Chúa Cha. Ngài đã chịu đau khổ nhưng Ngài đã toàn thắng trong vinh quang.
 
          Ngày xưa, trên đầu cây thánh giá có một tấm bảng ghi :”Đây là vua dân Do thái”, khiến người ta qua lại mỉm cười khinh chê. Ngày nay cả Giáo hội tôn vinh, giữa công trường thánh Phêrô, có một cột đá khổng lồ cao 25 mét, ngày xưa ở một đền bụt thần được đưa về đây để tượng trưng cho sự toàn thắng của Chúa Cứu thế, dưới cây thánh giá có khắc ba hàng chữ bằng tiếng La tinh :
 
          CHRISTUS VINCIT: Chúa Kitô toàn thắng.
          CHRISTUS REGNAT : Chúa Kitô quản suất.
          CHRISTUS IMPERAT : Chúa Kitô thống trị.
          Đó là những lời tung hô của Giáo hội trong ngày lễ hôm nay.



-----------------------------------------------------



 
CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN C
GIẦU CỦA GIẦU LÒNG
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Chúa nhật tuần trước, Đức Giêsu đã nói với chúng ta về việc sử dụng tiền của, tuần này Ngài nhắc đến một lần nữa và khuyến cáo chúng ta rằng tiền của có thể trở thành một mối nguy, một cản trở chúng ta vào Nước Trời. Một cách cụ thể, Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn về “người phú hộ và Lazarô khó nghèo”. Người phú hộ chỉ biết cậy dựa vào tiền của, chỉ biết hưởng thụ một mình mà quên đi người nghèo khó khác nên đã bị trầm luân; còn Lazarô nghèo khó chỉ biết cậy dựa vào Chúa, sống theo thánh ý Ngài nên được lên thiên đàng.
 
          Người phú hộ trong dụ ngôn không làm điều gì gian ác, không lỗi đức công bằng, không ức hiếp ai , không phạm gì đến Lazarô cả, vậy tại sao ông ta lại bị sa vào hỏa ngục ? Tội ông ở chỗ nào ? Thực ra, ông không phạm một tội ác nào mà chỉ có tội “hờ hững, dửng dưng” trước đau khổ của người khác. Ông không phạm tội một cách tích cực mà phạm tội một cách tiêu cực, đó là “tội thiếu sót” như chúng ta đọc trong kinh Cáo mình. Ông chỉ biết hưởng thụ, yến tiệc linh đình, ca hát suốt ngày đêm mà không màng gì đến người khó nghèo Lazarô nằm ngay cổng nhà ông, muốn ăn những hạt cơm rơi trên bàn ăn của ông mà cũng không được.
 
          Người ta thường nói :”Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” : lành dữ đều có thưởng phạt, cao bay xa chạy cũng không thể thoát được.  Cái chết  đã phân chia hai người thành hai thế giới đối nghịch : thế giới đau khổ và thế giới hạnh phúc. Người phú hộ bị phạt, Lazarô được thưởng.  Bài học Chúa dạy ta hôm nay là phải biết quản lý tài sản của Chúa “cho nên” vì chúng ta không phải là chủ mà chỉ là quản lý những gì Chúa đã thương ban. Phải có tinh thần liên đới và bác ái, phải biết chia sẻ với người đau khổ hầu kiếm được nhiều bạn hữu để “họ sẽ đón rước các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16,9).
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Am 6,1a.4-7.
 
          Cuộc khủng hoảng chính trị và kinh tế thế kỷ 8 trước công nguyên đã đào sâu hố phân cách giữa người giầu và người nghèo. Rất nhạy bén với những bất công xã hội, Amos không thể chịu  đựng những  kẻ có thế lực nhục mạ những kẻ yếu khốn khổ  bằng lối sống xa hoa của mình. Vị tiên tri không tiếc lời đả kích những kẻ giầu có  chỉ biết hưởng thụ, ăn uống, chè chén say sưa, ca hát mà không quan tâm đến người khác,”chẳng biết đau lòng trước cảnh Israel sụp đổ”. Họ sẽ bị diệt vong. Sống trên đời là phải sống liên đới với người khác trong vui buồn sướng khổ.
 
          +  Bài đọc 2 : 1Tm 6,11-16.
 
          Điều thánh Phaolô chờ đợi nơi Timôthêô là phải chiến đấu đến cùng  trong cuộc chiến đấu vì đức tin. Đó không phải là cuộc bảo vệ đức tin chống kẻ thù. Đức tin là một cuộc chiến đấu, vì nó cần được diễn tả trong suốt cuộc sống.
          Thánh Phaolô khuyến khích ông Timôthêô trung thành trong đức tin đã lãnh nhận và hãy làm chứng về đức tin ấy trước mặt mọi người. Người Kitô hữu, phương chi vị mục tử, cần ghi nhớ những lời khuyên này.
 
          +  Bài Tin mừng : Lc 16,19-31.
 
          Sự đảo ngược hoàn cảnh trong dụ ngôn ông nhà giầu ích kỷ và anh Lazarô khó nghèo – người nghèo được hưởng hạnh phúc còn người giầu bị trừng phạt – là một hình ảnh văn học thường gặp  trong các sách tiên tri và Tin mừng.
 
          Người phú hộ quen cậy dựa vào tiền của, không thèm để ý đến ai, khi chết thì những chỗ cậy dựa cũng tiêu tan và phải rơi vào cảnh khốn khổ ! Còn Lazarô là người nghèo khó  không có chỗ dựa ở trần gian, chỉ biết cậy dựa vào Chúa, nên khi chết được hưởng hạnh phúc trong vòng tay Chúa.
          Dụ ngôn cũng nhắc nhở cho người giầu phải sớm sửa lỗi lầm, đừng cậy dựa vào của cải trần gian nhưng hãy cậy dựa vào Chúa. Hãy ăn năn hối cải, đừng để đến giờ chết mới sám hối, vì lúc đó đã quá muộn và tình thế không thể đảo ngược được.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sự giầu có đích thực.
 
I. HAI THẾ GIỚI ĐỐI NGHỊCH.
 
          1. Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô nghèo khó.
 
          Dụ ngôn người quản gia bất lương của Chúa nhật tuần trước và dụ ngôn về Lazarô và nhà phú hộ của tuần này hỗ tương nhau vì cả hai dụ ngôn  đều qui về một ý tưởng : người giầu có sẽ hư mất, sẽ trầm luân đời đời nếu không biết chia sẻ của cải với những người túng thiếu. Đức Giêsu đem đối chiếu hai nhân vật thực tương phản : một nhà phú hộ chỉ biết tin cậy vào của cải để hưởng thụ, và một người nghèo khổ chỉ biết trông cậy vào Chúa.
 
          Chúng ta đang đồng hành với Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài trên đường tiến về Giêrusalem – nơi Ngài sẽ tự hiến vì nhân lọai. Bằng dụ ngôn “người phú hộ và Lazarô nghèo khó”, Đức Giêsu không những muốn gửi đến cho nhóm người Pharisêu vốn ham thích tiền bạc, xem tiền của, giầu sang  như là dấu hiệu  được Giavê chúc phúc, mà còn là lời cảnh tỉnh cho hết những ai coi trọng tiền bạc hơn anh em đồng loại.
 
          Mở đầu dụ ngôn, chúng ta thấy hai con người với hai hoàn cảnh hoàn toàn trái ngược xuất hiện. Một bên đại diện cho phú quí giầu sang, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn bên kia là nghèo khổ, bệnh hoạn, dơ dáy bẩn thỉu. Một bên là thế giới của “lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình” và một bên là thế giới bệnh hoạn nghèo túng đến thảm thương, thế giới của “mụn nhọt ghẻ lở đầy mình” và là thế giới của những ước ao rất ư bình dị đáng thương “thèm được những thứ trên bàn ăn rơi xuống ăn cho no”. Cả hai thế giới ấy  đều được khép lại  với cái cửa là sự chết, nhưng cũng đồng thời mở ra một thế giới mới với hai số phận , hai cảnh đời hoàn toàn trái ngược.
 
          Cái chết là tận số chung của mọi người, bất phân giầu nghèo. Hậu quả của cái chết khác nhau tùy theo cách sống của mỗi người khi còn sống. Ở đây người giầu, vì đã không biết sử dụng của cải để bố thí cho người nghèo theo lời khuyên của lề luật và các tiên tri; vì thế ông bị cực hình trong hỏa ngục.
 
          2. Hai hạng người đối nghịch nhau.
 
          a) Người phú hộ.
 
          Người phú hộ trong dụ ngôn này không có tên riêng chỉ biết ông ta là người giầu có. Hình ảnh người phú hộ rất quen thuộc trong xã hội Do thái bấy giờ : một xã hội có những người giầu sống tách biệt với người nghèo. Người phú hộ trong dụ ngôn thường xuyên đầy đủ của cải, nhưng không phải do những lối làm ăn bất chính, cũng như ông không tiêu xài của cải vào việc bất chính như ăn chơi, xa xỉ. Ông chỉ lo sống như những người giầu khác vào thời ông : ăn mặc sang trọng, ngày ngày yến tiệc linh đình. Ở đây cho thấy người phú hộ này không xấu về phương diện tiêu cực như làm giầu cách bất công và tiêu xài của cải cách bất chính để gây ra tội lỗi.
 
          Nếu người phú hộ không phạm một tội ác nào đối với Lazarô mà lại bị trầm luân thì vì lý do gì ? Nếu xét về mặt tội lỗi để buộc người phú hộ phải mất linh hồn đời đời nơi hỏa ngục, chúng ta thấy ông ta chẳng có tội nào để chuốc lấy cái án phạt lớn đến như thế. Ông không hề chiếm đoạt tài sản của bất cứ ai. Ông cũng không phải chịu trách nhiệm  trên sự nghèo nàn và thống khổ của Lazarô. Còn chuyện ông dư dật và ăn xài cũng không hẳn đã thành tội, vì đó là của cải của ông. Đức Giêsu không kê khai bất cứ tội nào của ông. Ngài cũng không cho biết người nghèo Lazarô đã xin nhà phú hộ giúp đỡ, hay nhà phú hộ đã từ chối giúp đỡ Lazarô. Vậy tại sao ông phải sa hỏa ngục ?
 
          Đó chính là nhà phú hộ đã làm ngơ, có thái độ dửng dưng, hững hờ đối với Lazarô đang sống trong cảnh cùng quẫn. Tội của ông chính là tội “Thiếu sót”, vì ông đã không làm gì để cải thiện đời sống của người anh em nghèo khó ở sát cạnh mình. Bác sĩ Albert Schweitzer, người đã bán hết gia tài kếch sù của ông, xây một bệnh viện và dấn thân cứu giúp những con người cùng khổ nhất Châu Phi đã đặt ra câu hỏi cho chính mình :”Làm sao chúng ta có thể sống  hạnh phúc trong khi có biết bao người đang đau khổ” ?
 
          Đúng vậy ! Dửng dưng hay hững hờ trước những đau khổ của người khác là một tội . Đó là điều Đức Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người phú hộ trong Tin mừng hôm nay.
 
          b) Người nghèo khó Lazarô.
 
          Lazarô là hình ảnh đối nghịch với người phú hộ, là người nghèo khó, bệnh hoạn, khốn khổ đến cùng cực, cần sự giúp đỡ nhưng không ai cho, ngay cả người phú hộ ở ngay bên cạnh.
 
          “Lazarus”, tên bằng tiếng La tinh của từ “Eleazar” tiếng Do thái, có nghĩa là “Thiên Chúa là sự nương tựa của tôi” hay “Thiên Chúa phù trợ”. Do đó, Lazarô, không phải chỉ là một người nghèo, nhưng là một người nghèo  hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa. Đây ắt hẳn là một lý do tại sao ông đã “được các thiên thần đem lên lòng Abraham”(Lc 16,22).  Nhờ đức tin, sự trông cậy, và lòng phó thác nơi Thiên Chúa giữa cuộc sống nghèo khổ ông được lên thiên đàng, không phải vì nghèo nàn, khốn khổ về vật chất.
 
          Đặt sự tương phản giữa sự nghèo khó của Lazarô và sự giầu có của nhà phú hộ để nói lên khía cạnh ích kỷ, keo kiệt của nhà phú hộ. Ở đây muốn nói : người giầu có đang có cơ hội thường xuyên để giúp người khốn khổ Lazarô, sử dụng của cải theo đúng vai trò người quản lý của Chúa. Nhưng vì người giầu có này hà tiện, keo kiệt, ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ, nên đã không biết sử dụng  của cải giúp đỡ ngưởi nghèo khổ, vì thế ông đáng tội.
 
          3. Vực thẳm giữa hai thế giới.
 
          Cái chết thay vì làm cho họ xích lại gần với nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự thật cho thấy từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược. Lazarô, kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay đã được thiên thần đem vào lòng ông Abraham, hưởng vinh phúc vô tận. Còn người phú hộ thì trái lại, trước đây hưởng sự giầu sang, chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình, nay phải ở “dưới hỏa ngục, đang chịu cực hình”.
 
          Dưới âm phủ : chữ âm phủ hay hỏa ngục dịch chữ Hadis hoặc Schéol, chứ không phải dịch chữ Gehenna. Theo quan niệm một số người Do thái, Schéol là nơi người chết vào trong đó và tạm thời được xếp thành 2 loại : Loại một gồm những người công chính được Chúa an ủi và được ngồi dự tiệc trong lòng của tổ phụ Abraham (x. Lc 23,43). Loại hai gồm những kẻ vô tâm bất tín bị lửa hồng thiêu đốt rất đau đớn. Nhưng cả hai đều phải chờ đến ngày tận thế để được phán xét chung. Sau đó kẻ lành sẽ được hưởng hạnh phúc Nước Trời vĩnh viễn và kẻ dữ sẽ bị phạt trong lửa hỏa ngục đời đời.
 
          “Trong hỏa ngục, nhà phú hộ nhìn thấy đàng xa có Abraham và Lazarô trong lòng Ngài”.
Thấy thế, nhà phú hộ năn nỉ tổ phụ Abraham sai Lazarô – ông nêu rõ tên, cái tên mà ông chẳng thèm biết tới khi còn sống ở trên đời – “nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát”.
 
          Muộn quá rồi ! Cuộc chơi đã mãn ! Cả Abraham lẫn Lazarô chẳng ai làm được gì cho ông nữa. Một cách vô thức, ông đã từng buớc đào sâu thêm, giữa sự giầu có ích kỷ của mình và cái khốn cùng của người nghèo trước cửa nhà một “vực thẳm” mà rốt cùng cái chết đã làm cho trở thành vĩnh viễn không thể vượt qua. Thua xa sự “khôn khéo” của người quản gia bất lương của Chúa nhật vừa qua, ông đã không biết “làm bạn” với Lazarô, để được anh “đón rước vào nơi ở vĩnh viễn”.
          Theo nhận định của H. Cousin :”Vực thẳm chia cách giữa những người  đang được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ đang chịu cực hình dưới hỏa ngục, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm  đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Lazarô đã nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị, mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp cho đầy” (Fiches dominicales C, tr 316).
 
II. MỘT VÀI SUY TƯ VỀ DỤ NGÔN TRÊN.
 
          1. Giầu hay nghèo không phải là xấu.
 
          Thoạt tiên, xem ra có vẻ mâu thuẫn về quan niệm giầu nghèo trong Thánh Kinh Tân ước. Một đàng Đức Giêsu ca tụng nhân đức khó nghèo. Chúa nhấn mạnh rằng tiền bạc có thể là mối nguy hặi cho việc cứu rỗi. Đàng khác, Ngài ý thức rằng nghèo túng có thể làm giảm  nhân vị của họ. Nếu xét đến tinh thần nghèo khó trong Phúc âm thánh Matthêu thì cái mâu thuẫn không còn nữa. Vì vậy giầu hay nghèo theo tinh thần Phúc âm là tùy thuộc vào thái độ của ta đối với của cải vật chất . Do đó, người giầu có về phương diện vật chất có thể được coi là nghèo khó về phương diện tinh thần  nếu họ làm giầu cách chính đáng, không để lòng dính bén vào của cải vật chất và biết giúp đỡ người nghèo đói. Trái lại, một người nghèo túng về phương diện vật chất, có thể được coi là giầu có về phương diện thiêng liêng, nếu họ luôn mơ ước làm giầu chính đáng.
 
          Như vậy giầu không phải là tội. Và nghèo – nếu chỉ vì nghèo – cũng không phải là một nhân đức. Vậy giầu hay nghèo tự bản chất không phải là một điều xấu. Tuy nhiên nếu người ta coi của cải đời này là cùng đích thì người ta đi vào con đường sai lầm. Con người được tạo dựng  với những nhu cầu vật chất để sinh sống và phát triển nhân vị. Tuy nhiên người ta không được để cho của cải đời này  làm cản trở mối liên hệ với Chúa. Vậy cái thái độ ta phải có  đối với của cải vật chất là tâm tình biết ơn Chúa là Đấng ban phát mọi sự.
 
Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa thì của cải phải khơi dậy trong ta cái tâm tình biết ơn Chúa và liên kết ta lại với tha nhân trong tinh thần liên đới trách nhiệm. Của cải là để phục vụ con người, chứ không phải là con người phục vụ của cải. Vì thế, ta phải biết quản lý của cải  một cách khôn ngoan và có trách nhiệm : không phung phí cũng không ích kỷ. Mỗi người tín hữu dù giầu hay nghèo, tu hay không tu phải cố gắng sống tinh thần Phúc âm là tinh thần siêu thoát. Nếu không, người ta có thể phải làm nô lệ cho của cải (Trần bình Trọng).
 
          2. Giầu của có thể nghèo lòng.
 
          Trong dụ ngôn hôm nay, người phú hộ bị hình phạt trong hỏa ngục, chịu lửa thiêu đốt và khát cháy cổ, không phải vì phạm tội ác nào, mà chỉ vì sử dụng của cải Thiên Chúa ban để ích lợi cho một mình mình thôi. Ông ta “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, bỏ mặc người nghèo ở ngay trước cổng nhà mình “sống chết mặc bay”, phải chịu “mụn nhọt đầy mình”, “mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”, “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông chủ rớt xuống mà ăn cho no” mà không hẳn được ai cho. Người phú hộ ấy – cũng như biết bao người giầu có khác – nghĩ rằng những gì mình đang có trong tay là của mình, mình muốn sử dụng hay hưởng thụ thế nào, cho ai hay không cho là tùy ý mình. Ông ta nghĩ rằng ông hoàn toàn  vô tội không làm thiệt hại gì ai. Đối với những người nghèo khổ đến với ông, ông nghĩ ông có quyền không cho, và làm như thế ông không có lỗi gì với họ cả : ông có làm gì khiến họ thiệt hại đâu.
 
          Chúng ta hãy nhớ lại nhiều lời cảnh báo chống lại nguy cơ của những người giầu có vật chất (Lc 12,115-21- 16,9-11). Đối với Đức Giêsu, sự giầu có bao gồm hai nguy cơ chết người :
          - Nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa : Người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều chủ yếu.
          - Nó khép kín lòng mình với những người khác : Người ta không còn nhìn thấy người nghèo  nằm ngay cổng nhà mình.
 
Truyện : Bà già đón Chúa.
 
          Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
          Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói :”Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
          Mấy phút sau lại có tiếng  gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì ? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà ta đóng sầm cửa lại.
          Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến, Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
          Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
          Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói :”Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và 3 lần con đều đuổi Ta” (Góp nhặt).
 
          3. Người giầu thật và nghèo thật.
 
          Người giầu thật là người biết cho, người nghèo thật là người chỉ biết nhận.
          Người giầu thật là người có rất ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đủ; người nghèo thật là người có quá nhiều nhu cầu nên luôn cảm thấy thiếu.
          Sự giầu có thật là giầu trong tâm hồn, sự nghèo nàn thật là một tâm hồn trống rỗng.
          Bởi vậy cái giầu vật chất hay đi đôi với cái nghèo tâm hồn. Và đó cũng là cái nguy hiểm của vật chất :
          - Nó khiến ta quá chú ý đến  cái “có” mà quên xây dựng cái “là” của mình.
          - Mà những cái “có ấy” chỉ là vật chất và ngoại tại, nên chúng dễ khiến ta lơ là với những giá trị tinh thần và cuộc sống nội tâm.
          - Quá quan tâm đến vật chất, chúng ta còn có thể bị chúng  che mờ cặp mắt không còn nhìn thấy tha nhân và Thiên Chúa (Carôlô).
 
Truyện : Giầu có tâm hồn.
 
          Một tu sĩ đi lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây thì một dân làng chạy đến gặp ông và nói :”Xin thầy cho con viên ngọc quý”.
          Anh định nói về viên ngọc nào”?  Người tu sĩ hỏi.
          “Tối hôm qua con có một giấc mơ : nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên giầu có mãi”.
          Tu sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra.”Đây có lẽ là viên ngọc mà anh nói đến” ông nói và đưa cho người dân làng. “Tôi tìm thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó”.
          Người dân làng cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp vị tu sĩ và nói :”Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy lại viên kim cương này. Thay vào đó,  hãy cho con sự giầu có nào  làm thầy cho đi viên kim cương ấy dễ dàng đến thế”.
 
          Người giầu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời sống bên ngòai – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn (McCarthy).
 
          Theo sự suy tư của cha Flor McCarthy ta có thể nói :
Sự giầu có thật được đo không phải   bởi những thứ người ta thu tích, mà bởi những thứ người ta cho đi.
Sự giầu đáng giá nhất là giầu trong tâm hồn.
Khi ta đóng cửa lòng mình lại là lúc ta bắt đầu chết,
Khi ta mở cửa lòng ra là lúc ta bắt đầu sống.
 
          4. Phải biết chia sẻ .
 
          Suy niệm qua dụ ngôn này, ta thấy Thiên Chúa không chấp nhận cho vào Nước Trời những người sống ích kỷ, không biết yêu thương, những người lãnh đạm hoặc làm ngơ trước những đau khổ của những người chung quanh chúng ta đang phải gánh chịu một cách bất công. Vì thế, một cách cụ thể, chúng ta cần biết chia sẻ, giúp đỡ họ, và phải làm một cái gì đó khi có thể. Nếu chúng ta có tình yêu đích thực, tình yêu ấy  ắt sẽ khiến chúng ta  bức xúc và không thể im lặng hay bất động trước những đau khổ người khác đang phải chịu trước mắt mình.
 
          Trong chuyến viếng thăm Hoa kỳ lần đầu tiên, tại sân vận động Yankee, Đức Giáo hòang Gioan Phaolô II lấy lại dụ ngôn hôm nay và nói :”Người giầu này bị hình phạt vì ông không quan tâm đến người khác, vì không để ý gì đến Lazarô đang nằm trước cổng nhà ông chờ đợi từng mẩu bánh từ bàn ông ăn rơi xuống. Đức Kitô không bao giờ lên án việc có tài sản, nhưng Ngài đưa ra những lời nghiêm khắc chống lại những người sử dụng của cải vật chất cách ích kỷ, không chú ý gì tới người khác…
 
          Chúng ta phải luôn luôn nhớ, dụ ngôn người giầu và người nghèo này. Câu chuyện đó phải đào tạo lương tâm chúng ta. Đức Kitô đòi buộc ta phải mở rộng lòng với anh chị em sống trong khó nghèo. Với những người giầu, những người khỏe mạnh, những người có được một bảo đảm kinh tế, Chúa đòi buộc phải rộng lòng đối với người nghèo, những người sống trong các nước chưa phát triển”.
 
III. BÀI HỌC CHO NGÀY HÔM NAY.
 
          1. Biết quản lý tài sản của Chúa.
 
          Tất cả những gì chúng ta đang có đều là của Chúa ban. Chúng ta không phải là chủ mà chúng ta chỉ là người quản lý, cho nên chúng ta phải sử dụng tài sản ấy theo ý của Chúa, không được phung phí. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm của chúng ta.
 
          Người ta nói :”Hữu lộc bất khả hưởng tận” :  có lộc chẳng nên hưởng hết một mình. Con người phải có tình liên đới, còn phải nghĩ tới người khác. Thông điệp Rerum Novarum của Đức Giáo hòang Lêô XIII có nói :”Chúa khoan hồng ban dư dật mọi ơn huệ hồn xác cho ai, thì kẻ ấy phải dùng để thánh hóa bản thân và cấp đủ sự cần dùng cho đời sống mình trước, rồi sau phải đóng vai quản lý Chúa quan phòng, để cứu đỡ kẻ khác. Kẻ giầu có nhiều tiền thì chớ để sự nhân từ tê cóng trong lòng họ”(đọan 9).
 
          2. Phần thưởng và hình phạt đời sau.
 
          Cổ nhân đã nói :”Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” : Lành dữ trước sau sẽ có thưởng  phạt. Chúng ta biết Thiên Chúa lòng lành vô cùng. Chúng ta cũng thấy ở đời này có sự chênh lệch diễn ra rõ rệt : người giầu thì giầu quá, người nghèo cũng lại quá nghèo. Một điều rất khó hiểu : người tội lỗi thì cả đời may mắn, trong khi người công chính thì cả đời gặp rủi ro tai họa. Giữa lúc phân vân bối rối như vậy thì có những tia sáng lóe lên trong đầu óc, trong đó phải kể ngay đến sự việc của người phú hộ.
 
          Người phú hộ phải phạt không phải vì ông là người phú hộ, mà vì ông đã không phú hộ “cho nên”. Giả như ông thương người nghèo đói cho đúng mức, hay ít ra bố thí cho họ những của dư thừa theo câu “nhiễu điều phủ lấy giá gương” thì đâu đến nỗi phải phạt sau khi ông chết ?  Đức Giêsu cũng không phi bác sự giầu có, mà chỉ cho đó là  cản trở khó vào Nước Trời (Mt 19,224), do đó sự giầu có vốn  nó không xấu, cũng không phải là tội, nếu người ta biết giầu có “cho nên”, mà nhà phú hộ kia đã la cái gương đáng kể về người giầu có vậy.
 
          Tư tưởng thưởng phạt mỗi ngày mỗi thêm sáng tỏ trong các dân tộc : dân La mã cũng như dân Hy lạp tin rằng kẻ không kính thờ thần linh, sau này sẽ bị loại ra khỏi nơi cực lạc,  trong khi các dân tộc Á đông tin rằng :”Tác thiện giáng chi bách tường. Giáng bất thiện giáng chi bách ương”. Và nếu kẻ làm lành chưa được thưởng công và kẻ tác quái chưa phải chịu phạt thì “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo. Phước hoàn bất báo, thời thần vị báo. Cao phi viễn tẩu dã nan tàng” : Làm lành được thưởng, làm dữ phải phạt. Nếu như chưa thưởng chưa phạt, đó là chưa đến giờ. Và khi giờ đã điểm thì dù cao bay xa chạy đến đâu đi nữa cũng không thóat nổi.
 
          3. Gấp rút sửa mình, đừng chần chừ.
 
          Trong hỏa ngục nhà phú hộ xin Abraham sai Lazarô về cảnh cáo 5 anh em còn sống, để họ khỏi rơi vào cảnh khốn cực này, để họ trở lại sống đúng ý nghĩa cuộc đời hơn. Nhưng Abraham đáp lại bằng những lý luận Maisen đủ để cảnh tỉnh họ. Luật Maisen và các tiên tri đã chẳng từng dạy về việc sử dụng tiền của vật chất sao cho đúng ư ? Các ngài đã chẳng khuyên phải bác ái đối với người nghèo, chia cơm sẻ áo với kẻ đói khát, niềm nở đối với khách lạ, đón tiếp kẻ bất hạnh sao ? Sách Đệ nhị Luật (15,7-11) truyền dạy :”Nếu giữa anh em có một người nghèo, thì anh em đừng có lòng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em : hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miền đất của anh em”.
 
          Bài học đã quá rõ. Nó được gửi đến tất cả những ai đang có nguy cơ bị tiền của làm cho điếc tai, mờ mắt. Mong sao đừng chờ cho đến khi có một biến cố nào đó lay động, buộc họ phải quyết định. Tốt hơn hãy coi Lời Chúa cảnh báo hôm nay là nghiêm trọng. Đừng chậm trễ. Chậm trễ biết đâu sẽ muộn màng.
 
Truyện : Đã quá muộn.
 
          Đã ba đêm, người ta nghe văng vẳng tiếng nức nở và khẩn khoản của một thanh niên ở ngoài nghĩa trang từ một ngôi mộ của một người đàn ông 50  tuổi mới được chôn cất một tuần :”Cha ơi, con xin lỗi cha. Cha tha lỗi cho con đi cha. Cha có nghe không cha” ? Thì ra vì xích mích với cha anh đã bỏ nhà ra đi. Thời gian giúp anh hiểu ra  tình cha. Trở về xin lỗi thì đã trễ.
 
          Chúng ta có thể kết luận : Muốn đạt hạnh phúc đời đời ta phải trở nên nghèo khó, nghĩa là ta không dính bén của cải trần gian này. Ta có lắm của nhiều tiền là một việc tốt. Ta biết dùng nó để tạo cuộc sống ấm no cho bản thân, gia đình và xã hội, một điều kiện cần thiết để thực thi lòng mến Chúa yêu người. Ngoài ra, ta cũng biết chia sẻ với người anh em đang thiếu thốn như là một trách nhiệm phải làm chứ không như là một việc thi ân giáng phúc. Dĩ nhiên sự chia sẻ đó phải phát xuất từ tấm lòng của ta là giúp người anh em tiến gần Chúa hơn.


CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN C
TÍCH TRỮ CỦA CẢI THIÊNG LIÊNG
+++
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Người ta thường nói :”Có tiền mua tiên cũng được”. Nhiều người cho rằng với đồng tiền thì làm gì cũng đực, muốn gì cũng có vì đồng tiền là vạn năng ! Nhưng có những cái mà với đồng tiền người ta không thể sắm được,  ví dụ Nước Trời, phần rỗi linh hồn. Nhân dịp này, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn “Người quản gia bất lương” để khuyến khích chúng ta phải biết cách dùng của cải, nhất là phải khôn ngoan trong việc lo cho tương lai của mình, tức là phần rỗi đời đời của mình trên Nước Trời.
 
          Dụ ngôn hôm nay có thể gây hiểu lầm cho nhiều người. Mới đọc qua, ta thấy Đức Giêsu như khen nguời quản lý bất lương đã khôn khéo dùng mánh lới để kiếm được bạn hữu sau khi bị ông chủ thải hồi. Xem ra Đức Giêsu cho phép chúng ta theo gương người quản gia này đểâ dùng mọi mánh lới khôn khéo mà tìm lợi cho mình. Nhưng đọc kỹ, ta thấy Đức Giêsu không khen việc làm bất lương của anh ta mà chỉ khen cái khôn khéo của anh ta  trong việc biết lo cho tương lai của mình. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu khuyến khích chúng ta phải biết lo cho cho phần rỗi của mình giống như người quản gia bất lương biết lo cho tương lai vật chất của anh ta.
 
          Tất cả chúng ta đều là quản gia của Chúa vì tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban, như thánh Phaolô nói:”Có gì mà bạn đã không nhận nơi Chúa”. Với tư cách quản gia, chúng ta phải trung thành quản lý tài sản mà Chúa đã trao phó, phải biết làm lợi ra, phải biết chia sẻ và biết dùng tài sản này mà mua được phần rỗi của mình trên Nước Trời.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Am 8,4-7.
 
          Tiếng kêu của tiên tri Amos cách Đức Giêsu 800 năm mà hôm nay vẫn còn hợp thời. Ông được đời sau đánh giá là lương tâm của thời đại ông, một thời đại đầy dẫy bất công xã hội và người nghèo bị bóc lột đến tận xương tủy. Ông lên án những tội của người giầu :
          - Ngay những ngày lễ cũng bị sử dụng  cho việc buôn bán để kiếm lời.
          - Họ gian lận bằng cách thu hẹp đấu lại và làm nặng thêm quả cân.
- Khai thác và bóc lột những người nghèo khó.
          Nhà tiên tri đã cảnh cáo:”Chẳng bao giờ Ta sẽ quên một hành vi nào của chúng”(Am 8.7).
 
          +  Bài đọc 2 : 1Tm 2,1-8.
 
          Thánh Phaolô chỉ dẫn choTimôthêô tổ chức lời kinh cho mọi người trong cộng đoàn phụng vụ. Phải có tinh thần liên đới trong khi cầu nguyện, nghĩa là Kitô hữu đại diện cho nhân lọai, liên kết với nhân lọai trước mặt Thiên Chúa.
 
          Khi cầu nguyện người Kitô hữu mở rộng lòng ra ôm lấy thế giới để tạ ơn, để cầu xin với mọi người và cho mọi người. Tại sao lại có nhiệm vụ ấy ? Bởi vì Thiên Chúa của người Kitô hữu là Thiên Chúa của tất cả mọi người và Ngài muốn tất cả được ơn cứu rỗi. Riêng vị sứ giả Tin mừng càng phải làm chứng về điều này cách hăng say hơn.
 
          +  Bài Tin mừng : Lc 16,1-13.
 
          Truyện người quản gia bất trung ta gặp thấy hằng ngày trong cuộc sống . Đối với dân Do thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý, miễn sao có lợi cho chủ thôi.  Quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
 
          Đức Giêsu không khen cái hành vi bất chính của anh ta , nhưng khen cái sự khôn khéo biết lo cho tương lai. Bài học rút ra cho người Kitô hữu là khi phải lo phần rỗi linh hồn  thì phải làm mọi chuyện  để được cứu rỗi. Bằng cách nào ? Bằng cách chia sẻ với người nghèo. Không có cách nào giữ của chắc chắn hơn.
 
          Trong khi xử dụng tiền của phải rất khôn ngoan, phải biến nó thành tôi tớ trung thành, đừng để nó trở thành ông chủ khắc nghiệt vì “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,13).
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                 Cách dùng tiền của đời này.
I. DỤ NGÔN NGƯỜI QUẢN GIA BẤT LƯƠNG.
 
          Để dạy ta phải biết lo xa cho đời sống tương lai của linh hồn mình, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn nói về một người quản gia biết lo xa cho đời sống vật chất của mình.
 
          1. Người quản gia ở Palestine.
 
          Tại Palestine có nhiều địa chủ vắng mặt ở lãnh địa của mình nên tất cả công việc của ông được trao vào tay người quản gia của ông. Theo luật Do thái, người quản gia không phải là một nhân viên được trả công, nhưng toàn quyền thay mặt chủ và chủ phải tôn trọng những dịch vụ buôn bán của người quản gia.
 
          Trong trường hợp người quản gia bất trung phung phí của chủ, luật pháp cũng không có biện pháp nào bắt buộc ông phải hoàn lại của đã mất, chỉ có cách là sa thải. Sau khi nhận được giấy sa thải, người quản gia phải tính sổ liệt kê tài sản, việc này cần một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện của chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ. Ở đây, người quản gia bị ông chủ là nhà phú hộ khiển trách, vì đã phung phí của chủ và đó là hành vi bất lương và gian dối của người quản gia, khiến ông chủ sa thải.
 
 
          2. Kế họach của người quản gia.
 
          Ở trong tình tình trạng này, người quản gia phải suy nghĩ về số phận tương lai của mình sau khi bị sa thải. Làm việc bằng chân tay thì không quen vì xưa nay chuyên ăn trên ngồi trốc rồi. Phải liệu cách nào để sau khi mất chức quản gia, thì sẽ có người đón tiếp mình về nhà họ.
 
          Thế là không chút chần chừ, ông cho gọi “từng con nợ”của chủ lại, và trước mặt mình, anh ta cho phép họ sửa lại số nợ. Đúng là dịp may hiếm có, bởi vì thủ đoạn này cho phép giảm món nợ từ 100 thùng dầu xuống chỉ còn 50 (bớt khỏang 2000 lít), và từ 100 giạ lúa xuống chỉ còn 80 (bớt khoảng 6000 ký).
 
          Từ nay mọi người đều đồng lõa với nhau giữ kín bí mật : đám con nợ dĩ nhiên sẵn lòng giữ thinh lặng để được hưởng một vụ làm ăn quá lời; còn người quản gia thì an tâm “sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ”.
 
          Dụ ngôn người quản gia bất lương là một trong những đoạn Tin mừng từng bị hiểu sai nhiều nhất : bao nhiêu người đã xem đây như bằng chứng Đức Giêsu  cho phép làm điều bất lương. Thọat nghe ta lấy làm vấp phạm khi Đức Giêsu lên tiếng khen người quản lý bất lương đã hành động cách tinh quái. Lẽ ra thì Ngài phải kết án việc làm gian lận của người quản lý hay ít ra cũng chỉ trích cái hành động cướp gạt của anh ta như tiên tri Amos đã tố cáo những tệ đoan xã hội thời bấy giờ. Amos mô tả việc người giầu có nóng lòng chờ đợi cho qua ngày lễ nghỉ để họ có thể lường gạt và bóc lột người nghèo (Am 8,5-6).
 
          Tuy nhiên, đi sâu vào vấn đề ta thấy Đức Giêsu không khích lệ việc người quản gia phung phí tài sản của chủ. Thực ra, Ngài chỉ khen cái mánh lới của anh ta mà thôi. Ngài khen người quản gia có khả năng hành động kịp thời và quyết liệt khi bị giồn vào thế chân tường. Rồi từ đó Ngài kết luận : “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn hơn con cái ánh sáng” (Lc 16,8). Và rồi Đức Giêsu thách thức ta : Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước các con vào nơi ở vĩnh cửu (Lc 16,9). Nghĩa là con cái ánh sáng cần phải xử sự cách khôn khéo để làm sao tiền bạc không trở nên một thế lực thống trị và biến chúng ta thành nô lệ; trái lại, cần phải biến nó thành phương tiện phục vụ con người  thông qua làm phúc bố thí chứ không phải bo bo giữ cho riêng mình. Người Kitô hữu nhớ rằng, tiền bạc không phải là cùng đích mà chỉ là phương tiện. Chúng ta xử sự thế nào để tiền của không cản trở  bước đường đi đến đời sống vĩnh cửu khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay.
 
II. NÓI VỀ TIỀN CỦA.
 
          1. Tiền của là những gì ?
 
          Tiền của đây nói chung là gia tài hay tài sản, là tất cả những gì mình có. Gia tài vật chất là của cải, là thân xác, là địa lợi chung quanh. Gia tài tinh thần là tài năng, tâm trí, đức hạnh, linh hồn. Gia tài vô cùng quí giá là nguồn sống vô biên tuôn trào từ các bí tích, từ lời hằng sống , từ trái tim và thần khí của Đức Giêsu…  Tất cả những cái đó ta phải “quản lý”. Chúa sẽ yêu cầu chúng ta phải phúc trình về chúng. Ta không có quyền “phung phí” những ơn mà Thiên Chúa đã trao cho chúng ta. Ai là người quản lý trung tín và khôn ngoan thì biết khôn khéo dùng những gia tài ấy để kinh doanh, phát triển, đầu tư vào những công trình chân chính mà mua lấy bạn bè, sắm lấy những kho tàng, sắm lấy những viên ngọc qúi trong Nước Thiên Chúa. Đó là cách xử sự khôn khéo của con cái sự sáng.
 
          2. Sức mạnh của tiền bạc.
 
          Người đời thường nói :”Có tiền mua tiên cũng được, không tiền mua lược không xong”.
Tiên là bà tiên, cô tiên, một hạng người đẹp cả người lẫn nết, không bao giờ chết, lúc biến lúc hiện do trí tượng tượng người ta hình dung ra. Tiên là một hạng người không có thực, vậy có tiền cũng không có thể mua.
 
          Câu này cực tả cái giá trị của đồng tiền, đại ý nói rằng có tiền thì việc khó đến đâu , cũng làm được, của hiếm đến đâu cũng mua được. Không tiền thì cái tầm thường nhất cũng không mua được. Có câu tục ngữ tiếp theo câu trên :”Không tiền mua lược không xong”.
 
          Người có tiền thì có thế, được nhiều người kiêng nể, có thể sai khiến được nhiều người, khiến họ phải hầu hạ, đưa rước và tạo thêm được nhiều kẻ nịnh hót :
 
                                      Có tiền chán vạn người hầu,
                                      Có bấc có dầu chán vạn người khêu.
                                                     (Ca dao)
 
          Đồng tiền cũng có sức mạnh phi thường, nó có thể đổi trắng thay đen lòng người, nó có thể biến những con người lương thiện thành con người bất lương, mà nhiều người không thể cưỡng lại được :
                                      Đồng tiền không phấn không hồ,
                                      Đồng tiền khéo điểm, khéo tô lòng người.
                                                       (Ca dao)
 
          Cổ nhân cũng đã có kinh nghiệm nên đã từng nói :”Hoàng kim hắc thế tâm”.
 
          Hành động của Giuđa đã nói lên kinh nghiệm đó. Giuđa là một trong 12 tông đồ thân tín của Đức Giêsu, được Ngài yêu thương tận tình, nhưng vì tham tiền, anh ta đã bán rẻ lương tâm, không còn nghĩ gì đến tình nghĩa thầy trò,sẵn sàng bán Ngài cho người Do thái với giá 30 đồng bạc. Quá rẻ ! Anh ta đã bị đồng tiền chi phối, không thể chống lại được.
 
          3. Nguy hiểm của tiền bạc.
 
          Có phải “Tiền là Tiên là Phật, là sức bật của lò so, là thước đo lòng người “ chăng ?
          Qua tin tức báo chí và kinh nghiệm thực tế, có lẽ ta phải nhìn nhận  sức mạnh của tiền tài quả là đáng sợ. Nó có thể làm mờ lương tri, biến chất lòng người, sụp đổ ý chí, lụi bại thanh danh, tiêu tan trách nhiệm… Thế nên có tiền tài và sử dụng làm sao cho tốt đẹp không phải là chuyện dễ.
         
          Biết bao câu tục ngữ :”Tiền bạc là tên đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu”. Tiền tài vừa nguy hiểm vừa đáng sợ mà ai cũng thích có nhiều, chỉ vì cái sức mạnh của nó, như câu tục ngữ của  nước Nga :”Với một túi tiền treo nơi cổ, không ai có thể bị chết treo”.
 Nhà thơ Tú Xương còn mỉa mai :
Ví thử trong tay tiền bạc có,
 Nói dối như cuội chán người nghe.
 
Có thể nói tiền bạc là con dao hai lưỡi. Theo đó, càng nhiều tiền thì con dao hai lưỡi càng khó sử dụng.
 
Truyện : Lời khuyên của vị giáo trưởng.
 
          Một lần kia, có một người giầu có nhưng keo kiệt  đến gặp vị giáo trưởng của ông và xin giáo trưởng ban phép lành cho ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giầu một cách thân thiện và đưa vào phòng khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến cửa sổ nhìn xuống đường phố và nói :”Ông hãy nhìn ra kia và nói cho tôi biết ông thấy cái gì” ?
          “Tôi thấy người ta đi qua, đi lại,” ông nhà giầu đáp.
          Rồi giáo trưởng đưa ông ra khỏi cửa sổ, dẫn ông ta đến trước một tấm gương to và nói:”Ông hãy nhìn vào tấm gương này và nói ông thấy gi”.
          “Tôi thấy chính tôi”, ông nhà giầu đáp.
          “Thế đấy, ông bạn, hãy để tôi giải thích ý nghĩa điều ấy cho ông. Cửa sổ làm bằng kính cũng giống như tấm gương này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có trát lên một lớp bạc. Khi ông nhìn qua kính thường, ông thấy người khác. Nhưng khi ông tráng bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông. Khi ông chỉ quan tâm đến tiền bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông” (McCarthy).
 
          4. Tiền của và hạnh phúc.
 
          Tiền của là phương tiện chứ không phải là mục đích, nhưng có nhiều người coi đó là mục đích, là chúa tể. Càng có nhiều tiền của càng muốn có nhiều hơn. Họ theo đạo thờ thần Mammon. Tiếng Mammon chỉ chung những gì nghịch với Thiên Chúa, mà tiền của đứng hàng đầu.
 
           Nhiều tiền bạc chưa chắc đã sung sướng, chưa chắc đã hạnh phúc. Có những trường hợp con người sa đọa, tội lỗi, hư hỏng, vì dư thừa tiền bạc, phủ phê vật chất thì sao ? Hoặc những gia đình giầu có nhưng sống ngột ngạt, bất hòa thường xuyên, chúng ta giải thích thế nào ? Bởi vì tiền là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng.
 
Thi sĩ Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận :
                                      Trong tay đã có đồng tiền
                                      Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì.
 
          Nhà thơ Nguyễn bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng :
                                      Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử,
                                      Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi.
 
          Chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn và ý nghĩa cuộc sống trong của cải. Nhưng khi chúng ta sốt sắng phục vụ người khác, điều này đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Cho người khác là điều làm cho chúng ta cảm thấy mình sống mãi.
 
          Henrik Ibsen nói:”Tiền bạc có thể mua vỏ ngoài của sự vật nhưng không thể mua cái lõi của chúng. Nó đem đến cho bạn thức ăn nhưng không đem đến sự ngon miệng; thuốc men nhưng không phải sức khỏe, sự quen biết nhưng không phải bạn bè, tôi tớ nhưng không phải lòng trung tín, những ngày đầy lạc thú nhưng không phải sự bình an và hạnh phúc”.
 
 Đúng là :
                             Aên cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy,
                             Aên cơm với cáy thì ngáy o o.
 
III. NGƯỜI QUẢN GIA  TRUNG TÍN.
 
1. Người giầu có là quản gia của Thiên Chúa.
 
Có lẽ một phần do ảnh hưởng của cuộc sống khó khăn, phần khác do quá tham lam mù quáng mà chúng ta đã có một suy nghĩ lệch lạc về của cải, đó là chúng ta cứ tưởng mình  luôn làm chủ của cải. Nhưng nếu biết suy xét cẩn thận, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra của cải vật chất mà chúng ta đang có đều thuộc về Thiên Chúa, vì chính Ngài mới là Chủ vật chất và Đấng sở hữu đích thực; còn chúng ta , nói một cách trung thực, chỉ là những người quản lý, coi sóc tạm thời. Cho nên, nếu chúng ta cứ tưởng lầm  mình là chủ, tất nhiên chúng ta sẽ không tránh khỏi sự lạm dụng quyền hành hoặc bo bo giữ lấy của cải như lẽ sống đời mình để rồi dùng nó theo ý ngông cuồng của mình, sẽ dẫn tới sai trái.
 
Và một ngộ nhận nữa là chúng ta cứ nghĩ của cải mãi mãi thuộc về mình. Đây là một ngộ nhận tai hại vì không những chúng ta giả điếc làm ngơ trước bao cảnh tay trắng hoàn tay trắng xẩy ra hằng ngày do nhiều nguyên nhân như cháy nhà, bị trộm cướp, bị tai họa, bị tù tội, nhất là bị chết, mà còn cố tình đâm đầu vào làm giầu, tham lam vơ vét của cải như là cùng đích của đời mình. Do đó, kẻ khôn ngoan không phải là kẻ giữ của mà là kẻ biết dùng của cho thật hữu ích  vì chúng ta chỉ được phép giữ và sử dụng của cải trong thời hạn nào đó mà thôi.
 
2. Người quản gia biết chia sẻ.
 
Nếu người giầu có là quản gia của Thiên Chúa thì không có quyền giữ bo bo cho mình hoặc sử dụng một cách hoang phí. Họ phải biết chia sẻ nữa. Theo ôngRobert Karris :”Tiền bạc (mammon) đều thuộc về thế hệ xấu xa này. Môn đệ phải chuyển mammon thành kho tàng trên trời bằng cách chia sẻ của cải với những người khác, đặc biệt những người túng thiếu. Như thế, tiền của có thể mở lối vào Nước Trời, và lúc ấy tiền của là tên đầy tớ tốt cho ta. Phải biết trung tín khi dùng của cải đời này để có thể được trao phó của đời sau, nghĩa là biết xử dụng của cải như phương tiện chứ không phải như mục đích và xử dụng theo ý Chúa”.
 
Các rabbi Do thái có câu :”Kẻ giầu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Khi chú giải truyện người giầu ngu dại xây kho vựa lớn hơn để tích trữ của cải, thánh Ambrôsiô có nói :”Bụng của người nghèo, nhà của bà góa, miệng của trẻ nhỏ là những kho vựa còn mãi đời đời”.
 
 Người Do thái tin rằng của bố thí cho kẻ nghèo được ghi vào trương mục đời sau của kẻ cho. Sự giầu có thật của con người không tùy những gì mình nắm giữ, nhưng ở những gì mình cho đi. “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm”(Cn 19,17).
 
Truyện: Mạnh Thường Quân.
 
          Mạnh Thường Quân nhà giầu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi :
          - Ngài có định mua gì về không?
          - Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
          Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng:”Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
          Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng :
          - Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
          Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên :
          - Đó hẳn là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước .
 
          3. Người quản gia phải trung tín.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đã khẳng định :”Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ. Vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,16).
 
          Ngày xưa, chủ chiếm hữu nô lệ cách tuyệt đối. Ngày nay thì đầy tớ hay lao công có thể làm công việc cách dễ dàng và có thể làm việc cho hai chủ. Anh ta có thể đảm nhận một công tác trong giờ bình thường và một công tác khác trong giờ rảnh rỗi. Tỷ như có người làm thơ ký ban ngày và làm nhạc sĩ ban đêm. Nhiều người làm thêm  để kiếm tiền hay làm theo sở thích trong những giờ tự do. Thế nhưng một nô lệâ không có giờ tự do, mọi giây phút trong ngày, tất cả sức lực của anh ta thuộc về chủ. Anh ta không có thời giờ riêng nào. Cũng vậy, phục vụ Thiên Chúa không thể nào là một công việc làm bán thời gian hay công việc của giờ rảnh rỗi. Ai đã chọn sự phục vụ Chúa thì tất cả thời giờ, sức lực của người ấy đều thuộc về Chúa trọn vẹn. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối trên mọi người chủ, chúng ta hoặc thuộc trọn về Chúa hay không thuộc về Ngài chút nào.
 
Sách có chữ rằng :”Trung thần bất sự nhị quân” : Tôi trung không thể làm tôi hai chúa. Đức Giêsu cũng đồng ý như vậy khi đem ra dụ ngôn người quản gia bất lương và kết luận:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”.
 
          Người ta thường nói :”Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại là ông chủ rất xấu”, nghĩa là khi chúng ta dùng tiền của như một phương tiện mưu sống, thì lúc ấy tiền bạc rất tốt cho chúng ta. Trái lại, khi chúng ta tôn thờ tiền bạc như một ông Chúa, thì lúc ấy tiền bạc là một điều tai hại; do đó, chúng ta phải dùng tiền bạc như một tên đầy tớ, còn việc tôn thờ  thì chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi.
 
          4. Người quản gia phải biết dừng lại.
 
          Thái độ của người quản gia khôn ngoan là phải biết dừng lại và bằng lòng với những cái mình đang có và cố gắng làm cho tốt hơn, nếu không thì lòng tham vô đáy sẽ đòi hỏi mãi, có thể làm cho chúng ta trở nên mù quáng mà trở thành một quản gia bất lương. Nhà hiền triết Seneca ngày xưa nói rất đúng :”Nếu bạn không coi những gì bạn đang có thì dù bạn có cả thế giới bạn vẫn cảm thấy thiếu”.
 
Tư tưởng này đông tây gặp nhau :                       
                             Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
                             Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ?
                             Biết đủ ấy là đủ, đợi đủ bao giờ mới đủ,
                             Biết nhàn ấy là nhàn, đợi nhàn bao giờ mới nhàn.
                                                (Cổ ngạn)
 
          5. Người quản gia biết lo cho tương lai.
 
          Đức Giêsu so sánh :”Con cái đời này đối xử với đồng lọai thì khôn hơn con cái ánh sáng”(Lc 16,8). Rồi từ đó Ngài kết luận :”Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”(Lc 16,9).
 
          Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang xây dựng Nước Chúa. Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang, xây dựng Nước Chúa.
 
 Bài học Chúa muốn dạy ta hôm nay là phải khôn khéo và mạo hiểm, phải dùng óc sáng kiến và tài sáng nghiệp để tạo cho ta một tương lai trong Nước Chúa, như người quản gia bất lương sửa sọan cho tương lai của mình trong nước trần gian. Tại sao ta sẵn sàng mạo hiểm trong những lãnh vực khác của cuộc sống và cảm phục người khác làm như vậy ? Nhưng còn việc liên hệ với Chúa ta lại thường đắn đo và dè dặt. Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn so sánh cái cách thế người ta dùng trong những trường hợp có liên can đến những sự vật trần thế với những cách thế mà người ta dùng để đương đầu với những sự vật thiêng liêng.
 
Truyện : Đồng tiền trên trời.
 
          Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giầu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán :
          - Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu ?
          - Chỉ một đồng thôi.
          - Còn tô lớn kia ?
          - Cũng chỉ một đồng thôi.
          Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo :
          - Ở đây chỉ xài lọai tiền-cho-đi thôi. Ông có không ?
          Người hà tiện chỉ vào túi tiền của mình. Nhưng chủ quán nói :
          - Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
          - Thế tiền-cho-đi là tiền gì ?
          - Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được bán lại bấy nhiêu đồng lọai tiền-cho-đi.
          Ông nhà giầu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc lọai tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
          Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiều đồng tiền để dành cho đời sau vậy.




CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN C
THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ
+++
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Chủ đề của ba bài đọc hôm nay là Thiên Chúa thương xót những người tội lỗi. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ngay sau khi dân Do thái ký Giao ước với Thiên Chúa đã quay ra phản bội, họ đã bỏ Chúa mà đi tìm một thần tượng khác làm hộ mạng, tức là thờ lạy con bê vàng. Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ định tiêu diệt dân này để lậïp một dân lớn hơn, trung thành hơn, nhưng nhờ lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã nguôi giận và tha tội cho dân. Thực ra, sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi đến cho chúng ta qua bài đọc 1 này là Thiên Chúa rộng lòng thương xót sẵn lòng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
 
          Lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể trong Đức Giêsu Kitô. Sự kiện Đức Giêsu đã đón tiếp và cùng ăn với những người tội lỗi làm cho những người biệt phái phẫn nộ. Họ là những người “biệt phái” tránh né mọi tiếp xúc với những người tội lỗi. Họ cho rằng những kẻ tội lỗi là những đồ bỏ đi. Phản ứng lại những lời chỉ trích của nhóm họ, Đức Giêsu đã chỉ ra cho họ một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung, Ngài sẵn sàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của con người, bằng cách đưa ra ba dụ ngôn : con chiên đi lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa quan tâm đến một người hư mất và niềm vui của Ngài khi tìm lại được một người hư mất.
 
          Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải thay đổi cách nhìn của chúng ta đối với người tội lỗi. Họ không phải là những hạng người bỏ đi như người biệt phái vẫn nghĩ thế; trái lại, họ là một con người, một con người cao qúi trước mặt Chúa không thể để hư mất. Nếu họ hư đi thì phải nỗ lực đi tìm kiếm như người chăn chiên bỏ 99 con mà đi tìm con chiên lạc, đem về cùng chung vui vì một người  tội lỗi đã trở lại.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Xh 32,7-11.13-14.
 
          Ngay sau khi Thiên Chúa ký Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước. Vì ông Maisen ở lâu trên núi, nên dân đâm ra sợ hãi và tự tạo cho mình một thần tượng để hộ mạng. Đó là dân đã đúc con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Sự bất tín này làm Thiên Chúa nổi giận và muốn tiêu diệt dân, đồng thời Ngài lại hứa với Maisen như xưa đã hứa với Abraham là sẽ làm cho ông nên tổ phụ của một dân tộc lớn. Nhưng ông Maisen đã khẩn khoản xin Chúa  tha tội cho dân, và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt Israel nữa.
 
          Mặc dầu Thiên Chúa hứa tạo cho ông một dân tộc mới, ông đã không lìa bỏ dân tộc mình, vẫn liên đới gắn bó với dân như trước. Chính ông van xin Thiên Chúa tha thứ và được Ngài nhận lời vì Thiên Chúa kiên nhẫn và trung tín.
 
 
          +  Bài đọc 2 : 1Tm 1,12-17.
 
          Trước khi nói cùng ông Timôthê yêu dấu, thánh Phaolô muốn nhắc lại cách Thiên Chúa đối xử với loài người. Nếu không có điều ấy, ơn gọi của chính ngài khó mà giải thích được : Thiên Chúa tha thứ.  Ngài tạ ơn Chúa vì lòng nhân từ  thương xót của Chúa.
 
          Trước kia, ngài là người bắt đạo và ngạo ngược nhưng đã được Chúa xót thương. Sự trở lại của ngài là một thí dụ điển hình về ơn tha thứ Thiên Chúa dành cho mọi người.
 
          +  Bài Tin mừng : Lc 15,1-32.
 
          Thấy Đức Giêsu hay gần gũi với những người tội lỗi, nhóm biệt phái và luật sĩ tỏ ra rất khó chịu, lẩm bẩm với Ngài. Nhân dịp này Đức Giêsu đưa ra ba dụ ngôn nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa đối với tội nhân : con chiên bị lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Tất cả đều nói lên Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
 
          Để ý nhận xét, đồng tiền là một vật nhỏ nhất mà cũng mất công tìm tòi kỹ lưỡng, điều này nói lên sự quan tâm rất mực của Thiên Chúa đối với tội nhân. Dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về càng làm nổi bật lòng nhân hậu, thứ tha của Thiên Chúa, Ngài là người Cha không bao giờ bỏ rơi con cái bạc bẽo. Chi tiết này càng làm cho người tội lỗi vững tâm trở về cùng Chúa.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                      Tấm lòng nhân hậu của người Cha.
I. THIÊN CHÚA KÊU GỌI NGƯỜI TỘI LỖI
 
          1. Hòan cảnh đưa đến dụ ngôn.
 
          Đối với Đức Giêsu, người ta có hai thái  độ trái ngược nhau : đối với những người biệt phái và luật sĩ, họ cho mình là người công chính nên khinh thường và tẩy chay Ngài. Còn những người tội lỗi thì lại đến gần Ngài, nghe Ngài giảng và sửa đổi con người của mình. Người Do thái rất khó chịu khi thấy Đức Giêsu giao du với những người tội lỗi và lại còn đồng bàn với họ nữa. Người ta khó chịu với Đức Giêsu vì họ thấy Ngài cư xử ngược với quan niệm của họ.
 
          Đạo sĩ Do thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ lưật pháp vào chung một hạng, họ gọi những người đó là “Dân của đất”. Có một hàng rào ngăn cách  dứt khoát giữa những đạo sĩ Do thái và người “Dân của đất”. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do thái dạy rằng : Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặït nó coi kẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”.
 
          Có luật cấm đạo sĩ Do thái không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của ai trong hạng người đó. Luật cấm đạo sĩ Do thái không được giao dịch thông thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do thái quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết tỉ mỉ trong luật pháp.
 
          Trước thái độ kỳ thị ra mặt của các đạo sĩ Do thái đối với người bị coi là tội lỗi,  Đức Giêsu mới kể cho họ ba dụ ngôn để nói về lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, Ngài muốn tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất.
 
          2. Ba dụ ngôn của Đức Giêsu.
 
          a) Dụ ngôn con chiên đi lạc.
 
          Trước tiên ta cần lưu ý là hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên là chủ đề cổ điển trong Cựu ước nói lên tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài (St 48,15 : Lc 12.32). Dụ ngôn này cũng có trong Tin mừng Matthêu, nhưng trong lúc Matthêu áp dụng vào trách nhiệm những vị lãnh đạo Giáo hội, còn Luca nói lên việc Thiên Chúa tìm kiếm người tội lỗi.
 
          Trong dụ ngôn này, người mục tử đã bỏ 99 con kia, dĩ nhiên là được canh giữ cẩn thận, để đi tìm con chiên lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào đó không được nêu ra trong dụ ngôn. Nhưng có một đều chắc chắn là nó đang sống  những giây phút khốn cực, cần sự giúp đỡ của chủ chăn. Chủ chăn đã phải bỏ 99 con trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm cho ông nghèo đi chút nào. Việc làm của ông chứng tỏ hùng hồn rằng : bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con đây cho giá trị như  99 con. Ý nghĩa này nói lên tầm mức quan trọng và tự do sự trở về của tội nhân : Quan trọng đến nỗi bất cứù giá nào, người tội lỗi đó cũng phải được trở về, điều đó chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
 
          Còn một chi tiết làm cho chúng ta cảm động :”vác con chiên trên đôi vai”, vì khi con chiên đi lang thang nhiều giờ hay nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó lên thôi. Và một con chiên nặng đấy ! Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi đầy sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời… Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc ! Nhưng, Đức Giêsu nói hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.
 
          Chính Thiên Chúa giới thiệu với chúng ta như thế ! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Thánh Kinh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “người chăn chiên” (Is 40,11-49, 10 …(Quesson).
 
          b) Dụ ngôn đồng tiền bị mất.
 
          Đức Giêsu lại tiếp nối tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị mất trong nhà dân quê xứ Palestina, và có khi phải mất rất nhiều thì giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khỏang 45 phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được.
 
          Một đồng bạc ở đây có giá trị tương đương với một ngày làm công (Mt 20,2). Ở đây muốn nói lên sự mất mát dù chỉ có một đồng cũng là điều quan trọng khiến cho chủ cũng phải tốn công tìm kiếm.  Điều này cũng muốn ám chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa không muốn để ai bị hư đi, nhưng muốn cứu vớt mọi người.
          Ngoài lý do vì nhu cầu cần tìm đồng tiền bị mất, lại còn có một lý do khác thơ mộng hơn. Tại Palestina, dấu hiệu của người đàn bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng 10 đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợ dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ 10 đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn  đánh mất một đồng bạc thuộc loại đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm như thế khi đánh mất cái nhẫn cưới vậy.
 
          Vì thế, chúng ta dễ hiểu nỗi vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc bị mất. Đức Giêsu cho biết : cũng thế, Thiên Chúa và các thiên sứ  vui mừng khi một người ăn năn trở về, như khi một gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay cái đói của họ, hay cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi lại tìm lại được.
 
          c) Dụ ngôn đứa con hoang đàng.
 
          Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ hơn trong dụ ngôân đứa con hoang đàng. Ông chủ chỉ có hai người con trai, tưởng rằng được sống bình yên trong tuổi già với hai con. Nhưng người con thứ tính phóng khoáng, thích tụ tập, muốn xin cha chia gia tài cho anh.
 
          Theo luật Do thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hưởng 2/3, đứa con thứ được 1/3 gia tài (x. Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn.  Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói với cha nó :”Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài  mà trước sau gì tôi cũng lãnh được sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nhà này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi.
 
          Tuy nhiên, việc xin chia gia tài này có hợp lý không, thì không rõ, chỉ biết rằng sau này chính người con thứ đã hối hận vì hành động trên.
 
          Đi xa nhà một thời gian, nó đã nhanh chóng xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa của người Do thái… Trong cảnh khốn cùng, nó hồi tâm suy nghĩ lại và quyết định ra đi về với cha nó mà chỉ xin được coi như kột đứa đầy tớ thôi, chứ không dám nhận là con nữa. Nó trở về, cha nó chạy ra ôm chằm lấy mà hôn. Cha nó không để nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước.  Ông đã phục hồi địa vị làm con cho nó bằng những cử chỉ đầy ý nghĩa :
 
          . Xỏ giầy vào chân cậu : . Xỏ giầy vào chân chứng tỏ ông đã tha thứ hoàn toàn cho cậu. Vào thời Kinh Thánh thuở xưa, mang giầy là dấu chỉ của một người tự do, còn đám nô lệ thì đi chân trần. Xỏ giầy vào đôi chân trần của cậu  con tức là xóa đi dấu hiệu thằng con ấy từng là nô lệ của một người nào đó, và đồng thời trả lại cho cậu ta  dấu chỉ cậu là đứa con trai trong gia đình.
 
          . Trao nhẫn cho cậu.  Gắn nhẫn vào ngón tay cậu chứng tỏ ông bố phục hồi trọn vẹn cho cậu tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi. Đeo nó vào đồng nghĩa với được quyền hành xử như một thành viên trong gia đình.
          Và như thế, khi choàng tay ôm, xỏ giầy, đeo nhẫn cho đứa con trai, người bố đã cho thấy ông hoàn toàn nồng nhiệt tiếp đón cậu ta, tha thứ hoàn toàn và phục hồi cho cậu ta trọn vẹn tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi.
 
                                      Truyện : Vải trắng trên cây táo.
 
          Richard Pindell có viết một chuyện ngắn nhan đề “Đứa con trai của một người nào đó” (somebody’s  son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khó quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại.  Lá thư như sau :”Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta.
 
          Vài ngày sau, David lên xe lửa đi về. Trong lúc tầu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh  cứ chớp lòe liên tục hiện ra trong trí cậu ta. Khi thì trên cây có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng có một miếng vải trắng nào. Xe lửa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra nơi khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói :”Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cái cây. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng không nhé”.
 
          Khi chiếc xe lửa rầm rầm lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run  giọng cậu hỏi người đàn ông :”Thưa ông, có một miếng vải trắng treo ở một cây nào đó không”? Ông ta sửng sốt trả lời :”Ồ, này cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy  có cột một miếng vải trắng cả”(Mark Link).
 
II. THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ.
 
          1. Tấm lòng của người Cha.
 
          Người cha trong dụ ngôn phải là một ông chủ giầu sang, đầy quyền lực và oai nghi đúng với đặc điểm của một phú ông miền Đông phương. Đứng trước sự ngông cuồng của người con thứ, người cha đã chia gia tài cho các con không phải vì ông nhu nhược mà vì ông tôn trọng quyền tự do của con. Ngày người con thứ ra đi cũng chính là ngày ông bắt đầu ngóng chờ với niềm tin sẽ có ngày con ông trở về. Quả đúng như vậy. Mặc dù tuổi già sức yếu, người cha vẫn nhìn ra người con từ rất xa. Có thể nói chính ông đã phá tan dáng vẻ oai nghi đường bệ của một phú ông Đông phương để hồ  hởi chạy ra với người con tựa như trẻ thơ mong mẹ về.
 
          Nỗi mừng vui cũng như hàng loạt mệnh lệnh dồn dập của người cha làm cho chúng ta có cảm nghĩ hẳn ông đang chuẩn bị tiếp đón một nhân vật quan trọng. Mà không quan trọng sao được khi ý nghĩa của những mệnh lệnh trên hàm chứa một tình yêu vô bờ bến ông dành cho người con “phá gia” trở về mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả hết được.
 
 Chiếc áo mới nhất mà ông mặc cho người con hẳn phải là chiếc áo dành cho ngày Đại lễ. Bởi chỉ có ngày Đại lễ, dịp lễ hội, người ta mới mặc áo mới, mới có dịp để chưng diện mà thôi. Chưa dừng lại ở đó. Chúng ta biết rằng đối với người Do thái, chiếc nhẫn không chỉ là kỷ vật, là món đồ trang sức, không chỉ là biểàu trưng của tình yêu mà nó còn là cái ấn đóng dấu nhằm xác nhận tư cách của một người con và đồng thời cũng xác nhận tư cách của một người được thừa hưởng quyền kế thừa tài sản. Như thế, bằng việc xỏ nhẫn và xỏ dép vào tay chân của người con, người cha trong Tin mừng đã xác nhập mối tương quan cha-con, đồng thời cũng xác nhập quyền thừa kế và trả lại quyền tự do cho nó – điều mà người con thứ không bao giờ nghĩ tới. Chưa hết, người cha còn ra lệnh giết bê đã vỗ béo để ăn mừng cho sự trở về này. Như thế đã rõ, bê chỉ vỗ béo để chờ dịp Đại lễ. Ngày người con trở về và người cha đã hạ bê béo để ăn mừng chẳng phải là dịp Đại lễ mà từ lâu ông hằng ôm ấp mong chờ để có được ngày hôm nay sao ?
 
                                      Truyện : Thiền sư Sengai.
 
          Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thỏa thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng  thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh :”Sáng sớm trời lạnh lắm, con hãy cẩn thận kẻ bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.
 
          2. Tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
 
          Thiên Chúa được Đức Giêsu mạc khải là một người Cha. Cha nào mà chẳng thương yêu con bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc  chúng đối xử với mình tệ bạc đến đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ bằng hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là sự tha thứ vô điều kiện và sẵn sàng chấp nhận sự đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua hai cách ấy nơi con người Đức Kitô :”Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”.
 
          Trở lại dụ ngôn đứa con hoang đàng, ta hỏi động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình ? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với “thân tàn ma dại”, cha nó biết nó về với động lực gì. Nhưng đối với ông, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó. Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Chúa  trong sự hối hậân về đời sống quá khứ của mình.
 
                                      Truyện : Tình mẹ tha thứ.
 
          Ở Batna, có một gia đình nằêm vào địa điểm hẻo lánh, gồm bà mẹ với các con, mà thằng con lớn phản bội vô số kể, tên là Sidi Melkassen, ưa a tùng với côn đồ du đãng, bị mẹ khiển trách hằng ngày. Mất tự do, thằng đó bực tức, nhất định hai mẹ con không đội trời chung. Liền bắt mẹ đem giam cầm vào một nhà cô tịch tăm tối. Lấy sợi xiềng xích lớn mà xiềng hai chân mẹ nó lại, đoạn đục vách tường gắn móc khóa lại và giữ chìa khóa trong túi. Đành lòng đóng cửa lại trước những tiếng kêu la, khóc lóc, van nài của mẹ.
          Trên ba năm trời tồi túng, nóng nực, lạnh lẽo. Không mền, không chiếu, bữa đói bữa no, người mẹ than khóc đã khô nước mắt, kêu không ai nghe, buồn không một lời an ủi.
          Chiều nọ, một nàng dâu thảo giật được chìa khóa và mở cửa, tháo xiềng giải thoát cho người mẹ vô phúc. Bà đi ra giữa thanh thiên bạch nhật, không còn hình tượng người nữa, ai nấy đều thương hại. Việc này thấu đến tai nhà chức trách, thằng con bất hiếu bị bắt và kêu án sáu tháng tù ở. Ai nấy đều vỗ tay ca tụng công lý. Chỉ có bà mẹ quên tội của con, cất tiếng lên vừa than khóc vừa xin tòa đừng tống giam con mình tội nghiệp.
          Ôâi, tình mẹ bao la !
 
          3. Có sự nghịch lý trong ba dụ ngôn chăng ?
 
          Bài Tin mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý : ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc ? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có tính thuyết phục bao nhiêu : một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó ? Nhưng rồi tất cả đều trở nên hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba : Ý của Chúa Giêsu không nhằm tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
          Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa ? Những người biệt phái và luật sĩ thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu qúi giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quí giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
 
          Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao ? Vì con chiên ấy cần được săn sóc hơn 99 con kia : nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên mà chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Đức Giêsu đã làm như người mục tử ấy : Ngài không chờ đợi kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người biệt phái và luật sĩ, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cái đối xứ này đã hoán cải được một người biệt phái nổi tiếng là thánh Phaolô (Trích Carôlô, Sợi chỉ đỏ A, tr 710-711).
 
III. CHÚNG TA CŨNG PHẢI CƯ XỬ NHƯ VẬY.
 
          1. Phải thay đổi cách cư xử.
 
          Giáo hội là Mẹ của chúng ta đã từng có cách cư xử như Đức Giêsu, tạo điều kiện để lôi kéo những con chiên lạc đàn trở về với Chúa. Chẳng hạn , Augustinô, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin mừng. Thế mà khi trở về với Giáo hội, Giáo hội đã mở rộng vòng tay  đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức Giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảnng đại ấy của Giáo hội, Augustinô đã trở nên một vị thánh.
          Chúng ta cũng phải bắt chước Giáo hội mà phải thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hóa nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lỡ lầm, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt chước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, biết cầu nguyện cho anh em.
 
          2. Ý thức mình cũng là tội nhân được tha thứ.
 
          Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con bê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng họ chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tiếng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu tít đầy lôi cuốn của xác thịt.
 
          Vậy chúng ta có phải là con chiên đích thực không hay chỉ là hữu danh vô thực ? Chắc chắên không ai trong chúng ta dám xưng mình là người công chính như luật sĩ và biệt phái, chúng ta vẫn xưng mình là kẻ có tộâi, và nếu đã biết mình có tội thì phải có lối cư xử với người khác bằng tình thương yêu.
 
          Nếu Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Ngài muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lỗi lầm.
 
          Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ. Đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết :”Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người trở nên mù lòa”.   
                                                                                                         




CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN C
DẤN BƯỚC ĐI THEO CHÚA
+++
A. DẪN NHẬP
 
          Trên đường tiến về Giêrusalem, có rất đông người đi theo Đức Giêsu. Nhiều người đi theo Ngài vì tưởng rằng Ngài đến đó để lập một vương quốc hùng cường theo nghĩa trần gian, Ngài đến đó với một vẻ huy hòang chiến thắng. Nhưng cũng có người có thiện cảm, có thiện chí đi theo để làm môn đệ Ngài. Trong bầu khí hồ hởi đó, Đức Giêsu không ngần ngại đưa ra những điều kiện khắt khe cho những ai muốn đi theo Ngài. Ngài biết trước số người đi theo thì rất đông, nhưng người trở thành môn đệ thì rất ít. Ngài đưa ra những điều kiện như vậy để họ suy nghĩ và tự quyết định con đường để theo.
 
          Điều kiện Đức Giêsu đưa ra cho những ai muốn đi theo làm môn đệ Ngài là từ bỏ và vác thập giá. Ngài đã nói thẳng thừng và cương quyết :”Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được”(Lc 14, 26-27). Như vậy, Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Ngài hãy suy nghĩ cẩn thận để quyết định : nếu yêu chính bản thân mình, hay yêu bất kỳ ai khác, hoặc tiền tài danh lợi hơn Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ của Ngài.
 
          Chúng ta là những Kitô hữu. Trên nguyên tắc, Kitô hữu là người được mang tên Đức Kitô, được thuộc về Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài và làm môn đệ Ngài, nhưng trong thực tế, mấy ai sống xứng đáng với danh hiệu là Kitô hũu chính danh, xứng đáng với danh hiệu là môn đệ trung thực của Đức Kitô, nhiều khi vô tình đã trở thành những môn đệ dổm. Hôm nay chúng ta phải xác quyết lại lời hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma qủi và quyết tâm theo Chúa đến cùng.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Kn 9,13-18.
 
          Sách Khôn ngoan là một sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài người chung quanh vấn đề khôn ngoan minh triết. Ngày xưa vua Salômôn chỉ xin Chúa ban cho sự khôn ngoan ấy và ông đã trở nên người khôn ngoan nhất trên trần. Vậy sự khôn ngoan đích thực là gì và từ đâu tới ? Thưa, sự khôn ngoan đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa.
 
          Đọan trích hôm nay cho biết con người có sự khôn ngoan, nhưng sự khôn ngoan ấy rất hạn chế. Ngay trong những việc thuộc trần thế nằm trong tầm tay của con người mà chưa thể hiểu nổi, phương chi là những điều thuộc thượng giới, những điều liên quan đến cuộc sống đời đời  thì làm sao hiểu thấu được.
 
          Vì thế, con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để đi theo và nhờ đó mà được ơn cứu độ. Thiên Chúa sẽ ban ơn khôn ngoan cho chúng ta nhờ Thần Khí giúp đỡ.
          +  Bài đọc 2 : Plm 9b-1012-17.
 
          Trong lá thư ngắn gửi cho Philêmôn, thánh Phaolô biện hộ cho tên nô lệ Ôânêximô để gợi lên lòng bác ái Kitô giáo mà tha thứ cho anh ta. Anh Ônêximô là tên nô lệ của Philêmôn, đã trốn đi sau khi đã ăn cắp một số tiền. Sau khi anh này đã theo đạo, thánh Phaolô gửi anh ta lại cho chủ và xin ông chủ hãy đón nhận anh không phải một tên nô lệ mà là một người anh em trong Đức Kitô.
 
          Tuy thế, thánh Phaolô không hề lạm dụng  tình nghĩa của Philêmôn đối với mình để gây áp lực; trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmôn sẽ vì lòng tốt mà làm theo sự gợi ý của mình.
 
          +  Bài Tin mừng : Lc 14, 25-33.
 
          Trên đường tiến về Giêrusalem, có rất nhiều người đi đường với Đức Giêsu. Theo tâm lý chung của những người thời đó, Đức Giêsu sẽ thiết lập một vương quốc hùng cường, cho nên họ nghĩ rằng  đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Nhưng để đánh tan sự hiểu lầm này, Đức Giêsu đã đưa ra những điều kiện cho nghững kẻ muốn theo Ngài.
 
          Theo ý Đức Giêsu, ai muốn theo Ngài thì phải coi Ngài hơn tất cả mọi mối dây liên hệ thân ái nhất như cha mẹ, vợ con, anh chị em và kể cả mạng sống mình nữa. Theo Ngài tức là làm một đệ Ngài, và đã làm môn đệ Ngài thì phải thực hiện những điều kiện cực kỳ gay go.
 
          Đồng thời, Đức Giêsu cũng khuyên nhủ mọi người phải khôn ngoan trong việc lựa chọn qua dụ ngôn người xây nhà và vị vua đi giao chiến. Việc theo Chúa là một việc trọng đại phải đắn đo suy nghĩ thật kỹ trước khi dấn thân, chứ không thể bốc đồng rồi bỏ cuộc.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Muốn làm môn đệ của Chúa.
I. GIÁO HUẤN TRÊN ĐƯỜNG ĐI GIÊRUSALEM.
 
          Thánh Luca tường thuật cho chúng ta  cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem và những lời giáo huấn của Ngài. Cuộc hành trình này lại trùng với cuộc hành trình của người Do thái đi dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Vì thế, có nhiều đám đông cùng đi với Ngài. Nhưng họ không phải là những người đi qua đường mà là những người có thiện cảm với Đức Giêsu và có thiện chí muốn theo Ngài.
 
          Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “Đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Đức Giêsu là ông thầy đi trước, các môn đệ đi phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này, Đức Giêsu “quay lại bảo họ”, nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ. Đức Giêsu muốn dạy những điều gì ? Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai phần chính và một phần phụ. Phần chính là những điều kiện cho người đi theo Chúa, và phần phụ nói lên tính cách  của việc đi theo Chúa qua hai dụ ngôn người xây nhà và ông vua đi giao chiến.
 
          A. PHẦN CHÍNH CỦA GIÁO HUẤN.
 
          Phần này gồm có hai điều kiện : từ bỏ mọi sự và vác thập giá.
 
          1. Từ bỏ mọi sự.
 
          Điều kiện theo Chúa là phải từ bỏ mọi sự. Việc đi theo Chúa giống như đi leo núi. Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến không leo nhanh được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc. Chúa bảo ta phải bỏ tất cả mọi sự. Điều này xem ra quá gay gắt, nhưng chúng ta phải hiểu ý Ngài nghĩa là Ngài không bảo người môn đệ phải bỏ tất cả cha mẹ, vợ con, anh chị em… một cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Tuy nhiên, bất cứ khi nào mình cảm thấy những thứ đó trở thành bận vướng, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người môn đệ phải can đảm từ bỏ.
 
          2. Vác thập giá mình.
 
          Ở đây Đức Giêsu muốn lưu ý rằng những ai muốn theo Ngài thì chỉ có thể theo bằng cách  vác thập giá như Ngài sẽ vác. Thập giá ở đây là những hy sinh phải đón nhận. Theo Chúa là đón nhận sự hy sinh trong việc từ bỏ, trong nỗ lực, cố gắng và thiện chí. Nếu không vậy thì không thể thành môn đệ của Ngài được.
 
          B. PHẦN PHỤ CỦA GIÁO HUẤN.
 
          Người muốn làm môn đệ phải biết khôn ngoan lựa chọn vì từ bỏ là điều kiện để theo Chúa và theo Chúa là một việc quan trọng có liên can đến sự sống còn của cuộc đời mỗi người. Vì vậy Đức Giêsu bảo ta phải thận trọng tính toán và kiên tâm bền chí mới có thể vượt thắng được mọi trở ngại trên đường theo Chúa.
 
          Để diễn tả điều đó, Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn về một người muốn xây nhà và ông vua đi giao chiến. Muốn xây nhà thì phải dự tính xem có đủ tiền không, kẻo đang xây dở dang mà hết tiền thì không có nhà ở, và ông vua không lượng sức mình thì sẽ thua phía địch. Hai dụ ngôn này nhấn mạnh rằng nếu có ý định  theo Chúa thì cần phải lượng sức mình trước, xem mình có thể từ bỏ được như Chúa đòi hỏi không. Nếu không được, thì hãy từ bỏ ý định theo Chúa, kẻo sau đó mà “giữa đường đứùt gánh” thì bỏ cả cuộc đời, đời này và đời sau.
 
II. TRIỂN KHAI ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA.
 
          Những người cùng đi với Đức Giêsu tới Giêrusalem là những người đi cho vui cũng có, để thỏa mãn ước vọng cũng có và những người vì ái mộ cũng có. Thánh Luca nói rõ :”Có nhiều đám đông cùng đi với Đức Giêsu”. Nhưng trong đám đông này có nhiều người có thiện cảm, có thiện chí muốn đi theo Ngài. Từ ngữ “Đi theo” trong Thánh Kinh có nghĩa là làm môn đệ. Vậy Đức Giêsu nói cho đám đông và cách riêng cho các môn đệ của Ngài những điều kiện phải có để trở thành môn đệ của Ngài. Chúng ta tiếp tục triển khai từng điều kiện.
 
          1. Điều kiện tiêu cực : Từ bỏ.
 
          Đức Giêsu nói với đám đông :”Nếu ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta”(Lc 14,26). Có bản dịch là “ghét” cha mẹ. Như vậy có mâu thuẫn với giới răn thứ tư không (Lc 18,19t) ?
 
 Theo Joseph Fitzmeyer, trong ngôn ngữ Hy lạp chữ “misein” có nghĩa là “ghét”, ngược với chữ “agapan” là “yêu”. Chữ “ghét” này mang một ý nghĩa ít yêu thương, chọn một cái khác ưu tiên hơn. Nó không diễn tả một tình cảm thù nghịch, mà chỉ nói lên một sự lựa chọn hơn kém. Phải “từ bỏ” tất cả mọi sự, trừ Thiên Chúa, tức là chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hơn bất cứ sự gì khác, gồm của cải vật chất hay những liên hệ thân yêu với cha mẹ, vợ con, anh chị em trong gia đình. Nếu còn bám víu vào bất cứ ai hoặc sự gì ưu tiên hơn Thiên Chúa, chúng ta chưa xứng đáng là môn đệ của Ngài (Nguyễn văn Thái).
 
          Như vậy, ghét hay từ bỏ ở đây chỉ có nghĩa là đặt ở hàng thứ yếu, không ngang hàng. Nên câu trên chỉ có ý nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn cha mẹ, vợ con, anh chị em (St 29,30.31.33; Đnl 15,21t; Mt 10,37).
 
          Những lời Đức Giêsu phán thật đáng ngạc nhiên, đến độ chói tai nữa. Thế nhưng nó chỉ có ý diễn tả một điều  : tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tim ta, và ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy.
 
Thánh Grêgôriô Cả  giải thích câu “khó nghe” này, ngài viết :” Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải ghét những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa”. Dứt khóat là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu : Chúa trên hết.
 
          Không những Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải từ bỏ những cái bên ngoài mà Ngài muốn môn đệ phải từ bỏ chính bản thân mình. Từ bỏ chính mình có nghĩa là từ bỏ tham, sân, si.
 
 Tham là tính tham lam : tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham quyền, tham thế. Chính cái tham ấy xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và làm khổ lẫn nhau.
 Sân là tính nóng nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân cũng là giận. Giận mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở nên hung bạo, gây tai ương và đau khổ cho người khác.
Si là ngu muội, tối tăm, mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy luận đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành kiến sai lầm. Hơn nữa còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả dối, những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong  xấu xa, thối nát.
 
          Đối với chúng ta thì từ bỏ chính mình, có nghĩa là không làm theo ý muốn ý thích của mình khi điều đó không phù hợp với ý Chúa. Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho Chúa và tha nhân.
 
          Vấn đề thực hành sống đạo : Nếu “bản thân mình” là con người hiện thân của chủ thể và là sự sống tâm linh nơi chủ thể, thì  “bỏ bản thân mình” đi theo lời Chúa Kitô khuyên dạy trong Tin mừng hôm nay phải chăng chính là việc bỏ đi những ý nghĩ về mình và là việc bỏ đi ý muốn tự do của mình, dù những ý nghĩ về mình hay của mình  đó có chí lý đến đâu, và dù ý muốn của mình đó có tốt lành và hay ho đến mấy đi nữa, chẳng hạn như trường hợp Trinh Nữ Maria trong giây phút Truyền tin Lời nhập thể, hay như trường hợp của thánh Phêrô bị Thầy quở là “Đồ Satan, hãy xéo đi, vì ngươi chẳng nghĩ tưởng theo ý hướng của Thiên Chúa mà tòan là theo kiểu của lòai người”(Mt 16,23”?
 
          2. Điều kiện tích cực : vác thập giá.
 
          Các đám đông hâm mộ Đức Giêsu chắc hẳn xem việc Ngài đến Giêrusalem như là một cuộc tiến vào đầy khải hoàn vinh thắng, sau đó là xuất hiện vương quốc trần thế và vinh hiển của Đấng Messia. Họ tự xem mình là môn đệ Đức Giêsu và đáng được Ngài đưa đến vinh quang. Đức Giêsu không thể để ảo tưởng đó kéo dài. Ngài lưu ý những kẻ theo Ngài : họ chỉ có thể theo Ngài bằng cách vác thập giá, như chính Ngài sẽ vác sau này. Ai quyết định theo Đức Giêsu phải sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả của việc đó, cũng như mọi thứ đi ngược lại bản tính con người.
 
          Theo Chúa thì nhất thiết phải vác thập giá. Theo Chúa là một cuộc đăng sơn, một cuộc leo lên núi Calvariô. Theo Chúa giống như leo núi, thập giá giống như cái gậy của người leo núi. Nó rất cần và có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.  Thập giá ở đây là mọi hy sinh phải đón nhận và đón nhận với tinh thần tự nguyện :”Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,27).
 
          Tuy thế, không phải cứ tự nguyện vác thập giá thì thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng, dễ chịu. Điều đó cũng đúng, nhưng không vì thế mà làm cho cây thập giá trở nên nhẹ nhàng đến nỗi không cần cố gắng nữa. Mỗi ngày một cố gắng thì sẽ thành công.
 
          John Newton đề nghị với chúng ta cách vác thập giá : “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra , rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta  một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi.  Nhiều người lại không làm như thế : chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay và còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”!
 
          3. Phải lượng sức mình : lựa chọn.
 
          Muốn làm môn đệ Chúa, mỗi người phải suy tính cẩn thận, phải tính cái giá phải trả khi theo Ngài. Ngài minh giải điều đó bằng hai dụ ngôn người xây nhà và vị vua đi giao chiến. Cái tháp mà người định xây đó có lẽ là cái tháp của vườn nho. Các vườn nho thường có những tháp để từ trên đó có thể trông coi cả vườn kẻo kẻ trộm phá mất mùa nho. Xây tháp mà bể đổ thì thật đáng xấu hổ. Hay là ông vua điên khùng nào kéo quân ra trận mà không tính toán trước, đo lường số quân của mình với lực lượng của đối phương.
 
 Đức Giêsu có ý nói rằng chẳng thà đừng bước vào đời sống tín hữu hơn là bước vào rồi thất bại. Ngài chỉ muốn người ta trước khi bước vào cuộc sống ấy đã phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự là điều kiện đòi hỏi trong khi phục vụ Chúa.  Tục ngữ Việt nam cũng nói lên ý tưởng ấy :
         
                                      Xem giỏ bỏ thóc
                             Hay
                                      Đừng vung tay quá trán.
 
          Sống là phải chọn lựa và sự chọn lựa nhiều lúc làm cho chúng ta phải băn khoăn lo lắng, day dứt, giống như ở đô thị Jeffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lự một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào những khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngòi theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết,  biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng. Không ai có thể làm tôi hai chủ.
 
          Sự lựa chọn đã là khó, nhưng sống theo sự lựa chọn đó càng khó hơn, đúng như người ta nói :”Đâm lao thì phải theo lao”(Tục ngữ), đã theo Chúa thì phải quyết tâm theo đến cùng vì :”Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng là môn đệ Ta”. Đã theo Chúa thì sẵn sàng chấp nhập mọi bất trắc rủi ro :
 
                             Muối mặn ba năm muối vẫn còn mặn,
                             Gừng cay chín tháng gừng hãy còn cay.
                             Đạo vợ chồng đừng có đổi thay,
                   ]        Làm nên danh vọng, hay rủi ăn mày vẫn theo nhau.
                                                 (Ca dao)
 
          4. Đi theo hay làm môn đệ ?
 
          Trong đoạn Tin mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo” và “làm môn đệ”. Thánh Luca đã xử dụng những cụm từ này rất khéo :”Lúc ấy có rất đông người “đi theo” Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ :Ai không dứt bỏ…thì không thể “làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá  mình mà đi theo Ta thì không thể làm môn đệ Ta”. Rất đông người đi theo Đức Giêsu nhưng không phải tất cả đều là môn đệ Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là môn đệ. Người đi theo chưa hẳn là người môn đệ.
         
          Có người nói với một giáo sư danh tiếng ở Đại học Paris về một chàng thanh niên rằng :
          - Anh ta nói với tôi rằng, anh ta là học trò của giáo sư, có phải không ?
          Vị giáo sư thẳng thắn trả lời :
          - Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi nhưng anh ta không phải là học trò của tôi.
 
 Bài học của câu chuyện trên đây muốn nói một học sinh chưa chắc là “môn sinh”. Là một học sinh thì rất dễ dàng. Nó không đòi hỏi những trách nhiệm luân lý quan trọng. Học sinh có thể thay đổi giáo sư tùy theo nhu cầu bằng cấp. Một ủng hộ viên cũng có thể nay ủng hộ người này mai chạy theo ủng hộ người khác tùy theo nhu cầu cá nhân của họ. Họ là kẻ cơ hội chủ nghĩa. Châm ngôn của họ là :”Làm cái gì có lợi cho tôi”. Trái lại, một môn sinh đích thực phải có sự cam kết đoan hứa trung thành, một sự dấn thân dâng hiến hoàn toàn cho lý tưởng và thầy mình. Một môn sinh phải có một tinh thần vâng phục sâu xa và một lòng ước ao học hỏi nơi sư phụ của mình.
 
          Một lần khác, khi nhà vua Trung quốc đến thăm những tu viện của đại thiền sư Lin Chi, nhà vua ngạc nhiên khi biết được rằng có hơn 10.000 nhà sư đang sống ở đó. Muốn biết rõ con số chính xác các nhà sư, nhà vua hỏi :
          - Ngài có bao nhiêu đệ tử ?
          Nhà sư Lin Chi đáp :
          - Bốn hoặc năm.
 
          Lạ thật ! Với hàng chục ngàn người theo học mà chỉ có 4,5 người là môn đệ !  Nếu hôm nay có người hỏi Chúa : Ngài có chính xác bao nhiêu môn đệ ? Không biết Chúa sẽ trả lời làm sao vì nhiều người chỉ có danh mà không có thực, chỉ có tiếng mà không có miếng ! Phải tỏ ra mình là một Kitô hữu chính danh chứ không phải hư danh, phải sống đúng với địa vị của mình là Kitô hữu , đúng là :
                                      “Có ăn có chọi mới gọi là trâu” (Tục ngữ).
 
III. LÀM MÔN ĐỆ CHÚA HÔM NAY.
 
          Những đòi hỏi của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay là quá gắt gao, người ta có thể chấp nhận được không ? Nếu Đức Giêsu làm nghề quảng cáo, chắc là Ngài sẽ thất bại. Vì không ai như Chúa, quảng cáo ơn gọi để mời gọi người ta theo mình, lại không đưa ra một tương lai sán lạn  nào, không tìm thấy bất cứ một vinh dự nào, hoặc ngay cả một sự hấp dẫn nào dù nhỏ nhoi nhất, cũng không có. Ngược lại chỉ là từ bỏ và nhận thập giá. Nghĩa là chỉ có nghèo đến trần trụi như Chúa đã không có gì cho mình từ khi bắt đầu làm người, đến lúc bước lên thập giá. Hơn nữa, theo Chúa, làm môn đệ Chúa để được gì mà phải thiệt thòi đến vậy ? Theo mà điều kiện nặng nề như thế, thì theo để làm gì ? Nhất là đối với thế giới hôm nay, con người chỉ muốn tìm cho mình  một cuộc sống tự do dễ dãi, ích kỷ, coi trọng vật chất, tôn thờ quyền lợi cá nhân…, thì với một điều kiện khắc nghiệt như thế, thật là một điều không tưởng. Lời Chúa xem ra quá lạc lõng, xa lạ ?
 
          Thế nhưng không đúng ! Tất cả những suy nghĩ bên trên đều ngược hẳn với thực tế mà lịch sử Giáo hội đã ghi nhận hàng ngàn năm qua, đến hôm nay và sẽ còn mãi về sau. Bởi đã 2000 năm, những lời Đức Giêsu vẫn cứ mới nguyên, vẫn là Lời Sống  cho biết bao nhiêu anh chị em chọn làm lẽ sống của mình. Những anh chị em ấy đã quả cảm bước theo Đức Giêsu, từ bỏ mọi sự, nhận thập giá làm niềm vui của đời mình. Chính họ đã làm cho tinh thần và lời dạy của Đức Giêsu chẳng những không mai một, không lạc lõng, mà còn sống, sống mạnh và lan rộng cả thế giới, qua mọi thế hệ. Họ là ai ? Hơn hai tỷ người theo Chúa Kitô trên khắp thế giới là một bằng chứng hùng hồn (Nguyễn hữu An).
 
          Vậy ý của Đức Giêsu là ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải đặt tình yêu Chúa trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác, tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu : Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay chính cả bản thân.
 
          Như  thế, người tín hữu khi đã chọn Chúa, làm môn đệ của Ngài, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần  thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặït lại cho mình.
 
Truyện : Giới Tử Thôi.
 
          Trong “Đông châu liệt quốc” có ông Giới Tử Thôi, người nước Tấn, đờøi Xuân Thu, là một bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi ấy, vua nước Tấn là Tấn Huệ Công sợ công tử Trùng Nhĩ cướp ngôi nên sai người đi ám sát. Được mật báo, Trùng Nhĩ cùng với một số bầy tôi  đi lánh nạn. Trên đường chạy trốn từ nước Địch sang nước Tề phải đi qua nước Vệ, đoàn lánh nạn bị vua nước Vệ chận lại toan bắt nên chạy càng trối chết. Chẳng may lạc đường lại hết lương thực, công tử Trùng Nhĩ không ăn được rau cỏ dại nên sinh kiệt sức sắp chết. Thấy vậy, Giới Tử Thôi liền cắt thịt ở đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn mới lại sức đi đến được nước Tề an toàn. Đến lúc Trùng Nhĩ khôi phục lại được nghiệp lớn là làm vua nước Tấn thì Giới Tử Thôi lặng lẽ về quê ở ẩn không màng lãnh công. Cả khi vua Tấn  nhớ ơn người bầy tôi trung thành, muốn đền đáp công lao thì Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng sống ẩn dật, nhất quyết không nhận.
                             (Võ Ngọc Thành, Nhân vật Đông Châu, 1968, tr 324)
 
          Giáo hội thúc giục chúng ta hãy dấn bước theo Chúa trong cuộc đời dương thế. Hiến chế Lumen gentium ghi rõ :”Đang khi còn là lữ hành trên mặt đất, bước theo vết chân Người trong đau thương và bách hại, chúng ta cùng thông hiệp với những đau khổ của Người như thân thể kết hợp với đầu, hiệp thông với sự thương khó của Người để được cùng Người vinh hiển (Rm 8,7) (Lumen gentium đọan 7).
 
          Sau cùng, chúng ta hãy bước theo Đức Giêsu với sự chia sẻ của Đức cố Hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận qua kinh nghiệm 14 bước theo Đức Giêsu :
          . Bước lang thang ra chuồng bò ở Be lem.
          . Bước hồi hộp trốn sang Ai cập.
          . Bước bồn chồn trở về Nazareth.
          . Bước phấn khởi lên đền thánh với cha mẹ.
          . Bước vất vả suốt 30 năm lao động.
          . Bước yêu thương ba năm rao giảng Tin mừng.
          . Bước thao thức kiếm tìm chiên lạc.
          . Bước xót xa vào Giêrusalem đầm đìa nước mắt.
          . Bước cô đơn ra trước tòa không một người thân.
          . Bước ê chề vác Thánh giá lên đồi tử nạn.
          . Bước thất bại chết chôn mồ kẻ khác, không tiền không bạc, không manh áo, không bạn hữu.
          . Bước khải hòan sống lại, hãy vững lòng Thầy đã thắng thế gian.
          . Bước khổng lồ đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng.
          . Bước liều mạng lăn xả vào thử thách, chấp nhận mọi hậu quả, vì Chúa đã dạy con liều mạng”
                             (Trích Sứ điệp Lao Tù, Vietcatholic, CD 3)


CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN C
HÃY Ở KHIÊM NHƯỜNG
+++
A. DẪN NHẬP
 
          Đức Giêsu là con người nhẹ nhàng, dễ thương, hòa đồng với hết mọi ngườiø, không phân biệt giai cấp, giầu nghèo, tốt xấu. Xem chừng ra Ngài muốn xa lánh bọn luật sĩ và biệt phái vì, theo Tin mừng  của thánh Matthêu và Marcô, họ là những kẻ thù của Đức Giêsu. Nhưng thánh Luca cho biết Đức Giêsu vẫn giao du với người biệt phái vì trong số họ vẫn có nhiều người tốt, có cảm tình với Ngài, và hôm nay cho biết Ngài còn đến dùng tiệc tại nhà một ông biệt phái . Còn về phía những người biệt phái, họ vẫn nghi kỵ và theo dõi Ngài, và có thể bắt bẻ Ngài về bất cứ một phương diệân nào.
 
          Hôm nay Đức Giêsu được mời đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh biệt phái. Trong bữa tiệc thường có những câu chuyện vui trao đổi giữa các thực khách để làm cho bữa tiệc càng thêm ngon miệng. Nhân dịp này, Đức Giêsu không nói chuyện vui, nhưng lại đưa ra những lời giáo huấn mạnh mẽ làm cho những khách mời cảm thấy khó chịu , vì những lời ấy đánh trúng tim đen của họ. Ngài khuyên họ hãy ở khiêm nhường, đừng tranh nhau chỗ nhất, chỗ danh dự trong đám tiệc. Đừng tự đánh giá mình, hãy để cho người  ta đánh giá và định đoạt.  Ngoài ra, Ngài còn khuyên họ hãy có tinh thần bác ái vô vị lợi khi mời khách đến dự tiệc, đừng tính toán hơn thiệt… Và giáo huấn của Ngài được kết tụ trong câu :”Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc 14,11).
 
          Theo kinh nghiệm hằng ngày, trong con người chúng ta có sẵn mầm mống của sự kiêu ngạo và kiêu ngạo là một trong bảy mối tội đầu từ đó phát sinh ra các nết xấu khác. Sở dĩ chúng ta kiêu ngạo là vì chúng ta chưa biết mình, chưa nhận ra chân dung con người thật của mình. Nếu nhìn thẳng vào mình, chúng ta sẽ thấy mình quá yếu đuối, bất toàn, đầy những nết xấu. Một khi đã nhìn ra con người thật của mình thì chúng ta chỉ chú tâm vào việc sửa mình, canh tân con người mình cho nên hòan hảo. Với cái nhìn thẳng thắn và thành thật đó, tự nhiên chúng ta sẽ có thái độ khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Hc 3,19-21.30-31.
 
          Đọan sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm nhường.  Bài học mà người thầy muốn huấn dụ học trò là : hãy ở khiêm nhường. Các vị công hầu vương bá  thì theo đuổi mộng làm chủ thế giới và loài người, những người tín hữu của Chúa thì biết rằng  mọi sự mình có là do Chúa thương ban. Vì thế, họ khiêm tốn tận dụng những ơn Chúa ban để phục vụ và tôn vinh Thiên Chúa.
 
          Theo bài huấn dụ hôm nay thì :
          - Ai làm việc khiêm tốn thì được người ta yêu mến.
          - Chính Thiên Chúa cũng yêu thương những kẻ khiêm tốn.
          - Ai kiêu căng thì rước lấy sự tai hại vô phương cứu chữa.
          +  Bài đọc 2 : Dt 12,18-19.22-24a.
 
          Thánh Phaolô so sánh bầu khí giữa Cựu ước và Tân ước. Trong đạo cũ, người Do thái có ông Mai- sen làm trung gian, họ đến cùng Thiên Chúa trong bầu khí e dè sợ sệt với những hiện tượng bên ngòai làm cho người ta khiếp sợ.
 
          Nay trong Tân ước, các Kitô hữu có Đức Kitô làm trung gian, họ được sống trong bầu khí cởi mở thân tình, họ tiến tới cùng Thiên Chúa, được tham gia vào cộng đoàn con cái Thiên Chúa, họ được tự do tụ họp về trong “Thành đô Thiên Chúa hằng sống để dự hội vui”(Dt 12,22), họ cung kính thờ Chúa và sống hiệp thông cùng các thiên thần và các thánh trong niềm an vui tin cậy.
          +  Bài Tin mừng : Lc 14,1.7-14.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong bữa tiệc tại nhà một ông thủ lãnh biệt phái tại Pêrê.
 
          Chính trong khung cảnh một bữa ăn tại nhà một ông biệt phái để cho Đức Giêsu tham gia vài  “câu chuyện trong bàn ăn”, những lời khá bất ngờ trong dịp này. Theo tập tục, trong bàn tiệc, các khách mời lần lượt góp chuyện, nhưng thường là những vấn đề nhẹ nhàng dễ chịu. Còn Đức Giêsu, Ngài không ngại làm người nghe khó chịu khi chọn đề tài là sự khiêm tốn (Lc 12,7-11).
 
          Qua bàn tiệc Chúa dạy ta :
          - Thái độ nên có là khiêm tốn nhũn nhặn, đừng nhảy tót lên chỗ cao, mà bị mời xuống thì quê mặt.
          - Đối với khách mời, nên vì lòng quảng đại hiếu khách mà mời, không nên vì lợi lộc.
Hai lời dạy áp dụng vào Nước Trời cũng hợp : Nước Trời chỉ dành cho kẻ khiêm nhường và có tinh thần khó nghèo (Lc 14,21).
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Hãy biết nhìn xuống.
I. ĐỨC GIÊSU ĐI DỰ TIỆC.
 
          1. Đức Giêsu được mời đi dự tiệc.
 
          “Một ngày sabát, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa”(Lc 14,1).
          ĐứcGiêsu không xa lánh những người biệt phái, Ngài cũng giao du với họ, đôi khi còn ăn uống với họ. Hôm đó, vào một ngày sabát, Đức Giêsu được mời vào nhà ông thủ lãnh biệt phái để dùng bữa. Người biệt phái này được gọi là thủ lãnh vì ông có nhiệm vụ điều khiển nhóm biệt phái, thường trong nhóm biệt phái có nhiều thủ lãnh khác nhau.
 
          Biến cố này xẩy ra vào khoảng tháng giêng hay tháng hai năm 30. Họ thường dùng bữa với nhau một cách vui vẻ và thoải mái. Họ là những người biết luật và giữ luật kỹ lưỡng. Họ đã nghe nói về Đức Giêsu qua các dư luận khác nhau. Hôm nay họ mới lợi dụng cơ hội hiếm có này để quan sát Ngài lần đầu tiên.
          Việc Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà một người biệt phái chứng tỏ là một con người dễ thương, hòa đồng, có khả năng đi đến với hết mọi người. Việc dùng bữa tại nhà ông biệt phái cho thấy thái độ của Đức Giêsu đối với người biệt phái không nhất thiết là tiêu cực như quan niệm trong Tin mừng Matthêu và Marcô, coi hạng biệt phái là thù địch của Ngài. Và như vậy,  cho thấy Đức Giêsu muốn nêu lên khía cạnh Ngài sẵn sàng ban ơn cứu độ cho cả những người biệt phái nữa.
 
          Vào bàn tiệc, Đức Giêsu quan sát một vòng, và thấy ngay một thói xấu thường xẩy ra  nơi những người biệt phái là chọn chỗ nhất, chỗ danh dự (Mt 23,5-7). Họ cho đây là một thói quen nên không thấy ngượng ngùng gì.
 
          2. Giáo huấn của Đức Giêsu.
 
          Trong bữa tiệc, người ta thường nói chuyện vui vẻ, có những câu chuyện vui, có cả những chuyện tiếu lâm nữa, cốt làm cho bữa tiệc càng thân tình, làm cho khách ăn càng ngon miệng. Riêng Đức Giêsu trong dịp này, Ngài không nói chuyện vui mà Ngài đưa ra một giáo huấn làm cho người nghe phải khó chịu. Giáo huấn ấy đề cập tới hai điểm : việc dự tiệc và đãi tiệc, nghĩa là nói đến sự khiêm nhường và bác ái vô vị lợi.
 
          a) Việc dự tiệc.
 
          Khi thấy người ta chen lấn nhau chọn chỗ nhất, chỗ danh dự, Đức Giêsu đưa ra cho họ những lời giáo huấn. Lời giáo huấn của Ngài là bài học xử thế khéo léo ở trong xã hội khi giao tế với nhau. Ngài nói với họ dựa theo một đoạn trong sách Châm ngôn :”Trước mặt vua, con đừng kiêu hãnh, đừng dành giật chỗ người vị vọng. Vì thà để người ta mời con :”Xin mời ông lên” còn hơn là bị hạ xuống trước mặt quan tướng”(Cn 25,6-7).
 
          Đàng khác, việc sắp xếp chỗ  là của chủ nhà, vì chủ nhà mới biết  địa vị ngôi thứ của khách mời. Còn người tự chọn chỗ danh dự cho mình là người tự tô vẽ cho mình có khi không đúng sự thật, có thể bị mời xuống hàng dưới. Như  vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhận nơi mình và đặït mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị vỡ mặt.
 
          Từ trong quan niệm về cách xử sự giao tế ở trần gian, Đức Giêsu bước sang lãnh vực tôn giáo. Theo đó, danh dự thật không phải là người trần gian gán cho mà danh dự đó phải do Thiên Chúa ban cho. Mà Thiên Chúa thường nâng cao kẻ thấp hèn. Vì thế Ngài nói :”Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
 
          b) Việc đãi tiệc.
 
          Đức Giêsu lại tiếp tục đưa ra lời khuyên khác về tinh thần bác ái vô vị lợi. Theo thói người đời, trong tiệc cưới thì người ta mời người thân, bạn bè, ân nhân…chứ ai mời người nghèo khó đến dự tiệc ? Thế mà Đức Giêsu lại khuyên người ta làm những việc có vẻ ngược đời :”Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”(Lc 14,13).
 
          Khi mời dự tiệc, người Do thái luôn làm theo óc tính toán, phải có lợi. Cái lợi là sẽ được người ta đền đáp, đúng là “ăn sang ăn giả”. Ngược lại, Đức Giêsu dạy làm ơn và phục vụ  không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp và sẽ được đền đáp trọng hậu. Vì những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù là những người loan báo Nước Trời. Do đó, đến với người nghèo khó là dấu hiệu ta thủ đắc Nước Trời cách chắc chắn.
 
II. NÓI VỀ KIÊU NGẠO VÀ KHIÊM NHƯỜNG.
 
          Trong câu nói của Đức Giêsu :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, chúng ta thấy câu nói này có hai vế với hai tính cách trái ngược nhau, đó là kiêu ngạo và khiêm nhường.
 
          1. Ai nâng mình lên.
 
          Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có gía trị và được mọi người công nhận, và tôn trọng giá trị của mình.  Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài (x. St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hòan hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hòan hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hòan hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.
 
          Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã nhập vào bản thể của con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hòan hảo, có giá trị thật (điều này khó, đòi hỏi con người cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong  có giá trị thực hay không (JKN).
 
          Như chúng ta đã biết kiêu ngạo dẫn đến thảm họa cho nhân lọai qua lời cám dỗ của ma quỉ :”Ông bà sẽ nên như những vị thần, biết điều thiện ác”(St 3,5) trong câu chuyện ông A dong và bà Evà ăn trái cấm, và được gọi là tội tổ tông truyền.
 
          Theo sách giáo lý công giáo, số 1866 thì kiêu ngạo được xếp vào “các mối tội đầu” phát sinh ra các tội và các nết xấu khác. Đó là : Kiêu ngạo, hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh”.
 
          Chúng ta thừa hiểu rằng ai cũng mang trong mình mầm mống của sự kiêu ngạo.  Nó thường núp bóng dưới nhiều hìønh thái khác nhau :
          - Tự ái là khi bị sỉ nhục liền cảm thấy mất mặt, sinh ra tức giận và tìm cách hạ bệ đối phương ngay.
          - Khoe khoang tức là lợi dụng mọi cách mọi dịp để làm cho mình được nổi bật hơn kẻ khác.
          - Ganh đua là khi thấy người khác hơn mình thì khó chịu, rồi tìm dịp xoi mói hay tìm cách đưa mình lên.
          Tất nhiên, tất cả những biểu hiện đó là xấu, đôi lúc là tội nữa và trái ngược lại với sự khiêm nhường.
 
Truyện : Chiếc tầu Titanic
 
          Kỷ niệm đáng ghi nhớ và đáng học hỏi nhất cho con người thời nay là câu chuyện chiếc tầu Titanic. Người ta nghĩ rằng bàn tay con người có thể làm nên một con tầu không thể chìm là một sự vô cùng kiêu ngạo. Mọi con tầu do con người chế tạo đều có thể chìm. Bằng việc tuyên bố chúng ta có thể làm ra một con tầu không có thể chìm được với kỹ thuật tân tiến hiện đại đã thách thức quyền năng của Thiên Chúa. Đúng như lời thánh Phaolô nói về tinh thần của thời đại này là kiêu căng (Rm 12,3; 1Cr 4,7). Tinh thần kiêu căng đó đã thúc đẩy người ta viết vào mạn tầu mấy chữ :”No Pope, no God” : không có giáo hoàng, không có Thiên Chúa ! Và trong chuyến hải hành đầu tiên từ Anh sang Mỹ, sự gì đã xẩy ra như chúng ta đã biết. Một tai họa đã giáng xuống như câu chuyện xây tháp Bebel trong Cựu ước(St 11,4).
 
          2. Ai hạ mình xuống.
 
          Đối lại với tính kiêu ngạo, Đức Giêsu đã khuyên ta hãy ở khiêm nhường. Chính Ngài đã phán :”Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 11,29).
 
          Vậy khiêm nhường là gì ? Và thế nào mới được gọi là khiêm nhường ? Phải chăng khiêm nhường là tự hạ mình xuống , phủ nhận giá trị thực của mình hay giảm thiểu nó đi ?Không phải thế, Đức Khiêm nhường mang nhiều chiều kích sâu xa hơn và tốt đẹp hơn nhiều. Khiêm nhường không phải là ít nghĩ về mình, mà là không nghĩ gì về mình, bởi vì :”Con Người không đến để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45).
 
          Nhà giảng thuyết trứ danh của nước Pháp, cha Lacordaire đã nói :”Khiêm nhường không phải là thấy mình xấâu xa hơn, tầm thường hơn, nhưng là biết rõ những gì ta còn thiếu”.  Khiêm nhường lấy sự thật làm nền tảng. Tự gắn cho mình cái sai ta không có, phóng đại những lỗi lầm ta không phạm, từ chối không nhìn nhận những khả năng của mình, tự cho mình thua kém mọi người, đó không phải là cách sống khiêm nhường; nhưng đó là dấu hiệu của một quan điểm sai lầm, hay một khuynh hướng bệnh hoạn. Muốn thực hiện khiêm nhường chỉ cần nhìn nhận những khuyết điểm, thấy mình tội lỗi, giới hạn, biết rằng trong tất cả mọi lãnh vực có nhiều người khác vượt xa tôi :
Ở nhà nhất mẹ nhì con,
Ra đường lắm kẻ con dòn hơn mẹ con ta.
 
          Một lần nữa, ta phải khẳng định rằng, khiêm nhường không là gì mà chính là chấp nhận sự thật về mình. Trong Anh ngữ, chữ khiêm nhường là “humility”. Chữ Humility do chữ La tinh “Humus” có nghĩa là đất, tro bụi mà từ đó con người đã được tạo dựng theo như sách Sáng thế đã mô tả (St 2,7). Do đó, khiêm nhường có nghĩa là hạ mình xuống tới đất. Nó nhắc nhở chúng ta  lời kêu gọi của Giáo hội trong ngày thứ Tư lễ Tro về sự thật của thân phận con người :”Hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về cùng tro bụi”.
 
Truyện : Đọc truyện Tây du ký.
 
          Ai trong chúng ta cũng đã có lần được xem phim Tây du ký của Trung quốc. Một cuốn phim thật hay và hấp dẫn người xem từ đầu tới cuối và còn muốn xem nhiều lần. Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta thấy các nhân vật trong phim cũng hợp với lời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay : “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
 
          Những hạng tôn mình lên làm Tề Thiên Đại Thánh : bằng Trời, bằng thánh vĩ đại, làm Đại vương, Ma vương, Nữ vương, Hòang hậu, Hòang tử, Công chúa đều bị lột mặt nạ là những đồ khỉ, nhện, thỏ, rắn rết, heo, bò, dê ngựa, hổ báo, sư tử, quỷ vương, buộc phải hiện hình trở về kiếp sống quái vật.
 
          Những thứ nâng mình lên như thế thì vô kể.
 
          Những thứ hạ mình xuống thì ít lắm. Chỉ thấy có Đường Tăng. Ông luôn luôn xưng mình là bần tăng, vô tài, bất lực trước mọi thử thách nguy hiểm, ông chỉ biết thương người, cầu kinh, khấn Phật, cầu kẻ này, nhờ kẻ kia, nhờ cả đến con khỉ Ngộ Không dẫn đường chỉ lối, cứu giúp, giải vây. Chính nhờ hạ mình xuống mà ai cũng thương mến, kính phục và liên kết với ông. Chính nhờ sự hạ mình xuống mà ông tránh được hiểm họa tranh chấp, đánh lộn, oán thù. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông đã lãnh được bộ Kinh dạy ông thành Thánh, thành Phật. Ông đã hạ mình xuống thì được mọi người tôn lên.
 
          Ngoài thứ khiêm nhường thật ra, lại còn thứ khiêm nhường giả tạo nữa.  Điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bề ngòai. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, khi mình có tài hoặc khả năng đặc biệt được nhiều người chiếu cố, nhờ cậy thì mình giả vờ hạ bệ mình bằng cách thoái thác, từ chối, nhưng kỳ thực đó là thủ thuật buộc người ta phải lụy phục, nài nỉ thêm. Lại có người vì để được một lợi lộc gì hay để đạt được một tham vọng nào đó thì luôn tỏ ra nhã nhặn, hiền lành, dễ bảo trước mặt người có quyền để lấy lòng, mua chuộc. Hoặc vì yếu thế mà phải tỏ ra lụy phục, nhưng sau lưng thì phê bình chỉ trích, nói xấu người ta.
 
          Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vênh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh nhàn, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.
 
          Phải thành thật với mình, nhận ra cái ưu đểm và khuyến điểm của mình và luôn nhận ra mình còn yếu đuối cần có sự trợ giúp của Chúa vì :”Không có Thầây, các con không thể làm gì được” ! “Các con hãy ngồi vào chỗ cuối” ! Đức Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại lời đó. Trước mặt Thiên Chúa, phải biết mình yếu đuối, nhỏ bé, ở chỗ cuối, để rồi hoàn toàn trông cậy vào Chúa, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình. Phải nhỏ bé như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Lc 9,48).
 
Truyện : Nhận thức đúng thân phận mình.
 
          Tương truyền rằng trước cánh cửa nhà mồ bị khóa chặt, hồn nữ hòang Sissi gõ cửa. Từ nơi thăm thẳm vang lên giọng nói oai nghiêm của vị Cha Già giữ cửa :
- Ai đó ?
          Hồn nữ hòang kiêu sa đáp :
          - Tôi là nữ hòang Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari.
          Tiếng vị Cha Già lạnh lùng :
          - Ta không biết.
          Tưởng người giữ của chưa hiểu biết về mình, hồn nữ hoàng lại gõ của. Lần này tiếng hỏi của vị Cha Già gắt hơn :
          - Ai đó ?
          Hồn nữ hoàng lại cao giọng đáp :
          - Ta là nữ hòang Elizabeth Sissi của Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari, hoàng hậu xứ Bôhême, hoàng hậu của Giêrusalem, nữ lãnh chúa của xứ Transylvanie, đại quận chúa của Toscane và Cracovie…
          Lại một lần nữa Cha Già trả lời :
          - Ta không biết.
          Nghe xong tiếng trả lời của Cha Gia :”Ta không biết”, vừa thất vọng đau đớn vừa tủi nhục xấu hổ, hồn nữ hoàng vội quì xuống, lột bỏ hết mọi chức tước cao ngạo của trần thế và khiêm tốn thưa lại một cách giản dị :
          - Con là Elizabeth Sissi, một kẻ có tội đáng thương và con tha thiết cầu xin Chúa nhân từ xót thương.
          Tức thì tiếng chìa khóa tra vào ổ, vị Cha Già lên tiếng ân cần nói :
          - Con hãy vào đi.
 
          Dù câu chuyện chỉ là giả tưởng, nhưng dụng ý của nó muốn nói rằng : giá trị đích thực của một con người ở đời này và đời sau không hệ tại nơi những gì bên ngoài mình có được hay mình chiếm được, mà là do biết rõ mình thế nào. Nghĩa là khi còn sống phải biết sống làm sao để mọi người yêu mến kính phục và khi đã qua đời lại được Chúa xót thương và được thần thánh hỗ trợ thì mỗi người chúng ta gắng sức học hỏi và sống theo bí quyến căn bản này : “Khiêm nhường”. Vì đây chính là chìa khóa để mở được cánh cửa vào thiên đàng (Quê Ngọc).
 
          3. Hạ mình xuống để phục vụ.
 
          Đức Giêsu phán :”Con Người đến không phải được phục vụ nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45). Phục vụ là hành động của một người tôi tớ, mà người tôi tớ thì phải phục vụ cho ông chủ. Đức Giêsu đã hạ mình xuống để phục vụ chúng ta để tôn chúng ta lên làm Chúa, còn Ngài lại trở thành tôi tớ. Ngài làm gương cho chúng ta về tinh thần bác ái vô vị lợi.
 
          Sách có chữ rằng :”Phú quí đa nhân hội, bần cùng thân thích ly” : Giầu có thì thiên hạ bâu, nghèo khó thì bà con rời rạc.
 
          Theo cách xử sự thông thường người ta thích những người giầu có, giao du với họ trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Nếu có phục vụ người ta thì cũng chỉ phục vụ “theo nguyên tắc :”Do ut des” : cho đi để lấy lại. . Chỉ những ai có tinh thần siêu nhiên và siêu thóat thì mới có thể có được một sự phục vụ vô vị lợi.
 
          Phục vụ là :”Cho đi”, nhưng cái cho đi cũng có nhiều lý do :
         
          - Người ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho lòai người có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
          - Người ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có thể coi của mình  cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi cho thêm một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.
 
          - Có người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác. Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn. Thà không cho gì hết  còn tốt hơn là chỉ cho  để thỏa mãn tính khoe khoang và tính thích cậy quyền.  Các rabbi Do thái có câu nói rằêng : cách cho tốt nhất là khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
 
          - Có người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành thật. Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho  để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.
 
III. BÀI HỌC CHO NGÀY HÔM NAY.
 
          Đức Giêsu không dạy điều gì mà Ngài đã không làm trước, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Bài học về khiêm nhường  và bác ái hôm nay được minh họa bằng chính cuộc sống của Ngài mà thánh Phaolô đã ca tụng trong thư gửi cho tín hữu Philipphê :”Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu”(Pl 2,6-9).
 
          Đọan thư Philipphê ngầm so sánh Đức Giêsu với A dong và nói lên cái nghịch lý giữa “lên” và “xuống”. Adong đã muốn lên  “bằng Thiên Chúa” và kết quả là đẩy loài người xuống vực sâu. Còn Đức Giêsu tuy vẫn là Thiên Chúa mà không nhất quyết phải đòi cho luôn luôn được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã khước từ tất cả , mặc lấy thân nô lệ thấp hèn. Kết quả là Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban chính hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu… Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
 
          Chúng ta cũng thường theo con đường của Adong tưởng rằng khẳng định được mình  khi nâng mình lên trước mặt những người khác. Những cái “mình” mà ta khẳng định ấy chỉ là những dáng vẻ bề ngòai chứ không phải là bản thân đích thực của ta.
 
          Triết gia Socrate đã khởi đầu triết lý của mình bằng câu :”Anh hãy tự biết mình”. Biết mình là cái khó vô cùng. Người ta có thể biết được nhiều sự trên trời dưới đất, biết được những cái xa xôi, biết được cả những cái cực kỳ tinh vi, nhưng có cái gần nhất màø không biết. Đó là bản thân mình. Còn triết gia Blaise Pascal thì nói :”Tôi chỉ biết có một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nếu không biết được gì khác thì làm sao biết được mình vì biết mình là một điều khó.
          Vì vậy, mọi sự cần bắt đầu với việc tu thân, canh tân chính đời sống của mình. Để làm được điều căn bản này cần phải biết nhìn xuống và nhìn vào bản thân mình, biết khiêm tốn nhìn vào cuộc sống của mình theo ánh sáng Lời Chúa để được soi sáng  mà nhìn thấy những gì tiêu cực, xấu xa cần được thanh luyện sửa chữa.
 
Truyện vui : Phải biết nhìn xuống.
 
          Có một hòang tử nọ tên là Mukasaki, có một thái độ tự cao tự đại đến độ cả khi đi, ông cũng không bao giờ nhìn xuống đường. Ông bước đi trong tư thế làm oai, ngực đứng thẳng, mắt ngước lên, mọi người trong vùng đặt cho hoàng  một tên riêng là :”Người không bao giờ nhìn xuống” và hoàng từ Mukasaki xem ra cũng rất thích biệt hiệu này, ông tuyên bố :”Những bậc vĩ nhân không bao giờ nhìn xuống, họ chỉ biết nhìn lên trời cao mà thôi”.
 
          Một ngày nọ, hoàng tử được mời đến dự đại tiệc tại cung đình. Để khoe cho mọi người nhìn thấy  bộ áo cẩn ngọc qúi giá có một không hai của mình, hoàng tử quyết định không ngồi xe ngựa nhưng hiên ngang đi bộ từ nhà đến cung đình, dĩ nhiên là với thái độ kiêu hãnh không bao giờ nhìn xuống. Dân chúng tuốn ra hai bên đường  trầm trồ khen áo đẹp và quí, điều này lại làm cho hoàng tử thêm kiêu hãnh. Hoàng tử đến cung đình sau hết mọi người và hiên ngang bước vào. Mọi người cười rộ lên, hoàng tử kiêu hãnh nói :
          - Tại sao mọi người cười tôi như vậy ?
          Một trong những người khách mới trả lời :
          - Xin hoàng tử nhìn xuống đôi chân mình sẽ biết lý do tại sao ?
          Hoàng tử nhìn xuống, mặt bỗng đỏ bừng lên vì hổ thẹn. Cả hai đế giầy của hoàng tử đều dính đầy phân ngựa, vì không bao giờ nhìn xuống, hoàng tử giẫm lên  không biết bao nhiêu đống phân ngựa  từ nhà đến cung đình để dự tiệc.
 
          Hoàng tử trong câu chuyện vui trên không bao giờ nhìn xuống và đã giẫm lên những đống phân ngựa. Nếu chúng ta không biết nhìn lại mình, kiểm điểm cuộc sống mình để biết canh tân khỏi những khuyết điểm và tật xấu, thì chắc chắn chúng ta sẽ chồng chất không biết bao nhiêu tật xấu. Tự phụ kiêu ngạo làm ta nên mù quáng trước những tật xấu của chính mình. Thêm vào đó, chúng ta lại dễ chiều theo khuynh hướng moi móc chuyện xấu của anh chị em, và như thế càng ngày chúng ta càng lún sâu vào trong tật xấu mà không hay biết gì cả( R.Veritas).
 


CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN C
HÃY VÀO QUA CỬA HẸP
+++
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Đức Giêsu đến trần gian mang theo sứ mạng đặc biệt là cứu rỗi mọi người không trừ ai. Sứ mạng này không phù hợp với quan niệm của người Do thái vì họ cho rằng họ là con cháu Abraham thì đương nhiên là sẽ được cứu rỗi, còn những người khác thì không. Vì thế mới có một người không biết là thành phần nào trong xã hội đã đến xin Đức Giêsu giải đáp cho mình một thắc mắc :”Thưa Thầy, những người được cứu thóat thì ít, phải không Thầy”?
 
          Đức Giêsu không muốn trực tiếp trả lời cho câu hỏi này vì sẽ gây nên sự hiểu lầm. Nếu  Ngài trả lời là “Đúng”, nghĩa là chỉ có ít người được cứu rỗi, thì làm cho người Do thái nghĩ rằng họ đương nhiên được ơn cứu thoát, rồi thì ỷ lại, không cần cố gắng nữa. Còn đối với những người khác thì nản lòng, vì họ có cố gắng thì cũng vô ích vì ơn cứu rỗi không được ban cho họ. Còn ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp là “không”  nghĩa là “Ơn cứu rỗi sẽ được ban cho số đông” thì cũng làm cho họ ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắên được rỗi mà !
 
          Vì lý do trên, Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, tức là đặc quyền của người Do thái mà chỉ vạch ra cho họ phương thế để được vào Nước Trời :”Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24).  Theo Đức Giêsu, “Qua cửa hẹp” là phải sám hối, phải uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin mừng :”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
 
          Dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “Qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng :”Không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý cha Ta ở trên trời mới được vào”. Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang, cửa tiền tài , sắc dục, hư danh, cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói :”Ta không biết các ngươi từ đâu đến”(Lc 13,27).
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Is 66.18-21.
 
          Cộâng đồng Giêrusalem sau cuộc lưu đầy còn gặp nhiều khó khăn. Qua vị tiên tri vô danh, mà đôi khi chúng ta gọi là Đệ tam Isaia, Thiên Chúa loan báo một cuộc qui tụ toàn thể nhân lọai về với Ngài. Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm thế giới, các dân sẽ tựu về và dâng lễ tại đó, một điều cấm kỵ cho đến bấy giờ.
 
          Nhưng Israel sẽ không chịu phá bỏ rào chắn đối với dân ngọai, và Đức Giêsu đã phải trả bằng giá mạng sống mình  cho nỗ lực cho việc phụng thờ Thiên Chúa hằng sống trở thành việc phụng thờ cho mọi dân nước.
          Lời sấm này tiên báo về thời Đấng Thiên Sai sẽ đến, qui tụ muôn dân, tiêu chuẩn phân biệt duy nhất là sự thánh thiện.
 
          +  Bài đọc 2 : Dt 12,5-7.11-13.
 
          Thời đó, các Kitô hữu gốc Do thái gặp muôn vàn khó khăn từ đế quốc Rôma cũng như Do thái giáo. Thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy bình tĩnh và tin tưởng, vì lòng yêu thương con cái mình, Thiên Chúa dùng gian nan thử thách  để giáo dục và chữa trị họ.
 
          Thử thách, dù thế nào đi chăng nữa, cũng không cho phép ta  nghi ngờ tấm lòng của Thiên Chúa yêu thương chúng ta như một người cha, chẳng khác nào cha dạy con hoặc thầy nghiêm khắc sửa trị trò. Thiên Chúa đối xử với chúng ta  như con của Ngài. Ngài không phải là người cha cay nghiệt. Thiên Chúa có thương ai thì mới thử thách và sửa dạy người ấy. Vì thế họ đừng ngã lòng, trái lại hãy vui mừng vì biết mình được Chúa thương, và kiên trì chịu đựng.
 
          +  Bài Tin mừng : Lc 13,22-30.
 
          Người Do thái thắc mắc muốn hỏi Đức Giêsu số lượng những người được vào Nước Trời. Thực ra, số lượng và lý lịch của những người được vào Nước Trời thì không quan trọng, mà vấn đề quan trọng là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.
 
          Bài Tin mừng hôm nay có 3 ý tưởng chính :
          a) Khung cửa thì hẹp, người muốn vào thì đông, vấn đề là phải nỗ lực.
          b) Có lúc cửa sẽ khép lại mãi mãi, vì giờ cứu độ đã hết, vấn đề là đừng trễ nải.
          c) Việc ăn Tiệc trên Nước Trời chỉ dành cho những ai thành tâm theo Chúa, không ai có thể dựa vào lý lịch, địa vị… mà nghĩ rằng mình có quyền đương nhiên được nhập tiệc.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Đi qua cửa hẹp mà vào.
I. NHỮNG AI ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI ?
 
          1. Trên đường đi Giêrusalem.
 
          Bài Tin mừng hôm nay nằm trong giai đọan cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem nhân ngày lễ Cung hiến Đền thờ. Ngài rảo qua các đô thị, làng mạc giảng dạy cho dân chúng. Ở những nơi này, Đức Giêsu giảng dạy hơn là làm phép lạ. Các đề tài được đưa ra rao giảng là : sám hối, việc cầu nguyện, sự từ bỏ, việc dân Do thái từ bỏ ơn Chúa.
 
          2. Một câu hỏi.
 
          Có kẻ đến hỏi Đức Giêsu rằng :”Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít được cứu rỗi”?(Lc 13, 23). Tại sao người ta lại hỏi như vậy ? Chúng ta cần phải biết  người Do thái có quan niệm thế nào về ơn cứu độ và đặc quyền của họ về vấn đề này.
 
          Giáo trưởng Meir của người Do thái có viết :”Để được cứu rỗi, người ta phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do thái là ngôn ngữ thánh, và sáng chiều đọc kinh Shema”. Có lẽ ý tưởng này phát xuất từ quan niệm “tự tôn chủng tộc” của một số trường phái vốn từng hiện diện trong thời Đức Giêsu. Theo họ, ai có gốc Do thái đều được cứu độ hết.
 
          Nhưng dù với quan niệm nào đi nữa, người Do thái vẫn không thể hình dung hay chấp nhận được việc dân ngọai buớc vào Nước Thiên Chúa. Thế nên mới có một người Do thái, không rõ thành phần nào, đã đến xin Ngài giải đáp thắc mắc :”Phải chăng chỉ có một số ít được cứu độ” ? Thắc mắc này cũng là thắc mắc của mọi người Do thái và cần phải được giải đáp.
 
          3. Một câu trả lời.
 
          a) Không trả lời thẳng.
 
          Đức Giêsu không muốn giải đáp thắc mắc cho họ vì Ngài đâu có quan niệm hẹp hòi như họ, và vì vậy Ngài không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ.
 
          Nếu Ngài đáp là “Phải” chỉ có một số ít người được cứu rỗi thì sẽ sinh hậu quả là những ngừoi Do thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi : vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ : “Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích”. Ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp “Ơn cứu rỗi được ban cho số đông” thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được cứu rỗi rồi mà !
 
          Tuy nhiên, như thánh Phaolô xác quyết :”Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ”(1Tim 2,4). Và Đức Giêsu thì nói :”Cha các con Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này”(Mt 18,14). Như thế, ơn Chúa không hề giới hạn theo khu vực, số lượng, song là tuôn trào đến khắp mọi nơi và cho hết mọi người. Nhưng như thế không có nghĩa là người ta “bị” cứu độ. Trái lại, họ luôn có tự do để đón nhận hay khước từ. Một chiếc ly không thể chứa được những gịot nước tươi  mát của trời cao nếu chẳng bao giờ ngửa miệng ly lên để hứng. Cũng thế, để được hưởng thành quả của ơn thiêng, người ta phải mở rộng tấm lòng và hướng về cùng Thiên Chúa.
 
          Chính vì lý do nêu trên mà Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa chỉ nhắm tới phẩm chất : ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một phe nhóm nào cả mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa dạy.
 
          b) Phải hành động để được cứu độ.
 
          Đức Giêsu không trả lời cho biết số lượng người được ơn cứu độ nhưng nhắc cho họ cách sống để được cứu độ, nghĩa là phải hành động.
 
Truyện : Đừng ảo tưởng.
 
          Có một ông khách bộ hành phải đi qua một cái làng để đến một nơi mà ông ta không biết đích xác còn bao xa nữa thì mới tới được. Dọc đường ông ta gặp một bác tiều phu, liền dừng lại hỏi xem thử khoảng bao lâu nữa thì tới nơi mình muốn tới. Bác tiều phu nhìn ông khách rồi đáp ngay :”Tôi không biết”. Nghe thế, ông khách vội bước đi và nghĩ rằng người nhà quê đó không biết thật, chứ không phải khó tính khó nết. Nhưng khi vừa mới đi được vài bước thì bác tiều phu gọi với theo :”Này ông ơi, ông đi độ 15 phút nữa thì tới nơi đó”. Ngạc nhiên, ông khách quay trở lại hỏi bác tiều phu :”Tại sao khi nãy hỏi bác, bác trả lời không biết” ? Bác tiều phu thông cảm đáp:”Lúc ông hỏi tôi, ông chưa hành động nên chưa thấy bước đi của ông dài hay ngắn, mau hay chậm thì làm sao tôi có thể trả lời cho ông rõ ràng được” ?
 
          Như vậy, ta đi tới đích được hay không, sớm hay muộn là do nơi hành động của ta. Cũng thế, thành công hay thất bại trong cuộc đời là hệ tại nơi việc làm của ta như thế nào. Do đó, có một điều hết sức tai hại  mà ta phải luôn cảnh giác đề phòng là đừng quá tin tưởng vào những suy đoán chủ quan, những ảo tưởng siêu thực để rồi thiếu cố gắng tích cực, không chịu khó hành động cụ thể, sẽ rước lấy nhiều hậu quả khôn lường.
 
          Đó chính là tư tưởng chủ đạo mà qua bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta trên con đường đi theo Ngài, nghĩa là trong cuộc sống đạo để có thể đi tới đích là ơn cứu độ, điều quan trọng không phải cứ ngồi một chỗ mà suy đoán  số phận tương lai, cũng không thể cậy dựa vào một vài ưu thế này nọ để rồi lên mặt  đòi biệt đãi hơn kẻ khác, nhưng là phải chuyên chăm đưa ra thực hành những gì Chúa chỉ dạy. Muốn thế, phải biết lọai trừ những suy đóan sai lầm mà chúng ta thường mắc phải trong đời sống đạo…
 
          c) Đừng dựa vào gì khác.
 
          Để được vào Nước Trời đừng ỷ lại vào gốc gác. Chính thánh Gioan Tẩy giả đã nói thẳng vào mặt những người biệt phái và bè Sađucêu :”Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụ Abraham…”(Mt 3,7t). Đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc này không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho những người đã từng ăn uống  trước mặt Ngài, và những người đã từng nghe Ngài giảng dạy. Có những người nghĩ rằng họ đã ở trong đạo Chúa thế là đã đủ rồi. Họ có ý phân biệt họ với đám dân ngọai. Nhưng con người sống trong Giáo hội của Chúa chưa chắc chắn đã là Kitô hữu, những người đó đang hưởng thụ các lợi ích, các tiện nghi  mà những người đi trước đã xây dựng nên. Nhưng đó không phải là lý do  để ngồi chơi, thỏa lòng và yên trí rằng mọi sự đều tốt đẹp cả. Ngược lại, chúng ta phải tự vấn :”Ta đã góp phần được gì vào di sản của người trước”. Chúng ta không thể sống bằng cái tất vay mượn của tiền nhân.
 
II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI.
 
          1. Phải qua cửa hẹp mà vào.
 
          Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu hỏi :”Phải chăng số người được cứu độ thì ít” mà Ngài chỉ nói :”Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24).
 
          a) Cửa hẹp là gì ?
 
          Hình ảnh về cửa hẹp được Đức Giêsu sử dụng rất quen thuộc với dân chúng vào thời đại của Ngài. Dân chúng thời đó sống ở bên trong thành phố được bao bọc bằng vách tường. Vì không có đèn đường, các cửa và các cổng dẫn vào thành phố phải được đóng chặt chẽ vào ban đêm để tránh trộm cướp, hay kẻ thù cưỡi ngựa xâm nhập, tấn công thành phố. Nếu dân chúng đi ra khỏi thành phố và trở về trễ  sau khi các cổng đã đóng chặt rồi thì sao ?  Có ai mở cổng cho họ vào ? Không ! Khi cổng đã đóng rồi không ai được mở ra vì sợ bọn cướp hay quân địch ẩn núp trong bóng tối sẽ có thể tấn công bất ngờ.
 
          Những người trở về trễ phải khép mình chui qua một cái cửa hẹp. Những cái cửa hẹp này còn được gọi là “mắt của cái kim” –“the eye of the needle”. Cửa chỉ vừa vặn cho một người đi qua thôi, và không thể mang theo hành lý.
 
          Trong Luca chương 18, câu 25 :”Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là “cửa hẹp”. Người đi buôn với hàng hóa cồng kềnh chất đầy trên lưng lạc đà không thể đi qua cửa này được. Phải vứt bỏ tất cả hàng hóa và hành lý xuống. Con lạc đà phải cúi đầu, khòm lưng  và quì gối xuống may ra mới lọt.
           (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa…, năm C, tr 290-291).
 
          b) Cửa rộng là gì ?
 
          Là con đướng rộng thênh thang dễ đi. Đa số quần chúng chọn đi con đường này vì đó là những giây phút khóai lạc mau qua của trần thế mang lại. Con đường nay tuy thoải mái dễ chịu nhưng lại là con đường của những người dại khờ, nó không phải là con đường của Thiên Chúa. Bề lâu bề dài nó không dẫn tới đâu cả. Và cuối cùng chỉ là sự trống rỗng.
 
Truyện : Khoái lạc trong một đêm.
 
          Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ :”Nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường  đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (,,,)Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài.
 
          c) Bước qua cửa hẹp là gì ?
 
          Khi Đức Giêsu nói về cửa hẹp, Ngài muốn ám chỉ việc từ bo,û “từ bỏ” hết mọi của cải trần gian. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật. Và đi qua cửa hẹp  thì phải đi qua một mình, cô đơn. Nhưng Thiên Chúa luôn cùng đi với ta. Đó là “con đường hy sinh và vất vả”. Nhưng lại là con đường của những người khôn ngoan và thận trọng  dẫn đến nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.
 
          Bước qua cửa hẹp còn có nghĩa là giữ và sống lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Bước vào cửa hẹp còn là nhìn vào chính con người chúng ta như thể Thiên Chúa nhìn chúng ta  và bước đi dưới con mắt của Ngài, vì biết rằng Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc sống của chúng ta.
 
 
 
          d) Phải vào đúng lúc là gì ?
 
          “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13,25). Cánh cửa đã hẹp nay lại đóng kín. Thời gian hết sức cấp bách, phải bước vào ngay, ngày mai sẽ quá trễ. Ngay hôm nay phải bước vào Nước Trời.
 
          Đây là giờ của ơn thánh. Ơn Chúa không bao giờ thiếu, nhưng phải biết đáp ứng. Vì thế,  mỗi giây phút hiện tại, mỗi biến cố xẩy đến trong cuộc đời ta đều mang một ý nghĩa vì nó sẽ đem ta vào Nước Trời  hay chặn ta lại trước cánh cửa Nước Trời đang đóng lại. Tuy nhiên về ơn Chúa ta không thể biết đâu là đầu, là chót, là quyết định hay không. Nhưng chính sự mập mờ bấp bênh này càng làm cho ta phải dứt khóat lựa chọn và theo Chúa trong mỗi giây phút hiện tại.
 
          2. Qua cửa hẹp là phải chiến đấu.
 
          Đức Giêsu không trả lời trực tiếp về số lượng người được rỗi và chỉ nói đến cách thức để được cứu rỗi. Ngài nói :”Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24). Ngài không muốn trấn an, Ngài muốn người ta sống có trách nhiệm. Từ đây, Ngài dùng hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Thánh Kinh : Nước Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Ngài thêm : người ta xô đẩy nhau trước cửa vì cửa phòng “hẹp”.
 
          Từ Hy lạp mà chúng ta dịch là “chiến đấu” là một động từ mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là “đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối) trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy từ động tự Hy lạp : Cuộc chiến đấu cuối cùng của sự sống. Để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến đấu, ở vườn Giếtsimani và đồi Golgotha. Trong một đọan văn khác, Ngài đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được Nước Trời”(Mt 11,12; Lc 16,16).
(Quesson).
 
          Con đường chiến đấu khác nào một cuộc leo núi mà đỉnh chót không bao giờ đạt được ở trần gian này. Người ta nói về hai người leo núi nổi tiếng đã chết trên ngọn Everest rằng: “Khi người ta thấy họ lần cuối cùng thì họ vẫn hăng hái tiếân lên đỉnh núi”. Người ta ghi khắc vào bia mộ  một hướng dẫn viên leo núi Alpes chết ở sườn núi rằng :”Chàng chết lúc đang lên”. Con đường Kitô hữu phải đi là con đường đi lên,tiến lên, tiến mãi.
 
          Tổng thống Washington có khuyên một câu thật chí lý :”Không nên chỉ đánh giá thành công qua địa vị mà con người đạt được trong cuộc sống, nên đánh giá sự thành công  qua những trở ngại mà người đó khắc phục được”.
 
          Cuộc đời có biết bao lôi cuốn cam go, nhưng chỉ khi can đảm, không thỏa hiện hay nhân nhượng với kẻ thù, người ta mới có thể nói được như thánh Phaolô :”Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2Tm 4,6-8).
 
          Nhiều khi huấn luyện để  ta trở nên người chiến binh dũng mạnh hầu chiến đấu đến cùng đường, Thiên Chúa cũng phải “quở trách… sửa dạy… và đánh đòn”(Dt 12,5-6). Aâu cũng vì thương con mà “cho roi cho vọt” và “có gian nan mới tạo anh hùng”.
 
Truyện : Muốn vào hàng trai tráng.
 
          Trong nhiều bộ lạc Da đỏ Mỹ châu  họ hay có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng, người ta tổ chức như sau : Khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ :”Con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.
 
          Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rùng rợn. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của chim ăn đêm cũng có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định.
 
          Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút lui. Bầu trời từ từ hừng sáng. Nỗi sợ hãi trong đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện : cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chầm lấy bố, reo lên :”Bố đã trở lại”. Người cha hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.
 
          Để trở thành chiến binh anh dũng trên mặt trận đức tin, lắm khi chúng ta cũng phải chấp nhận biết bao thách đố trong bóng đêm cuộc đời. Những đe dọa của sự dữ, gầm rú của đau khổ, rình chờ của xác thịt như những phương thế giúp tinh luyện lòng ta thêm can trường dũng mãnh. Và trong suốt chiều dài của bóng đêm đó, dù ta có ý thức hay không, Thiên Chúa vẫn luôn ở bên cạnh dõi mắt trông nhìn chúng ta.
 
          3. Qua cửa hẹp còn là sám hối, hoán cải.
 
          Đối với những người Do thái họ tưởng rằng mình đương nhiên có thể vào Nước Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu nói:”Các ông hãy sinh trái cây thống hối,  nếu không, địa vị ưu đãi của các ông sẽ chẳng có ích gì”.
 
          Đức Giêsu cho biết hoán cải là một phương thế cần thiết để được vào Vương quốc. Và Ngài tiếp tục đem sự hoán cải đến với phần lớn những người  không có gì hứa hẹn. Nhiều người tội lỗi đã chú ý đến lời kêu gọi hoán cải của Ngài và họ đã lên đường tiến tới Vương quốc. Trong khi nhiều người có đạo đã ngoan cố chống lại lời kêu gọi hoán cải của Ngài và do đó, tự loại mình ra khỏi Vương quốc.
 
          Khi nghe Đức Giêsu nói:”Ở đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các tiên tri ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình thì lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”(Lc 13,28-29), cách nói này có thể cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước Trời sẽ bị lọai trừ một cách độc đóan bởi sự độc tài của một ông chủ không có lòng thương xót. Hẳn đó là bức biếm họa về Thiên Chúa ! Thiên Chúa không tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ chính mình. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy trở thành một cánh cửa rộng mở cho mọi người không phân biệt.
 
          Chúng ta phải khẳng định hai điều :
          * Về phía Thiên Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu chuộc mọi người không trừ ai.
          * Về phía con người, chỉ cần có sự nghiêm túc của tự do, tự do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho và tự do này là một cuộc chiến đấu.
 
          4. Những kẻ chót sẽ lên hàng đầu.
 
          Đức Giêsu nói:”Và kìa những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13,30). Đây là thành ngữ của người Do thái nhằm diễn tả sự đảo ngược thứ tự. Thành ngữ này được dùng nhiều trong Tin mừng (Mt 19,30; 20,16; Mc 10,31). Theo mạch văn bài Tin mừng trên thì qua thành ngữ này, Đức Giêsu có ý bác bỏ “quyền ưu tiên truyệt đối” (Theo quan niệm của một số người Do thái) rằng dân Do thái là dân riêng của Chúa thì đương nhiên sẽ được vào Nước Trời dù sống thế nào đi nữa (Mt 3,9-10; Ga 8,33t).
 
          Ở đây không có ý áp dụng cho mọi cá nhân, nhưng Đức Giêsu có ý so sánh toàn thể dân Do thái, từ khi Ngài xuất hiện, với toàn thể lương dân. Khi đề cập đến hai nhóm đó, Ngài công bố có nhiều người lương sẽ được cứu rỗi trước người Do thái, và ngay cả cộng đoàn toàn thể lương dân sẽ vào Nước Trời trước cộng đoàn Do thái. Giáo huấn này được thánh Phaolô nhắc lại trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 11,25-26). Giáo huấn này được ứng nghiệm trong Giáo hội sơ khai (Cv 13,46-48; 28,25-28).
 
          Sẽ có những bất ngờ trong Nước Thiên Chúa. Những người nổi danh ở thế gian này sẽ có thể rất thấp kém trong đời sau. Những người chẳng ai biết đến trong đời này có thể sẽ là những vương tử ở đời sau.
 
Truyện : Có sự đảo ngược.
 
          Một người đàn bà giầu sang được thế gian này rất mực tôn trọng. Bà ta chết và khi tới thiên đàng  thì có một thiên sứ đưa bà đến nhà bà sẽ ở. Bà ta thấy nhiều ngôi nhà xinh đẹp và mỗi lần đi qua bà cứ tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dẫy phố chính ở trên trời, tới khu ngọai ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ hơn cái lều một chút. Thiên sứ bảo :”Đây là nhà của bà”. Bà nói :”Cái gì vậy ? Tôi không thể nào sống trong đó”. Thiên sứ đáp :”Tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu mà bà đã gửi lên đây”! Các tiêu chuẩn trên trời không giống các tiêu chuẩn dưới đất. Hạng nhất của thế gian thường sẽ là hạng bét và hạng bét của thế gian là hạng nhất ở trên trời…  
          Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta phải quyết tâm đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào qua cửa hẹp, đây là điều kiện mà tiếng La tinh gọi là ‘conditio sine qua non”, điều kiện bắt buộc, không có không được.  Chúng ta đã có nhiều bài học do tiền nhân để lại như :
          - Nước chảy đá mòn.
          - Kiến tha lâu đầy tổ,
          - Có công mài sắt có ngày nên kim.
          Thì trên phương diện siêu nhiên thì cũng thế, vì Chúa đã phán :”Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo” hoặc :”Ai bên đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”.
          Cung thế, nếu ở đời :”Có khó mới có miếng ăn” hoặc “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc Nước Trời cũng đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được. Tương lai đang chờ đón ta !
 


CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN C
NGỌN LỬA TÌNH YÊU
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Đức Giêsu hay có kiểu nói nghịch lý làm cho người ta ngạc nhiên khi mới nghe và chưa hiểu hết ý nghĩa tàng ẩn trong đó. Chẳng hạn trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu nói :”Thầy đã đến ném lửa vào trần gian… Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian ? Thầy bảo cho các con biết : không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51). Nếu Đức Giêsu được gọi là “Hoàng tử của Bình an”, hiền lành và khiêm nhường không mang sự hòa bình cho trần gian mà chỉ đem đến sự chia rẽ. Như vậy Ngài muốn nói gì ?
 
          Đức Giêsu muốn nói cho chúng ta biết rằng sứ mạng của Ngài là xuống trần gian chịu chết để đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người và thanh luyện con người. Thi hành được sứ mạng đó không phải là dễ vì những lời rao giảng của Ngài phải nói lên chân lý và nói lên chân lý thì sẽ đụng chạm đến nhiều người đang chà đạp lên chân lý vì  như người ta nói :“sự thật mất lòng”. Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc 1 hôm nay là hình bóng Đức Giêsu. Ông nói sự thật cho dân chúng, nhưng họ không muốn nghe, lại còn hành hạ và muốn giết chết ông. Đức Giêsu cũng phải đi theo con đường đó và Ngài muốn cho việc thi hành sứ mạng đó chóng hoàn tất.
 
          Ngài đến để đem hòa bình cho nhân lọai, nhưng không phải là thứ hòa bình ru ngủ của trần gian mà là thứ hòa bình thật của Thiên Chúa. Thứ hòa bình này chỉ có thể lãnh được khi người ta đã nỗ lực thi hành Lời Chúa và phải tôi luyện bằng Thập giá. Vì thế, Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa nhiều người, ngay những người trong một gia đình. Sở dĩ có sự chia rẽ là vì có người tin theo Chúa, có người không tin theo, lại còn chống đối nữa. Vậy là có sự chia rẽ giữa người tin và không tin. Đức Giêsu đòi chúng ta phải xác định lập trường, phải có sự lựa chọn : tin theo hay không tin theo. Nếu đã chấp nhận tin theo thì cũng phải chấp nhận con đường của Chúa đã đi : phải hy sinh tất cả để trung thành với Chúa.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Gr 38,4-10.
 
          Thời tiên tri Giêrêmia, dân Do thái phạm tội nhiều, nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylon bao vây. Là người hiền lành, nhạy cảm, yêu quê hương, Giêrêmia phải tuân lệnh Thiên Chúa, đi nói những lời nguyền rủa trên dân mình để khuyến khích họ ăn năn sám hối và quay về nương tựa vào Chúa, nhưng họ cứ tiếp tục đi theo con đường sai lầm đó. Ôâng còn bị cáo giác là chủ bại và cộng tác với quân địch. Vì những lời nói thật đó, ông bị kết án vứt xuống giếng sâu, nhưng Chúa đã cho người cứu vớt ông.
 
          Hôm qua cũng như hôm  nay, vị tiên tri phải trải qua kinh nghiệm xương máu để biết được rằng “Sự thật thì mất lòng”. Đó là số phận của nhà tiên tri, người làm chứng về sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngoài ra, việc Giêrêmia bị bỏ xuống giếng là hình ảnh tử nạn của Đức Giêsu và việc Giêrêmia được thóat chết là hình ảnh của Chúa sống lại.
 
          +  Bài đọc 2 : Dt 12,1-4.
 
          Trong khi chúng ta dấn thân cho Nước Chúa, được nghe đoạn thư gửi cho người Do thái sau đây, chúng ta cảm thấy được an ủi và nâng đỡ rất nhiều. Hồi ấy, các Kitô hữu gốc Do thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do thái cũ thù ghét và coi họ là những người phản đạo, mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma.
 
          Thánh Phaolô đôi khi ưa dùng ngôn ngữ thể thao, Ngài ví cuộc sống của Kitô hữu như một cuộc chạy đua, cần phải có nhiều sức dẻo dai, mắt nhìn thẳng vào Đức Giêsu, chính Ngài cũng gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.
 
          +  Bài Tin mừng : Lc 12,49-53.
 
          Bài Tin mừng hôm nay có hai ý chính :
 
          a) Đức Giêsu có sứ mạng xuống trần gian để thanh luyện trần gian và Ngài ước cho việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành. Ngài cũng báo trước sẽ phải qua một cuộc khổ nạn và việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.
 
          b) Đức Giêsu dùng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ” để kêu gọi người ta  phải có thái độ lựa chọn trước Tin mừng của Ngài. Sứ mạng của Ngài là chịu chết để chuộc tội cho loài người. Ngài tự hiến mình chịu chết, không còn lựa chọn nào khác khi Ngài muốn hoàn thành đến cùng sứ mạng được giao phó. Nhưng một quyết định như thế càng thêm những chống đối và sẽ gây chia rẽ trong chính lòng dân tộc được chọn : một số người sẽ hoán cải, một số người khác thì không, một số người tin theo, một số người không.
 
          Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ còn xẩy ra ngay trong lòng một gia đình.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Ngọn lửa tình yêu bùng cháy.
 
I. ĐỨC GIÊSU ĐEM LỬA XUỐNG TRẦN GIAN.
 
          1. Điều Đức Giêsu muốn nói.
 
          Khi đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta không khỏi thắc mắc : Nếu khẳng định Đức Giêsu là “Hòang tử của Hòa bình”, người ta sẽ nói sao trước lời tuyên bố thẳng thừng của Ngài về chính mình :”Thầy đến đem lửa xuống trần gian… Thầy đến không phải để đem hòa bình, nhưng là đem sự chia rẽ”?  Làm sao có thể hiểu được khi một người vốn tự xưng là “hiền lành và khiêm nhường” lại gây nên sự xáo trộn, gây nên nỗi phân ly trong gia đình, một cấu trúc cần được hiệp nhất hơn bất cứ một cấu trúc nào hay tổ chức nào trên thế giới ?
 
          Người ta phải hiểu thế nào câu nói của Đức Giêsu :”Thầy đến đem lửa xuống trần gian và Thầy muốn sao lửa đó được cháy lên” ? Vậy lửa Đức Giêsu đem đến trần gian là thứ lửa nào?
          2. Lửa trong Thánh Kinh.
 
          Trong Thánh Kinh lửa được dùng để chỉ ý nghĩa của hai khía cạnh tích cực và tiêu cực : ngọn lửa ở thiên đàng và ở hỏa ngục. Ngọn lửa là hình ảnh của sự hiện diện thiêng thánh của Thiên Chúa khi ông Maisen gặp gỡ Ngài giữa bụi gai đang cháy (Xh 3,2), hay cột lửa đã hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (Xh 13,21), và ngọn lửa từ trời xuống thiêu hủy thành Sôđôma và Gômôra (St 19,24).
 
          Sức mạnh của Lời Chúa như lửa nơi miệng tiên tri Giêrêmia (Gr 5,14), và ngọn lửa tiên tri Isaia nhìn thấy trong đền thờ đã thanh tẩy môi miệng ông (Is 6,6) trở nên thanh khiết để ngài loan báo sứ điệp cho dân chúng. Tiên tri Eâlia được ví như ngọn lửa, và lời giảng của Ngài như đuốc cháy (Hc 48,1).
 
          Ngọn lửa của Thần Khí đậu trên các Tông đồ và ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3). Mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (Lc 17,29). Lửa là những thử thách (1Pr 4,12).
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 12,49-53), Đức Giêsu phán cùng các môn đệ rằng :”Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”(Lc 12,49). Tôi tin rằng lửa mà Luca muốn nói ở đây chính là “ngọn lửa của Thần Khí” đã được ban xuống trên các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3-4) với sức mạnh và tình yêu Thiên Chúa để đi rao truyền Tin mừng khắp muôn dân (Cv 1,8). Ngọn lửa của Thần Khí thanh luyện linh hồn chúng ta  khỏi sự ích kỷ và kiêu căng, nguồn gốc gây ra tất cả mọi sự thù nghịch và báo oán.
                   (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 282-283).
 
          Đức Giêsu mong uớc “ban Thần Khí” cho thế gian. Ngài nói rằng đó là nhiệm vụ duy nhất của Ngài :”Thầy đến vì việc đó”. Chúng ta hãy thử tưởng tượng Đức Giêsu như một người đang ước mong, mang trong mình một dự án lớn lao. Đức Giêsu hăng say với dự án đổi mới toàn thể địa cầu. Lấy lại hình ảnh ấy, một bài ca hiệp lễ hát rằng :”Là kẻ ăn mày lửa, tôi nắm tay Chúa trong tay tôi, như người ta cầm trong tay mình ngọn lửa cho mùa đông và Chúa trở thành đám cháy thiêu đốt thế gian”. Đức Giêsu trở thành một sức mạnh nhiệt thành mới mẻ cho nhiều người hôm nay. Ở giữa những việc tầm thường hằng ngày, chúng ta có thể đốt lên “ngọn lửa nồng nàn của tình yêu”.
 
          3. Mâu thuẫn giữa hòa bình và chia rẽ.
 
          Đức Giêsu nói :”Các con tưởng Thầy đến  để đem sự bình an đến thế gian ư ? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ”. Với tư cách là một người hiền lành và khiêm nhường trong lòng, làm sao Đức Giêsu đã đến trần gian để gây chia rẽ và xáo trộn ? Tuy nhiên, nhiều khi  vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xẩy ra.
 
          Chúng ta cần hiểu rằng : bằng hai chữ  hòa bình và chia rẽ, Đức Giêsu kêu gọi người ta  chọn lựa thái độ trước Tin mừng của Ngài (Lc 51-53) : Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9,5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm : chữ “Hòa bình” có nhiều nghĩa : hòa bình kiểu thế gian và hòa bình của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hòa bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài.
 
          Thực tế cho thấy là sứ vụ của Đức Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xẩy ra ngay trong lòng một gia đình (Carôlô, Hạt giống nảy mầm, Chúa nhật năm C, tr 141).
 
          Dù Đức Giêsu rất hiền lành, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ : Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống đối Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giầu nổi giận v.v…. Trong Tin mừng không thiếu gì những lời nói chói tai như thế, nhưng Đức Giêsu cũng cứ nói, vì “thuốc đắng đã tật”.
 
II. ĐỨC GIÊSU ĐÓN NHẬN SỰ CHỐNG ĐỐI.
 
          1. Thao thức mãnh liệt của Đức Giêsu.
 
          Khi nói về Đức Giêsu thường chúng ta chỉ chú trọng vào thiên tính mà quên đi nhân tính của Ngài. Vì thế mà không thấy tính gần gũi, dễ thương, dễ mến cách tuyệt vời của Ngài. Nguyên về mặt nhân bản, Đức Giêsu quả là một con người đặc biệt. Chúng ta đã từng thấy Đức Giêsu nhạy cảm như thế nào  khi Ngài chạnh lòng thương trước đám đông, khi Ngài xúc động khóc trước mồ Lazarô. Bài Tin mừng Giáo hội đọc trong phụng vụ hôm nay, giúp chúng ta khám phá thêm về Đức Giêsu : cùng với một tâm hồn tinh tế và nhạy cảm ít ai có, Ngài còn có một hệ thần kinh thép và trong lòng ấp ủ những hoài bão lớn lao :”Thầy đã đem lửa vào thế gian và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên ! Thầy còn có một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.
 
          Hoài bão của Đức Giêsu là gì nếu không phải là biến đổi thế giới này thành Trời mới Đất mới ? Thao thức của Đức Giêsu là gì nếu không phải là thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa là xây dựng Nước Thiên Chúa, Vương quốc và Triều đại của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội con người ? Trời Mới Đất Mới là không gian trong đó con người vui hưởng hạnh phúc thật là nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương nhau. Nước Thiên Chúa, Vương Quốc và Triều Đại của Thiên Chúa là thế giới của Sự Sống, của Yêu Thương, của Bình An và Hoan Lạc.
 
          Để thực hiện hoài bão lớn lao và cao đẹp ấy Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh mất mát, thậm chí cả sự hủy diệt bản thân mình. Hơn nữa, Ngài còn nóng lòng mong đợi cuộc Khổ nạn mau tới như mong đợi những ngày tốt đẹp, tuyệt vời nhất của đời mình.
 
          2. Tiên tri Giêrêmia là hình bóng Đức Giêsu.
 
          Bài đọc 1 hôm nay mô tả cuộc bách hại tiên tri Giêrêmia. Các Kitô hữu luôn coi ông  như một hình bóng của Đức Giêsu. Ôâng là tiên tri ngay thời còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình trong một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel, sự tàn phá thành Giêrusalem và đền thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ôâng thương yêu tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Ngài. Trước những lời nói tiên tri chân thật của ông, nhiều người thù ghét ông và tìm cách giết hại ông. Nhưng cuối cùng ông đã được cứu.
 
          Đức Giêsu cũng thế : ngay từ những trang đầu của Tin mừng chúng ta đã thấy Đức Giêsu bị các nhà lãnh đạo đương thời bấy giờ đối xử như thế nào. Ngài đến với những lời chân thật, hằng sống, nhưng người nhà không tiếp rước Ngài, vì cho rằng  Ngài là mối nguy cơ đe dọa địa vị, quyền lợi tôn giáo, xã hội và chính trị (dĩ nhiên bao gồm cả kinh tế) của họ. Thật ra Ngài chỉ là “tiêu chuẩn” để con người chọn lựa : theo và đón nhận hoặc không theo và từ chối Thiên Chúa. Người ta không có quyền không chọn lựa ! Nhưng người ta có quyền chọn không đón nhận Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa Tình thương. Và chính do chọn lựa này mà mỗi người mỗi ngả.
 
          3. Vì Tin mừng, phải chấp nhận chống đối.
 
          Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đã vạch ra điều sẽ dẫn Ngài đến cái chết, và những người môn đệ bước theo Ngài cũng sẽ phải gặp  đủ thứ đụng chạm xung khắc (Mt 10,22). Đức Giêsu đã bị chết không chỉ vì những lời rao giảng yêu thương, nhưng còn vì Tin mừng tự do của Ngài đã xung khắc với các nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị. Họ coi Ngài chỉ là con người gây rối và họ nhìn thấy Ngài chỉ là một sự đe dọa cho những địa vị và quyền hành của họ.
 
          Không phải Đức Giêsu không muốn bình an vì Ngài Là “Hòang Tử của Bình an”, nhưng khi Ngài bênh vực cho những giá trị tinh thần, phục vụ cho công lý và giải phóng nhân lọai khỏi những ràng buộc của tội lỗi, thì chắc chắn phải đụng chạm với quyền lực đang muốn duy trì chúng lại.
 
          Đức Giêsu bị người ta ghen ghét. Lòng ghen ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không phù hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà.
 
          Chính vì thế mà Đức Giêsu khuyến cáo các Kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị giết  bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình :”Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…” Tình trạng này đã xẩy ra trong Giáo hội sơ khai và vẫn xẩy ra luôn mãi. Lịch sử các vị tử đạo đã chứng minh : những người theo đạo thường bị chính quyền hoặc đồng đạo mình ghét bỏ. Hoặc là trong một gia đình ngoại giáo, có một người trở lại đạo, là để kết hôn với người có đạo chẳng hạn, cha mẹ không bằng lòng. Thế là có sự xung khắc giữa cha mẹ và chính người con của mình.
 
Truyện : Chấp nhận bị chửi.
 
          Trong một buổi huấn đức tại đại chủng viện Mundelein vào khoảng năm 1992, Đức cố hồng y Joseph Bernadin của tổng giáo phận Chicago đã tâm sự rằng, từ ngày ngài về lãnh trách nhiệm ở Chicago, mỗi ngày đều đặn, không sót một ngày, có một lá thư gửi đến chửi ngài là “son of bitch” –“chó đẻ” ! Vì sao ?  Vì ngài theo giảng huấn của Giáo hội chống lại các thứ tệ đoan xã hội, làm mất quyền lợi của bọn tư bản vật chất. !
 
          Đức tin và những giá trị tôn giáo  đặt chúng ta vào tư thế đụng chạm, xung khắc với xã hội. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu đã nói :”Các con tưởng rằng Thấy đến để đem sự bình an đến cho thế gian ư ? Thầy bảo thật các con : không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Đó là những sự thù ghét đáng chấp nhận vì nếu không chấp nhận thì có nghĩa là  phản bội lý tưởng Tin mừng của mình.
 
III. ĐỨC GIÊSU ĐÒI SỰ LỰA CHỌN CỦA TA.
 
          1. Kitô hữu phải lựa chọn.
 
          Nếu đặt câu hỏi : là người Kitô hữu, bạn đã lựa chọn Đức Kitô và đạo của Ngài chưa ? Chắc có người cho là thừa và có thể là một câu hỏi ngớ ngẩn vì khi đã được chịu phép rửa tội chúng ta đã thề hứa bỏ ma qủi mà chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa, tin theo Đức Giêsu Kitô, do đó, mới được mang danh là “Kitô hữu”. Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, và được mang tên của Ngài.
 
 Đồng ý vậy, đã là Kitô hữu thì dĩ nhiên chúng ta đã chọn Đức Giêsu và đạo của Ngài rồi, nhưng không phải chọn một lần là đủ, là xong. Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi giai đọan của cuộc đời chúng ta  phải chọn lại. Chọn lại là kiểm điểm xem chúng ta đã thực sự chọn lựa Chúa chưa, vì nhiều khi, trong nhiều tình huống chúng ta sống theo thế gian, xác thịt và ma qủi mà chúng ta không ý thức. Để kiểm chứng lại sự chọn lựa của chúng ta, hằng ngày chúng ta phải đặt cho mình một câu hỏi :”Đối với tôi, Đức Giêsu là ai” ? Chắc chúng ta sẽ thưa được Đức Giêsu là thế nọ, thế kia… nhưng thể hiệân chứng minh những lời ấy thì không dễ.
 
          2. Chọn lựa phải dứt khóat và hiệu quả.
 
          Cuộc sống con người hiện nay quá phức tạp và đa đoan khiến cho tâm tư bị phân tán, xé mỏng – ý chí và nghị lực cũng vì đó mà suy yếu. Một đội quân mạnh cũng dễ gì đánh thắng cùng một lúc 3, 4 mặt trận, phải có tinh thần mạnh mẽ mới vào được Nước Trời (Mt 11,12). Các thánh Tử đạo đã can đảm thực hiện Lời Chúa (Mc 8,38; Lc 9,26). Lời Ngài đâu phải không rõ ràng  hoặc chúng ta có thể thực hành hay không là tùy ý ?  Tình yêu và chân lý luôn đòi hỏi sự lựa chọn dứt khóat, mạnh mẽ.  Dù phải hy sinh – Không thể vừa muốn một đời sống dễ dãi, nhàn hạ (hay lười biếng) đồng thời lại muốn vào Nước Trời. Hai cái muốn đó làm sao có thể đi đôi với nhau (Mt 10,36t)? Chính Đức Kitô còn không sống theo ý Ngài (Mt 4,4; Ga 4,34). Thế nên khi dứt khóat chọn Đức Kitô, ta phải nỗ lực sống theo Lời Ngài và đồng thời luôn vững tin vào tình yêu và sự quan phòng của Ngài (Mt 6,25t; Lc 12,22t).
 
Truyện : Thánh nữ Perpetua.
 
          Perpetua thuộc gia đình quí tộc, bị bắt vì đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngọai, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình, nàng lễ phép nói với cha :”Thưa cha, người ta có thể gọi vật này  bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không ? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu”. Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới. Perpetua có một đứa con đang bú, rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.
 
          Vì biết con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết :”Con ơi, hãy thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha  đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con  và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả”.
 
          Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ nghẹn ngào trả lời :”Thưa cha, tại tòa án sẽ xẩy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình”. Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ :”Con hãy thương đến đứa con nhỏ của con”.
 
          Tuy nhiên trước tòa án, cùng với các bạn khác, Perpetua đã công khai tuyên bố trung thành với Chúa và bằng lòng hy sinh tất cả.
 
          Mỗi người tin Chúa phải quyết định hoặc yêu mến gia đình hơn hoặc yêu Chúa Giêsu hơn. Bản chất của Kitô giáo là  phải đặt sự trung thành với Chúa Giêsu lên trên tất cả các sự trung thành khác của thế gian. Người ta phải sẵn sàng coi mọi sự như thua lỗ vì cớ cao trọng tuyệt đối của Chúa Giêsu.
 
          3. Lựa chọn và Thập giá.
 
          Đức Giêsu đã nói :”Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khỏai biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Một phép rửa mới đang chờ đợi Đức Giêsu : tử đạo, cái chết ! Đức Giêsu quả quyết rõ ràng nếu chính Ngài phải trải qua cơn thử thách thì những ai theo Ngài cũng sẽ gặp thử thách trên bước đường họ đi.
 
          Nếu Ngài đến đem bình an của Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã công bố (Is 9,5-6; Mk 5,4; Lc 2,13) thì đây không phải là sự bình an dễ dãi do các tiên tri giả loan báo, sự bình an mà con người không ngừng mơ tưởng; nhưng là bình an Nước Trời mà người ta chỉ đạt được qua Thập giá. Mỗi người được mời lựa chọn thái độ của mình đối với Đức Giêsu, hoặc theo Ngài, hoặc chống Ngài như ông Simêon đã nói tiên tri (Lc 3,35).
 
Truyện : Họ đã chọn một phép rửa.
 
          Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thấy có biết bao gương sáng của những vị anh hùng. Họ mang lửa nhiệt tình can đảm trong tim để làm chứng cho sự thật Phúc âm. Họ cũng đã phải chịu “một phép rửa” của đau khổ như Đức Giêsu đã chịu.
 
Chẳng hạn như cựu Tổng thống Nam phi Nelson Mendela, người được giải thưởng Nobel về Hòa bình, đã bị tù 27 năm  vì đấu tranh chống lại nạn kỳ thị chủng tộc ở Nam phi.
Yitzak Rabin, cựu thủ tướng Do thái, bị ám sát chết vì lập trường hòa bình của mình.
 Đức Tổng Giám mục Oscar Rômêrô ở El Salvado bị bắn chết lúc dâng Thánh lễ vì bảo vệ người nghèo chống lại quyền lực.
Và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bị ám sát hụt, như một hậu quả của những giá trị Ngài bênh vực.
 
          Chúng ta có thể sống ung dung để tránh né “ngọn lửa” thanh luyện mà Đức Giêsu đề cập tới không ? Nếu Đức Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những lời “dễ nghe”, hẳn Ngài đã trở nên một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Ngài đã chọn cách làm cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối.
 
          Chúng ta sẽ phản bội Tin mừng nếu chúng ta giản lược nó  thành một sứ điệp dịu dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những sự khác nhau giữa người giầu và người nghèo, giữa người có quyền và người cùng khổ, giữa người tốt và người xấu.  Một Tin mừng nhạt nhẽo như thế không thể nào thành men làm dậy bột thế gian.
 
          Có một xu huớng “thuần hóa” Tin mừng, giản lược nó thành những lời hay ý đẹp và những kinh nghiệm an tòan dễ chịu. Khi điều ấy xẩy ra thì lửa tàn lụi, men mất hết sức mạnh, muối mất hết vị, ánh sáng trở nên mù mờ. Nếu chúng ta sống như vậy, e rằng đến ngày sau hết Đức Giêsu sẽ đem “ngọn lửa phán xét” từ trờ xuống mà phán rằng :”Ngày ông Lót ra khỏi Sôđôma, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng sẽ xẩy ra như thế, ngày Con Người được mạc khải”(Lc 17,29). Hãy làm cho ngọn lửa nhiệt tình bùng cháy lên như thánh Phanxicô Assisi đã làm. Ngài đã dám lột bỏ hết mọi sự giầu sang nhung lụa, trả lại cho người cha trần thế, để chỉ chú tâm kiếm tìm các giá trị thiêng liêng nơi người Cha trên trời.
 
Truyện : Ozanam, ngọn lửa nhiệt tình.
 
          Năm 1843, thành phố Paris đang bị xáo trộn, Đạo Công giáo bị đe dọa, các cơ sở tôn giáo bị phá phách. Tại Lyon, bọn thợ thuyền cũng kéo cờ đỏ, hát những bài phạm đến Chúa và phản đạo. Năm ấy Ozanam học luật tại Paris. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc bác ái để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc âm, rước lễ. Cậu thụ giáo với giáo sư Ampère về học thức và đạo đức. Và cậu mạnh bạo bênh vực Giáo hội. Với Ozanam các sinh viên, trước đây rụt rè lo sợ, bây giờ mạnh bạo. Các giáo sư đại học cũng phải kiêng nể Công giáo. Cậu tổ chức các buổi diễn thuyết làm sống lại Đạo Công giáo. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn giúp đỡ các người nghèo khổ. Hồi 18 tuổi, cậu đã thề :”Nhất định hy sinh đến thí mạng cho dân nghèo”. Đồng thời với Ozanam, Montalembert tranh đấu cho tự do giáo dục của Giáo hội, tại nghị trường. Dù là giáo sư đại học, Oznam vẫn hàng tuần đi các khu nghèo khó để dạy giáo lý cho những người công nhân nghèo khổ.
 
          Ngày nay Giáo hội cũng cần nhiều tâm hồn có lửa nhiệt tình như Ozanam.



Chúa nhật 19 thường niên C
HÃY TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          “Tỉnh thức” là hệ luận cần rút ra khi được Lời Chúa tuần trước dạy rằng mọi sự ở trần gian này đều là phù vân, tạm bợ, chỉ là những phương tiện để con người kiến tạo cho mình cuộc sống đời đời.  Ai cũng phải công nhận, cuộc sống của con người thật bấp bênh. Nhiều thi sĩ Việt nam đã diễn tả tư tưởng ấy trong thơ văn, như “Ôâi nhân sinh là thế ấy ! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” (Nguyễn Khuyến).  Cho nên Lời Chúa hôm nay thúc bách chúng ta đừng coi thường chân lý nền tảng này : “Hãy tỉnh thức ! Hãy sẵn sàng”.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca đã thu góp lại một số dụ ngôn của Đức Giêsu nói về việc phải “Tỉnh thức”. Đức Giêsu lòan báo cho các môn đệ biết : Ngài sẽ trở lại trong ngày Quang lâm. Hãy chờ đợi ngày đó. Đồng thời Ngài cũng sẽ đến với từng người khi gọi họ ra đi khỏi đời này, và ngày đó còn được giữ bí mật, nhưng chắc chắn phải đến.  Ngày con người phải ra đi khỏi đời này là một bất ngờ như việc kẻ trộm đến lúc chủ nhà đang ngủ say. Ai cũng phải chịu nhận sự bất ngờ ấy, vì như người ta thường nói :”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.
 
          Đáp lại lời Chúa gọi trong Tin mừng hôm nay, mỗi người chúng ta phải có thái độ nào ? Chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày sau hết của đời mình vào một thời gian nào không ai biết, nhưng có một điều quan trọng là chúng ta phảiû “thắt lưng và cầm đèn cháy sáng trong tay” khi Chúa đến. Tỉnh thức và sẵn sàng ở đây phải có tính cách tích cực, nghĩa là  không phải cứ ngồi đấy mà chờ hay không ngủ, hoặc ăn không ngồi rồi, nhưng tỉnh thức ở đây là tư thế của một người đang làm việc với ý thức rằng mình đang đợi Chúa đến. Phúc cho chúng ta, nếu Chúa đến trong lúc chúng ta đang làm việc thì Chúa sẽ thưởng công bội hậu như ông chủ đặt đứa đầy tớ trung thành vào bàn ăn và hầu hạ nó.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Kn 18, 6-9.
 
          Sách Khôn ngoan được viết vào thế kỷ I trước công nguyên. Có lẽ tác giả viết sách này trong lúc dân Do thái ở bên Ai cập đang cử hành lễ Vượt Qua trong cảnh lưu đầy. Theo yêu cầu của những người Do thái di tản (diaspora), tác giả nhắc lại cho họ một biến cố vĩ đại, đó là việc Thiên Chúa giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ Ai cập và chọn họ làm dân riêng. Đây là một kỷ niệm sâu đậm trong tâm khảm người Do thái.
 
          Trong bài đọc 1 hôm nay, tác giả sách Khôn ngoan khuyên họ hãy sống xứng đáng là con cháu của thế hệ đã xuất hành khỏi Ai cập bằng cách tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa.
 
          +  Bài đọc 2 : Dt 11,1-2. 8-9.
          Đức tin chính là “bảo đảm cho những điều ta hy vọng”, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Đức tin của tổ phụ Abraham là gương mẫu cho chúng ta. Tin là đi trong đêm tối nhưng đầy tin cậy và kiên nhẫn trong chờ đợi.
 
          Do lòng tin vào lời Chúa hứa mà tổ phụ Abraham đã rời bỏ quê hương xứ sở, ra đi mà không cần biết trước sẽ đi tới đâu. Đã có Chúa dẫn dắt. Và cũng do lòng tin, Abraham đã dám tế lễ con mình cho Chúa trong tuổi già của mình mà không nghĩ gì đến lời hứa của Chúa sẽ thực hiện ra sao .
 
          +  Bài Tin mừng : Lc 12,32-48.
 
          Thánh Luca tập hợp ở đây một loạt những yếu tố có gốc gác khác nhau, nhưng chủ đề cũng chỉ là tỉnh thức và sẵn sàng. Ta chú ý đến hai dụ ngôn chính :
 
          a) Dụ ngôn người đầy tớ : Công việc của người đầy tớ là phải sẵn sàng chờ ông chủ đi ăn cưới về, đó là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn” vì không biết giờ nào chủ mới về. Tư thế đó đòi người đầy tớ khi vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ báo hiệu ông chủ về thì phải mau mắn phục vụ ngay. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhạy.
 
          b) Dụ ngôn người quản lý: Thánh Luca muốn dùng từ “Người quản lý” để chỉ những người lãnh đạo. Những người được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đòan phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi Chúa đến, những người đang phục vụ tốt sẽ được trọng thưởng; trái lại, những người lãnh đạo lơ là và biếng nhác trong việc phục vụ sẽ bị trừng phạt. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính của dụ ngôn này là trung thành trong nhiệm vụ được giao phó.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                       Hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
I. ĐIỀU CHÚA MUỐN DẠY HÔM NAY.
 
          1. Phải biết sống siêu thóat.
 
          Đức Giêsu gọi nhóm Mười Hai là “đoàn chiên bé nhỏ” bởi vì các ông chỉ là số ít, lại không có địa vị trong xã hội và sống khó nghèo, như đàn chiên giữa sói rừng, đang khi những kẻ chống đối vừa đông lại vừa mạnh. Đức Giêsu có ý động viện họ can đảm trước những khó khăn đang chờ trước mặt, nên Chúa mới gọi họ bằng một từ ngữ thân thương “Đoàn chiên bé nhỏ”.
 
          Nhân dịp này, Đức Giêsu còn nhắc đến ý tưởng của Chúa nhật tuần trước : Muốn làm môn đệ phải sống siêu thoát, biết chia sẻ cho người khác. Chúa động viên các ông khi đang tích trữ làm giầu vật chất, phải biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa nữa. Hãy sắm cho mình một kho tàng trên trời được tích trữ bằng những việc lành, bằng cách bố thí những gì mình có.
 
Truyện : Cái lợi của tiền bạc.
 
          Một người có ba người bạn. Lúc bình an thì hai người bạn đầu rất là thân thiết, còn người bạn thứ ba  thì giao tình sơ sài lạnh nhạt. Chẳng may, ông ta bị bắt và bị đem ra tòa xử tội. Ôâng liền xin ba người bạn đi theo để biện hộ cho mình. Nhưng người thứ nhất từ chối viện cớ bận việc không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến tòa án, nhưng không dám vào trong. Chỉ có người bạn thứ ba, mặc dầu không được ông ta quí lắm, lại tỏ ra trung tín và can đảm, vào tận tòa án, hăng hái biện hộ cho ông ta đến nỗi không những trắng án mà còn được ân thưởng nữa.
 
          Câu chuyện giúp chúng ta nhận ra rằng : người bạn thứ nhất của con người là tiền vì lúc còn sống ai cũng o bế nó, nhưng khi ta chết, nó liền bỏ rơi ta ngay và nếu nó có thương hại ta thì cũng chỉ buộc lòng  bố thí cho ta một chiếc quan tài và dăm ba cây nến, bó hoa là cùng. Còn người bạn thứ hai của con người chính là người thân trong gia đình vì khi chết đi  dù họ có thương ta bao nhiêu đi nữa thì cũng khóc lóc đôi ba lần, rồi đưa ta ra nghĩa địa chôn cất xong xuôi và lặng lẽ ra về. Riêng người bạn thứ ba của con người là các việc lành phúc đức, bố thí, vì tuy rằng lúc còn sống ta hay lơ là, khinh thường nó, đôi khi ta mắng xử tệ với nó, nhưng khi ta chết nó cương quyết theo ta đến tận tòa phán xét để bênh vực, và cuối cùng hộ tống ta vào nước thiên đàng .
 
          Theo như câu chuyện trên H. Cousin bình luận :”Cho người nghèo của cải mình có (dù là tất cả hay chỉ một phần nhỏ để chia sẻ), chính là làm giầu trước mặt Chúa, là xây dựng cho mình một kho tàng vô tận nơi Chúa; tóm lại, là bảo đảm cho mình một phần thưởng đời đời. Tuy nhiên, đó không phải là phần thưởng cuối cùng, nhưng biến cố Nước Chúa đến phải động viên các Kitô hữu và giúp họ dấn thân với tất cả tâm hồn, đó chính là giá trị duy nhất”.
 
          2. Phải biết tỉnh thức.
 
          Để diễn tả sự gắn bó với Nước Trời, Đức Giêsu đã lần lượt dùng những dụ ngôn diễn tả bằng sự tỉnh thức dọn mình chết lành. Về hai dụ ngôn này, Mathhêu chỉ kể lại dụ ngôn “Ông chủ tỉnh thức” (Mt 24,43-44), Marcô chỉ lấy dụ ngôn “Đầy tớ tỉnh thức (Mc 13,33-35), còn ở đây Luca kể cả hai. Kiểu nói “Hãy thắt lưng, Hãy cầm đèn trong tay” được dùng để diễn tả tư thế đang làm việc, đang tỉnh thức. Ở đây diễn tả hành vi sẵn sàng, trong tư thế dọn mình để chờ đợi Chúa đến trong giờ chết.
 
          Dụ ngôn kẻ trộm cũng diễn tả yếu tố bất ngờ,  kẻ trộm chỉ có thể hành động được khi chủ nhà ngủ say, không đề phòng. Giờ chết đến cũng bất ngờ như kẻ trộm, cho nên hãy đề phòng, hãy tỉnh thức.
 
          Vậy tỉnh thức là gì ?
 
          Tỉnh thức và sẵn sàng có thể hóan đổi cho nhau : Tỉnh thức là đang ở trong tư thế sẵn sàng và sẵn sàng cũng là lúc đang tỉnh thức, đó là lúc con người đang chuẩn bị trong mọi lúc. Được chuẩn bị không có nghĩa là hoàn thành hết mọi việc mà người ta muốn hoàn thành. Nó có nghĩa là phải sống trung thực với trách nhiệm của mình trong giây phút hiện tại.
 
          Tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ mà là ngủ trong thức tỉnh. Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm như thường trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại ngủ mê trong những đòi hỏi của Tin mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa, nhưng là để Lời Chúa chi phối đời mình.
 
          Hay nói cách khác, tỉnh thức của chúng ta  là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ. Đây chính là ý nghĩa đích thực  mà Đức Giêsu nói đến trong bài Tin mừng hôm nay.
 
          3. Phải biết trung thành.
 
          Trong huấn dụ về sự tỉnh thức, Chúa đã dạy chúng ta trong Tin mừng :”Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, hãy làm như người đợi ông chủ đi ăn cưới về, để khi chủ gõ cửa thì mở ngay cho chủ”. Nhiệm vụ của người đầy tớ  phải đứng chờ ông chủ về là nhiệm vụ chính yếu, người đầy tớ phải hết sức cẩn thận, không được lơ là trong một giây phút. Do đó, Chúa cũng dạy chúng ta phải trung thành trong những việc đã được trao phó, việc lớn hay việc nhỏ không quan trọng, việc quan trọng là làm tròn trách nhiệm trong ý thức, làm nhiệt tình và thực lòng chứ không vì miễn cưỡng. Việc ông chủ có hiện diện ở đấy hay không cũng không quan trọng mà cái quan trọng là lúc nào cũng làm việc một cách đầy đủ như ông chủ đang có mặt.
 
Truyện : Vườn hoa xinh đẹp.
 
          Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ mầu sắc. Nằm giữa vườn là một vườn hoa tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp mầu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
          Du khách hỏi :
          - Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi ?
          - Khoảng 40 năm rồi.
          - Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà ?
          - Ông ta không có ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi.
          - Ôâng có thư từ gì với cụ không ?
          - Không, ông ta bận lắm.
          - Ôâng ta không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ ?
          - Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta  để chi phí mọi sự cho khu vườn này.
          - Thế tội gì ông phải săn sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu ?
          - Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông chủ về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp  do chính tay mình làm nên.
 
II. ĐÁP LẠI LỜI CHÚA DẠY.
 
          1. Hãy dọn mình chết lành.
 
          Đức Giêsu gợi ý để chúng ta quan niệm cuộc đời mình như một cuộc hẹn gặp của tình yêu : Hãy chuẩn bị lòng mình cho một người đang đến. Thiên Chúa đang đến. Đức Giêsu đã loan báo Ngài sẽ trở lại trong ngày sau hết, trong ngày Quang lâm : Maranatha : Xin Chúa hãy đến. Đối với mỗi người, cái chết không thể tránh khỏi có thể được coi như cuộc gặp gỡ “mặt đối mặt” với Đấng Chí Aùi.
 
          Sự sống con người thật bấp bênh, có thể kết thúc bất cứ lúc nào. Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chỉ dẫn cho hành khách  phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người ta cũng chưa dám chắc là sẽ an toàn 100%, do đó, phải chuẩn bị đối phó với việc bất ngờ.
 
          Chẳng ai biết Chúa hẹn mình đâu, trong biến cố nào, nhưng chắc chắn cuộc hẹn phải có. Chẳng ai biết giờ chết của mình lúc nào, nhưng chắc chắn giờ ấy sẽ đến. Chỉ sợ chúng ta có ảo tưởng hết sức nguy hiểm này  là mình vẫn còn thời gian. Cái ngày kinh hoàng nhất của một đời người là mình tưởng còn “ngày mai” để chuẩn bị, nhưng lại phải đối diện với một thực tế rất đỗi phũ phàng “ngày mai” ấy không bao giờ đến. Người ta có ai ngờ rằng với hai quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki bên Nhật hồi tháng 8 năm 1945 đã tiêu diệt một lúc 147.000 nhân mạng trong giây lát ?
 
Truyện : Thiệt hại trong thế chiến II.
 
          Theo đài phát thanh Tòa thánh ngày 1.9.1951 dựa vào bản thống kê của Liên hiệp quốc trong đệ nhị thế chiến, số người chết như sau :
          - 32 triệu người chết trong các mặt trận.
          - 25 triệu người chết trong các trại giam.
          - 15 đến 25 triệu thanh thiếu niên, người già trẻ nít chết vì bom đạn.
          - 25 triệu người mất hết tài sản.
          - 45 triệu người phải di tản hoặc lánh nạn hoặc đi đầy.
          Tất cả những người chết đó có tưởng mình sẽ chết không ? Nếu tài sản chúng ta mất quá dễ dàng như vậy thì hãy tìm bám vào  những cái bền vững hơn.
 
          Không ai muốn chết, ai cũng muốn sống mãi, nhưng thực tế không cho phép. Kẻ trước người sau mỗi người sẽ phải ra đi khỏi cõi đời này như kinh nghiệm của Văn Thiên Trường ngày xưa đã nói :”Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”: con người từ xưa đến nay ai mà không chết, phải cố mà giữ lấy tấm lòng thanh.
 
          Ngày xưa, có một người pha trò trong cung đình. Trong nhiều năm liền đã giúp việc mua vui cho nhà vua và triều đình. Nhưng rồi ông đã phạm phải  một hành động thiếu suy xét và bị kết tội chết. Trước khi bản án được thi hành, nhà vua gọi ông ta đến và nói :”Vì nhiều lần ngươi đã đem lại cho trẫm những giờ phút vui vẻ trong bao năm qua, nên trẫm sẽ ban cho ngươi được chọn cách mà ngươi phải chết”.
          Người pha trò suy nghĩ một lúc rồi đáp :”Thưa Hoàng thượng, ngài thật là chí lý, kẻ tôi tớ này xin chọn cách chết bởi tuổi già”
          Nhà vua thấy rất vui vì lời đáp ấy đến nỗi ngài đã chiếu cố đến lời cầu xin của ông ta.
          Phần lớn chúng ta đều muốn chọn lựa như thế. Nhưng chúng ta không biết  liệu chúng ta có được hay không.
 
          2. Phải tỉnh thức thế nào ?
 
          Thái độ cơ bản của người Kitô hữu là tỉnh thức. Người Kitô hữu phải tỉnh thức vì biết rằng mỗi khoảnh khắc đều mang một ý nghĩa đối với một giai đọan hoặc cần thiết cho sự trưởng thành, mỗi biến cố đều mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
          Tỉnh thức là tình trạng đang luôn luôn  làm nhiệm vụ. Thi sĩ Tagore nói :”Tôi nằm ngủ và mơ thấy đời sống là một niềm vui. Tôi thức dậy và tôi thấy đời là bổn phận. Tôi hành động và tôi thấy bổn phận là niềm vui”.
 
          Khi ông Dag Hammarskjold bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của chức vụ Tổng thư ký Liên hiệp quốc, ông đã đọc một bài diễn văn cảm tạ. Trong bài diễn văn ấy, ông trích dẫn câu thơ của một thi sĩ Thụy điển:”Phải chăng sẽ đến ngày mà niềm vui sẽ lớn và nỗi buồn phiền sẽ nhỏ”. Và ông nói thêm câu trả lời của riêng ông :”Đến ngày mà chúng ta cảm thấy mình sống với một bổn phận đã hoàn thành và đáng làm, ngày ấy niềm vui sẽ lớn và chúng ta có thể coi  sự buồn phiền là chuyện nhỏ”.
 
          Chúng ta không biết và không đoán được giờ chết của chúng ta vì giờ chết được giấu kín. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng không phải là chúng ta chết lúc nào và như thế nào mà là chúng ta sống như thế nào. Chúng ta có cố gắng sống viên mãn và nhiệt tình và không chờ khi bệnh tật hoặc tai họa mới nhận ra  bản chất bấp bênh của đời sống con người.
 
          Tỉnh thức là biết sống mọi giây phút hiện tại cho đầy đủ, đừng để phí đi một giây phút nào qua đi trong vô ích vì thời giờ là cái vốn mà Chúa ban cho chúng ta  để làm sinh sôi nảy nở ra các việc lành phúc đức. Một tác giả nào đó đã cho chúng ta những lời khuyên chân thành và thực tế về giá trị của những giây phút hiện tại trong cuộc sống trần gian như sau :
 
Để nhận ra giá trị của một năm : Hãy hỏi một học sinh thi rớt cuối năm.
Để nhận ra giá trị của một tháng : Hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.
Để nhận ra giá trị của một tuần : Hãy hỏi người chủ bút của tờ tuần báo.
Để nhận ra giá trị của một ngày :  Hãy hỏi công nhân lao động phải nuôi 10 đứa con.
Để nhận ra giá trị của một giờ :  Hãy hỏi những tình nhân phải chờ đợi nhau.
Để nhận ra giá trị của một phút : Hãy hỏi người vừa trễ chuyến xe lửa, hay xe búyt.
Để nhận giá trị của một giây : Hãy hỏi người vừa thóat khỏi tai nạn.
Để nhận ra giá trị của một sao : Hãy hỏi nhà thể thao Olympic được huy chương bạc.
Và sau cùng để nhận ra giá trị của một đời người : Hãy hỏi, ai sẽ khóc trong buổi tang lễ của bạn (Nguyễn văn Thái).
 
          3. Đã chuẩn bị sẵn sàng chưa ?
 
          Đại tướng Marc Arthur sau đệ nhị thế chiếân, với tư cách của một tướng lãnh già dặn kinh nghiệm trong binh pháp, có nói :”Lịch sử của những thảm bại trong chiến tranh có thể tóm gọn trong hai chữ :”Quá muộn”. Quá muộn vì chưa sẵn sàng. Quá muộn vì chưa chuẩn bị đủ.
 
Có lẽ vị tướng này đã từng nghiền ngẫm câu nói của một danh tướng thời La mã xưa để làm cẩm nang cho việc điều hành chiến tranh :”Si vis pacem, para belluu” : Nếu muốn được bình yên, phải chuẩn bị chiến tranh. 
 
Và thời xưa người Trung quốc cũng đã từng có tư tưởng như vậy :Bình thời luyện vũ, lọan thế độc thư” : Thời bình thì phải lo luyện võ, thời lọan thì phải lo đọc sách.  Nói như vậy là người ta khuyến cáo họ, lúc bình yên thì đừng ngồi không đấy mà hưởng thụ, mà phải luyện võ, phải chuẩn bị chiến tranh, để khi chiến tranh xẩy đến thì đã sẵn sàng, đã chuẩn bị  để đối đầu với mọi tình huống bất trắc có thể xẩy ra.
 
          Đối với giờ chết cũng vậy, đang lúc sống thì phải nghĩ đến lúc chết để đề phòng. Nếu ai đã từng chuẩn bị cho giờ chết thì họ sẽ bình tĩnh trong giờ chết, họ bình tĩnh chờ đợi cho giờ ấy xẩy đến vì họ coi mình như nắm chắc được phần rỗi, vì người ta đã khẳng định rằng :”Sống sao chết vậy”.
 
          Nhưng chúng ta hay có ảo tưởng rằng giờ chết còn xa, chưa cần phải chuẩn bị gấp, họ chưa hiểu được câu ngạn ngữ dân gian :”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, vì thế họ cứ từ từ, chờ đến tuổi già mớùi chuẩn bị. Nhưng ai biết được chữ “ngờ”, ai ngờ được kẻ trộm đến lúc mình không tỉnh thức.
 
          Một nhà văn hào kể một câu truyện giả tưởng. Satan họp đại hội thảo luận phương thức chiếm đọat các linh hồn. Nhiều ý kiến của các cấp quỉ được phát biểu. Nhưng ý kiến được đại hội tán đồng là của một quỉ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này : Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã !
 
          Chúng ta còn trẻ hay đã già, khỏe mạnh hay đau yếu, điều đó không quan trọng, nhưng quan trọng ở chỗ là chúng ta đang sống thế nào ? Đang tỉnh thức hay ngủ mê ? Có biết chu tòan nhiệm vụ được trao phó không ?
 
Truyện : Cứ tiếp tục họp
 
          Một ngày nọ vào năm 1780 bỗng dưng cả vùng tiểu bang Connecticut bị tối hẳn lại. Ai nấy đều cho rằng đã đến ngày tận thế. Khi đó hội đồng lập pháp tiểu bang đang họp. Nhiều người yêu cầu hoãn cuộc họp để họ có thể về nhà cùng với gia đình chờ Chúa đến.  Nhưng ông chủ tịch nói :”Không biết hôm nay có phải là tận thế không : nếu không thì không cần hoãn họp.  Còn nếu phải thì chúng ta càng cần chu tòan nhiệm vụ hơn nữa. Xin thắp nến lên” (Drinkwater).
 
          Ai cũng muốn chết trong sự bình an. Chớ gì những giây phút cuối cùng chuẩn bị đi vào đời sau, ta cảm thấy Chúa ở gần như người mẹ ấp ủ con. Lúc đó ta thưa với Chúa rằng :”In manus tuas , Domine, commendo spritum meum” : Lạy Chúa, con xin phó dâng hồn con trong tay Chúa. Chớ gì tâm hồn ta được bình an, thảnh thơi như đứa con nằm trong tay mẹ hiền để say trong giấc ngủ ngon lành.
 
          Một bà mẹ kể : tối đó, khi tôi đang dọn giường cho đứa con nhỏ, nó thỏ thẻ :”Mẹ ơi, mẹ ở với con khi con ngủ nhé”! Nghĩ đến bao việc nhà chưa làm sau một ngày ở sở, tôi đã tính ra ngoài để nó ngủ một mình. Chợt một ý tưởng nảy ra trong trí, tôi đến nằm bên con, đặt tay con trong tay mình. Và trong lúc đứa con chìm vào giấc mộng, ý tưởng đó biến thành lời nguyện :”Lạy Chúa, xin giúp con sống thế nào để khi bước vào hoàng hôn cuộc đời, con có thể âu yếm nói với Cha trên trời :”Cha ơi, Cha ở với con khi con ngủ nhé” !



CHÚA NHỰT XVIII THƯỜNG NIÊN
Năm C
CHỦ ĐỀ :
CHỚ CẬY VÀO CỦA CẢI VẬT CHẤT
"Những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?"
(Lc 12,20)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : Mọi sự ở đời này đều là hư không
- Tin Mừng : Chúa Giêsu nói "Chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu"
- Bài đọc II : Thánh Phaolô khuyên "Anh em hãy tìm những sự trên trời"
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúng ta đang sống trong nền kinh tế thị trường và trong nền văn minh hưởng thụ. Bởi đó chúng ta bị thu hút bởi tiền bạc của cải. Nhưng của cải vật chất vừa có lợi vừa có hại.
Lời Chúa hôm nay sẽ cho ta thấy rõ mặt phải và mặt trái của tiền bạc của cải. Xin Chúa giúp chúng ta có lập trường đúng đắn đối với của cải vật chất.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Nhiều khi chúng con đã coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa anh em.
- Nhiều khi chúng con đã vì tiền mà lỗi đạo với Chúa.
- Thực tình chúng con cậy dựa vào tiền bạc hơn vào Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Gv 1,2 ; 2,21-23)
Sách Giảng viên gom góp những suy tư khôn ngoan của nhiều thế hệ. Trong đoạn này, có nhiều ý tưởng xem ra bi quan yếm thế nhưng lại rất đúng :
- Có người suốt đời vất vả làm việc để thu tích của cải vật chất nhưng khi chết phải bỏ lại tất cả.
- Ích gì có được nhiều tiền nhưng đêm ngủ không yên vì sợ tiền bị mất.
2. Đáp ca (Tv 94)
Tv này như một lời khuyên tiếp nối những nhận định bi quan của bài đọc I : cách sống khôn ngoan nhất là mỗi ngày hãy lắng nghe tiếng Chúa dạy và cứ sống theo đó.
3. Tin Mừng (Lc 12,13-21)
a. Vấn đề của đoạn Tin Mừng này được gợi lên từ việc anh em tranh dành gia tài.
b. Dụ ngôn nói tới một người phú hộ đã lo tích trữ được rất nhiều của cải và cho rằng từ nay cuộc đời mình sẽ được bảo đảm.
c. Nhận định của Chúa Giêsu về người phú hộ đó : hắn là đồ ngốc vì đã lấy của cải vốn không bền để mà bảo đảm cho cuộc đời mình. Người khôn phải dùng của cải không bền ở đời này mà làm phúc để mua lấy của cải bền vững đời sau. Đó mới là bảo đảm chắc chắn thật sự cho cuộc đời.
4. Bài đọc II (Cl 3,1-5.9-11)
Thánh Phaolô tiếp tục dạy các kitô hữu về cuộc sống mới của họ sau khi chịu phép Rửa :
- Vì họ đang sống một cuộc sống mới nên từ nay hãy có một quan tâm mới : đừng tìm những sự dưới đất mà hãy tìm những sự trên trời.
- Hãy cởi bỏ con người cũ theo xác thịt để mặc lấy con người mới theo hình ảnh Chúa Giêsu Kitô.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Có tiền và xài tiền
Một lão trọc phú keo kiệt kia đã tích lũy được một số tiền rất lớn và đang mơ tới tương lai hạnh phúc đang chờ đón lão. Tuy nhiên trước khi lão kịp vung tiền ra mua lấy hạnh phúc thì thần chết hiện ra đòi bắt hắn xuống âm phủ.
Lão thương lượng : "Xin Thần chết cho tôi sống thêm ba ngày nữa thôi. Tôi sẽ chia cho Ngài một nửa tài sản của tôi". Thần chết không chịu. Lão xuống giá : "Vậy xin cho tôi sống thêm một ngày. Tôi sẽ giao cho Ngài tất cả tài sản". Thần chết vẫn không chịu. Lão nài nỉ "Xin cho tôi một phút thôi, để tôi kịp viết lời trối". Thần chết đồng ý. Lão ngồi xuống, cầm bút viết câu sau đây :
"Gửi người nào gặp được tờ giấy này. Nếu bạn có đủ tiền để sống thì đừng uổng phí cuộc đời để kiếm thêm nhiều tiền nữa làm chi. Hãy lo sống thôi ! Tiền bạc của tôi rất nhiều, nhưng chỉ một giờ để sống tôi cũng chẳng mua được !"
Tiền của không phải để sở hữu mà để hưởng dùng. Nói nôm na, tiền bạc không phải để "có" mà để "xài". Nhiều người rất biết cách "sở hữu" nhưng lại không biết cách "hưởng dùng". Rốt cuộc họ không hạnh phúc bằng một đứa trẻ, sở hữu rất ít nhưng hưởng dùng rất nhiều. Người giàu thật không phải là người có nhiều mà là người hưởng dùng nhiều. Cố gắng để có thật nhiều tiền mà không thể hưởng dùng thì chẳng khác gì một người mù cố gắng thu góp thật nhiều băng Vidéo.
Vấn đề đặt ra là "hưởng dùng" và "xài" tiền như thế nào.
* 2. Nghệ thuật làm giàu
Một ngày nọ, vua Nghiêu đi tuần thú đất Hoa, viên quan địa phương đất ấy ra nghênh đón và chúc vua rằng : "Xin chúc nhà vua sống lâu". Vua Nghiêu nói : "Đừng chúc thế !" Viên quan lại chúc : "Chúc nhà vua giàu có". Vua Nghiêu lại nói : "Đừng chúc thế". Viên quan chúc nữa : "Xin chúc nhà vua đông con trai". Vua Nghiêu lại nói : "Đừng chúc thế". Quan lấy làm lạ mới hỏi nhà vua : "Sống lâu, giàu có, đông con trai, ai cũng thích cả, sao nhà vua chẳng muốn ?" Vua Nghiêu đáp : "Đông con trai thì sợ nhiều. Giàu có thì việc nhiều. Sống lâu thì nhục nhiều. Ba điều ấy không mang lại nhân đức nên ta từ chối".
Viên quan tâu : "Nhà vua nói thế thực là bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra mỗi người phải có một việc Nếu đông con trai, hãy cắt đặt mỗi người một nhiệm vụ thì có lợi chứ có gì mà sợ ? Giàu có mà đem phân phát cho người nghèo thì còn công việc gì mà lo ? Ăn uống có chừng mực, thức ngủ có điều độ, trong lòng thanh thoả, thiên hạ tài giỏi thì vui cái vui của họ, trăm tuổi nhắm mắt về cõi trời. Một đời chẳng gây tai hoạ gì, hỏi có gì là nhục ?"
Đứng trước tiền của, người ta có những thái độ rất khác nhau : Vua Nghiêu vì quá thận trọng chỉ nhìn thấy mặt trái của đồng tiền, nên của cải không sinh ích gì cho ông. Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay lại quá cậy dựa vào tiền của, nên khi thần chết bất ngờ đến thì tiền muôn bạc nén cũng không cứu được linh hồn ông. Duy chỉ có viên quan địa phương là có thái độ đúng mực về tiền bạc : Nếu giàu có thì đem chia sẻ cho người thiếu thốn. Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn loan báo cho chúng ta hôm nay : Hãy dùng của cải đời này mà "làm giàu trước mặt Thiên Chúa" (Lc 12,21). Đó chính là "nghệ thuật làm giàu" đích thực. (TP)
* 3. Túi tham không đáy
Tolstoi kể rằng một người nông dân kia tên là Pakhom rất ham thích có một mảnh đất làm tài sản riêng. Sau một thời gian làm lụng cực nhọc, anh tậu được một mảnh đất 40 mẫu. Anh mừng lắm. Nhưng chẳng bao lâu anh muốn một mảnh đất rộng hơn. Anh lại làm lụng và để dành, bán mảnh đất cũ, cộng thêm tiền để dành, mua được một mảnh đất 80 mẫu. Nhưng anh chưa thoả mãn, muốn tìm một mảnh đất khác rộng hơn nữa. Có người cho anh biết rằng ở vùng bên kia núi có một bộ lạc mà dân chúng sống rất đơn giản, họ có rất nhiều đất, ai muốn mua bao nhiêu cũng được.
Ngay sáng hôm sau, anh nông dân đi sang vùng bên kia núi. Vị tù trưởng bộ lạc nói : "Anh chỉ cần trả 1000 rúp thì có thể sở hữu được một vùng đất mà anh đi được trong một ngày. Nhưng cần nhớ là anh phải trở lại đúng nơi điểm xuất phát cũng trong ngày đó. Nếu về không kịp thì kể như mất tiền vô ích".
Đêm đó người nông dân sung sướng ngủ không được. Vừa rạng sáng hôm sau anh nhờ người đánh dấu điểm xuất phát rồi bắt đầu bước đi. Càng đi anh càng sung sướng vì thấy đất của mình càng rộng thêm. Anh cứ đi và đi mãi quên mất thời gian. Khi thấy mặt trời bắt đầu xuống núi anh mới hốt hoảng quay về. Nhưng vì anh đã đi quá xa sợ về không kịp nên anh cắm đầu chạy. Đến điểm mốc, anh ngã gục xuống.
Vị tù trưởng đến chúc mừng : "Xin chia vui với anh. Từ trước tới nay tôi chưa gặp được người nào đi xa được như anh. Anh hãy nhận phần đất của anh". Nhưng người nông dân không đứng dậy được nữa để nhận lấy tài sản của mình, vì anh đã chết !
Có được một số tiền bạc của cải để sống là điều cần thiết. Vì thế trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu không phê phán việc chúng ta tìm cái ta cần, mà phê phán lòng tham hơn mức ta cần (tiếng anh : not about need but about greed). Nếu người nông dân trong chuyện trên biết dừng lại khi đã có 40 mẫu đất anh cần thì anh đã sống hạnh phúc, nhưng anh đã chết vì anh cứ mãi mê chạy theo lòng tham của mình. Lòng tham giống như ngọn lửa : ta càng thoả mãn nó bằng cách chất thêm củi vào thì lửa càng bùng to lên và càng đòi nhiều củi thêm. Chứng bệnh trầm trọng nhất của con người trong nền kinh tế thị trường và văn minh hưởng thụ này là con người không biết khi nào mình đủ. Có của không phải là tội, nhưng tham của thì thành tội.
Hãy xem những con chim. Khi chúng xây dựng tổ ấm, chúng chỉ tìm vài nhánh cây đủ cho cái tổ ấy rồi thôi. Hãy xem những con nai. Khi chúng khát, chúng chỉ uống vừa đủ rồi thôi. Sao chúng ta không đơn giản như những con chim và những con nai kia !
* 4. Gia tài để lại cho con cái
Có thể chúng ta cố gắng kiếm tiền không phải để cho mình hưởng, nhưng để làm gia tài trối lại cho con cái.
Xin hãy nghe câu chuyện sau đây :
Người kia làm việc trong một công ty đang phát triển mạnh, lương anh khá cao cho nên gia đình rất hạnh phúc. Anh có một ngôi nhà xinh xắn, một người vợ hiền và mấy đứa con ngoan.
Nhưng anh tự nghĩ : mình còn trẻ, sức lực còn nhiều. Mà công ty hiện không thiếu việc. Thế là anh làm thêm giờ phụ trội. Thu nhập càng cao hơn. Anh lại nghĩ : nếu mình phấn đấu để lên chức thì sẽ được tăng lương nữa. Và anh phấn đấu, và quả thực anh lên chức.
Cho đến một hôm đi khám bệnh, anh được biết mình đã mắc phải một chứng bệnh nguy hiểm và đã tới giai đoạn cuối cùng. Nghĩa là anh không sống được bao lâu nữa. Lúc sắp rời bỏ vợ con ấy, anh mới biết rằng xưa nay anh chẳng hiểu vợ con bao nhiêu, và con cái anh cũng chẳng hiểu anh bao nhiêu. Và anh chết, để lại cho con cái một gia tài lớn. Đối với người khác, anh là một con người thành đạt. Nhưng đối với vợ con thì anh là một con người thất bại. Vợ con anh hưởng gia tài của anh mà chẳng nghĩ tới anh bao nhiêu : bấy lâu nay họ sống không có anh, sau này họ cũng tiếp tục sống không cần anh.
Bởi vậy trong bài Tin Mừng này Chúa Giêsu đã không quan tâm đến gia tài. Khi một người đến nhờ Ngài phân xử việc tranh chấp gia tài. Ngài đã không xử, lại còn cảnh cáo "Các ngươi hãy coi chừng giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".
* 4. Tiền bạc
Người ta nói trên đời quan trọng nhất là 2 chữ T : tình và tiền. Hôm nay chúng ta có dịp bàn đến chữ T thứ 2, Tiền. Tiền bàn ở đây không phải chỉ là những tờ giấy bạc, mà còn bao gồm tất cả những gì là của cải tài sản vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, máy móc vv…
Cách chung thì ai ai cũng cần tiền và cũng ham tiền hết. Không có tiền thì đói rách, con cái nheo nhóc, mặc cảm với bạn bè… Còn nếu có tiền thì ta ăn ngon mặc đẹp, con cái được giáo dục tử tế, bạn bè xã hội trọng nó… Tóm lại câu nói "có tiền mua tiên cũng được" có thể là câu nói diễn tả quan niệm chung của nhiều người.
Nhưng hình như đó lại không phải là quan niệm của Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay.
- bài đọc 1 trích từ sách Giảng viên thì coi tiền bạc là thứ phù hoa "Phù hoa nối tiếp phù hoa trần gian tất cả chỉ là phù hoa"
- bài đọc trích từ thư thánh Phaolô gởi tín hữu thành Colossê thì kêu gọi "Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất".
- Còn bài Tin Mừng thì mô tả một người phú hộ hả hê với những của cải chất đầy từ kho này tới kho khác, nhưng bị Chúa trách "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay Ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của cải ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai ?", và Chúa Giêsu kết luận : Kẻ nào tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy.
Phải chăng Chúa không muốn cho ta có tiền ? Phải chăng Chúa muốn người có đạo phải nghèo ? Phải chăng Chúa khuyên chúng ta phải chạy trốn tiền bạc ? Thưa không, không bao giờ, bởi vì những của cải vật chất trên đời này do đâu mà có ? Do chính Chúa tạo dựng nên, và Chúa tạo dựng nên chúng là để cho con người hưởng dùng. Cho nên không những Chúa không muốn con người phải đói khổ, mà Chúa còn muốn sao cho con người được đầy dư của cải. Hãy nghe một lời chúc phúc của Chúa ghi trong Tv 71
Khắp xứ sở đầy dư gạo thóc
Đỉnh non cao gợn sóng lúa vàng
Và trong Tv 64 :
Thăm trái đất mưa nhuần Chúa rải.
Cho tràn trề của cải sinh ra…
Vùng hoang địa cỏ hoa đua nở
Cảnh núi đồi hớn hở xinh tươi.
Chiên bò gặm cỏ đồng xanh.
Nương vàng sóng lúa lượn quanh dạt dào.
Câu hò tiếng hát trổi cao…
Rõ ràng là Chúa muốn con người sung túc vật chất. Nhưng Chúa cũng biết tiền bạc vật chất vì có khả năng đem lại cho con người rất nhiều tiện nghi sung sướng nên cũng có thể khiến con người chỉ say mê nó mà quên hết mọi giá trị khác. Bởi đó Chúa mới nói "Kẻ giàu có vào nước Thiên Chúa thật là khó, còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim". Nhưng, tuy có khó thật chứ cũng có những người giàu có được vào nước Thiên đàng : trong Tin Mừng ta thấy Chúa cũng đề cao những người giàu có, chẳng hạn như ông Giakêu, tuy giàu nhưng biết sử dụng tiền bạc mình để làm những việc nghĩa.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay không đề cao tiền bạc mà cũng không khinh rẻ chúng. Chúa chỉ muốn chúng ta lưu ý hai điều : một là nhận định đúng giá trị của tiền bạc và hai là sử dụng đúng những tiền bạc mà Chúa đã ban.
Bây giờ chúng ta hãy nhận định giá trị của tiền bạc :
- tiền bạc là một yếu tố quan trọng làm cho đời ta được sung sướng
- nhưng nó cũng là một con dao hai lưỡi, nghĩa là nó vừa có thể giúp ta sống tốt hơn "Phú quý sinh lễ nghĩa", mà cũng có thể làm ta thành xấu đi, xấu đi vì tham lam, xấu đi vì gian lận, xấu đi vì lòn cúi…
- vả lại tiền bạc không được bền vững : thiếu gì người hôm nay đang giàu sụ, thế mà ngày mai đã trở thành tay trắng.
- và nhất là khi chết ta không thể mang tiền bạc theo được.
Sau khi đã nhận định đúng giá trị của tiền bạc, chúng ta hãy lắng nghe Chúa dạy phải xử dụng tiền bạc như thế nào : Hãy dùng tiền bạc đời này để làm giàu cho đời sau.
5. Chuyện minh họa
a/ Ba người bạn
Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đàng. (Trích "Phúc")
b/ Những thứ tiền không mua được
   George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết : "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn."
   Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được :
   Tiền không mua được tình bạn chân thực.
   Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
   Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ.
c/ Đổi tiền
   Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có : cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
6. Mảnh suy tư
Một buổi tối, tôi thả bước lang thang
Tôi đi từ những khu phố lấp lánh ánh đèn
Bước chân dần dần đưa tôi đến vùng ngoại ô vắng vẻ
Ở đấy tôi thấy ngàn vạn ánh sao còn rực rỡ gấp bội.
Và tôi chợt hiểu ra rằng những ngọn đèn trần thế dễ che lấp những ngọn đèn trời đến mức nào.
Và tôi cầu nguyện : Lại Chúa xin cho những hào nhoáng của đời này đừng bao giờ làm cho con mù lòa không còn thấy ánh vinh quang Nước Trời.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, chia cơm sẻ áo cho những người nghèo khổ là cách làm giàu tốt nhất trước mặt Thiên Chúa. Với ước moong sống trọn vẹn tinh thần bác ái của Tin mừng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1. Hội thánh luôn quan tâm giúp đỡ bất cứ ai đang gặp đau khổ / bệnh tật / nghèo đói / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công cuộc từ thiện của Hội thánh / xoa dịu được phần nào đau khổ của nhân loại.
2. Tiền bạc của cải không đem lại hạnh phúc thật sự cho con người / trái lại làm nhiều người trở nên hư hỏng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết sử dụng đúng đắn tiền bạc có được / do lao động lương thiện của mình.
3. Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết sống tinh thần nghèo khó của Tin mừng.
4. Giúp đỡ những ai đang gặp khó khăn là bổn phận của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thật tình chia sẻ cơm áo cho những ai đói nghèo.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khôn ngoan tích trữ kho tàng trên trời bằng những việc lành phúc đức của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trịmuôn đời.





TUẦN 16

1. Phục vụ

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những thái độ của Macta và Maria. Trước hết là thái độ bận rộn và lắng nghe.

Thái độ của Macta là thái độ bận rộn, vồn vã để tiếp đãi Chúa Giêsu cho thật thịnh soạn, chứng tỏ một tấm lòng hiếu khách. Còn Maria thì lại biểu lộ cũng tâm tình ấy bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà lắng nghe lời Người. Hai thái độ, nhưng cùng chung một tâm tình, cùng chung một đối tượng. Chỉ có điều là Chúa Giêsu đã từng coi những mối bận rộn là như một bụi gai làm nghẹt sức sống của Lời Chúa, hay có thể biến thành một ông chủ thống trị trong trái tim con người, chống lại chính Thiên Chúa tình thương, hoặc tệ hơn nữa là làm cho lòng con người ra nặng nề, đến độ không còn nhạy bén để đón chớ Chúa đến.

Trong khi Lời Chúa mà Maria đã chọn để lắng nghe là một ưu tiên tuyệt đối. Được coi là mẹ và anh em thật của Chúa Giêsu chính là những ai nghe và tuân giữ Lời Chúa. Khi quá bận rộn vì vừa phải lo phục vụ vật chất, lại vừa phải rao giảng trong cộng đoàn, các tông đồ đã ưu tiên chọn việc rao giảng Lời Chúa.

Tiếp đến là ý mình và ý khách. Macta đón tiếp Chúa Giêsu là để thiết đãi Người theo sở thích của cô, như một bà chủ nhà có dịp trổ tài nội trợ và bày tỏ tấm lòng hiếu khách, mà chả cần hiểu khách đang mong đợi điều gì. Trong thâm tâm của bà chủ nhà đó, niềm vui không phải là vì người khách, nhưng là vì tự mãn, tự thấy mình tài khéo và đức độ.

Điểm khác biệt còn rõ nét hơn nữa trong thái độ của Macta so sánh với tinh thần của Chúa Giêsu, và đã bắt Người phải can thiệp, chính là vì cô đã đánh giá, và đã lên tiếng phiền trách Maria và cả Chúa Giêsu sao lại không thấy việc cô làm mới là đúng, mới là quan trọng. Cô như muốn nói với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, Thầy không thấy rằng em tôi để mặc tôi một mình lo phục vụ là sai quấy hay sao? Xin Thầy bảo nó giúp tôi với.

Thực ra vẫn có những cách tiếp đón làm cho chúng ta không còn gặp gỡ được Chúa Giêsu và tha nhân. Chẳng hạn Giáo Hội Do Thái thời đó với những chuyên viên về tôn giáo, với những tín đồ sùng mộ, lại đang thiết tha mong đợi Đấng Cứu Thế, nhưng họ đã không gặp được Người suốt hơn ba mươi năm trời Người sống giữa họ. Chẳng hạn hai môn đệ trên đường về Emmaus đã cùng đi với Người cả một ngày đàng mà vẫn không gặp gỡ được con người thật của Người. Phải chăng vì trong những trường hợp đó, mặc dù hình ảnh Chúa đang chiếm ngự tâm hồn họ, nhưng lại là hình ảnh do họ tư vẽ ra theo những ước vọng của bản thân họ mà thôi.

Điều kiện và quy luật cho mọi cuộc gặp gỡ đích thực với Thiên Chúa, đó là phải từ bỏ chính bản thân mình, để ngồi dưới chân Chúa, và lắng nghe Lời Người như Maria ngày xưa. [Mục Lục]

2. Phần tuyệt hảo

Có một thời người ta đã dựa vào đoạn Tin Mừng này để đề cao đời sống chiêm niệm, như là phần tối hảo mà Maria đã khôn ngoan giành lấy cho mình. Còn đời sống bôn chôn hoạt động của Martha là phần ít giá trị hơn. Thực ra Chúa Giêsu không thể bênh vực cho thứ chiêm niệm lười lĩnh cũng như thứ hành động múa may. Điều Ngài đòi hỏi là lắng nghe và thực thi lời Chúa.

Ngày kia, có lẽ bất ngờ, Chúa Giêsu đến thăm viếng gia đình ba chị em Martha, Maria và Lagiarô. Đối với người Do Thái, thì được tiếp đón một người khách đến thăm là một ơn huệ Chúa ban và cũng là dịp để tưởng niệm cuộc xuất hành của dân Chúa trên đường tiến tới miền đất Hứa. Việc đón tiếp khách được tổ chức một cách tỉ mỉ và ân cần. Khách vào nhà được rửa chân vì đi đường bụi bậm. Thường thì người nhỏ nhất trong nhà có phận sự rửa chân cho khách.

Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta có một vài dấu hiệu cho biết Maria là người được phân công rửa chân cho khách. Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu và xem ra Maria cũng đóng vai trò tiếp chuyện khách. Bà ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài. Trong khi đó Martha nắm giữ địa vị của một người nội trợ bận rộn với công việc bếp núc. Bà muốn cho việc tiếp đón phải thật chu đáo. Nhưng Chúa Giêsu thì lại nghĩ khác. Việc đón tiếp chu đáo và đúng nghĩa nhất đối với Ngài là đón nghe lời Ngài. Còn tất cả chỉ là phụ thuộc. Martha đã bị Chúa quở trách vì bà đã quá chú trọng vào những cái phụ thuộc, để mình chìm nghỉm trong mọi thứ công việc khiến không còn thời giờ và sức lực để nghe và đón nhận lời Ngài. Người khách như Chúa Giêsu đến với gia đình Bêtania, hẳn không phải là để được hạ, tiếp rước, mà là để ban phát, để thiết tiệc lời hằng sống. Do đó ưu tiên số một không phải là việc cho Ngài ăn gì, uống gì mà là lắng nghe lời Ngài vì của ăn đích thực của Ngài là rao giảng Tin Mừng Nước Trời.

Chúng ta còn nhớ một lần kia bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã xác quyết: Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta. Và ý của Đấng đã sai Ngài chính là việc rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Vì thế, những ai muốn theo Ngài, cũng phải lắng nghe và thực hiện những lời Ngài truyền dạy.

Vào một dịp lễ trọng như lễ Chúa Giêsu chẳng hạn, cả giáo xứ để hết tâm trí vào việc dọn dẹp và trang trí nhà thờ, làm hang đá, treo đèn kết hoa, khiến cho không còn thời giờ, không còn lòng trí để tìm hiểu và đào sâu ý nghĩa của việc Con Thiên Chúa làm người. Giáo xứ ấy đã đi theo vết chân của Martha và bỏ mất phần tối hảo.

Bởi đó chúng ta đã kiểm điểm đời sống xem chúng ta đã thực sự đầu tư một cách đầy đủ cho điều chính yếu, là lắng nghe và thực thi lời Chúa, hay vẫn còn đang lẩn quẩn ở những vòng ngoài, ở những cái phụ thuộc. [Mục Lục]

3. Chọn phần tốt nhất – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:

– Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:

– Thưa thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin!

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:

– Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?

Chàng sinh viên liền hỏi:

– Thưa thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy xúc cảm, ông trả lời:

– Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!

Chúa phán: “Marta, Marta! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. Phần tốt nhất ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa.

Nhà bác học đại tài Ampère, với công việc nghiên cứu của ông về điện tử học, về nam châm điện đã đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh của nhân loại. Thế nhưng, ông không cho đó là vĩ đại, mà ông nói: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi”.

Mẹ Têrêxa Calcutta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Calcutta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào “nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì cầu nguyện trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ. Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cho dù là hoạt động truyền giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng ngày theo bổn phận, chúng ta cũng đừng quên “chọn phần tốt nhất” này. Hãy nhớ lời Chúa: “Không có Ta, chúng con không làm gì được”.

Các triết gia Phương Tây có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia Phương Đông trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là: “Cầu nguyện và hoạt động”, Marta phải đi đôi với Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. P.Graef có một câu nói rất thâm thúy: “Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”. Tuy nhiên, có một cám dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi chúng ta tưởng mình phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình. Nhìn Marta lăng xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để được tiếng khen, để gây chú ý: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Chúng ta mời gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình. Đôi khi chúng ta cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để cá nhân mình sớm được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng ta không chấp nhận thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ của mình. Chúng ta hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi tìm chính mình! [Mục Lục]

4. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

PHỤC VỤ TRONG TRẬT TỰ

Thoạt nghe bài Tin mừng hôm nay, có người đã trách móc: Sao Chúa quá mâu thuẫn. Mới tuần trước, Chúa kể truyện người xứ Samaria nhân hậu để dạy phải phục vụ. Vậy mà hôm nay, Chúa lại trách móc, tuy có nhẹ nhàng, nhưng vẫn đau đau, bà Martha đã lăng xăng phục vụ đón tiếp Chúa. Tại sao thế?

Nếu đọc kỹ bài tường thuật hôm nay cũng như toàn bộ Tin mừng, ta sẽ thấy phục vụ tuy được Chúa đề cao, nhưng vẫn phải nằm trong một trật tự toàn bộ của đời sống đạo.

Trật tự thứ nhất: Phục vụ phải biết quên mình.

Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến khoe khoang tự mãn. Ta hãy nhớ lại chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện. Ông Biệt phái đứng giữa đền thờ, lớn tiếng kể công: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,12). Thái độ khoe mình của ông không được Thiên Chúa chấp nhận vì ông phục vụ mà không biết quên mình.

Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến ganh ghét, dòm ngó, lườm nguýt, loại trừ người khác. Về điểm này, Đức cha Bùi Tuần có đưa ra một hình ảnh rất ý nhị. Trên bàn thờ có ngọn nến và bông hoa. Cả hai cùng phục vụ bàn thờ. Nhưng nếu ngọn nến đốt cháy bông hoa thì thật đau lòng. Phục vụ mà không quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau. Điều Chúa muốn là phục vụ quên mình. Phục vụ quên mình là phục vụ kín đáo: “Tay trái không biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Phục vụ quên mình chỉ cố ý làm vui lòng Chúa chứ không so sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục vụ quên mình sẽ rất khiêm tốn. “Sau khi đã làm tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).

Trật tự thứ hai: Phục vụ phải biết lắng nghe.

Trước hết phải biết lắng nghe lòng mình xem có đức bác ái không. Nếu không có đức bác ái thì mọi việc phục vụ dù có lớn lao cũng trở thành vô ích như lời thánh Phao-lô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái, cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3).

Thứ đến phải biết lắng nghe đối tượng phục vụ. Một phục vụ tốt phải đúng lúc, đúng nơi, đúng cách, đúng nhu cầu. Nhưng trên hết phục vụ phải biết lắng nghe Lời Chúa. Việc phục vụ của ta chỉ tốt và có ý nghĩa khi ta làm đúng ý Chúa muốn. Muốn biết ý Chúa, phải lắng nghe tiếng Chúa trong Tin mừng, qua cầu nguyện và tiếp xúc tâm sự với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Lời Chúa là đèn soi bước chân ta, là ánh sáng hướng dẫn ta trong mọi hoạt động. Lắng nghe Lời Chúa làm cho hoạt động được vững vàng. Đó là xây nhà trên đá (cf. Lc 6, 47).

Trật tự cuối cùng: Phục vụ phải biết nghỉ ngơi.

Cuộc sống văn minh hiện đại ngày càng cuốn con người vào cơn lốc hoạt động đến ngộp thở. Người ta không còn thời giờ cho gia đình, cho bạn bè, và nhất là cho đời sống tâm linh. Tại các nước phương Tây, con người đang biến thành những cỗ máy làm việc, làm việc không ngừng. Đó là một đời sống mất quân bình, rất nguy hiểm.

Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: “Đừng quá băn khoăn lo lắng”. Hôm nay Chúa nhắc lại với bà Martha một lần nữa: “Đừng băn khoăn lo lắng quá”. Chúa không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê trách thái độ lăng xăng, lo lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết nghỉ ngơi, biết giữ bình an nội tâm trong một đời sống quân bình bằng cách biết cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi bên Chúa. Cầu nguyện tạo cho ta một khoảng không gian và thời gian, nhờ đó đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu nguyện bên Chúa mà sinh lực ta được phục hồi. Và ta có thể phục vụ tốt hơn.

Lời Chúa kêu gọi bà Martha, Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay: “Con đừng quá băn khoăn lo lắng cho cuộc sống. Hãy biết đến bên Cha mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ sức cho con. Hãy chọn lấy phần tốt nhất như Maria. Đó là một kho tàng bền vững mãi mãi”.

Xin cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, hãy đến bên Chúa nghỉ ngơi. Để nhờ Chúa hướng dẫn, việc phục vụ của chúng ta sẽ theo đúng ý Chúa muốn và để đời sống tâm linh ta được phát triển toàn diện trong một nếp sống quân bình. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Cầu nguyện là lắng nghe Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Hiện nay bạn cầu nguyện thế nào? Có sốt sắng không? Có nhiều thời gian cầu nguyện không?

2- Bạn đọc kinh nhiều, nhưng bạn có cầm trí không, hay chỉ đọc như máy?

3- Khi phục vụ, bạn có thực sự quên mình, hay phục vụ để được tiếng là người đạo đức, để hơn người?

4- Muốn việc phục vụ thực sự tốt đẹp, ta cần có thái độ nào? [Mục Lục]

5. Phần tốt nhất

(Trích dẫn từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Nếu dựa trên bài Tin Mừng về người Samari tốt lành, hẳn chị Mácta phải nhận được một lời ca ngợi, vì chị đã làm, đã phục vụ Đức Giêsu. Thế nhưng ở đây, Ngài chỉ dành cho chị lời trách móc.

Đức Giêsu có đối xử bất công không?

Chúng ta cần nhìn ngắm chị Mácta tất bật dưới bếp. Chị thấy còn bao việc phải làm ngay cho kịp. Lòng chị lo lắng bồn chồn về việc tiếp đãi Chúa. Vậy mà cô em Maria lại ngồi không… Mácta không thể nén được nữa. Chị ngắt lời lúc Đức Giêsu đang trò chuyện với em. Hơn nữa, chị muốn Ngài ra lệnh để em mình xuống bếp. Câu nói của chị có nguy cơ phá vỡ cuộc trò chuyện. Cả Đức Giêsu và Maria đều bị coi là những người vô tâm, thản nhiên trò chuyện khi mà công việc đang ngập đầu.

Câu trả lời của Đức Giêsu đầy cảm thông, trìu mến. Ngài hiểu nỗi bối rối của Mácta khi tiếp đãi Ngài, nhưng Ngài cho thấy ngồi nghe cũng là một cách tiếp đãi, thậm chí một cách tiếp đãi tuyệt vời.

Trong một thế giới thực dụng, coi trọng hiệu quả, Hội Thánh có khá nhiều Mácta và rất ít Maria.

Lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện bị coi là xa xỉ phẩm, là những điều vô ích, mất thì giờ, ù lì, thụ động. Nhưng có hành động nào hiệu quả bằng ngồi nghe Chúa? Tiếp xúc với Đấng Toàn Năng cho ta sức mạnh để làm mọi sự.

Một Hội Thánh quân bình khi có cả Mácta và Maria.

Một Kitô hữu quân bình khi coi trọng việc ngồi bên Chúa.

Không phải chỉ là làm cho Chúa, mà còn sống với Ngài trong một tương quan mật thiết bền chặt. Đừng đợi lúc rảnh, lúc lắng mới đến gặp Chúa. Lúc cần gặp Chúa hơn cả là lúc bận bịu, lo âu.

Con người hiệu năng là con người cầu nguyện.

Khi được hỏi về bí quyết của mình, Mẹ Têrêsa đáp: “Bí quyết của tôi rất đơn giản: tôi cầu nguyện.”

Có ai trong chúng ta muốn chọn phần tốt hơn như Maria?

Khi nhìn Mácta, chúng ta thấy khuôn mặt của mình.

Lúc đầu, chị chỉ muốn phục vụ Chúa. Nhưng dần dần, điều chi phối chị không phải là Chúa nữa, mà là sự thành công rực rỡ của bữa ăn do chị nấu. Chị huy động mọi người để phục vụ cho dự tính của chị, thay vì phục vụ Chúa. Chị đi đến chỗ nghi ngờ cô em lười biếng, trách Đức Giêsu vô tâm. Cuối cùng không rõ chị tìm Chúa hay tìm mình, tìm làm vui lòng Chúa hay thành công cá nhân.

Có khi chúng ta cũng bắt Chúa đứng vào phe mình để cho công việc mình chóng thành tựu.

Làm thế nào để chúng ta phục vụ mà không thấy mình phục vụ, không ngắm nghía, nhâm nhi sự quảng đại của mình?

Làm sao tôi có thể yêu một cách trong suốt như Maria?

Gợi Ý Chia Sẻ

Cầu nguyện là lắng nghe Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Bạn nghĩ gì về đời sống cầu nguyện của bạn hiện nay? Chất lượng và thời gian ra sao?

Cái khó và cái dễ khi bạn cầu nguyện trong một xã hội công nghiệp hiện đại?

Cầu Nguyện

Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen. [Mục Lục]

6. Chỉ có một điều cần

(Trích dẫn từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Trên dặm đường rao giảng Tin Mừng, thỉnh thoảng Đức Giêsu và các môn đệ gặp được một chỗ nghỉ chân chan chứa tình người.

Mácta là chủ nhà đón tiếp Đức Giêsu. Chị tất bật lo việc tiếp đãi nấu nướng, chị lo lắng trước bao việc phải làm ngay để có được một bữa ăn thịnh soạn hầu tỏ lòng kính trọng đối với vị khách quý. Trong khi đó cô em Maria lại vô tư và bình thản, ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Người.

Maria say mê nghe Lời Chúa, Lời mở tâm tư cô ra trước những chân trời mới mẻ. Cô thấy chẳng có gì hạnh phúc hơn giây phút này, được ngồi nghe Thầy giảng như một môn đệ thực thụ.

Mácta không hiểu được cô em gái, chị cũng không hiểu được Đức Giêsu, nên cuối cùng chị đã đến thưa với Chúa: Thầy không để ý tới sao? Mácta muốn Thầy để ý đến việc mình đang làm, muốn Thầy nhận ra sự vất vả mình phải chịu. Em con để mình con phục vụ. Mácta tưởng chỉ có mình mới là người phục vụ. Chị không nhận thấy rằng Maria cũng đang tiếp khách và ngồi nghe Chúa cũng là một cách phục vụ.

Xin Thầy bảo em giúp con một tay.

Mácta kéo Đức Giêsu vào cuộc, kéo Ngài đứng về phía mình, phía đúng, để gây áp lực trên cô em. Chị muốn Maria phải vào bếp với mình, phải phục vụ theo kiểu của mình. Ngấm ngầm, Mácta không chấp nhận kiểu phục vụ của Maria. Có lẽ chị nghĩ đó là một hành vi vô ích, trong khi có biết bao việc quan trọng khác cần làm.

Đức Giêsu không ghét Mácta, không coi nhẹ việc phục vụ của chị, nhưng buộc lòng Ngài phải lên tiếng. Ngài muốn giải phóng Mácta khỏi nỗi bồn chồn quá mức. Ngài muốn giải phóng chị khỏi cái tôi, khỏi lối nhìn hẹp hòi, để nhận ra điều duy nhất cần thiết.

Ngài gọi tên chị hai lần: Mácta! Mácta! Con lo lắng và xao động vì nhiều chuyện quá, dù chuyện ấy là chuyện con lo cho Thầy.

Cần thanh lọc lòng mình khỏi những tìm kiếm vị kỷ, khỏi những ganh tị nhỏ mọn và tự mãn ngấm ngầm, để có thể làm việc cho Chúa trong bình an thư thái, dù có gặp thất bại hay bị lãng quên.

Chỉ có một chuyện cần mà thôi.

Coi chừng nỗi lo lắng về nhiều chuyện phụ lại làm ta quên mất chuyện chính, một chuyện cần hơn cả, đó là an tĩnh gặp gỡ và lắng nghe Chúa mỗi ngày trong tư thế khiêm hạ của người môn đệ.

Cuộc sống dồn dập hôm nay dễ biến chúng ta thành Mácta: xao động, âu lo, căng thẳng, mất kiên nhẫn. Cả người làm việc cho Chúa cũng bị cuốn hút. Có lẽ cần bớt việc và thêm giờ cầu nguyện, cần để cho Chúa làm việc nơi tôi và qua tôi thay vì tự mình bươn chải một mình.

Phải chăng đời Kitô hữu là kết hợp giữa Mácta và Maria, giữa tất bật và an tĩnh, giữa lăng xăng và ngồi yên, giữa hoạt động và cầu nguyện?

Để rồi giữa tất bật, tôi tìm thấy an tĩnh, – giữa lăng xăng, tôi thấy mình ngồi yên, – giữa hoạt động, tôi thấy mình chiêm niệm.

Gợi Ý Chia Sẻ

Có khi nào những khúc mắc của cuộc sống đưa bạn đến ngồi dưới chân Chúa không? Bạn nghĩ gì về sự cân đối giữa cầu nguyện và hoạt động trong đời bạn? Bạn cầu nguyện có đủ và sâu không?

Cầu nguyện là gặp gỡ và lắng nghe như cô Maria. Có khi nào bạn có kinh nghiệm như Maria không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói tự thẳm sâu cõi lòng không?

Cầu Nguyện

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.

Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa. [Mục Lục]

7. Hiếu khách – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Hiếu khách là một đức tính tốt. Một người hiếu khách là người có tính xã hội. Họ dám mở cửa lòng đối diện với đời và với tha nhân. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy trong bất cứ lĩnh vực nào như mở tiệm buôn bán, công ty, xí nghiệp, trường học, hội đường, chùa chiền, nhà thờ, tư gia… càng có nhiều người tham gia, sinh hoạt và thăm viếng thì càng sầm uất và thành công sinh hoa lợi. Người ta thường nói “đa khách đáo, đa ngân vào”. Đúng thế, mở một cửa tiệm hay một dịch vụ mà khách ra vào tấp nập thì việc làm ăn sẽ mau khấm khá. Một trong những yếu tố quan trọng là vấn đề nhân sự. Chủ nhân hay tiếp thị phải là những người hiếu khách luôn tươi cười và niềm nở. Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi.

Nhân cách con người đi theo với sinh hoạt cuộc sống. Tính tình thể hiện qua cách xử thế, gọi là giao tế nhân sự. Câu truyện trong sách Sáng Thế kể rằng có ba vị khách đi ngang qua nhà ông Abraham. Ông đã vui vẻ chào đón khách một cách niềm nở, ông thưa: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài.” (St 18,3). Thái độ của Abraham bày tỏ lòng thành kính và hiếu khách. Ông biết thương người và đáp ứng đúng nhu cầu cần thiết. Ông tiếp rước khách một cách rất tận tình: Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây! Khách trả lời: “Xin cứ làm như ông vừa nói.” (St 18,5).

Một phần thưởng ngoài sức tưởng tượng của cả hai ông bà. Ông bà đã nhận được một hồng ân quý báu trong lúc tuổi già. Ông bà sẽ sinh một cậu con trai nối dòng. Đây là lời cầu chúc tốt đẹp nhất của ba vị khách: “Người nói: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai.” Bà Sara bấy giờ đang nghe ở cửa lều, phía sau.” (St 18,10). Thiên Chúa đã gọi Abraham rời bỏ quê hương xứ sở để đến miền đất hứa. Lòng thành tín của Abraham đưa dẫn ông trở thành cha của một dân tộc. Cha của những kẻ tin. Ông đã biết đón nhận và cho đi. Ông đã tuân theo đường lối của Chúa nhưng ông cũng đã trải qua muôn vàn khó khăn, đắng cay và thử thách. Ông đã đi đến cùng đường và giữ vững lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa.

Mở cửa đón khách cũng giống như mở lòng với tha nhân. Nếu tư gia của chúng ta có mở cửa đón mời anh chị em và bạn bè, nhà sẽ vui nhộn tiếng cười. Phòng khách sẽ ấm cúng với mối tình thân. Nhà bếp cũng được ấm lên nhờ nấu nướng những món ăn mỹ vị đãi khách. Niềm vui sẽ trào dâng trong lòng mọi người. Càng có đông khách và bạn bè, cuộc sống càng nới rộng tình thương mến. Mở cửa như mở lòng. Chúng ta biết rằng ai có lòng quảng đại giúp đỡ tha nhân, họ sẽ được đáp trả mối ân tình. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Đón tiếp anh chị em bạn bè đến với gia đình, niềm vui của chúng ta sẽ được nhân lên. Nếu chúng ta chỉ biết đón nhận mà không biết cho đi, cuộc sống sẽ bị đóng khung hạn hẹp. Cảm nghiệm đời sống, chúng ta đóng cửa nhà và cửa lòng vì sợ bà con làm phiền, cuộc sống sẽ buồn tênh.

Cũng không ngoại lệ, khi Chúa Giêsu đến thăm nhà chị em Martha và Maria. Hai chị em đón tiếp Chúa, mỗi người một cách, làm cho Chúa rất hài lòng. Câu truyện được lưu truyền kể lại trong Phúc Âm. Martha lo nấu nướng phục vụ và Maria ngồi bên chân Chúa để nghe lời Người giảng dạy. Cả hai việc đều tốt nhưng việc ngồi bên và lắng nghe lời Chúa thì tốt hơn: “Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy.” (Lc 10,39). Chúa Giêsu đã biến đổi cả hai tâm hồn nên thánh thiện. Chúa nhìn thấu tỏ tâm hồn của Martha và Maria, hai chị em trở thành những chứng nhân đích thực cho Chúa Kitô Phục Sinh. Trong Giáo Hội đã có những vị dõi theo bước của Martha, chuyên lo phục vụ. Có những người đi theo đường lối của Maria, lắng nghe, suy niệm và chiêm niệm trong các dòng tu. Chúa Giêsu đã xác nhận Maria đã chọn phần tốt nhất: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc 10,42). Giáo Hội đã tuyên phong cả hai chị em lên bậc hiển thánh: Thánh Martha và Thánh Maria.

Như Abraham đã đón tiếp các vị khách và được phước lộc có con cháu nối dõi hoàn thành sứ mệnh. Martha và Maria đón rước Chúa vào nhà, các bà đã trở nên môn đệ và sinh hoa kết qủa trong vườn nho của Chúa. Thiên Chúa rộng lượng ban phát mọi ơn lành cho những ai đón rước Chúa. Chúng ta đọc câu truyện về hai biển hồ ở Palestine, biển Galilê và biển chết. Biển hồ Galilê có nguồn nước trong xanh mát. Trong hồ có đủ các loại tôm cá sinh sống. Có những vườn cây xanh tốt nhờ nguồn nước. Nhà cửa dân cư sống rất sầm uất. Biển thứ hai là biển chết. Biển chết vì nước mặn và không có loại cua cá nào sống nổi. Trơ trọi không có cây xanh tươi. Chúng ta biết cả hai biển hồ đều nhận nguồn nước từ sông Jordan. Nước chảy vào biển hồ Galilê và tiếp tục chảy tràn lan qua các hồ nhỏ, nhờ vậy mà nguồn nước luôn lưu chuyển trong lành. Còn biển chết cũng đón nhận nguồn nước nhưng bị tù đọng vì không chia sẻ, nước trở nên mặn chát. Sinh vật không thể sống được. Cuộc sống con người cũng thế, nếu chỉ biết khư khư giữ lại tất cả kho tàng cho riêng mình, thì sự sống cũng dần lụi tàn.

Thánh Phaolô đã nhận lãnh sứ điệp Tin Mừng từ chính Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài đã hăng say nhiệt tình truyền rao lời chân lý. Phaolô đã thiết lập nhiều cộng đoàn tín hữu và đặt căn bản giáo lý trong các sinh hoạt sống đạo: “Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: Đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn.” (Cl 1,25). Phaolô trở thành chứng nhân đích thực xông pha trong mọi lĩnh vực, cốt là để vinh danh Chúa Kitô. Tin Mừng đã lãnh nhận như một kho tàng, Ngài đã đem ra rao truyền và phân phát một cách nhưng không để lôi kéo mọi người về với Chúa.

Thánh Phaolô đã đến với dân ngoại, nơi có một cánh đồng truyền giáo bao la. Ngài rao giảng, thuyết phục và làm nhân chứng sống động. Ngài chấp nhận bị xua trừ, tẩy chay, đánh đập, tù đày và bị thiệt thòi danh phận để danh Chúa được cả sáng. Phaolô rao truyền Tin Mừng một cách nhiệt thành sứ vụ được Chúa Kitô trao: “Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: Đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang.” (Cl 1,27). Tất cả đều chung quy về Chúa Kitô Phục Sinh. Bất cứ sự gì ngài đã lãnh nhận nhưng không, thì ngài đã cho nhưng không. Không giữ lại điều gì làm của riêng để được vui hưởng một mình.

Cuộc sống của chúng ta phát triển không ngừng. Mỗi ngày, chúng ta hãy cố gắng làm một việc tốt, dù nhỏ, nó sẽ sinh hoa kết quả tốt. Một lời nói nhẹ nhàng êm dịu, có thể cải hoá được lòng người. Một cử chỉ đón tiếp ân cần, có thể làm vui mảnh hồn cô đơn, giá lạnh. Một hành động bác ái nhỏ như cho đi một ly nước vì danh Chúa sẽ không mất phần thưởng. Một ngọn lửa, dù bé nhỏ, có thể toả lan ánh sáng và sưởi ấm lòng người. Một bàn tay rộng mở, ân phước ngập tràn niềm vui. Chúng ta hãy cùng mở rộng tấm lòng đón nhận và mở cửa nhà chào đón anh chị em, cuộc sống gia đình của chúng ta sẽ thêm phúc lộc đầy tràn.

Lạy Chúa, Chúa rộng lượng từ bi và nhân hậu với hết mọi loài. Xin cho chúng con biết mở lòng quảng đại với tha nhân. Chúng con nhận lãnh quá nhiều hồng ân, nhưng cho đi chẳng bao nhiêu. Xin cho chúng con biết nhận lãnh và biết tiếp tục trao ban. [Mục Lục]

8. Phần tốt nhất – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Khung cảnh gia đình

Bước vào Chúa nhật XVI thường niên C, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta chuyện gia đình của Matta và Maria. Gia đình hai cô hàng ngày ra sao chúng ta không hay biết, chỉ khi cô chị Matta rước Chúa Giêsu vào nhà và tất bật làm cơm thiết đãi Chúa, còn cô em thì ngồi bên chân nghe Chúa và nghe lời Người chúng ta mới có chuyện (Lc 10,38-42). Gia đình Matta và Maria còn có cậu em trai là Lazarô không thấy nói tới.

Chúng ta thử tưởng tượng quang cảnh diễn ra trong nhà: người chị chạy lên chạy xuống, còn người em ra như bị lôi cuốn vào việc chuyện trò với Khách. Một lúc sau, người chị Matta, chắc cảm thấy mệt nhọc, nên đã đứng lại và lên tiếng nói với vị Khách: “Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình, mà không quan tâm sao sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với?” Xem ra cô chị Matta không những bất bình với cô em là Maria mà còn cả với Khách mời nữa. Nhưng Chúa Giêsu bình tĩnh đáp lại: “Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất” (10,41-42).

Thái độ cần phải có

Chính câu nói này của Chúa Giêsu làm nảy sinh những khuynh hướng khác nhau. Có người cảm thấy tiếc cho Matta, vì Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu, khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu lại nói: “Matta, Matta con lo lắng nhiều chuyện, Maria đã chọn phần tốt nhất”. Vậy là việc cô làm chưa phải là tốt nhất.

Khuynh hướng khác cho rằng, Chúa Giêsu không có ý phê phán thái độ hiếu khách của Matta khi Ngài nêu bật hành vi của Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người.” Tuy nhiên, khi phải chọn lựa thì Chúa Giêsu vẫn thích người “nghe” lời Người hơn là loay hoay chuyện rót nước, dọn cơm… Ngài cũng cho biết đây là “phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy mất. “

Hẳn Chúa Giêsu không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Matta tất bật với việc tiếp đãi Khách, và một của Maria ngồi bên chân Khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể và tích cực qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên tâm sự. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Matta. Chúa không chê hoạt động, lại càng không trách sự tiếp đón quảng đại, Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria đang ngồi dưới chân Ngài để nói lên thái độ cơ bản con người phải có đối với Thiên Chúa, đó là thái độ lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa thì vững bền và mang lại ý nghĩa cho các hoạt động hằng ngày của chúng ta.

Gương của Matta và Maria

Matta và Maria trong Tin Mừng hôm nay nêu gương cho chúng ta và bảo chúng ta rằng nhân đức không chỉ có một mặt, vì trong việc tông đồ, người này làm việc tích cực, hết sức mình, người kia quan tâm đến việc rao giảng Lời Chúa. Nếu sự quan tâm này kết hợp sâu xa với đức tin, thì sẽ rất tốt cho công việc: “Maria đã chọn phần tốt nhất”.

Chúng ta cũng thế, chúng ta cần phải cố gắng, để có được điều mà không ai có thể lấy mất được, nên cần phải lằng nghe. Lắng nghe ở đây không phải là đãng trí, nhưng là chú ý; vì ngay cả hạt giống lời Chúa từ trời xuống cũng bị lấy mất, nếu hạt giống đó gieo bên vệ đường, không được gieo vào đất tốt, tức là nghe những không được đón nhận (Lc 8, 5.12)

Lắng nghe lời Chúa như cô Maria là khôn ngoan, vì đây là việc làm cao cả và hoàn hảo nhất. Lo lắng phục vụ là cần thiết, nhưng làm sao để những lo lắng phục vụ không cản trở ta đón nhận Lời Chúa từ trời xuống. Hãy khoan đừng có chỉ chích phê bình hay kết án những sự nhàn rỗi, những người mà chúng ta sẽ thấy họ làm việc tất bật để có được sự khôn ngoan, như Salomon, một con người hiền hòa, đã nài xin Chúa gửi Đức khôn ngoan của Ngài tới cự ngụ nơi nhà ông, khi thưa: “Lạy Chúa, xin gửi Đức không ngoan Ngài tới, để phù trì và đồng lao cộng khổ với con” (Kn 9, 10). Tuy nhiên đấy không phải là lời trách móc những việc Matta làm: Maria được Đức Giêsu thích hơn vì Maria đã chọn phần tốt nhất. Đức Giêsu là Đấng giầu có, và Ngài trao ban cho cả hai cô Matta và Maria cách quảng đại; Maria là người nữ khôn ngoan, vì cô biết nhận ra và chọn lựa điều quan trọng nhất.

Các Tông Đồ cũng cho rằng: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải” (Tđcv 6,2). Khi đứng giữa hai điều, một là rao giảng Lời Chúa, hai là phục vụ, tất cả đểu là việc khôn ngoan: Stéphanô cùng với Philipphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, đã chọn việc phục vụ, với tư cách là thầy phó tế, và các ngài đã hoàn thành cách thật khôn ngoan (Tđcv 6,5.8)… Như thế, Giáo hội là một thân thể, các bộ phận tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể: “Vậy mắt không có thể bảo tay: “Tao không cần đến mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày”. (1 Cr 12, 21)… Nếu có một vài chi thể quan trọng nhất, thì các bộ phận khác cũng không kém phần quan trọng. Sự khôn ngoan ở trong đầu, còn hoạt động thể hiện nơi những bàn tay.

Lời Chúa trong cuộc đời

Sống trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất. Người Kitô hữu phải lấy việc lắng nghe Lời Chúa là điều quan trọng nhất. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Ngài, bằng cách suy niệm Kinh Thánh với đức tin, bằng cách tĩnh tâm cầu nguyện riêng cá nhân cũng như cộng đoàn, bằng việc im lặng mặc niệm trước Thánh Thể; từ Nhà Tạm, Chúa Kitô nói với chúng ta về tình yêu của Người. Đặc biệt vào ngày Chúa Nhật, những người kitô được mời gọi đến gặp gỡ và lắng nghe Chúa. Điều này được thực hiện cách trọn vẹn, nhờ qua việc tham dự vào Thánh Lễ, trong đó Chúa Kitô dọn ra cho các tín hữu bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Bánh ban sự sống. Tuy nhiên, những giây phút cầu nguyện và suy tư, những giây phút nghỉ ngơi và sống tình huynh đệ, cũng có thể góp phần hữu ích vào việc thánh hóa ngày của Chúa.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, xin Mẹ giúp chúng con gắn bó cùng Chúa cho đến trọn đời. Amen. [Mục Lục]

9. Điều Cần – Lm Vũ Đình Tường

Có những điều chúng ta muốn và có những điều chúng ta cần. Những gì cần thì quan trọng hơn là muốn bởi vì muốn có nghĩa là có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Quá quắt lắm muốn mà không được thì cãi nhau một trận, giận nhau một thời gian, rồi thôi. Nếu giận mãi, giận hoài sẽ trở thành quá khích mà quá khích thì khó chiều.

Điều cần là điều không thể thiếu. Nếu thiếu mà chấp nhận được, điều đó có thể nằm giữa cần và muốn. Điều cần là điều không thể thiếu vì nó cần thiết cho cuộc sống. Điều chúng ta muốn nếu có sẽ làm cho cuộc sống bảnh hơn trong khi điều cần mang lại sự sống cho con người vì thế điều cần là điều không thể thiếu vì nó liên quan đến sống còn.

Những điều chúng ta cần cũng thay đổi tùy hoàn cảnh cuộc sống. Hôm nay tôi cần có thời gian thinh lặng một mình, ngày mai tôi lại cần có bạn. Hôm nay tôi cần lắng nghe bạn và rất có thể ngày mai lại cần bạn lắng nghe tôi tâm sự. Hôm nay tôi cần bạn chia sẻ niềm vui ngày mai tôi cần bạn cùng tôi suy gẫm sự đời. Tình cảm con người lạ lắm. Cũng là tình cảm nhưng mỗi loại khác nhau. Niềm vui chia sẻ làm tăng niềm vui, tâm sự buồn chia sẻ làm vơi nỗi sầu. Cơn nóng giận tăng lên nếu có người châm dầu trong khi lời an ủi làm tươi làn môi.

Có điều cần liên quan đến bản thân, có điều cần liên quan đến tâm lí, có điều cần liên quan đến tâm linh con người. Những điều liên quan đến bản thân dễ nhận ra; điều cần liên quan đến tâm lí hơi khó nhận biết, đôi khi cần có người trợ giúp để nhận biết. Điều cần liên quan đến tâm linh rất khó nhận ra vì nó không gây áp lực mãnh liệt trong cuộc sống nhưng bàn bạc khi ẩn, khi hiện, khi mãnh liệt, lúc lại nhẹ nhàng. Dấu chỉ nhận biết nhu cầu tâm linh lệ thuộc vào đời sống nội tâm. Đời sống nội tâm không nhìn được chỉ cảm nhận được. Người cảm nhận mãnh liệt nhất chính là đương sự. Nếu đương sự không quan tâm để í vấn đề còn khó hơn nữa. Cảm thấy chán nản trong cuộc sống, bình an nội tâm thiếu vắng, mất í nghĩa cuộc đời, tương lai mù mờ, đời vô vị, mất nghị lực làm việc. Những dấu chỉ đó cho thấy tâm hồn đói khát tâm linh. Thân xác có thể no đủ nhưng tâm linh đói khát. Tâm linh mạnh khoẻ mang lại bình an nội tâm, hướng tâm hồn về tương lai trong tình yêu hy vọng. Không giống nhu cầu thân xác khi đói khát nó đòi hỏi rất mãnh liệt trong khi nhu cầu tâm linh đòi hỏi nhẹ nhàng, thoang quảng trong cuộc sống. Mất bình an nội tâm, cô đơn và mất hy vọng là những dấu chỉ rõ nhất. Một số tìm niềm vui nơi chốn đông hy vọng lấp khoả trống vắng tâm hồn, số khác trốn cô đơn qua rượu và thuốc. Tất cả những thứ đó làm dịu nhu cầu đang thiếu, thoả mãn nhu cầu tâm linh cách giả tạo. Tâm linh muốn những gì lâu dài, trường cửu. Vật chất trần thế có giới hạn riêng của nó, nên không thể tìm niềm vui vĩnh cửu nơi trần thế mà phải tìm niềm vui đó nơi Đức Kitô vì Người là nguồn tình yêu vô tận.

Trốn tránh cô đơn trong vật chất biến ta thành con người ích kỉ, chỉ biết đến mình, mong thoả mãn nhu cầu riêng mình, quên nhu cầu tha nhân. Kinh thánh hôm nay nhắc chúng ta một điều quan trọng. Đó là không cần phải đi tận chân trời, góc biển tìm kiếm bình an nội tâm. Tìm ngay trong gia đình, nơi người mình đang chung sống, nơi cộng đoàn mình đang sinh hoạt vì những nơi đó Lời Chúa được thể hiện, được mang ra thực hành. Điều rõ ràng là cô Martha bận rộn liên tục nhưng tâm bất an; trong khi cô Maria ngồi dưới chân Đức Kitô và cô tìm được bình an nội tâm. Những ai lắng nghe Lời Chúa sẽ tìm được bình an nội tâm. Dùng Lời Chúa biện hộ khi tranh luận là tỏ ra có kiến thức nhưng trong họ không có ơn khôn ngoan. Lời Chúa phải được thực hiện qua hành động bác ái, yêu thương, mà không dùng để nói lí lẽ. [Mục Lục]

10. Để cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời

(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)

Hôm ấy, các đệ tử của Thầy hăng say thảo luận về nguyên nhân đau khổ của nhân loại.

Người thì nói là do lòng tham vô đáy của con người thúc đẩy, kẻ thì cho là do tính ích kỷ thâm căn cố đế hoặc tính kiêu căng và óc thống trị xui khiến, một số khác cho là do sự chia rẽ chủng tộc hay tôn giáo phát sinh…

Sau cùng, các đệ tử quay sang hỏi ý kiến Thầy, Thầy nói: “Mọi đau khổ đến từ việc con người thiếu khả năng ngồi yên lặng một mình để lắng nghe…” (Phỏng theo Cha Anthony de Mello)

* * *

Yên lặng để lắng nghe! Để nghe Chúa nói, để nghe lời khôn ngoan… Đó cũng là điều mà Cô Maria thể hiện qua đoạn Tin Mừng hôm nay.

Hôm ấy, Chúa Giêsu đến thăm gia đình Mácta. Mácta tất bật lo việc nấu dọn để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa sẽ rất hài lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu đáo và tận tình như thế.

Vậy mà Chúa Giêsu lại đề cao thái độ chăm chú lắng nghe của Maria hơn và trách Mácta:

“Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc 10, 41-42)

Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng lắng nghe và thi hành Lời Chúa là điều tối cần thiết và quan trọng nhất.

Lắng nghe Lời Chúa là chuyện cần thiết nhất vì Lời Chúa là đèn soi cho loài người tiến bước trong đêm tối và vượt qua bao giông tố của cuộc đời. “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Thánh vịnh 119,105). Nhờ ngọn đèn nầy, người lầm lạc thấy được chân lý, người tội lỗi được hoán cải để sống đời thánh thiện, người thất vọng được tìm thấy niềm tin và hy vọng tràn trề… Thiếu Lời Chúa, nhân loại như đang chìm trong tối tăm.

Một chiếc xe vượt qua nhiều đoạn đường đèo quanh co, cheo leo hiểm trở trong đêm tối mà xe lại chạy không đèn thì chắc chắn sẽ lao xuống vực. Đời người với bao nhiêu thăng trầm thách thức của cuộc sống khác gì chiếc xe vượt đèo kia, nếu không được ánh sáng của Lời Chúa soi dẫn, thì sẽ không thoát khỏi tai ương.

Đối với những ai biết đón nhận Lời Chúa và nhận lấy ánh sáng Lời Chúa soi dẫn cho hành động, người ấy sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp trong đời mình.

Lời Chúa thật sự đã mang lại giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề của cuộc sống.

Trong thời kỳ đất nước Việt Nam của chúng ta bị đặt dưới ách đô hộ của người Pháp thì tại nam Á, một quốc gia khác to lớn hơn nhiều cũng bị đặt dưới ách thống trị của người Anh. Đó là quốc gia Ấn-độ. Đế quốc Anh cũng hùng cường không thua kém gì đế quốc Pháp. Cả nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Ấn đều đứng lên để lật đổ chế độ thực dân và giành độc lập cho xứ sở mình.

Trong cuộc đấu tranh nầy, nhân dân Việt Nam phải dùng đến bạo lực, đến khí giới và đã trả giá cho nền độc lập bằng vô vàn sinh mạng và máu xương!

Trong khi đó, tại Ấn-độ, dưới tài lãnh đạo của thánh Gandhi, vị anh hùng của nhân dân Ấn và là người được dân Ấn gọi là thánh, người dân Ấn đấu tranh bằng đường lối ôn hoà bất bạo động mà thánh Gandhi học được từ Tin Mừng của Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi… Ai vả má bên nầy thì hãy chìa má bên kia ra…”

Bằng đường lối bất bạo động học từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, Gandhi và nhân dân Ấn-độ đã lật đổ được đế quốc Anh, bẻ gảy ách thống trị của người Anh, giành lại độc lập cho quê hương xứ sở mà không cần đến khí giới.

Vài chục năm, tại đất nước Hoa-kỳ, Mục sư Martin Luther King cũng đã dùng Lời Chúa soi sáng cho cuộc đấu tranh bất bạo động của mình, và ông đã đạt được thắng lợi vẻ vang, buộc người da trắng nhìn nhận, tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của người da đen mà không cần đến khí giới.

Như thế, Lời Chúa quả đã đem lại những giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề và thách thức trong cuộc sống.

Hôm nay, Chúa Giêsu lại đem Tin Mừng của Ngài trao tặng miễn phí cho chúng ta để làm đèn soi cho chúng ta trong cuộc sống nhiều mây mù u tối nầy.

Cuộc đời chúng ta như những chuyến xe phải vượt những chặng đường đèo cheo leo hiểm trở giữa màn đêm. Lời Chúa vẫn mãi mãi là đèn soi dẫn. Ước gì chúng ta đón nhận Lời Chúa để soi sáng cho hành trình còn lại trong cuộc đời chúng ta. [Mục Lục]

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn