1
17:41 +07 Thứ bảy, 27/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 195

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 194


Hôm nayHôm nay : 24107

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 328229

Tổng cộngTổng cộng : 27882513

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Suy niệm các Chúa nhật Mùa chay và Phục Sinh năm A

Thứ năm - 20/02/2020 15:37-Đã xem: 1030
Chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa thể hiện rõ nét qua việc Người kiên trì dạy dỗ trong yêu thương, tìm kiếm để tha thứ và ban ơn. Ngay trong thời Cựu Ước, qua các tổ phụ, các ngôn sứ, Thiên Chúa dạy dỗ loài người qua dân ưu tuyển là Israen. Mỗi lần dân này lầm đường lạc lối, Người tha thiết kêu gọi họ trở về: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van



LỄ HIỆN XUỐNG A
THÁNH THẦN ĐƯỢC BAN  CHO GIÁO HỘI
+++
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Sau khi Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn, các tông đồ trở nên hoang mang, sợ sệt,  đang tụ họp trong nhà Tiệc ly, chưa biết phải xử sự làm sao, thì chiều ngày phục sinh, Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra với các ông, trấn an và thổi hơi trao ban Thánh Thần cho các ông :”Anh em hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần”. Và 50 ngày sau nữa, vào sáng ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống  một cách công khai để ban cho các ông những đặc sủng của Ngài để các ông mạnh dạn  đi loan báo Tin mừng và xây dựng Giáo hội.
 
          Thực ra, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ ngay khi Ngài hiện ra lần thứ nhất tại nhà Tiệc ly vào buổi chiều hôm Phục sinh. Sau khi chào các ông, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các ông khi Ngài thở hơi và nói :”Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội ai, thì người ấy được tha, các con cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ””(Ga 20,22-23). Còn ngày lễ Ngũ tuần chỉ là dịp Đức Giêsu ban Thánh Thần cho các ông một cách đặc biệt, với đặc sủng ngôn ngữ, đồng thời cũng là dịp giới thiệu Giáo hội cho muôn dân và chính thức sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi người.
 
          Lịch sử cứu rỗi còn tiếp tục qua lịch sử nhân lọai và ngày hôm nay lại khai mở một giai đọan mới khi Thánh Thần hiện xuống cách huy hòang vĩ đại trên một nhóm người và biến cải họ nên cột trụ một tập đòan mới là Hội thánh. Hôm nay trong nhà Tiệc ly chỉ có 120 người, nhưng rồi đây sẽ lan tràn khắp thế giới, trở thành Giáo hội hòan vũ. Ngày nay Chúa Thánh Thần vẫn còn được ban xuống cho chúng ta, đặc biệt với  đặc sủng ngôn ngữ, để chúng ta biết cao rao những kỳ công của Chúa, giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người và góp phần xây dựng Hội thánh của Chúa ở trần gian này.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc 1 : Cv 2,1-11.
 
          Bài sách Công vụ tông đồ hôm nay tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ trong nhà Tiệc ly ngày lễ Ngũ tuần.
 
          Theo lời căn dặn của Đức Kitô phục sinh, các tông đồ tập họp lại trong nhà Tiệc ly để đón nhận Chúa Thánh Thần. Đây chính là Đấng Bảo trợ mà Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ trước khi đi vào cuộc tử nạn.  Hôm nay ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Giêsu chính thức gửi Chúa Thánh Thần cho các tông đồ để Ngài cư ngụ và hoạt động nơi các ông bằng sức mạnh của Ngài, thôi thúc họ và ban cho họ những đặc sủng, đặc biệt là đặc sủng ngôn ngữ.
 
          Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ bằng hình lưỡi lửa cho mỗi người.  Lưỡi tượng trưng cho lời nói, Lửa tượng trưng cho tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà các tông đồ sẽ đi rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Ngài khắp mọi nơi.
 
          + Bài đọc 2 : 1Cr 20,19-23.
 
          Chúa Thánh Thần được ban cho các tông đồ và Giáo hội đặc biệt trong ngày lễ Ngũ tuần. Chúa Thánh Thần là hồn sống của Giáo hội, Ngài luôn hoạt động trong Giáo hội cách  tích cực. Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu Corintô hãy hiệp nhất trong Thánh Thần.  Trong Giáo hội sơ khai, Chúa Thánh Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau cho các tín hữu, những đặc sủng ấy nhằm ích lợi cho mọi người. Vì thế, các tín hữu phái tránh chia rẽ, đừng làm gì khả dĩ gây phương hại cho sự đoàn kết ; trái lại, phải dùng các ơn ấy để xây dựng thân thể Giáo hội.
 
          + Bài Tin mừng : Ga 20,19-23.
 
          Trong các sách Tin mừng, không chỗ nào nói tới việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, chỉ trừ sách công vụ tông đồ (Cv 2,1-11).  Tuy nhiên, Hội thánh muốn lấy lại bài Tin mừng Chúa nhật II Phục sinh để cho biết : ngay buổi chiều hôm  lễ Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ trong nhà Tiệc ly và đã ban Chúa Thánh Thần cho các ông :”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. Như thế, trước khi ủy thác sứ vụ cho các môn đệ, Chúa Giêsu phục sinh đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông, và nhờ đó, các môn đệ giờ đây thực thi sứ mạng trong ân sủng và quyền năng của Chúa Thánh Thần.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                 Đặc sủng ngôn ngữ.
I. CHÚA THÁNH THẦN ĐƯỢC BAN XUỐNG.
 
          Trong lễ Hiện xuống hôm nay, Giáo hội đọc bài Tin mừng kể việc Đức Giêsu hiện ra lần thứ nhất với tập thể tông đồ chính ngày Phục sinh.
 
          Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu đã hiện ra với một số phụ nữ (Mt 28,9) trong đó có bà Maria Magdala (Ga 20,11t), bà Gioanna và bà Maria mẹ Giacôbê (Lc 24,9t). Buổi chiều Ngài đã hiện ra với hai môn đệ đi đến làng Emmau (Lc 14,13t) và cũng chiều đó, Ngài lại hiện đến với các tông đồ, có thể có một số môn đệ ở cùng các ông.
 
          Có lẽ Đức Giêsu hiện ra với các ông về đêm khuya. Đang lúc hai môn đệ đi làng Emmau về kể cho các ông nghe việc Chúa hiện ra với mình, thì Đức Giêsu hiện ra. Đường đi từ Giêrusalem đến Emmau khá xa, đi về phải muộn mới tới nơi.
 
          Các cửa phòng đều đóng kín, Đức Giêsu đột ngột hiện ra đứng giữa các ông và nói :”Bình an cho các con”. Đây là lời chào bình thường của người Do thái mỗi khi gặp nhau. Trong bối cảnh của các tông đồ khi đó, lời chúc của Đức Kitô chắc chắn đã có ý nghĩa đặc biệt cụ thể  chứ không thể như ta chào bình thường, vì liền sau đó Ngài đã trao ban sứ mạng cho các ông.
 
          Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Phải chăng Đức Kitô lưu giữ các dấu thương tích như một kỷ niệm… Hay để cho các tông đồ và môn đệ xem thấy dấu vết rành rành đó mà vững tin vào sự Phục sinh của Ngài ? Và Ngài thổi hơi và ban Thánh Thần :”Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha, các con cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Hành động của Đức Kitô như lặp lại hình ảnh  cuộc sáng tạo của Thiên Chúa Cha (St 1,1t). Đức Kitô qua cuộc Tử nạn và Phục sinh đã trở thành Đấng tái tạo một nhân lọai mới (Ga 3,5t ; Is 32,16).
 
          Trong bài đọc 2 trích sách Công vụ tông đồ, thánh Luca còn cho chúng ta biết thêm về ngày lễ Hiện xuống : Khi đến lễ Ngũ tuần, mọi người đang tề tựu tại một nơi, có lẽ là tại nhà Tiệc ly, với số người là 120. Bỗng nhiên trời phát ra một tiếng, nghe như tiếng gió ào ào, vang dội khắp cả nhà. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tan ra đậu xuống từng người một và ai nấy đều được đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói được tiếng nước ngòai. Sự kiện này làm cho các khách hành hương phải kinh ngạc vì ai nấy đều nghe  nói tiếng bản xứ của mình. Họ phải sửng sốt và thán phục.
 
          Chúng ta không biết Đức Giêsu đã thiết lập Giáo hội lúc nào, nhưng chúng ta biết chắc lễ Hiện xuống là ngày Đức Giêsu khai trương Giáo hội, Ngài giới thiệu Giáo hội cho muôn dân và cũng từ hôm nay các môn đệ chính thức được sai đi đến với muôn dân :”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”, để các ông rao giảng Tin mừng về Nước Trời và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa Kitô.
 
II. CHÚA THÁNH THẦN BAN ĐẶC SỦNG NGÔN NGỮ.
                         
          Được đầy tràn Thánh Thần trong buổi sáng lễ Hiện xuống, các Tông đồ cũng đón nhận được  ơn đặc sủng về ngôn ngữ. Vì thế,  các ông có thể nói cho những người đến hành hương tại Giêrusalem từ khắp nơi trên thế giới : mọi người đều hiểu theo ngôn ngữ của mình. Thánh Phêrô đã dùng đặc sủng ấy màø giới thiệu Đức Giêsu Nazareth cho những người tại Giêrusalem, và qua bài giảng nảy lửa ấy, đã có 3000 người trở lại. Đặc sủng ấy vẫn còn được ban cho Giáo hội và cho mọi thành phần trong Giáo hội hôm nay.
         
          1. Ơn nói các thứ tiếng lạ.
 
          Sách Công vụ tông đồ thuật lại việc chúa Thánh Thần ban đặc sủng ngôn ngữ cho các tông đồ như sau :”Họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác , tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2, 6). Mọi người đến xem đều lấy làm lạ khi thấy các ông nói được các tiếng thổ ngữ của mình một cách thành thạo.
 
          Đây là một đặc sủng ngôn ngữ. Có hai cách chú giải về phép lạ ngôn  ngữ này : có nhà chú giải cho rằng các tông đồ nói tiếng lạ hoặc chỉ nói một thứ tiếng nhưng Thánh Thần tác động trên người nghe để họ hiểu được theo tiếng của họ.  Cách thứ hai thì cho rằng quả thực Thánh Thần tác động trên các tông đồ để các ngài có khả năng nói được các thứ tiếng ngoại ngữ. Theo mạch văn thì cách thứ hai có sức thuyết phục hơn : chính các thính giả la lên :”Chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Chúa” (Cv 2,11).
 
          Phép lạ ngôn ngữ này là hình ảnh đối lại với câu chuyện tháp Babel xưa (St 11,1-11). Câu chuyện đó là ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Noe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao  hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau.  Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không qui tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không còn thông cảm với nhau được..
 
          Hôm nay, với tác động của Chúa Thánh Thần, mọi dị biệt ngôn ngữ đã bị xóa bỏ để mọi người cùng nghe được sứ điệp Tin mừng.  Nhân loại được giao hòa và hiệp nhất với nhau.
 
          2. Nói về ngôn ngữ.
 
          Theo tự điển Đào duy Anh thì : tự mình nói ra là ngôn, đáp lại kẻ khác gọi là ngữ. Hay nói cách khác, ngôn ngữ là “nói năng”. Ngôn ngữ bất đồng là tiếng nói không giống nhau, không thể nói chuyện cùng nhau.   Có nhiều loại ngôn ngữ, ta tạm chia làm 3 loại :
 
          a) Ngôn ngữ bằng lời nói.
 
          Đây là thứ ngôn ngữ dành riêng cho con người có trí khôn. Con vật dù có thông minh mấy cũng không thể xử dụng được thứ ngôn ngữ này vì nó đòi hỏi phải có lý trí để hiểu biết lời mình nói. Con yểng, con nhòng, con sáo... có thể bắt chước tiếng người nói lại được một vài câu, nhưng chúng chỉ nói lại như cái máy vi âm chứ không hiểu biết gì cả.
 
          Vì con người có thể hiểu được lời mình nói và phải chịu trách nhiệm về lời nói đó, nên người ta mới khuyên :
                                   Lời nói chẳng mất tiền mua,
                                    Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
                                                  (Ca dao)
          Ngôn ngữ này cũng liên quan đến tiếng cười, tiếng khóc.  Cười hay khóc đều biểu lộ niềm vui hay nỗi buồn của con người.  Cười khóc cũng là đặc tính riêng biệt của con người, cần phải có sự hiểu biết thì mới có thể cười hay khóc được, con vật không có khả năng này. Vì thế người ta nói :
                                  Làm người có miệng có môi,
                                 Khi buồn thì khóc, khi vui lại cười.
                                                (Ca dao)
 
          b) Ngôn ngữ bằng chữ viết.
 
          Ngày xưa, người ta có những tư tưởng rất hay, rất thâm thúy, có cả những phát minh nữa  như Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo, giáo lý của Phật Thích Ca, triết lý của Socrates, Platon, Aristote, Lão Tử, Khổng Tử... làm thế nào có thể truyền lại cho hậu thế , nếu không dùng đến ký tự, chữ viết đủ mọi loại vì ngày xưa chưa có máy vi âm như ngày nay ?
 
          Trong những kim tự tháp ở Ai cập, còn có nhiều loại chữ viết kỳ bí mà ngày nay người ta cũng chưa giải mã được, chưa hiểu được ý nghĩa của những chữ viết đó.
 
          c) Ngôn ngữ bằng cử chỉ.
 
          Khi nói tới ngôn ngữ thì không nhất thiết là phải nói tới lời nói hay nói năng, còn có một thứ ngôn ngữ khác không cần phải nói năng mà ai cũng hiểu được, đó là “cử chỉ”. Ngôn ngữ cử chỉ đây là một qui ước người ta đặt ra với nhau và cho nó một ý nghĩa để người ta có thể hiểu nhau được.
Có những cử chỉ mang một ý nghĩa phổ biến mà bất kỳ ai cũng có thể hiểu được, ví dụ : cười biểu lộ sự vui tươi, khóc biểu lộ sự buồn bã, gật đầu tỏ vẻ đồng ý, lắc đầu tỏ ý từ chối.
 
          Dĩ nhiên có một số cử chỉ khác mang ý nghĩa theo qui ước mà người ta phải học thì mới hiều được, ví dụ  “xê-ma-pho, hay cử điệu bằng tay của những người câm.
 
          3. Ngôn ngữ của chúng ta.
 
          a) Ngôn ngữ tự nhiên.
 
          Trong đời sống hằng ngày, việc trao đổi tư tưởng và tâm tình thường diễn tả bằng lời nói vì đó là thứ truyền thông rất hiệu nghiệm và phổ biến. Chỉ có người nào câm mới bị loại trừ ra khỏi thứ ngôn ngữ này.
 
          Chúng ta cũng phải lưu ý trong việc dùng ngôn ngữ bằng lời nói vì nó dễ đưa tới hậu quả xấu khi chúng ta cẩu thả trong lời nói, thiếu suy nghĩ như người ta khuyên :”Hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”.  Người xưa khuyên ta phải thận trọng trong lời nói :
 
                             Nhất ngôn thuyết quá, tứ mã nan truy.         
(Một lời nói sai trái thì bốn con ngựa đuổi không kịp)
 
          Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta là sẽ bị lên án về lời nói của mình :”Loài rắn độc kia, xấu như các ngươi, thì làm sao nói điều tốt được ? Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình ; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình. Tôi nói cho các ngươi hay : đến ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói. Vì nhờ lời nói của anh em mà anh em sẽ được trắng án ; và cũng tại lời nói của anh em mà anh sẽ bị kết án”(Mt 12,34-37 ; Mc 3,29 . Lc 12,10).
 
          b) Ngôn ngữ thiêng liêng hay thần bí.
 
          Trong đời sống thiêng liêng chúng ta còn có loại ngôn ngữ thần bí mà không có cách nào diễn tả được. Đó là ngôn ngữ đức tin  và ngôn ngữ của tình yêu.  Chúng ta chỉ có thể có được ngôn ngữ này khi chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa,  hai tâm hồn đã kết hợp với nhau để không còn phân biệt được Chúa nói với ta hay ta nói với Chúa , vì lúc đó “tôi sống mà không phải tôi sống mà Chúa Kitô sống trong tôi”, tôi đã nên một với Người.
 
          Bình thường khi cầu nguyện thì ta nói , Chúa nghe , đôi lúc Chúa nói, ta nghe,  nhưng đến giai đoạn cao nhất là không còn nói, không còn nghe. Chúng ta có thể chia thành 4 giai đoạn  theo tứ tự sau đây:
                   1/ Ta nói, Chúa nghe.
                   2/ Chúa nói, ta nghe.
                   3/ Không ai nói, cả hai chỉ nghe.
                   4/ Không ai nói mà cũng không ai nghe.
                      Tất cả chỉ là một sự im lặng tuyệt đối.
 
                                      Truyện : Trong phòng thông dịch viên.
          Người ta mới phát minh được một cái máy kỳ diệu. Nó là một óc điện tử có thể dịch ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Hiện thời, máy chỉ có thể dịch tiếng Nga sang tiếng Anh. Nhưng bước đầu đã thành công, một bước tiến vĩ đại, và chắc thế nào những bước sau cũng sẽ thành công hơn.
 
          Hiện nay trong những hội nghị quốc tế chẳng hạn như hội nghị Minh ước Bắc Đại tây dương ở Paris, hay tại Liên hiệp quốc ở New York, người ta còn phải dùng thông dịch viên, đây cũng là một thành công chói lọi của kỹ thuật tân tiến. Các đại biểu trong hội nghị chỉ cần đưa máy nghe lên tai thì tức khắc họ sẽ nghe diễn giả đang nói tiếng Ba tư nói thành tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Ý… từng câu một, tòan thể bài diễn văn được dịch ra và chuyền lại cho các thính giả nghe.
 
          Người ta có thể so sánh việc này với phép lạ về ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lúc các tông đồ còn đang sợ sệt lo ngại vì Đức Giêsu đã lên trời. Họ đóng cửa ở trong phòng, không biết làm thế nào để thực hiện được lời Chúa dạy là biến đổi thế gian. Rồi một buổi sáng nọ, bỗng nhiên Chúa Thánh Thần hiện xuống dưới hình thức cơn gió lốc. Các tông đồ tự nhiên thấy vững tâm mạnh dạn. Họ mở cửa, ra ngòai đường và bắt đầu giảng.Trước mặt họ là một đám đông dân chúng hỗn độn, gốc cả 15 nước và nói 15 thứ tiếng. Thế mà khi tông đồ nói, mỗi người nghe như tông đồ nói tiếng xứ mình. Tất cả đều hiểu rằng tông đồ giảng về Tình thương và Hòa bình. Thông dịch viên là ai ? Đó là Đức Chúa Thánh Thần.
 
          4. Ngôn ngữ và loan báo Tin mừng.
 
          Thánh Phaolô bảo : có nhiều đặc sủng, có nhiều cách phục vụ khác nhau trong Giáo hội. Nhưng các đặc sủng ấy chỉ nhằm phục vụ lợi ích chung… Khi chúng ta được chịu phép rửa tội và đặc biệt trong ngày lễ hôm nay, Chúa Thánh Thần đều ban cho mỗi người chúng ta đặc sủng ngôn ngữ để chúng ta loan báo Tin mừng, để làm trọn sứ mạng tiên tri của mình.
 
          Ngôn ngữ đây không nhất thiết phải là lời nói hay chữ viết, mà là cử chỉ, điệu bộ ; hay nói cách khác, ngôn ngữ này là chính con người chúng ta, cuộc sống thực tế hằng ngày của ta. Loan báo Tin mừng bằng lời nói hay chữ viết có thể vượt trên khả năng của ta, nhưng ngôn ngữ bằng cuộc sống hằng ngày thì phù hợp với tất cả mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Chính cuộc sống gương mẫu của ta là một bằng chứng hùng hồn nói lên sự hiện hữu của Thiên Chúa. Gương sáng của ta là một sức mạnh lôi kéo mọi người đến với Chúa, một việc làm có tính cách thuyết phục đến nỗi không thể từ chối được. Vì :
 
                             Lời nói như gió lung lay,Gương bày như tay lối kéo.
                                                (Tục ngữ)
 
          Ánh sáng soi vào trong đêm tối sẽ làm cho bóng tối biến đi. Sứ mạng của ánh sáng là phải chiếu vào nơi tối tăm, mà chúng ta là ánh sáng thế gian (Mt 5,14) thì chúng ta có nhiệm vụ phải làm cho thế gian u tối phải bừng lên ánh sáng Chúa Kitô như lời Ngài dạy :”Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
 
          Chính cuộc đời gương mẫu của ta sẽ trở thành một bài giảng hùng hồn khiến họ cảm phục, một bài giảng không cần dùng lời nói mà có sức lôi kéo không thể cưỡng lại được, dĩ nhiên phải cùng với sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hoá Giáo hội và mỗi người.
 
                                      Truyện : Bài giảng biết đi.
          Một buổi chiều của năm 1953, các ký giả và một số nhân viên chính phủ tập trung tại một nhà ga xe lửa ở Chicago, Hoa kỳ để chào đón một người được giải thưởng Nobel hoà bình năm 1952.
 
          Người vừa xuống khỏi xe lửa là một người đàn ông to lớn, tóc ngắn và mang một chòm râu cắt gọn ghẽ. Các máy hình chớp liên hồi. Các nhân viên cao cấp của thành phố đang rộng tay để đón chào vị thượng khách.
 
          Người được giải Nobel hoà bình cám ơn mọi người rồi bỗng đưa mắt nhìn vào một chỗ nào đó trên sân ga.  Ông xin kiếu vài phút để đi thẳng về hướng ấy. Mọi người đều tưởng ông  đã để quên một hành lý nào chăng.
 
          Ông băng qua đám đông đi thẳng tới một người đàn bà có tuổi đang khệ nệ với hai vali nặng. Ông giơ tay đỡ lấy một chiếc vali, mỉm cười với bà rồi dẫn bà ra một  chiếc xe buýt gần đó.  Khi giúp người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Quay lại với đám đông đang chờ đợi, ông nói :”Xin lỗi quí vị vì đã bắt quí vị chờ đợi”.
 
          Người được giải Nobel hoà bình năm 1953 ấy, không ai khác hơn là bác sĩ Albert Schweitser, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hy sinh cả cuộc đời cho những người nghèo tại Phi châu. Chứng kiến cử chỉ của ông, một người trong ban tổ chức đón tiếp ông hôm đó, đã nói với một ký giả :”Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài giảng biết đi”.
          (R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọÏng, tr 41-42)
 
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạT

 

 
LỄ  THĂNG THIÊN, A
GIÁO HỘI THI HÀNH SỨ VỤ MỚI
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người chịu chết trên thập tự để chuộc tội cho lòai người, để con người được quyền  làm con Chúa và được thừa hưởng Nước Trời. Ngài đã đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, chiêu tập môn đệ, thành lập Giáo hội để tiếp nối công việc của Ngài ở trần gian. Sau khi đã hòan tất sứ mạng một cách hòan hảo, Đức Giêsu trở về cùng Chúa Cha để được hưởng vinh quang  mà Cha đã dành cho Ngài.  Hôm nay là lễ Thăng Thiên và cũøng là ngày bàn giao quyền năng và sứ mạng của Ngài cho các môn đệ và Giáo hội.
 
          Trước khi từ giã các Tông đồ đi về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu trao lại sứ vụ của Ngài cho các ông là loan báo Tin mừng cho muôn dân.  Tuy Đức Giêsu hứa sẽ ở cùng các ông cho đến ngày tận thế nhưng Ngài không trực tiếp giảng dạy được mà phải nhờ đến các ông và Giáo hội.  Từ đó ,Giáo hội phải nhận lấy trách nhiệm tiếp nối công trình của Ngài như Ngài đã dạy :”Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
 
          Hiệp thông với các môn đệ được chứng kiến việc Chúa lên trời, ta cùng mang lấy tâm tình và bắt chước công việc các ông sau khi Chúa về trời, đó là “Chúa về trời, ta vào đời”. Ta phải vào đời để làm tròn sứ mạng Chúa đã trao phó cho chúng ta, đó là “Làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Chúa”(Mt 28,20) bằng đời sống chứng nhân của mình. Đồng thời hãy vui mừng phấn khởi với lời hứa của Chúa :”Thầy ra đi để dọn chỗ cho các con… để Thầy ở đâu, các con sẽ ở đó với Thầy”. Thiên đàng là quê hương của chúng ta, nơi Chúa đang chờ đợi. Nhưng dầu sao chúng ta phải nỗ lực không ngừng để tiến tới nơi đó vì “Nuớc Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh”(Mt 11,12; Lc 16,16).
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc 1 : Cv 1,1-11.
 
          Bài đọc 1 được rút ra từ sách Công vụ Tông đồ của thánh Luca và cũng là tác giả của sách Tin mừng thứ ba. Thánh Luca cho biết Chúa Giêsu kết thúc công việc  mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài, nay Ngài về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trước khi về trời Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ hai điều :
          * Thứ nhất Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Hãy tin tưởng chờ đợi.
          * Thứ hai Ngài trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp cùng trái đất.
 
          +  Bài đọc 2 : Ep 1,17-23.
 
          Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô cầu xin Chúa Cha ban cho các tín hữu thần khí khôn ngoan để nhận biết mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, và mở trí lòng ra  mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã lãnh nhận.  Đức Kitô đã được trỗi dậy từ cõi chết, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được làm chúa muôn vật :”Thiên Chúa đã đặt tất cả  dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh, mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,23).
 
          +  Bài Tin mừng : Ga 28,16-20.
 
          Thánh Matthêu kết thúc sách Tin mừng của Ngài bằng một bài ngắn gọn tường thuật việc Chúa Giêsu từ giã các môn đệ mà về trời. Ý chính của bài Tin mừng này cũng giống như bài trích sách Công vụ tông đồ hôm nay : Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ hãy tiếp nối công trình của Ngài. Tuy Ngài không hiện diện để các ông trông thấy hay nghe thấy nhưng Ngài sẽ hiện diện bằng một cách thế mới để hoạt động trong Hội thánh.  Ngài sẽ còn ở lại với Hội thánh cho đến ngày tận thế. Phần các ông ở lại,  hãy thực hiện lời Chúa :”Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Chúa về trời, ta vào đời.
I. ĐỨC GIÊSU VỀ TRỜI.
 
          Sau khi sống lại, Đức Giêsu liên tiếp hiện ra với các môn đệ để vừa xác nhận việc Ngài sống lại vừa để bổ túc việc dạy dỗ các ông.
 
Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ trong thời gian bao lâu ? Thánh Luca cho biết là 40 ngày (các sách ngụy thư nói đến 50 ngày hay 18 tháng), một thời gian khả dĩ cần thiết để kiện tòan việc dạy dỗ các tông đồ.
 
          Hôm nay Đức Giêsu quyết định ra đi vĩnh viễn trong một cuộc hiển linh đầy quyền năng, một cuộc Thăng thiên về nhà Cha trên trời. Có người cho rằng đây là lần hiện ra lần sau hết với 500 môn đệ để mọi người chứng kiến việc Chúa lên trời. Nhưng trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca cho biết chỉ có 11 tông đồ qui tụ về Galilê để được dạy dỗ và chứng kiến việc Chúa lên trời. Sở dĩ chỉ có 11 tông đồ vì Giuđa đã phản bội Chúa, đáng lẽ phải hối hận và đi tìm gặp Chúa đệ tạ lỗi thì lại đi thắt cổ tự tử (Mt 27,5).
 
          Thánh Matthêu cho biết tiếp :”Mười một môn đệ đi tới Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã hẹn với các ông (Mt 28,16). Trong Thánh Kinh, núi là nơi mang một tính chất thiêng liêng. Theo thánh Matthêu, các bản văn, lề luật quan trọng đều được ban ra từ trên núi như Thập giới, Tám mối phúc thật (Mt 5,1), Biến hình (Mt 17,1). Núi là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, để tôn vinh và thờ lạy.
 
          Khi thấy Đức Giêsu “Các ông phục lạy Ngài”(Mt 28,17). Thánh Matthêu có ý dùng chữ “Phục lạy”. Động từ này có ý nghĩa thần học chính xác. “Phục lạy” chỉ được dùng cho những ai đã nhận biết phẩm vị của Đức Giêsu và nhìn nhận phẩm vị này qua cử chỉ đó như ba nhà Đạo sĩ đến triều bái Chúa Hài nhi (Mt 2,11), người phung cùi được sạch (Mt 8,2), các môn đệ trên thuyền (Mt 14,33), người đàn bà xứ Cana (Mt 15,25). Hôm nay các ông thờ lạy cách kính cẩn hơn nữa vì Ngài huy hòang trong ánh sáng Phục sinh, vì nơi Ngài “Mọi quyền năng trên trời dưới đất được trao phó”. Tuy nhiên, cũng có mấy ông còn hòai nghi, nhưng không nói rõ tên ai.
 
          Đức Giêsu tiến lại gần họ và phán :”Mọi quyền năng trên trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Các con hãy đi giảng dạy muôn dân”(Mt 28,18). Đức Giêsu đã chính thức trao quyền hành  và sứ mạng của Ngài cho các ông để tiếp tục hòan thành. Hôm nay Đức Giêsu ra đi nhưng là ngày các môn đệ lên đường, họ có nhiệm vụ đi chinh phục thế giới. Chinh phục bằng lời giảng dạy, chinh phục bằng phép rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi : Cha, Con và Thánh Thần.
 
          Hôm nay, sau cuộc bàn giao, Đức Giêsu lên trời, các môn đệ phấn khởi nhìn theo, nhưng các ông còn nghe văng vẳng bên tai lời Chúa kết thúc Tin mừng :”Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Rồi họ xuống núi trở về xây dựng Giáo hội, làm cho Giáo hội thêm vững mạnh và phát triển chờ đợi Ngày Chúa lại đến. Giáo hội của Chúa sẽ đứng vững kiên cường không một thế lực nào có thểâ làm sụp đổ như lời sử gia Ba lan, ông Henryk Sienkievick, nói :”Các bạo Chúa cùng với triều đại của họ đều lần lượt tiêu tan – Nhưng con thuyền của người dân chài Galilê cầm lái vẫn hiên ngang lướt sống”. Đấng là chủ con tầu đã chẳng từng nói đó sao (Mt 16,18) ?
 
II. CHÚNG TA VÀO ĐỜI.
 
          1. Chúa về trời.
 
          a) Chúa Giêsu về với Cha.
 
Nhiều lần Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ là Ngài sẽ về cùng Cha, Ngài hay nhắc đến Cha Ngài, đến nỗi ông Philipphê đã thưa với Ngài :”Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8).
 
          Sau khi hoàn thành sứ mạng của Cha giao phó là chịu chết chuộc tội cho nhân loại và sống lại để phục hồi cho con người sự sống mới, thì Chúa Giêsu đã lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được đặt làm chủ tể muôn loài :”Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời ? Đức Giêsu Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” (Cv 1,11)
 
          Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa lên trời hay mừng lễ Thăng thiên. Theo chữ Nho thì “Thăng” là lên và “Thiên” là trời. Xét theo nghĩa chữ thì “thăng thiên” chính là “lên trời”. Thế nhưng tại sao Ngài lại nói rằng “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ? Nói như vậy là  Chúa vẫn còn ở với chúng ta chứ đâu có “lên trời” !
 
          Chúng ta phải lưu ý đến cách viết của tác giả Matthêu. Ngài đã dùng từ không theo sát nghĩa đen, nhưng theo nghĩa mà người dân quen hiểu. Theo đó, cái gì cao thì gọi là “trời”, cái gì thấp thì gọi là “đất”, tình trạng tiến khá hơn thì gọi là “lên”, lùi tệ hơn thì nói là “xuống”.  Như thế, “thăng thiên” hay ‘lên trời” không chỉ một chuyển động trong không gian, mà chỉ một tình trạng tốt hơn trước. Ngày xưa, Đức Giêsu nhập thế thì được diễn tả là “giáng trần” hay “xuống đất”. Hôm nay Ngài trở về tình trạng vinh quang với Chúa Cha thì được diễn tả là “lên trời”. Bởi vì, Đức Giêsu chỉ thay đổi tình trạng thôi cho nên dù bây giờ Ngài vinh quang, Ngài vẫn ở cùng chúng ta  mọi ngày cho đến tận thế, chứ không phải Ngài lên “ở trên trời” và để chúng ta phải mồ côi “ở dưới đất”.
 
          Lễ Thăng thiên đánh dấu sự thay đổi tình trạng của Đức Giêsu. Hình dung Đức Giêsu đang bay lên giữa các tầng mây, hay đang ngồi bên phải Chúa Cha chỉ là những cách tưởng tượng. Những hình ảnh tưởng tượng này có cụ thể với đầu óc bình dân đấy, nhưng gây tai hại là khiến người ta nghĩ rằng Đức Giêsu đã xa cách loài người.
 
          Chúng ta phải đi xa hơn những hình ảnh tưởng tượng kia để đạt đến ý nghĩa đích thực  của việc thăng thiên : đó là Đức Giêsu đã lấy lại vinh quang,  Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta luôn mãi, và nhờ vinh quang, Ngài sẽ hỗ trợ đặc biệt cho chúng ta (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 215).
 
          b) Có thiên đàng không ?
 
          Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha, đó là phần thưởng Cha dành cho Ngài sau khi đã hoàn thành sứ mạng được giao phó. “Lên trời” hay “lên thiên đàng” cũng là một , chỉ khác từ ngữ, còn ý nghĩa vẫn như nhau.  Vậy Chúa Giêsu lên trời cũng có nghĩa là lên thiên đàng.
 
Trước đây Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ việc Ngài ra đi và đi để làm gì trong bài Tin mừng Chúa nhật 5 vừa qua :”Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thày, có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3). Chúa Giêsu đi dọn chỗ cho chúng ta ở đâu, nếu không phải là ở thiên đàng ? Đúng vậy, Chúa Giêsu lên trời tức là lên thiên đàng như ở trên chúng ta đã nói.  Do đó, chúng ta đặt ra hai vấn đề :
 
* Thiên đàng thế nào ?
 
Ta không biết rõ Thiên đàng như thế nào, nhưng ta chỉ biết đó là nơi ta sẽ được thấy Thiên Chúa nhãn tiền và được hạnh phúc vô cùng.  Những người đã được nếm thử cảnh hạnh phúc thiên đàng nói lại cho ta điều họ thử nghiệm như sau :
 
 Các Tông đồ ngây ngất nhìn về trời khi Chúa Giêsu được cất lên khỏi mặt đất, đến nỗi phải có hai thiên thần đến thức tỉnh các ông (Cv 1, 9-10).
 
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan ngây ngất nhìn Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê (Mt 17,1tt).
 
 Còn thánh Phaolô thì thốt lên như sau :”Người ấy đã được nhắc lên đến tận tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng người ấy – hoặc trong thân xác hoặc ở ngoài thân xác, tôi không biết, có Thiên Chúa biết – đã được nhắc vào Thiên đàng và được nghe những lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại”(2Cr 12,2-4).
 
 Thiên đàng như thế nào không ai biết và nếu có biết thì không thể nào diễn tả được.
* Thiên đàng ở đâu ?
 
Ta dùng hai từ “lên thiên đàng” và “xuống hỏa ngục”, hai từ ấy gợi cho chúng ta cái ý nghĩ về một không gian vật chất có thể trông thấy được, sờ mó được . Nhưng đúng ra, thiên đàng hay hỏa ngục chỉ là một trạng thái của tâm hồn. Tâm hồn ta có thể là thiên đàng, cũng có thể là hỏa ngục.  Nếu thi sĩ Nguyễn Du nói “Thiện tâm ở tại lòng ta” thì ta cũng có thể nói :”Thiên đàng hỏa ngục ở ngay trong lòng ta”.
 
                             Truyện : không có thiên đàng
Chính vì hiểu Thiên đàng là không gian vật chất nên ông Kroutchev, thủ tướng của Liên xô cũ, đã nói với ký giả C. Sulberger ngày 5.9.1961 rằng :”Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung, anh YOURI GAGARINE. Anh đã đi vòng quanh quả địa cầu, mà chỉ trông thấy những bóng đen dầy đặc. Không có chi giống như thiên đàng cả.  (Sau đó) chúng tôi đã suy nghĩ và chúng tôi đã gửi một thám tử khác lên : GERMAN TITOV. Chúng tôi đã bảo anh rằng :”Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa trông thấy thiên đàng, vì chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy trông cho kỹ”. Titov đã trẩy đi, rồi trở về, và anh đã xác nhận lời tuyên bố của Gagarine :”Hư vô ! Chỉ có hư vô”.
         Rồi Kroutchev xoa tay kết luận :”Cho nên người Cộng sản chúng tôi không tin có đời sau”.
                             (Information catholique, ngày 1.10.1961, tr 14)
 
          2. Ta vào đời.
 
          Khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ ngây ngất nhìn lên trời để chiêm ngắm vẻ đẹp của Chúa Giêsu. Các ông đã quên trần gian, đến nỗi hai thiên thần phải hiện đến nhắc nhở cho các ông hãy quay về với thực tại, nghĩa là hãy quay về với đời sống hằng ngày, nhưng lòng vẫn hướng về trời. Vậy , Chúa đã về trời, còn chúng ta vào đời để làm gì ?
 
          a) Để loan báo Tin mừng.
 
Quang cảnh Chúa Giêsu lên trời đẹp quá, khiến các môn đệ còn ngước mắt lên trời nhìn theo. Các ông ước ao được hưởng vinh quang và vẻ đẹp của Chúa Giêsu như khi Ngài biến hình trên núi Taborê. Còn đang say sưa nhìn trời thì hai thiên thần hiện ra nhắc nhở cho các môn đệ “Sao các ông còn đứng nhìn trời” ? Điều này nhắc nhở cho các ông và mọi Kitô hữu hãy quay trở lại với thực tế trần gian để tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Giêsu.
 
          Vậy vào đời để tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu là gì ? Ta hãy nghe lời nhắc nhở sau cùng của Chúa Giêsu trước khi từ giã các ông :”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy sẽ ở cùng anh em cho đến tận thế”(Cv 1,11).
 
          b) Để chuẩn bị về quê trời.
 
          Ngày lễ Thăng thiên hôm nay nhắc nhở chúng ta sống tốt lành và hướng lòng ta về trời là quê hương, như thánh Phaolô nói :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”(Pl 3,20-21).
 
          Quê trời là niềm hy vọng của chúng ta, là động lực khuyến khích chúng ta  chấp nhận một cuộc sống đầy gian nan ở trần gian này, nếu không thì những cố gắng của chúng ta  sẽ trở nên vô ích. Thánh Ambrôsiô nói :”Nếu Chúa chết đi mà không sống lại thì mọi tin tưởng của chúng ta  đều là ảo tưởng (1Cr 15,17). Nhưng nếu Chúa sống lại mà không lên trời thì bao gian lao đau khổ chúng ta phải chịu vì Chúa phải cho là vô ích. Bởi vì, chúng ta sẽ lấy đà nào để chịu khó, nếu chúng ta không có hy vọng lên trời”.
 
          Ai muốn lên thiên đàng thì phải yêu mến Chúa và yêu mến Chúa thì phải thi hành lời Chúa như Ngài đã phán :”Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các đều răn của Thầy” (Ga 14,15).  Thi hành lời Chúa là phải đem ra thực hành các điều Chúa dạy ; điều này đòi hỏi mọi Kitô hữu phải cố  gắng, phải hy sinh, phải dấn thân, phải nép nình vào mà đi qua cửa hẹp, bởi vì Chúa đã nói:”Không phải cứ kêu Lạy Chúa, lạy Chúa, mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ý Cha Ta ở trên trời” (Mt 7,21)
 
          Việc lên trời là việc của từng người, mỗi người phải quyết định lấy, không ai có thể làm thay được. Chúa thương yêu chúng ta thật, nhưng Ngài không áp đặt chúng ta, Ngài không cưỡng chế chúng ta phải về trời, Ngài luôn tôn trọng quyền tự do của mỗi người. Nhưng dù sao, muốn lên thiên đàng cũng phải có điều kiện như người ta nói :
 
                                      Lênh đênh trên cửa Thần phù,
                                      Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.
                                                (Ca dao)
 
          Mỗi người phải khéo lèo lái con thuyền của mình trên biển trần gian này mới được yên ổn, giống như ở Thánh hóa, ngày xưa có cửa biển Thần phù (bây giờ không biết có còn không), ở đó có dòng nước xoáy, rất nguy hiểm, người chèo qua đó phải rất cứng tay và khéo léo, nếu không sẽ bị chìm.  Người ta lấy câu ca dao này để khuyên mọi người phải sống tốt lành để khỏi hư đi. Người ta rất khéo léo dùng chữ “tu” ở đây.  Theo chữ Nho , chữ “tu” thì có nghĩa là “sửa”. Tu thân là sửa mình.  Vậy ai khéo tu thân tích đức là người khéo chèo chống thì sẽ nổi, sẽ được rỗi ; còn ngược lại thì sẽ bị chìm, tức là phải trầm luân.
 
                                      Truyện : Ai muốn lên thiên đàng ?
          Một hôm, trong nguyện đường D.S, một vị giảng thuyết hỏi giáo dân :
          - Những ai muốn lên thiên đàng hãy đứng lên.
          Tất cả cử tọa đều nhất loạt đứng dậy, chỉ trừ một người : anh ta cứ ngồi yên hàng ghế bên cạnh. Vị giảng thuyết liền hỏi anh ta :
          - Thế còn bạn, bạn muốn đi đâu ?
          Chàng uể oải trả lời :
-          Chả đi đâu cả ! Tôi muốn được lên Thiên đang ngay ở đây.
 
          Những người muốn một đời sống dễ dàng thường quên mất sự kiện này là : để sống dễ dàng, họ đã ỷ lại nhờ vả kẻ khác làm công việc mà đáng lẽ  chính họ phải thực hiện. Nói khác đi, họ muốn đi du lịch mà không mất tiền (J. Keller, báo Thẳng tiến, số 29, th 01/63).
 
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt
 

 
CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH A
YÊU MẾN VÀ GIỮ LỜI CHÚA
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Thi sĩ Xuân Diệu nói :”Đố ai định nghĩa được tình yêu”. Đúng thế, cho đến nay chúng ta chưa có được một câu định nghĩa nào về tình yêu khả dĩ có thể bao hàm được mọi khía cạnh của tình yêu.  Thi sĩ Hồ Dzếnh cũng chỉ nói được như thế :”Yêu là khó nói cho xuôi, bởi ai hiểu được sao trời lại xanh”.  Thánh Gioan cũng chỉ có thể nói :”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì : đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 13,7). Đức Giêsu chỉ khuyên người ta yêu nhau mà không hề định nghĩa tình yêu là gì, vì Ngài không muốn dùng đến những từ ngữ hay những tư tưởng trừu tượng mà chỉ khuyên người ta thực hành tình yêu thôi.
 
          Với những lời tạ từ trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu chỉ dùng những lời thân tình mà khuyên các môn đệ :”Nếu các con yêu mếâân Thầy, các con hãy giữ các điều răn của Thầy”(Ga 14,15). Nói như thế, Đức Giêsu không chấp nhận một thứ tình yêu trừu tượng, mông lung, hoa mỹ hoặc văn vẻ như trong tiểu thuyết, thi ca hay trong các nghệ thuật thứ bảy. Ngài muốn một tình yêu sinh động và cụ thể đối với Ngài và đối với nhau. Theo đó, tình yêu của chúng ta đối với Ngài là vâng phục theo đường lối của Chúa, tức là tuân giữ các điều răn Ngài truyền, vì chính Ngài đã yêu mến Chúa Cha bằng cách vâng phục và thi hành mệnh lệnh của Cha Ngài (Ga 15,10).
 
          Kitô hữu đích thực là dồn tất cả tham vọng của mình vào việc mô phỏng theo Đức Kitô. Người ta thường nói :”Kitô hữu, đó là Đức Kitô khác : “Alter Christus”. Không có định nghĩa nào chính xác và hay đẹp hơn. Khi đã theo Đức Kitô thì phải đi theo con đường khổ giá mà Ngài đã đi. Tuân theo thánh ý Chúa và giữ các điều răn của Đức Kitô là đang đi trên con đường khổ giá và con đường này sẽ dẫn chúng ta đến vinh quang.
         
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc 1 : Cv 8,5-8.14-17.
 
          Các tín hữu của cộng đoàn Giêrusalem bị các người Do thái bách hại đã lánh sang vùng Samaria của dân ngoại. Thầy phó tế Philipphê được sai đến rao giảng Tin Mừng. Dân chúng hoan hỉ đón nhận Tin Mừng này, và tiếng tăm đã đồn đến tai các tông đồ.  Các ngài liền cử ông Phêrô và Gioan  đến đặt tay ban Thánh Thần cho họ  vì họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu.
 
          + Bài đọc 2 : 1Pr 3,15-18.
 
          Thánh Phêrô gửi thư cho các tín hữu đang bị bách hại vì đạo Chúa để chỉ dạy cho họ cách thức thể hiện niềm tin và hy vọng của mình trước mặt lương dân.  Người ta sẽ chất vấn về niềm tin của họ, thì phải trả lời cho họ bằng hai cách sau đây :
          a) Hãy trả lời cho họ bằng những lời lẽ ôn hòa và trong sự kính trọng.
          b) Hãy ăn ở công minh chính trực khiến cho những kẻ bách hại phải xấu hổ vì đã bách hại.
 
          + Bài Tin Mừng : Ga 14,15-21.
 
          Đức Giêsu biết trước việc Ngài ra đi sẽ làm cho các môn đệ xao xuyến nên trước khi đi vào cuộc tử nạn, đã yên ủi các ông một cách chân tình. Ngài khuyên các ông hãy yên tâm vì Ngài không để các ông sống chơ vơ như những đứa con mồ côi đâu, Ngài sẽ sai Đấng Phù trợ khác đến ở với họ luôn mãi. Đấng Phù trợ khác mà Chúa Cha sẽ ban cho  đây, chính là Chúa Thánh Thần mà các ông sẽ được lãnh nhận vào dịp lễ Ngũ tuần. Chúa Thánh Thần sẽ làm cho các tông đồâ yêu mến Chúa và thi hành lời Ngài dạy.
 
C. THỰC HÀNH LỜøI CHÚA.
                                                Yêu nhau trăm sự chẳng nề
I NHỮNG LỜI NHẮN NHỦ THÂN TÌNH.
 
          Trong bữa Tiệc ly, sau khi truyền cho các môn đệ phải yêu mến nhau và đặt việc yêu mến nhau  như là dấu chỉ để mọi người nhận ra họ là môn đệ đối với Ngài. Mở đầu đọan trích Tin mừng hôm nay theo thánh Gioan, Đức Giêsu nói :”Nếu các con yêu mến Thầy thì các con sẽ tuân giữ mệnh lệnh Thầy”(Ga 14,15).
 
          Việc yêu mến đó được Đức Giêsu liên kết với việc tuân giữ và thực hành Lời Chúa. Những ai yêu mến Đức Giêsu và giữ Lời Ngài sẽ được ở trong cộng đồng tình yêu của Thiên Chúa :”Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy”(Ga 14,21).
 
          Ở đây cho thấy Đức Giêsu không chấp nhận một thứ tình yêu trừu tượng, chỉ bằng tình cảm mông lung, Ngài chủ trương một thứ tình yêu sống động và được biểu lộ trong sự tuân phục theo đường lối của Chúa, tức là tuân giữ các giới răn Ngài truyền. Chính Đức Giêsu cũng đã yêu mến Chúa Cha  bằng cách giữ các lệnh truyền của Chúa Cha (Ga 15,10).
 
          Lúc này, chắc các môn đệ đã cảm nhận được những việc sắp xẩy ra. Họ hẳn đã cảm nhận được chuyện bi thảm đang tới gần. Nhưng Đức Giêsu đã yên ủi họ :”Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng bầu chữa khác đến với các con luôn mãi… Thầy không để cho các con mồ côi đâu”(Ga 14, 16.18). Từ ngữ “Mồ côi” dùng ở đây có nghĩa là không có cha, từ ngữ này cũng được dùng để chỉ đám môn sinh, đám học trò mất thầy, mất đi những lời dạy bảo của thầy thân yêu. Lúc Socrate chết, Platon nói về các môn sinh của Socrate rằng :” Họ nghĩ họ sẽ phải sống mồ côi suốt quãng đời còn lại như những đứa con mất cha, và họ sẽ chẳng biết phải làm gì”.
 
          Nhưng Đức Giêsu bảo các môn đệ rằng, trường hợp của họ thì không như thế. Ngài phán : Thầy sẽ trở lại”.  Ngài có ý nói về sự phục sinh và việc Ngài luôn có mặt bên họ sau khi phục sinh. Nhưng sự hiện diện của Ngài không thể dùng giác quan mà thấy nhưng phải dùng con maắt đức tin bởi vì Ngài hiện diện một cách vô hình.
 
          Sau cùng, Đức Giêsu kết luận :”Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới lả kẻ yêu mên thầy… và sẽ được Cha Thầy yêu mến”(Ga 1421). Đây là một mạc khải của Đức Kitô về tình yêu của Chúa Cha.  Mạc khải này cũng hé mở cho ta hiểu thêm  về tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa thật thâm sâu, mật thiết trên mọi bình diện (Ga 4,34; 6,38).
II. YÊU NHAU SINH TỬ CŨNG LIỀU.
 
          1. Yêu mến và hành động.
 
          Đức Giêsu luôn yêu thương các môn đệ của Ngài cả khi Ngài vắng mặt. Ngài hứa không để cho các ông sống vất vưởng như những đứa con mồ côi, nhưng sẽ sai Đấng Phù trợ đến ở với các ông để yên ủi, soi sáng, khích lệ và nâng đỡ các ông. Đáp lại, Đức Giêsu cũng đòi buộc các ông phải yêu Ngài. Tình yêu đối với Ngài không phải chỉ là những tình cảm hay một cảm xúc bồng bột nhất thời, nhưng tình yêu này phải được xây dựng trên ý chí,  nghĩa là phải vâng theo lời Ngài, phải thực hiện lời Ngài trong cuộc sống vì ngài đã nói rõ :”Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ vâng giữ lời Thầy” (Ga 14,23).
 
          Chữ “nếu” đây không phải là một việc làm tùy nghi nhưng là một điều kiện thiết yếu, một điều kiện mà tiếng La tinh gọi là “conditio sine qua non”, không có không được.  Từ ngữ “nếu” đây liên kết hai vế của “yêu Chúa” và “giữ lời Ngài”, hễ không có vế này thì không có vế kia.  Giữ lời hay giữ giới răn không phải là một loạt những điều tùy nghi trong nhiệt tình tình yêu của chúng ta hướng về Chúa Kitô. Đây thậm chí không phải là một điều logic : nếu tôi yêu mến Chúa Kitô, tôi phải giữ các giới răn của Ngài. Tiếng “nếu” liên kết chặt chẽ hơn lòng chúng ta yêu mến Chúa Giêsu với cách ăn ở của chúng ta trong cuộc sống : tôi chỉ yêu thương khi tôi vâng lời Ngài bởi vì tình yêu thực sự, cụ thể của tôi chính là đều mà tôi làm. Nhưng thất bại của chúng ta có nguồn gốc tại đây : từ chối hiểu rằng tình yêu không phải là một từ, một giấc mơ, cũng như một nhịp đập của tim, mà là một cách cư xử (André Sève,  Tin Mừng Chúa nhật, năm A, tr 164).
 
          Tình yêu phải thể hiện ra bằng việc làm cụ thể, chính việc làm ấy mới bảo đảm cho tình  yêu thật.  Nếu yêu mà không thể hiện bằng hành động thì tình yêu chỉ ở trên đầu môi chóp lưỡi, hay chỉ là một cảm xúc nhất thời. Hành động đó phải được thể hiện ra trước mặt người yêu để người ấy vui lòng, và hành động theo ý người mình yêu ngay cả khi người ấy không có mặt.  Nếu không người ta sẽ nói :
                                      Thương thương nhớ nhớ thương thương,
                                     Nước kia muốn chảy mà mương chẳng đào.
                                                      (Ca dao)
 
          Trong cuốn sách The Living Stone có một câu truyện như sau : Jonathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thầy khả kính. Ngày vị thầy này sắp lìa trần, ông cho gọi Jonathan trở về để gặp thầy lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ.  Nhưng lời trăn trối cuối cùng của ông chỉ vỏn vẹn mấy chữ :”Hãy hành động vì lòng mến”.
 
          Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, Đức Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ, Ngài cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản của lòng mến :”Ai nghe và vâng giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Đức Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính, dù rằng đó cũng là điều qúi gía cho phép chúng ta tin tưởng rằng chúng ta đang yêu mến Chúa. Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn  tìm cách  làm đẹp lòng người yêu, sẵn sàng cho đi tất cả, chứ không dừng lại ở những rung cảm của thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình (Mỗi ngày một tin vui,  Phục sinh, tr 253).
 
          Với thánh Gioan, chỉ có một cách để trắc nghiệm tình yêu thương là sự vâng lời. Đức  Giêsu đã chứùng minh Ngài yêu Chúa Cha bằng sự vâng lời.  Ông  Barett nói :”Thánh Gioan chẳng bao giờ cho phép biến tình yêu thành một thứ cảm xúc. Tình yêu được bộc lộ dưới tính cách đạo đức, bầy tỏ ra bằng sự vâng lời”.
 
          Chúng ta biết nhiều người chỉ yêu thương qua đầu môi chót lưỡi, đồng thời lại làm cho những người họ yêu phải đau đớn, khổ tâm. Có những thanh thiếu niên bảo chúng yêu thương cha mẹ, nhưng lại gây buồn khổ, lo âu cho cha mẹ. Có những ông chồng bảo yêu vợ, có những bà vợ bảo yêu chồng, nhưng lại hay cộc cằn, gắt gỏng, thô lỗ, nhỏ nhen, vô tâm vô tính, làm cho chồng hay vợ mình phải đau khổ.  Vớùi Đức Giêsu, tình yêu thương chân thật không phải là điều dễ dàng, tình yêu chân thật chỉ có thể chứng minh bằng “sự vâng lời chân thật”.
 
          2. Hành động như thế nào.
 
          Một người nọ đã từng trông thấy một thiên thần đi bộ xuống phố, tay cầm bó đuốc, tay kia cầm xô nước. Người ấy liền hỏi :”Ngài làm gì với bó đuốc và xô nước vậïy” ? Vị thiên thần đột ngột đứng lại nhìn vào người ấy nói :”Ta sẽ thiêu rụi các tòa nhà trên trời bằng bó đuốc và sẽ dập tắt lửa hoả ngục bằng xô nước. Lúc đó chúng ta sẽ thấy được ai là kẻ thực sự yêu mến Thiên Chúa”.  Chủ ý của vị thiên thần muốn nói là nhiều người vâng theo lệnh Chúa là vì sợ hỏa ngục hoặc vì hy vọng phần thưởng Nước Trời. Họ không giữ huấn lệnh ấy vì yêu thương như Đức Giêsu đã nêu ra trong  Tin Nừng hôm nay :”Nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ vâng giữ lời Thầy”.
 
          Có hai loại tình yêu : tình yêu vô vị lợi hay vị tha và tình yêu vị lợi hay vị kỷ.
 
          a) Tình yêu vô vị lợi.
 
          Đây là thứ tình yêu vị tha, một thứ tình yêu chỉ biết cho đi, chỉ lo tìm hạnh phúc cho người yêu, tình yêu không so đo tính toán, tình yêu quảng đại; và tình yêu vị tha lên đến chóp đỉnh là sẵn sàng chết cho người mình yêu như Chúa Giêsu đã nói :”Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu của người chết cho người yêu” (Ga 15,13).  Tình yêu này là tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người và đã được thực hiện nơi đức Giêsu chịu treo trên thập giá.
 
          Người đời cũng nói lên được một phần nào thứ tình yêu vô vị lợi ấy :
 
                                      Yêu anh cốt rũ xương tàn,
                                Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh.
                   hoặc :
                                      Yêu nhau mỗi thứ mỗi cho,
                               Ghét nhau thì mảnh quạt mo cũng đòi.
                                               (Ca dao)
 
                             Truyện : cha Maximilien Kolbe
          Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi”.
          Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dãy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trưởng trại. Mọi người nín thở : chuyện chưa từng có ! Viên trưởng trại đặt tay lên súng :
          - Anh muốn gì ?
          - Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.
          Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho người có vợ và các con đang đợi ở nhà.  Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đó chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục công giáo.  Cha đã được Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982 tại Roma.
 
          b) Tình yêu vị lợi (vị kỷ).
 
          Đây là thứ tình yêu trá hình, Đối tượng của tình yêu không phải là người được yêu mà là chính mình. Người yêu chỉ lợi dụng người được yêu để tìm lợi ích cho mình, cho hạnh phúc của riêng mình ; còn người được yêu chỉ là phương tiện được dùng để người yêu khai thác. Tình yêu trá hình này đã được nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine diễn tả trong câu truyện con thỏ và con cọp.
 
          Câu truyện đó là con cáo không may bị rơi xuống hố sâu, không cách nào lên được. May thay, một con cọp đi qua, con cáo xin cứu đưa lên.  Con cọp tỏ ra thương hại muốn cứu vớt nhưng với điều kiện : khi lên bờ cáo phải chịu cho cọp ăn thịt. Cáo đồng ý. Cọp nhảy xuống hố. Cáo nhảy lên lưng cọp và nhảy ngay lên bờ, biến mất.  Cọp lên bờ buồn rầu than :”Chị đã thương em đến thế mà em không biết ơn”.
 
          Như vậy, cọp đâu có thương con cáo, chỉ biết thương mình thôi, đã thương sao lại còn đòi ăn thịt cáo ?  Con người chúng ta đôi lúc cũng vậy. Nhiều khi việc làm của chúng ta có vẻ lo cho người khác, nhằm ích lợi cho người khác, tạo hạnh phúc cho họ, nhưng trong thực tế, họ chỉ có một tình yêu giả tạo. Tình yêu đó được người ta gói ghém trong câu ca dao :
 
                                      Thương thay những kẻ quạt mồ,
                                      Hại thay những kẻ lấy vồ đập săng.
                                                    (Ca dao)
 
          3. Thái độ của ta đối với Chúa.
 
          Nếu thánh Giacobê nói :”Đức tin không có việc làm là đức tin chết” thì chúng ta cũng có thểû nói được : tình yêu mà không được thể hiện ra bằng hành động cụ thể thì chỉ là thứ tình yêu trên mây gió, một tình yêu èo uột, một tình cảm phớt qua, có khi là một tình yêu trá hình, giả tạo. Tình yêu chân thật đòi hỏi hy sinh như Pierre l’Ermite nói :”nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật”.
 
          Thánh Gioan tông đồ nói :”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì : đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16). Nếu yêu là hy sinh, mà giữ luật Chúa là hy sinh, thì yêu là giữ luật Chúa. Tam đoạn luận này rất chặt chẽ, nó nối kết giữa việc yêu Chúa và giữ luật Chúa lại với nhau. 
 
          Vậy giữ giới răn Chúa là gì ?  Giữ giới răn Chúa, nói nôm na ra là giữ đạo, là sống đạo, sống nhân đức tin mà Chúa ban cho chúng ta ngày chịu phép Rửa tội.  Chúa nhắc lại đến hai lần :”Nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ giới răn của Thầy”, và sau đó Ngài thêm :”Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con thực hành điều Thầy truyền dạy”.
 
          Qua lời mời của Chúa, chúng ta thấy rằng giữ giới răn, sống đạo, có thể có hai tâm trạng và hai thái độ : một là giữ đạo vì vụ lợi, giữ đạo cho có lệ gọi là có ; hai là giữ đạo vì yêu mến Chúa... Chắc chắn ai cũng giữ đạo vì yêu Chúa, yêu Chúa là chính, còn các mục tiêu khác chỉ là phụ tùy.  Đối với từng người, tình yêu đối với Chúa cũng có cấp độ nên việc giữ giới răn cũng có cấp độ. Ta tạm chia thành ba cấp :
 
          * Một là có đạo : Những người đã được chịu phép rửa tội đều được gọi là có đạo vì họ đã được thanh tẩy, đã được gia nhập Hội thánh Chúa.  Nhưng họ sống hời hợt , chỉ có danh nghĩa là Kitô hữu, còn cuộc sống của họ nhiều khi như người ngoại đạo, thậm chí tệ hơn nữa, họ sống như người vô thần. Có những người chỉ đến nhà thờ 3 lần trong đời họ : ngày chịu phép rửa tội, ngày lễ hôn phối và ngày lễ an táng.
 
          * Hai là giữ đạo : Những người này là những Kitô hữu bình thường, giữ luật Chúa, thi hành các bổn phận của một người Kitô hữu như đọc kinh, xem lề, xưng tội rước lễ, ăn chay kiêng thịt ...không có gì đáng trách trong việc giữ đạo... Nhưng họ chỉ sống theo mức bình thường, mức tối thiểu, chưa vươn lên cao hơn.
 
          * Ba là sống đạo : Những người này là những người sống trọn nhiệm vụ của những người Kitô hữu bình thường, nhưng họ còn vươn lên cao hơn, cuộc sống của họ là chứng nhân, những hiện thân của Chúa Kitô. Họ xứng đáng được gọi là Alter Christus. Cuộc sống của họ đã trở nên muối và ánh sáng cho đời. Họ thực hiện lời Chúa Giêsu đã phán :”Sự sáng của các con phải chiếu tỏa ra chung quanh để người ta trong việc lành các con làm mà phải ngượi khen Cha các con ở trên trời”.


 
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH A
THEO ĐỨC KITÔ LÀ ĐƯỜNG
+++
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Mọi người đều muốn vươn tới hạnh phúc, hạnh phúc tuyệt đối và trường cửu. Hạnh phúc này chỉ có trên nước Thiên Chúa. Vậy đâu là con đường đưa tới hạnh phúc đó ? Chúng ta biết Đức Kitô vừa là Chúa vừa là người. Ngài là trung gian hòan hảo duy nhất giữa Chúa Cha với chúng ta. Biết bao con đường mở ra trước mắt chúng ta, nhưng chỉ có Ngài mới là con đường  đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha và bởi Chúa Cha mà ra. Chúng ta hãy tin tưởng bước theo Ngài vì chính Ngài đã khẳng định với chúng ta :”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6).
 
          Mục đích của chúng ta phải vươn tới là nhận biết Chúa Cha, mà người ta chỉ có thể nhận biết Chúa Cha nhờ Đức Giêsu. Đức Giêsu được sai đến với lòai người để trả lời những câu hỏi đang làm họ bận tâm như Thiên Chúa là ai, bởi đâu mà có ? Không ai trả lời cho chính xác ngọai trừ Ngài, bởi chính Ngài biết rõ mối dây thân tình Cha Con. Đức Giêsu còn là chân lý, là sự sống. Vì Ngài là hình ảnh Ngôi Cha. Ngài là tiếng nói của Chúa Cha. Thiên Chúa đã phán :”Này là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Thiên Chúa là chân lý thì tiếng nói của Ngài cũng là chân lý vậy.
 
          Chúa nhật trước, chúng ta đã nhận Chúa Giêsu là Chúa chiên nhân lành. Mọi người tín hữu vui mừng và yên tâm vì đã có Chúa Giêsu là mục tử chăn dắt. Người yêu thương và bảo vệ đàn chiên..  Con chiên phải nghe tiếng chủ chăn và đi theo sự hướng dẫn của chủ để được sống và được sống dồi dào.  Hôm nay, chúng ta hãy xác định lại lập trường của chúng ta là phải tin theo Chúa Giêsu vì Người là đường, là sự thật và là sự sống.  Muốn đến cùng Chúa Cha, cần thiết phải qua Ngài.  Chỉ có duy nhất Ngài là đường dẫn tới sự sống.  Hãy dấn bước theo Ngài và theo Ngài là phải từ bỏ nếp sống cũ, từ bỏ tất cả những gì không hợp với đường lối của Ngài, phải đi qua cửa hẹp, tức là theo con đường khổ giá mà Ngài đã đi, chính con đường này sẽ dẫn chúng ta tới hạnh phúc chân thật.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Cv 6,11-7.
 
          Cộng đoàn tín hữu tiên khởi ở Giêrusalem mỗi ngày một thêm đông, đời sống tốt đẹp nhưng cũng không thiếu những khó khăn. Các Tông đồ phải giải quyết cách nào cho êm đẹp.
          Khó khăn phát xuất từ việc phân phối những nhu cầu đời sống không đồng đều : các bà góa bị lãng quên, do đó mới có những lời kêu trách. Các Tông đồ giải quyết khó khăn đó bằng việc thiết lập tác vụ phó tế để chuyên lo các công việc cứu trợ, bác ái và lương thực của cộng đoàn, để các ngài có thời giờ  đi loan báo Tin Mừng.
 
          Nhờ cách giải quyết khéo léo này mà cộng đoàn lại đoàn kết thương yêu nhau và tăng số. Đây là mô hình đẹp trong việc phân chia các chức vụ và công tác cho Giáo hội ngày nay : có người chuyên lo đời sống vật chất, có người chuyên lo việc cầu nguyện và loan báo Tin Mừng.
          +  Bài đọc 2 : 1Pr 2,4-9.
 
          Thánh Phêrô nhắc cho các tín hữu nhớ lại phẩm giá cao qúi của mình, cũng như những trách nhiệm mà mình phải chu toàn để đáp lại tình yêu của Chúa Kitô.
 
          Phẩm giá của Kitô hữu : là dòng giống được Thiên Chúa tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo việc tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa.
 
          Trách nhiệm phải chu toàn : Đức Kitô là viên đá tảng, các Kitô là những viên đá sống động được xây lên trên để xây nên một đền thờ thiêng liêng. Cho nên họ phải công bố những việc kỳ diệu của Thiên Chúa, loan báo Tin Mừng, dâng lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Chúa, xây dựng hoà bình, công lý và tình yêu.
 
          +.  Bài Tin Mừng : Ga 14,11-12.
 
          Trong tâm tình Thầy trò trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ biết Ngài sẽ trở về cùng Cha. Ngài ra đi là để dọn chỗ cho các ông vì nhà Cha còn nhiều chỗ. Người khuyên các ông đừng xao xuyến vì Ngài đi dọn chỗ và sau đó sẽ quay trở lại đón các ông, để Ngài ở đâu, các ông cũng ở đó với Ngài. Có nhiều cách giải thích khác nhau về lời loan báo sự ra đi này của Đức Giêsu. Nhưng đúng hơn hết, sự ra đi này  Đức Giêsu trở về với Chúa Cha ám chỉ biến cố Phục sinh.
 
          Còn đối với các tông đồ muốn biết Chúa Cha thì Đức Giêsu chỉ trả lời là ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha vì Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Cha. Ngài nhắc cho các ông :”Muốn đến với Chúa Cha thì hãy tin vào Ngài, hãy theo Ngài vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Ngàii”(Ga 14,8).
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                            Bước theo Chúa Giêsu Kitô.
I. HÃY TIN VÀO ĐỨC GIÊSU.
 
          1. Những lời trấn an.
 
          Đức Giêsu nhiều lần nói với các môn đệ là Ngài sắp ra đi, dù vậy họ chẳng bao giờ hiểu nổi.  Những lời Đức Giêsu báo trước cho các ông : Giuđa sẽ nộp Thầy (Ga 13,21-26), Phêrô chối Thầy (Ga13,3-6), Ngài ra đi chịu tử nạn (Ga 12,32), và viễn cảnh phải xa vắng bóng Thầy giữa một thế giới thù nghịch, đã làm cho tâm trí các môn đệ tràn ngập lo âu xao xuyến (Ga 14,23; 16,6-20). Đức Giêsu trấn an các ông bằng cách tỏ cho các ông thấy Ngài ra đi sẽ làm cho các ông  hiệp thông thâm trầm hơn  nữa với Ngài và với Chúa Cha, và chính Thánh Linh sẽ bảo đảm cho việc phù trì che chở các ông trong cơn giông tố thiêng liêng của cuộc sống. Trọng tâm lời khuyên nhủ trấn an nằm trong câu :”Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Câu này có nghĩa rằng : Các con đã tin vào Thiên Chúa thế nào thì cũng hãy tin vào Thầy như vậy. Theo đó, Đức Giêsu muốn kêu gọi các môn đệ tin vào thiên tính của Ngài.
 
 
          2. Trả lời thắc mắc của Tôma.
 
          Đức Giêsu nói :”Thầy còn ở với các con ít lâu nữa, rồi Thầy đi về cùng Đấng sai Thầy”(Ga 7,33). Đức Giêsu nói Ngài sẽ về với Cha, là Đấng đã sai Ngài đến, Ngài với Cha là một, nhưng họ vẫn không hiểu. Đức Giêsu còn nói thêm :”Thầy đi đâu các con đã biết đường rồi” (Ga 14,4). Họ không hiểu con đường Ngài sắp đi là con đường nào vì đó là đường thập tự, nên ông Tôma mới nói :”Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi” (Ga 14,5).  Thật vậy Tôma là người thật thà và cũng là con người thực nghiệm, thích sờ mó, nhìn xem và chứng kiến, không chịu thỏa mãn với những câu nói mơ hồ. Ông muốn biết chắc chắn, nên đã bộc lộ những nghi ngờ về những gì ông không hiểu : chẳng hiểu được ý nghĩa việc Chúa ra đi.
 
          Vì thế, Đức Giêsu nói với ông Tôma :”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Nói như vậy là Ngài có ý muốn nói gì ? Ngài có ý nói rằng Ngài là người dẫn đường, Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta, chúng ta sẽ không sợ lạc đường. Đó là việc Đức Giêsu đang làm cho chúng ta. Ngài không chỉ đưa ra những lời khuyên dạy, chỉ hướng đi mà thôi, nhưng Ngài nắm lấy bàn tay và dẫn chúng ta đi. Ngài cùng đi với chúng ta, đích thân Ngài thêm sức cho chúng ta, hướng dẫn chúng ta mỗi ngày. Không phải Ngài chỉ cho chúng ta con đường mà chính Ngài là Đường đi của chúng ta.
 
          Chữ “Đường” trong Tin mừng hôm nay không những chỉ có nghĩa là Đức Giêsu chỉ dùng giáo huấn mà dẫn ta đến sự sống, mà chính Ngài là con đường dẫn đến Chúa Cha nữa. Vì chính Ngài là mạc khải Chúa Cha (Ga 12,45), tuy Ngài bởi Chúa Cha mà đến và về với Chúa Cha (Ga 7,29-33), nhưng Ngài lại là một với Chúa Cha (Ga 13,30) vì chính Ngài là sự thật và là sự sống (Ga 3,15).
 
          Chúng ta có thể tóm tắt điều Đức Giêsu muốn nói : Nếu không nhờ Thầy, không ai đến được với Cha. Chỉ một mình Đức Giêsu là con đường đến với Thiên Chúa. Chỉ trong Ngài chúng ta mới thấy được Thiên Chúa như thế nào, và chỉ một mình Ngài đưa chúng ta đến với Thiên Chúa mà chúng ta không phải sợ hãi và xấu hổ.
 
II. TIN TƯỞNG BƯỚC THEO ĐỨC KITÔ.
 
          1. Đức Giêsu là ai ?
 
          Các môn đệ ở bên Chúa Giêsu ba năm mà vẫn chưa biết Đức Giêsu là ai. Sự hiểu biết của họ còn rất lơ mơ. Khi Đức Giêsu nói về Chúa Cha, Cha của Ngài, thì họ càng bỡ ngỡ, không hiểu chút nào.  Vì thế,  trong các môn đệ quây quần chung quanh Đức Giêsu chiều nay trong bữa tiệc ly tạ từ, có một môn đệ có một đầu óc rất thực tế. Đó là Philipphêâ. Đối với ông, nghe Chúa, biết Cha là một cái gì quá trừu tượng. Ông muốn được như Maisen nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa (Xh 33,18), nên, đại diện cho các bạn ông nói :”Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”.
 
          Với vẻ mặt buồn buồn, Đức Giêsu đã phản ứng lại mạnh mẽ :”Philipphê ! Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy”. Sự hiểu biết Thiên Chúa không phải là sự hiểu biết trừu tượng mà là sự hiểu biết và gặp gỡ một con người.  Con người ấy chính là Đức Giêsu, hình ảnh của Đức Chúa Cha. Vì thế, Chúa phán :”Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư “?  Hai nhưng là một , đồng nhất trong một bản thể với Chúa Thánh Thần :”Ai xem thấy Thầy là xem thấy Cha. Cha Ta với Ta là một”.  Trọn cuộc sống, mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu là một biểu hiện hoàn hảo hình ảnh của Chúa Cha vì Người kết hợp mật thiết với Chúa Cha. Cuộc sống của Ngài, đó là Chúa Cha, công việc của Ngài là chính Chúa Cha thưcï hiện qua Ngài, lời Ngài nói đó là tư tưởng của Chúa Cha (Cf Hồâng Phúc, Suy niệm lời Chúa, năm A, tr 75).
 
          Khi nói rằng chúng ta biết Chúa, nhưng thực sự chúng ta mới có một khái niệm về Chúa chứ chưa thể diễn tả ra thế nào cho đúng. Thỉnh thoảng chúng ta nghe thấy có người nói như sau :”Kitô hữu nói về Chúa thế này. Người Do thái bảo Chúa thế kia. Người Hồi giáo cho Ngài thế khác. Phật tử còn quan niệm Ngài khác hơn nữa. Tôi cảm thấy rối trí quá nên chẳng biết nghĩ gì và cũng chẳng biết tin ai”.
 
          Mỗi khi nghe được một người tuyên bố như thế, tôi liền nhớ lại bài thơ của John Saxe liên quan đến năm gã mù Ấn độ đứng vòng quanh một con voi và thắc mắc con voi giống cái gì.  Một gã sờ vào hông voi và bảo nó giống như bức tường. Gã thứ hai sờ vào chiếc ngà và bảo nó giống như một thanh gươm.  Gã thứ ba đụng vào chiếc vòi và bảo nó như rắn khổng lồ. Gã thứ tư sờ vào lỗ tai và bảo nó giống như chiếc quạt. Gã mù sau cùng sờ vào đuôi và bảo nó giống như sợi dây thừng.  Thế thì ai trong năm gã này là đúng ?  Có lẽ câu trả lời hay nhất là cả năm gã đều đúng, mỗi gã đúng theo quan điểm của mình. Chỉ nhờ đối thoại chung với nhau họ mới có thể có được một cái nhìn đầy đủ và sáng suốt hơn để trả lời chú voi thực sự như thế nào.
 
          Vài người bảo : đối với trường hợp Thiên Chúa cũng thế.  Họ bảo : Người Do thái có lối hiểu Thiên Chúa, người Hồi giáo có một lối thứ hai để thấu hiểu Chúa, người Phật giáo lối thứ ba và các Kitô hữu lối thứ tư.  Chỉ nhờ đối thoại với nhau họ mới có thể đạt được một cái nhìn đầy đủ rõ ràng hơn về Thiên Chúa.  Thế là lại khơi lên một vấn nạn : Làm sao tôn giáo này có thể tự hào rằng mình gần với chân lý hơn các tôn giáo khác ?  Chẳng hạn, làm sao các Kitô hữu dám cho rằng mình có cái nhìn chính xác về Chúa hơn bất kỳ tôn giáo nào khác ?
 
          Câu trả lời cho vấn nạn trên dĩ nhiên được đặt vào nền tảng đức tin nơi Đức Giêsu của người Kitô hữu.  Đức Giêsu đã tuyên bố Ngài là Thiên Chúa bằng một cách thức mà không một vị lãnh đạo tôn giáo nào dám tuyên bố.  Và hơn thế nữa, Đức Giêsu còn đồng hoá mình với Thiên Chúa: “Ta và Chúa Cha là một” (Ga 10,30). Từ “một”, không có tiếng trước hay sau đi kèm, có nghĩa là “đồng một bản tính”. Như vậy, Đức Giêsu tuyên bố rõ sự thực này : Ngài và Chúa Cha cùng có một quyền năng chung, tức là “đồng một bản tính”.   Điều này không một vị lãnh đạo nào trên thế giới này dám làm  (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 108-109).
 
          Từ xưa đến nay các nhà sáng lập tôn giáo, không ai dám nói :”Cha Ta và Ta là một” (Ga 10,30), chỉ có một mình Đức Giêsu mới dám nói :”Hãy tin vào Ta  khi Ta nói rằng Ta ở trong Cha và Ta ở trong Cha” (Ga 14,11). Và chỉ một mình Đức Giêsu dám nói :”Ta là bánh từ Trời xuống... Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sự sống đời và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,51,54). Và chỉ một mình Đức Giêsu dám nói :”Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ có ánh sáng ban sự sống và sẽ không bao giờ bước đi trong tăm tối” (Ga 8,12).  Như vậy, chúng ta phải nói rằng Đức Giêsu là hiện thân của Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha. Chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên phải tin theo Người.
 
          2. Bước theo Chúa Giêsu Kitô.
 
          Đức Giêsu báo cho các tông đồ việc ra đi của Ngài là để dọn chỗ cho các ông :”Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì các con biết đường rồi” (Ga 14, 3-4).
 
          Ông Tôma thắc mắc và rất hồn nhiên chất phác hỏi :”Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đuờng đi”. Nhân dịp này, Đức Giêsu cho biết  Ngài là con đường đưa họ đến với Chúa Cha, qua Ngài họ mới có thể vào được Nước Trời nên mới nói :”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. Ngài là con đường duy nhất dẫn tới sự sống.
 
          Chúng ta hãy bước theo chân Chúa Giêsu. “Theo” ở đây không phải là một ý tưởng trừu tượng, như chấp nhận một học thuyết, một tư tưởng hay chỉ đi theo sau một người, mà có một ý nghĩa sinh động hơn, nghĩa là phải chấp nhận người mình theo, nhận lậy số phận người mình theo, gắn bó khăng khít với họ như “thuyền theo lái, gái theo chồng”. Ngoài ra còn phải chia sẻ đời sống với người ấy, bất chấp những rủi ro xẩy ra, chấp nhận tất cả như cô gái nói với chàng trai :
 
                                      Lên non thiếp cũng lên theo,
                                  Tay vịn chân trèo hái trái nuôi nhau.
                                                (Ca dao)
 
          Đức  Giêsu đã kêu gọi mọi người hãy đi theo Chúa vì chỉ mình Ngài mới có thể ban ơn cứu độ, mới có thể dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Tuy nhiên, muốn theo Chúa cũng cần phải có một số điều kiện, đòi họ phải kiên trung đến cùng, đừng để xẩy ra cảnh “giữa đường đứt gánh. Trước khi theo Chúa hãy suy nghĩ cho kỹ, giống như người định xây nhà, phải tiên liệu để hoàn thành, đừng để dở dang.
 
          a) Từ bỏ mọi sự.
 
          Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy theo Ngài, lời kêu gọi ấy có tính cách hoàn toàn tự do, muốn theo hay không theo cũng được vì Ngài chỉ dùng chữ “nếu”, không có tính cách bắt buộc. Ngài nói :”Nếu ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Đã có trường hợp người ta không dám chấp nhận điều kiện Chúa đưa ra như trường hợp người thanh niên giầu có đến xin làm môn đệ Chúa, nhưng anh ta không thể chấp nhận được điều kiện này nên đã bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
 
          Đức Giêsu là Thiên Chúa giầu sang vô cùng đã muốn trở nên con người nghèo khó đến tuyệt cùng để chia sẻ số phận nghèo khó của con người. Chúa đã nói :”Con cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”(Mt 8,20 ; Lc 9,58) . Nếu yêu Chúa, muốn theo Ngài thì đòi buộc từ bỏ tất cả, từ bỏ chính con người của mình vàchấp nhận mọi rủi ro trong khi theo Chúa. Chúng ta có dám can đảm chấp nhận điều kiện ấy không ? 
 
Trong văn chương bình dân, người ta có đưa ra một hình ảnh tương tự như thế. Đó là trường hợp một người thanh niên nghèo được một thiếu nữ yêu thương muốn theo, anh ta cho biết là mình nghèo lắm, chỉ sống nhờ sự bố thí của người ta thôi, không có gì cả ; hay nói đúng hơn anh ta chỉ có cái nghề đi ăn mày thôi, có dám theo không, nên anh ta nói :
 
                             Lấy anh, anh sắm sửa cho :
                       Cái bị, cái bát, cái quạt mo đuổi ruồi.
                                      (Ca dao)
 
b) Phải qua cửa hẹp.
 
          Theo Chúa thì đòi buộc phải hy sinh, hy sinh  cả những cái được phép, có khi phải hy sinh cả thân mình và phải nhận đến cái chết. Theo Chúa là phải khép mình vào như Chúa nói :”Hãy vào qua cửa hẹp” (Mt 7,13-14 ; Lc 13,24) vì”Nước Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh”, sức mạnh đây không phải là sức mạnh thể xác nhưng là sức mạnh tinh thần, phải chiến đấu kiên cường, không chịu lùi bước theo phương châm :”Per crucem ad lucem”.
 
          Từ bỏ mình... Vác thập giá... là khoái khổ sao ? Không. Cần phải từ bỏ mình, thẳng thắn mà tuyên bố tiêu diệt cái “tôi” của chúng ta. . Thế nhưng không phải tiêu diệt “cái tôi” tốt lành, “cái tôi” chân thật. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta hãy hiến cái tôi giả tạo mà chúng ta tạo nên bằng những nhu cầu vô ích và những phù phiếm trẻ con :”Đó là cái tôi, thánh Gioan Thánh giá nói, của những thèm muốn thúc giục chúng ta trở nên bất hạnh đối với chúng ta, khô khan đối với tha nhân, nặng nhọc và biếng nhác đối với các công việc của Chúa” (A. Sève, Sương mai, tr 209).
 
          c) Vâng ý Cha trên trời.
 
          Theo Chúa thì không còn gì là của mình nữa vì đã phó thác trọn vẹn cho Chúa để hoàn toàn thuộc về Người. Trong mọi việc chúng ta chỉ còn biết làm theo thánh ý Chúa, ý Chúa trên hết theo như kinh Lạy Cha :”Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời”.  Vì thế, Đức Giêsu đã khuyên nhủ những người đã theo Ngài muốn vào được Nước Trời thì phải thi hành thánh ý Chúa :”Không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa, mà được vào Nước Trời, mà chỉ có những ai thi hành ý Cha Ta ở trên trời”(Mt 7,21-23 ; Lc 6,46 ; 13,26-27).
 
                                      Truyện : cậu bé đánh trống.
          Trận chiến giữa Pháp và hai nước liên kết Ý và Áo đầu năm 1796, kết liễu ngày 17.11.1796 như sau :
 
          Đại tướng Bonaparte đưa quân đến một địa điểm, có cái cầu bắc qua trận tuyến địch. Trong lúc trận thế đang nguy, đại tướng Bonaparte hô tiến qua cầu. Không một ai qua ! Đại tướng xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn chân bước qua cầu, miệng hô :”Ai yêu tổ quốc  thì theo ta”. Ngó lại, trên cầu chỉ có một mình mà lá cờ rách nhiều mảnh vì đạn của quân địch. Khi ấy có cậu bé mới 13 tuổi đánh trống thúc quân. Hai tay đập mạnh vào trống chân bước qua cầu theo đại tướng. Quân sĩ tràn theo qua cầu, đại tướng Bonaparte toàn thắng và cũng chấn dứt cuộc chiến tranh ấy.
 
          Tám năm sau, Bonaparte đã là hoàng đế Napoléon trở lại chỗ cũ, có nghi lễ đón tiếp rất linh đình. Hoàng đế Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 20 tuổi hiện trong quân đoàn tại đó.
 
          Hỏi đến Vidal thì cậu đã nghỉ phép để đưa đám tang mẹ. Hoàng đế Napoléon đã bãi bỏ mọi lễ nghi quân cách, đi thẳng đến làng Vidal, theo sau đám tang đến huyệt, đọc bài điếu văn.  Rồi đi bộ với Vidal trở về.  Vidal từ chối và mời hoàng đế lên xe.  Hoàng đế Napoléon đáp :”Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên đường đau kho,å con cho ta  theo con cho có bạn”(Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 1, tr 5).
 
          Đạo là đường đưa dẫn đến sự sống chính là Chúa, và không có gian  lao khổ cực nào làm cho ta chối bỏ được. Những tháng năm đầu thế kỷ 20 này, nhiều người đã gặp những anh hùng vô danh còn sống sót trên đất nước Việt nam chúng ta.  Đó là các cụ ông, cụ bà trước đây đã bị bắt giam cầm, bị người ta rạch mặt lấy mực tầu  xâm lên trên má hai chữ “Tả dạo”, đi đâu ai cũng nhận ra là người theo tả đạo ; nhưng đối với giáo dân, đây là biểu tượng của Đức tin kiên cường sáng chói. “Chúng ta hãy ca tụng những bậc vĩ nhân, những bậc tiền bối của chúng ta”(Gv 44.1), đã tin Đạo, đã sống Đạo, đã hy sinh vì Đạo, gương sáng chói cho chúng ta trên đường về Trời. (Hồng Phúc).





 
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH A
     ĐỨC KITÔ, MỤC TỬ NHÂN LÀNH
 
A. DẪN NHẬP.
         
          Trong bài đọc 2 thánh Phaolô nói :”Trước kia anh em đang lang thang như những con chiên lạc, nhưng nay anh em đã quay về cùng vị Mục tử chăm sóc linh hồn anh em”(1Pr 2,25). Theo đó, thánh Phêrô cho chúng ta biết giữa muôn vàn bất công của cuộc sống, chúng ta như bầy chiên lạc đàn. Chia sẻ thân phận với con người chúng ta và chịu đau khổ vì chúng ta, Đức Kitô, con Chiên bị mang đi giết, đã trở nên Chúa Chiên của chúng ta. Lời khẳng định của thánh Phêrô đã được củng cố trong bài Tin mừng hôm nay.
 
          Đức Kitô đã tỏ mình với chúng ta  dưới hình dáng người chăn chiên lành, lo lắng cho con chiên của mình, và Ngài cũng là cánh cửa mở vào chuồng chiên. Vị chủ chăn nhân lành biết từng người chúng ta, và để dẫn dắt chúng ta về với Chúa Cha và đem chúng ta vào trong Ngài. Ngài đã không do dự trả một giá rất đắt : đó là chính bản thân Ngài và là cái giá cao nhất : giá của Máu, Ngài có thể làm gì hơn nữa ?
 
          Đức Kitô chính là Mục tử nhân lành của chúng ta. Chúng ta sung sướng và hãnh diện vì có vị Mục tử ở bên. Chúng ta phải đáp trả lại tình thương vô biên của Ngài và mỗi ngày phải tự hỏi mình : chúng ta có tin tưởng rằng có Đấng luôn ở bên cạnh chúng ta  như vị Mục tử tốt lành để bảo vệ, giữ gìn và phù hộ chúng ta không ? Chúng ta có biết lắng nghe tiếng Ngài như đòan chiên lắng nghe tiếng chủ và đi theo Ngài như đàn chiên theo sau chủ mình không ? Chúng ta hãy luôn tin tưởng và gắn bó thân tình với Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống. Càng gặp khó khăn nguy hiểm càng phải tin tưởng và liên kết với Ngài chặt chẽ hơn vì Ngài đã khẳng định :”Phần Ta, Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”(Ga 10,10).
         
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc 1 : Cv 2,36-41.
 
          Tuần trước chúng ta đã được nghe bài giảng của thánh Phêrô trong ngày lễ Ngũ tuần,  hôm nay chúng ta được nghe phần kết của bài giảng ấy. Sau khi đã cho người Do thái biết Đấng Messia mà Thiên Chúa sai đến đã bị người Do thái giết chết, nay Người đã sống lại.  Vậy mọi người hãy ăn năn sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu để được ơn tha tội và lãnh được hồng ân cao qúi là Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần sẽ hành động trong Giáo hội. Dân chúng đã đáp lại cách nồng nhiệt. Kết quả là hôm ấy có thêm khoảng 3000 người theo đạo, gia nhập đàn chiên của Đức Giêsu.
 
          + Bài đọc 2 : 1Pr 2,20-25.
 
          Thánh Phêrô nói với dân chúng :”Trước đây anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với vị Mục tử, Đấng săn sóc linh hồn anh em” (Cv 1Pr 2,41).  Vì thế, mọi người hãy theo gương Chúa Giêsu biết đón nhận đau khổ cách xứng đáng và độ lượng theo gương Người.
          Đức Giêsu đã đón nhận và chịu đựng mọi đau khổ mà không phàn nàn kêu trách như con chiên bị đem đi làm thịt.  Đau khổ luôn có trong đời sống của ta dù không muốn.  Đau khổ còn là một huyền nhiệm trong đời sống Kitô hữu. Nếu biết kết hợp đau khổ của ta vào cuộc thương khó của Đức Giêsu thì mọi đau khổ, gian nan khốn khó của ta sẽ có một ý nghĩa cao qúi là đền tội và lập công.
 
          + Bài Tin Mừng : Ga 10,1-10.
 
          Để dân chúng hiểu Ngài là Messia được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu dùng hình ảnh người mục tử và đàn chiên.  Hình ảnh này rất quen thuộc và dễ hiểu đối với họ vì họ có nguồn gốc là người du mục.  Mục tử rất yêu thương con chiên, dám hy sinh mạng sống vì chiên. Đáp lại, con chiên phải biết tiếng mục tử và theo tiếng gọi của mục tử.
 
          Tuy nhiên bài Tin Mừng hôm nay chú trọng đến một hình ảnh mới là “Cửa chuồng chiên”.
Chúng ta nên biết rằng ở xứ Palestina, người ta nuôi chiên rất đông. Ban đêm, các mục tử dẫn đoàn chiên của mình vào một cái chuồng chung ở giữa đồng cỏ và chia phiên nhau canh gác ở ngay cửa ra vào. Đến sáng, từng mục tử qua cửa để vào chuồng và gọi các con chiên trong đàn mình. Chúng đã quen tiếng mục tử nên đi theo ra khỏi chuồng đến những đồng cỏ. Những tên trộm cướp không dám qua cửa vì sợ đụng người canh gác nên phải trèo rào mà vào.  Chúa Giêsu chính là mục tử thật, qua cửa mà vào, để gọi và dẫn đàn chiên ra cánh đồng cỏ.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Theo chân mục tử nhân lành
I. ĐỨC GIÊSU LÀ CHỦ CHĂN NHÂN LÀNH.
 
          Trong Lịch sử trước kỷ nguyên, các vua chúa và đại tư tế thường được gọi là mục tử. Pharaon được gọi là người chăn chiên nhân lành. Danh xưng ấy, dân du mục Israel thường dùng cho Thiên Chúa… Cựu ước đã báo trước Đấng Thiên Sai sẽ đến như mục tử, Ngài sẽ chăn dắt (Mk 5,3) “Ta sẽ cho chỗi dậy một mục tử duy nhất, Ngài sẽ chăn dắt chúng”(Ez 34,23).
 
          Xưa rầy những người biệt phái vẫn tự hào là chủ chăn Israel, nhưng Đức Giêsu cho họ thấy, họ là những chủ chăn xấu. Họ không tin Chúa thì chớ, họ còn ngăn cản người khác tin theo. Trong Tân ước, Đức Giêsu đã áp dụng hình ảnh mục tử cho mình. Ngài tự xưng là chủ chăn được sai đến với các chiên lạc của Israel (Mt 15,24; Lc 19,19). Hôm nay Đức Giêsu muốn cho họ thấy rằng Ngài là chủ chăn thực sự. Ngài tự mạc khải qua ba hình ảnh mà bài Tin mừng hôm nay chỉ nói đến có hai thôi.
 
          1. Hình ảnh chuồng chiên.
 
          Chăn chiên là một nghề rất quen thuộc đối với người Do thái vì nơi đây có nhiều đồi núi và nhiều cánh đồng cỏ ở sườn núi, thích hợp cho việâc chăn nuôi chiên cừu.  Đức Giêsu muốn dùng hình ảnh quen thuộc này để mạc khải về con người của Ngài. Ngài phán :”Thật, Ta bảo thật các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác thì người ấy là kẻ trộm cướp”(Ga 10,1). Qua hình ảnh lề lối chăn chiên này, Đức Giêsu cho biết Ngài là kẻ chăn chiên thật. Ngài có sứ mạng chính đáng, Ngài biết các chiên, và chiên nghe tiếng Ngài. Họ là những người giữ cửa, lẽ ra không được ngăn cản, mà cũng không được cản chiên theo Ngài.
 
          2. Hình ảnh cửa chuồng chiên.
 
          Đức Giêsu nói tiếp :”Ta là cửa chuồng chiên, tất cả những kẻ đến trước đều là trộm cướp”(Ga 10,7-8). Đức Giêsu dùng hình ảnh này thật khó hiểu.  Chúng ta có thể diễn tả câu nói trên thế này cho dễ hiểu : cũng như những kẻ vào chuồng chiên mà vào qua cửa là kẻ chăn đích thực, còn trèo vào lối khác là kẻ ăn trộm.
 
          Ở đây khi nói đến mục tử giả hiệu, và theo tòan thể mạch văn, Đức Giêsu có ý nhắm tới người biệt phái và luật sĩ là những kẻ từ lâu đã tự đặt mình làm thủ lãnh và linh hướng của dân chúng mà không qua vị canh giữ tối cao, không lãnh nhận từ Thiên Chúa ủy nhiệm nào để thi hành sứ mệnh mục tử, như bọn trộm cướp, họ đã chiếm đọat đám tín hữu vì háo danh và óc thống trị  hơn là vì quan tâm đến thiện ích thiêng liêng của tín hữu.
 
          Nhưng có người hiểu chữ “Những kẻ đến trước” theo một chiều hướng khác. Theo họ, những kẻ đến trước đây không phải là những luật sĩ và biệt phái vì đã có lần Đức Giêsu nhận họ ngồi trên tòa Maisen cách chính đáng (Mt 23,2). Hình như Ngài có ý nói đến những Messia giả, những kẻ phiêu lưu chính trị thường nổi lên ở Palestine hứa hẹn, nếu dân chúng theo họ, họ sẽ đưa đất nước  đến thời đại hòang kim. Tất cả những người này đều là những người nổi lọan, dùng bạo lực để chiếm đọat chính quyền : ví dụ Juđa người xứ Galilêa, 6 năm sau Đức Giêsu (Cv 5,37), Thơ-đa (Cv 5,36), họ dấy lọan làm nhiều người phải chết mà tôn giáo không được nhờ gì.
 
          Trái lại, người mục tử chân chính là người đã được ủy nhiệm chính thức. Ở đây Đức Giêsu muốn nói đến chính sứ mệnh của Ngài, vì Ngài chỉ đến theo lệnh và ủy nhiệm thần linh mà Ngài đã nhận từ Chúa Cha khi chịu phép rửa (Ga 1,31-34).
 
II. HÃY ĐI THEO ĐỨC GIÊSU MỤC TỬ ĐÍCH THẬT.
 
          1. Thế nào là cửa chuồng chiên.
 
          Đức Giêsu tự giới thiệu mình là “cửa chuồng chiên”. Đây là một hình ảnh hơi lạ,  chúng ta cần tìm hiểu xem tại sao Chúa Giêsu lại ví mình là cửa chuồng chiên. 
 
          Trong ẩn dụ này, Đức Giêsu đề cập đến hai loại chuồng chiên.  Tại các làng mạc và thị trấn, có những đàn chiên cộng đồng, tất cả các bầy chiên tại địa phương đó đều được nhốt chung khi chúng trở về buổi tối. Các chuồng chiên ấy được bảo vệ bằng một khung cửa thật chắc chắn mà chỉ có người canh cửa mới được giữ chìa khóa mà thôi. Đó là loại chuồng chiên mà Chúa đề cập đến trong câu (2-3).   Nhưng đến mùa nắng ấm, khi chiên được thả trên núi, đêm đến không lùa về làng, thì chúng được nhốt trong các chuồng chiên ngoài sườn đồi. Các chuồng chiên trên sườn núi này chỉ là một khoảng đất trống có rào chung quanh, có một chỗ trống cho chiên ra vào, không có cửa rả gì cả. Đêm đến người chăn chiên nằm ngay tại khoảng đất trống làm chỗ ra vào, không có chiên nào ra vào được, trừ phi nó bước qua anh ta.
                                      Truyện : cửa chuồng chiên.
          George Smith kể lại một loại chuồng chiên như trên khi ông đi du lịch Đông phương : lúc đó người chăn chiên cũng ở đó nên ông hỏi :
          - Có phải đó là chuồng chiên không ?
          Người ấy đáp :
          - Dạ, vâng.
          Rồi Geoge nói :
          - Tôi thấy chỉ có một lối đi vào.
          Giơ tay chỉ khoảng trống hàng rào, người ấy đáp :
          - Vâng, ở đàng kia là cái cửa.
          Ông Geoge rất ngạc nhiên bảo :
          - Nhưng ở đó đâu có cửa ?
           Người chăn chiên vội đáp :
          - Dạ, tôi là cửa.
          Geoge chợt nhớ câu truyện trong Gioan kể rồi nói với người chăn chiên :
          - Anh muốn nói gì khi bảo chính anh là cái cửa ?
          Người chăn chiên giải thích :
          - Chiên vào chuồng xong, tôi đến nằm ngay ngưỡng cửa, và không có con chiên nào có thể đi ra hoặc con chó sói nào có thể vào chuồng trừ phi nhảy qua người tôi.
 
          Nói theo nghĩa đen thì người chăn chiên chính là cái cửa, không có lối nào để ra vào được chuồng chiên, ngoại trừ bước qua chính người chăn. Hình ảnh về cửa chuồng chiên này đối với chúng ta thì rất lạ, còn đối với người Do thái lại là hình ảnh rất quen thuộc.
 
          2. Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên.
 
          Sách có chữ rằng :”Thùy năng xuất tất do hộ” : Ai ra vào nhà cũng đều phải qua cửa.
          Nhà thì phải có cửa để ra vào, ngay nhà tù cũng phải có cửa ra vào. Chuồng trại cũng phải có cửa, không ai trèo hay chui qua hàng rào mà vào. Ai trèo qua hàng rào mà vào thị bị coi là kẻ trộm, ai chui qua mà vào thì được coi hèn như chó, phải lén lút, không dám công khai. Nếu Đức Giêsu xưng mình là cửa thì Ngài có ý nói rằng mọi người phải qua Ngài mới được vào Nước Trời.
 
          a) Chúa Giêsu là mục tử nhân lành.
 
          Chúa Giêsu xưng mình là mục tử nhân lành vì mục tử biết và gọi đích danh từng con chiên, các con chiên theo sau người chăn vì biết tiếng người ấy. Các từ ngữ này diễn tả một tình yêu cá biệt. Thiên Chúa yêu thương mọi nguời và từng người một, biết rõ hoàn cảnh từng người một.  Tình yêu đi đến cao điểm là thí mạng vì đàn chiên. Cho nên giữa Thiên Chúa và loài người có một tình yêu cao qúi và một sự gắn bó tuyệt vời.
 
          b) Đức Giêsu là cửa chuồng chiên.
 
          Đức Giêsu không những xưng mình là mục tử nhân lành, Ngài còn tự cho mình là cửa chuồng chiên.  Bằng hình ảnh này, Đức Giêsu khẳng định rõ ai muốn vào Nước Trời, muốn lãnh ơn cứu độ bắt buộc phải đi qua Ngài ; muốn đến với Chúa Cha đều phải qua Ngài.  Như Ngài đã từng nói :”Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
 
          Tác giả thư Do thái viết :”Người đã mở cho chúng ta con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác Người” (Dt 10,20). Đức Giêsu đã mở ra một con đường đến với Thiên Chúa. Trước khi Đức Giêsu đến, loài người chỉ có thể suy nghĩ về Thiên Chúa như một người xa lạ, hoặc tệ hơn thì như một kẻ thù. Nhưng Đức Giêsu đã đến bảo cho loài người biết, chứng minh cho loài người thấy rõ Thiên Chúa là thế nào, và mở ra con đường đến với Thiên Chúa.  Đức Giêsu đã mở ra cánh cửa để loài người đến được với Thiên Chúa. Ngài là cánh cửa duy nhất cho loài người đến với Thiên Chúa.
 
          Để mô tả  một phần ý nghĩa của việc vào ra mắt Thiên Chúa, Đức Giêsu dùng câu nói rất quen thuộc của người Do thái, Ngài bảo rằng qua Ngài “chúng ta có thể đi vào và đi ra”. Được đi vào, đi ra tự do không có gì trở ngại, là cách người Do thái dùng đổ mô tả một đời sống được bảo đảm an toàn.  Khi một người có thể đi ra đi vào mà không chút sợ hãi, điều đó có nghĩa là đất nước người đó đang có hoà bình.
 
          c) Phải lắng nghe tiếng mục tử.
 
          Từ dân Israel khi xưa cho đến trong xã hội hôm nay, luôn có những người tin theo Đức  Giêsu và những kẻ không tin theo Người. Tin theo Người thì được cứu rỗi, còn ngược lại thì không. Tin theo Đức Giêsu là biết sống và thực thi lời Người :”Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”.
 
          Chúng ta thường đọc thánh vịnh đáp ca với câu “Chúa là Đấng chăn dắt tôi” để cầu nguyện, để đặt hết tin tưởng vào đó.  Vậy ở đâu chúng ta có thể nghe được tiếng Chúa Kitô, Đấng chăn dắt chúng ta ?
 
          Chúng ta nghe tiếng Ngài trong Kinh thánh, đặc biệt khi đọc công khai ở đây trong nhà thờ. Chúa Kitô đã nói gì ? Chúa Kitô đã làm gì ? Bạn hãy đọc những câu hỏi này. Bạn hãy tìm câu trả lời. Rồi hãy bước theo tiếng gọi của Đấng chăn dắt linh hồn bạn.
 
          Cái gì là thật ? Cái gì là giả ? Cái gì đúng ? Cái gì sai ? Hãy lắng nghe những vị lãnh đạo của Giáo hội mà Chúa Kitô đã thiết lập. Ngài đã hứa ở cùng Giáo hội cho đến tận thế. Ngài đã hứa gìn giữ Giáo hội cho khỏi lầm lạc.
 
          Bạn sẽ nghe tiếng Ngài từ bàn thờ này, Bạn sẽ nghe tiếng Ngài trong các báo chí Công giáo.  Những Giáo hội Kitô giáo cũng có nhiều Chân lý mà Chúa Kitô đã dạy, nhưng chỉ có Giáo hội Công giáo có trọn vẹn những điều Chúa Kitô đã dạy, có dồi dào tiếng nói chính thức của Ngài.
 
          Bạn hãy chăm chú lắng nghe tiếng Ngài.  Bạn hãy đổi mới lòng trung thành với Đấng chăn chiên chân thật theo lời thánh Phêrô trong bài đọc II :”Hãy trở về cùng vị Mục tử, Đấng canh giữ linh hồn bạn”. Rồi chúng ta sẽ có sự sống dồi dào.
                   (GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin Mừng Chúa nhật năm A, tr 62).
 
 
          d) Phải yêu mến mục tử nhân lành.
 
          Người mục tử bao giờ chũng yêu thương con chiên, gắn bó với chúng từng giây phút, biết tên từng con một, dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi và suối nước mát. Tất cả vì đàn chiên. Đấy là hình ảnh của Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành, đối với từng người chúng ta. Vậy chúng ta phải là đàn chiên ngoan ngoãn, yêu mến Chúa, lắng nghe tiếng Chúa, tin theo Chúa mặc dầu phải hy sinh đau khổ.  Chúng ta phải biết rằng Chúa thương yêu chúng ta trước, còn ta, ta chỉ việc đáp lại tình yêu nhưng không ấy.
 
                                      Truyện minh hoạ
          Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh em tín đồ qùi cạnh bên giường, cầu xin Chúa cứu chữa ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc đàn chiên của Ngài rất tận tâm và họ lặp đi lặp lại câu này :”Chúa biết không, mục sư yêu mến Ngài biết bao”!
          Nghe vậy, vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói :
          - Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và Marta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói :”Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa”, nhưng nói :”Lạy Chúa, này kẻ Chúa yêu đang bị       đau nặng”. Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn. (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm A, tr 204).
 
          Nhiều khi chúng ta cảm thấy hãnh diện vì đã yêu Chúa nhiều.  Chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu thương ta trước, yêu vô điều kiện, không bờ bến.  Nhiều khi chúng ta hãnh diện mà kể công với Chúa : ta đã làm được những việc này việc nọ cho Chúa nhưng Chúa bảo chúng ta đừng có cao ngạo như thế, trái lại khi làm xong việc gì thì hãy thưa với Chúa :”Chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17, 10).         
 
          Chúng ta vui sướng vì có Chúa là vị Mục tử nhân lành, Đấng chăn dắt linh hồn chúng ta. Chúng ta chỉ cần trở thành những con chiên ngoan ngoãn, đừng bao giờ trở nên những con chiên bướng bỉnh hay như người ta nói là những con chiên “ghẻ”. Chúng ta sống an bình trong tay Đấng chăn chiên lành, tin tưởng vào Ngài trong mọi trạng huống của cuộc sống. Ngài sẽ lo cho mọi sự vì Ngài đã nói :”Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”.
 
          Đồng thời hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và tu sĩ. Chúng ta cầu nguyện cho có nhiều tâm hồn quảng đại, biết dấn thân vô điều kiện, và phục vụ vô vị lợi cho đàn chiên Chúa. Vì đàn chiên không thể thiếu chủ chăn.
 
          Lạy Chúa, Chúa là mục tử tốt lành, xin dẫn dắt chúng con đi trên nẻo đường của Chúa, để chúng con được no thỏa ân tình của Ngài.
          Xin ban cho chúng con những chủ chăn nhân lành, chỉ biết say mê Chúa và say mê con người, chỉ biết yêu thương, phục vụ và chăm lo cho đàn chiên Chúa, để chia sẻ với Chúa nỗi bận tâm về một đàn chiên “được sống và sống dồi dào”.
 
 




THỨ TƯ LỄ TRO
THẬT LÒNG TRỞ VỀ VỚI CHÚA

Chuyện ngụ ngôn về miếng đất sét kể: Có người tình cờ nhặt được miếng đất sét có màu sắc và hương thơm của hoa hồng. Vô cùng kinh ngạc, ông ta hỏi:

–         Đất sét ơi, hãy nói cho ta biết mi là gì, một viên ngọc đáng giá, là viên kim cương quý hiếm hay viên đá kỳ diệu nhất trên đời?

Đất sét trả lời:

–         Tôi chỉ là miếng đất sét tầm thường như bạn bè của tôi.

–         Thế sao mi có hương thơm và vẻ đẹp kỳ diệu như vậy?

–         Tôi sẽ nói cho ông biết điều bí mật đó: Vì tôi sống gần một bông hồng.

Con người cũng là nắm đất sét được Thiên Chúa chạm đến, nên trở nên cao quí nhờ thấm đẫm tình thương và ân huệ của Người. Sách Sáng Thế viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2, 7) Con người chỉ là bùn đất, nhưng vì được Thiên Chúa chuyển thông sinh khí, nên có sự sống và vượt trổi hơn muôn vật muôn loài. Chẳng những thế, Đấng Tạo Thành còn cho hưởng sự sống vĩnh cửu, ơn khôn ngoan, tự do và thay quyền của Người để coi sóc muôn loài. Nhưng khi bất trung với Thiên Chúa, con người như diều đứt dây, mất tất cả và trở về với tro bụi. Trong nghi thức xức tro hôm nay, Giáo Hội nhắc nhở: “Ta là thân cát bụi, sẽ trở về cát bụi.”

Con người chối từ Đấng Tạo Thành, nhưng Người không bỏ rơi họ. Thật vậy, ngay khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hé mở chương trình cứu độ loài người qua lời kết án con rắn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3, 15)

Chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa thể hiện rõ nét qua việc Người kiên trì dạy dỗ trong yêu thương, tìm kiếm để tha thứ và ban ơn. Ngay trong thời Cựu Ước, qua các tổ phụ, các ngôn sứ, Thiên Chúa dạy dỗ loài người qua dân ưu tuyển là Israen. Mỗi lần dân này lầm đường lạc lối, Người tha thiết kêu gọi họ trở về: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Ðừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Ðức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương.” (Ge 2, 12-13)

Khi thời gian viên mãn, Con Thiên Chúa đến trần gian không ngoài mục đích tìm kiếm những người đang chìm đắm trong tối tăm của sự chết, đưa họ về nguồn ánh sáng và sự sống. Chính Đức Giêsu đã nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9, 13) Vì thế, ngay khi khởi đầu sứ vụ cứu thế, Người đã kêu gọi: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1, 15)

Về phía con người, ngay từ thời nguyên tổ, vì không đủ tin vào tình thương của Chúa, nên tìm hướng đi riêng nhằm thỏa mãn những đam mê và tận hưởng khoái lạc như  ý họ muốn. Tiếc rằng,  khi quay lưng lại với Đấng là sự sống và hạnh phúc đích thật, con người đánh mất tất cả, tâm hồn trống rỗng và khắc khoải khôn nguôi.

Chỉ khi trở về và tìm gặp Chúa, tâm hồn chúng ta mới được bình an, cuộc sống có ý nghĩa vì đạt tới hạnh phúc thật. Bởi lẽ, Chúa là cùng đích, là sự sống và hạnh phúc viên mãn của toàn thể nhân loại.

Nhưng nhiều lần chúng ta chỉ sám hối theo thói quen với công thức có sẵn như đấm ngực khi đọc “kinh thú nhận”. Có người giả vờ hối hận để hài lòng một ai đó, họ như đứa trẻ sợ cha mẹ trách mắng nên đến với bí tích hòa giải mà chẳng thật lòng sám hối và khao khát ơn tha thứ. Cũng có người quyết thay đổi khi bị đau ốm hay gặp rủi ro, đến lúc mọi sự an toàn hơn, lại không muốn duy trì quyết tâm ấy nữa. Giuđa, sau khi phản bội Thầy cũng đã cảm thấy xót xa, ray rứt và hối hận, nhưng vì không tin vào tình thương tha thứ của Chúa nên tự đi tìm cái chết.

Trở về với Chúa cách chân thành phải xuất phát từ tấm lòng muốn hoán cải, khao khát đổi mới, ước ao nên hoàn thiện và đặt niềm tin vào tình thương của Người như Phêrô, Augustinô và biết bao những người thành tâm thiện chí được lịch sử Giáo Hội ghi lại.

Đứa bé tập đi, nó vấp té và khóc, rồi đứng dậy, cố bước tới với chút kinh nghiệm vừa có, chẳng bao lâu sau, nó bước đi vững vàng và chạy nhảy thuần thục. Tương tự như vậy, bản tính con người vốn yếu đuối và giới hạn nên dù có quyết tâm chúng ta cũng dễ sai phạm nhiều lần cùng một nết xấu, nhưng nhờ ơn Chúa, với quyết tâm, sự kiên trì, nhẫn nại và lòng khiêm tốn, chắc chắn chúng ta sẽ tiến bộ trên đường nên thánh.

Có nhiều cách giúp chúng ta trở về với Chúa, nhưng cầu nguyện, thực thi bác ái và chay tịnh vẫn là ba phương thế căn bản và truyền thống.

Cầu nguyện: nhờ những giây phút đặt mình trước mặt Chúa, chúng ta nghe được tiếng Chúa, nhận biết thánh ý Người; đồng thời nhận ra tội lỗi, sự bất trung và những khuyết điểm cần thanh tẩy nơi tâm hồn. Nhờ cầu nguyện, chúng ta còn đón nhận ơn Chúa để hoàn thành những ước nguyện và quyết tâm lành thánh của mình.

Thực thi bác ái: những lỗi lầm của chúng ta thường liên quan đến tha nhân. Nhiều khi chúng ta để lòng thù ghét, giận dữ, vu khống, lừa dối… và thờ ơ trước nỗi khổ của những người thân cận. Thực thi bác ái, không chỉ là giúp đỡ về vật chất mà còn là tha thứ, sống công bằng, quan tâm và yêu thương mọi người.

Chay tịnh: những đam mê trần tục làm chúng ta xa rời Thiên Chúa, chối bỏ ân huệ của Người, và tự đánh mất sự sống cùng với hạnh phúc vĩnh cửu. Như chiếc dây cương điều khiển chú ngựa đi đúng đường, nhờ chay tịnh, chúng ta tập kìm chế ngũ quan, thắng vượt các đam mê, loại bỏ tính tham lam, sự giận hờn, nhờ thế chúng ta có thể sống theo ý Chúa và trở nên môn đệ của Người.

Sám hối và canh tân theo tinh thần Tin Mừng là việc chúng ta phải thực hiện suốt đời,  và mùa chay là dịp thuận tiện, là mùa tập luyện thiêng liêng, để nhờ chuyên chăm cầu nguyện, thực thi bác ái và chay tịnh, chúng ta có thêm sức mạnh cùng với sự kiên trì để luôn biết trở về với Chúa thật lòng.

Xin Chúa chúc phúc và nâng đỡ tất cả chúng ta, nhất là trong mùa chay thánh này, để nhờ biết thật lòng trở về với Người, tâm hồn nên trong sạch và được hưởng dồi dào niềm vui ơn cứu độ.
 

LỄ TRO
BÀI 2 Trở  Về

Ngày nay, tại thành phố Hiroshima, Nhật Bản, người ta thường thấy một bà lão già nua đi lang thang khắp các đường phố, chìa ra cho khách qua đường xem một chiếc nhẫn vàng đã xỉn màu và lặp đi lặp lại :
– Hãy tha lỗi cho tôi … Xin làm ơn, tha lỗi cho tôi !
Bà lão ấy tên là Yoko. Người ta kể lại câu chuyện về bà như sau :
Vào năm 1945, lúc ấy Yoko 14 tuổi, mồ côi cha mẹ. Cô chỉ còn lại bà ngoại là người thân thích. Trước khi chết, vì nghèo khổ, bà ngoại cô đã gửi cô đến giúp việc cho một gia đình giàu có. Bà luôn nhắc đi nhắc lại với cô như một lời trăn trối :
– Cháu phải luôn chăm chỉ, đáng tin và trung thực. Nếu không thì hãy coi chừng, tai họa lớn đấy !
Một ngày kia, ông chủ của Yoko qua đời. Chỉ có một mình cô bên cạnh khi ông ta chết. Cô đã ăn cắp chiếc nhẫn trên tay người chết và bỏ trốn.
Khi Yoko băng qua một ngọn đồi, chỉ trong một khoảnh khắc, một quầng lửa lớn bỗng bùng lên xé nát bầu trời. Ánh sáng chói lòa phủ chụp xuống ! Yoko ngất lịm đi …
Lúc đó là 8 giờ 15 phút ngày 15/8/1945, giờ phút kinh hoàng khi quả bom nguyên tử của Mỹ ném xuống thành phố Hiroshima và biến tất cả thành một đống hoang tàn.
Khi tỉnh dậy, Yoko không còn nhớ gì ngoài lời nói của bà ngoại : “Cháu hãy chăm chỉ, đáng tin và trung thực, nếu không thì hãy coi chừng, tai họa lớn đấy !”.
Từ đó trở đi, trong cơn điên loạn, Yoko lang thang khắp nơi, đi tìm một ai đó để nói lời xin lỗi. Nhưng dường như tất cả đều đã chết ! (Truyện của K. Elizabeth, Australia).

“Hãy tha lỗi cho tôi !”. Đó cũng phải là lời nói của mọi người chúng ta trong suốt mùa chay này. Lời nói đó xuất phát từ đáy tâm tư, từ trong sâu thẳm của tâm hồn chúng ta. Đó phải là tiếng nói nghẹn ngào của một trái tim muốn quay trở về.
“Hãy tha lỗi cho tôi !” không phải là một lời nói lịch sự mà người ta thường nói với nhau trong cuộc sống hằng ngày, nhưng đó chính là tâm tình sám hối ăn năn thật sự khi nhận ra sự yếu đuối bất toàn của mình. Sám hối chính là trở về cùng Chúa và anh em.

“Hãy tha lỗi cho tôi !” là tiếng nói của sự hòa giải, là nhịp cầu đã gãy được nối lại, là khởi đầu cho một cuộc trở về …
Hôm nay, ngày Lễ Tro, khởi đầu mùa chay thánh. Tất cả phụng vụ mùa chay là một lời mời gọi tha thiết của Giáo Hội: Hãy trở về !

Màu tím.

Người ta coi màu tím là màu của tang tóc, chia ly. Nhưng trong mùa chay, màu tím mang ý nghĩa của sự trở về : trở về để làm hòa với Chúa và anh em. Lễ phục tím vị linh mục mặc trong mùa chay luôn nhắc nhớ chúng ta về cuộc trở về đó.
Màu tím là sự hòa trộn giữa màu xanh dương và màu đỏ. Màu xanh tượng trưng cho niềm hy vọng, màu đỏ là biểu tượng của hy sinh. Như thế, màu tím là sự kết hợp của niềm hy vọng và sự hy sinh. Điều đó gợi lên ý nghĩa : cuộc trở về nào cũng đòi hỏi sự hy sinh và sự từ bỏ. Nhưng trong hy sinh và từ bỏ bao giờ cũng ánh lên niềm hy vọng. Vì vậy, trong mùa chay, chúng ta không trở về trong buồn thảm và thất vọng, nhưng trở về trong niềm tin yêu và hy vọng.

Bụi tro.

Tro tàn là tất cả những gì còn lại sau một đám cháy. Tro tượng trưng cho sự tàn lụi và tiêu tan. Tro là dấu tích của một cuộc thiêu huỷ, là kết quả của sự loại bỏ, là biểu hiệu của sự kết thúc. Tro gợi lên định mệnh tất yếu của con người là phải chết, như Giáo Hội vẫn nhắc nhở : “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về cùng bụi tro” (St 3, 19).
Nghi thức làm phép tro và xức tro phát xuất từ việc thống hối và hòa giải vào thời xưa trong Giáo Hội. Ngày nay, việc bỏ tro lên đầu vẫn còn mang ý nghĩa tượng trưng của lòng sám hối.

Tuy nhiên, trong đống tro tàn luôn ẩn giấu những đốm than hồng. Trong tro tàn lạnh lẽo thường chứa đựng hơi ấm nồng nàn. Bỏ tro lên đầu không phải là gieo vãi sự thất vọng bi thương, nhưng là khơi lên ngọn lửa tình yêu trong những tâm hồn lạnh giá. Sám hối cũng là cuộc trở về để tìm lại hơi ấm của tình Chúa, tình người.

Tiên tri Gioen kêu gọi dân Do Thái hãy sám hối ăn năn : “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo các ngươi”. Sám hối phải xuất phát từ cõi lòng chân thực, chứ không phải chỉ là việc làm bề ngoài. Việc bỏ tro lên đầu nhắc nhớ chúng ta về thân phận bụi tro của mình. Nhưng cũng còn lưu ý chúng ta hãy biết “bỏ tro trong tâm hồn” với lòng thống hối xuất phát từ nội tâm.
Thánh Phaolô khuyên tín hữu Côrintô : “Hãy làm hòa cùng Thiên Chúa”. Đó cũng là lời khuyên dành cho chúng ta hôm nay. Mùa chay là thời gian thuận tiện nhất để chúng ta làm hòa cùng Chúa và tha nhân. Vì thế, sám hối trong mùa chay là gì nếu không phải là đến với lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa và đi bước trước đến với tha nhân trong tinh thần hòa giải. Đó là cuộc trở về trọn vẹn nhất.

Thánh Matthêu phác họa những con đường trở về với Chúa và mọi người bằng những việc làm cụ thể : bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Đó không phải là những con đường của sự phô trương, nhưng luôn có khởi điểm từ nội tâm với lòng khiêm tốn chân thành.

Một người lính Mỹ trở về quê hương sau nhiều năm tham chiến ở Việt Nam. Từ San Francisco, anh gọi điện thoại về nhà gặp người cha :
– Thưa cha, con đã giải ngũ và sắp về nhà. Nhưng con có điều xin phép cha. Con muốn dẫn một người bạn cùng về nhà mình.
Người cha đáp :
– Ồ ! Được thôi, cha mẹ sẵn sàng đón tiếp bạn con.
Nhưng người con nói tiếp :
– Nhưng có điều này cha mẹ nên biết : anh ấy bị thương rất nặng trong chiến tranh, mất một tay và một chân. Anh ấy không còn nơi nương tựa. Xin cha mẹ cho anh ấy sống cùng chúng ta.
Người cha đáp :
– Cha mẹ rất tiếc khi nghe điều này. Chúng ta không thể cưu mang một người tàn tật như vậy. Đó là một gánh nặng đè lên vai chúng ta.
Sau khi nài xin một hồi lâu không được, người con đành gác máy.

Vài ngày sau đó, họ đột nhiên nhận được một cú điện thoại từ cảnh sát San Francisco báo tin con trai họ nhảy lầu tự sát. Anh ta đã chết.

Họ vội vàng đến nơi để nhận xác con. Khi nhìn thấy con, họ bàng hoàng và đau xót khi nhận ra con mình chỉ còn một tay và một chân. Anh ta chính là người lính tàn tật xin được trở về đoàn tụ cùng gia đình mà bị từ chối.

 

Thiên Chúa luôn mở rộng lòng thương xót để đón nhận và tha thứ cho các tội nhân. Trong mùa chay này, chúng ta hãy đứng lên, với lòng sám hối ăn năn, can đảm trở về với Chúa.

 

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY NĂM A


Bài 1: Người ta sống

Người ta sống không nguyên bởi bánh.

Chúa Giêsu người đã nói câu đó, không phải là một kẻ mơ mộng hoặc chỉ sống bằng những lý tưởng cao đẹp, hoặc đã có dư ăn dư mặc để có thể dễ dàng lên mặt dạy đời về sự tầm thường của vật chất. Ngài hiểu rõ giá trị của đồng tiền bát gạo vì đã khó nhọc làm ăn nuôi sống gia đình. Ngài biết rằng có thực mới vực được đạo, bằng chứng là có lần Ngài đã phải nuôi ăn cho một đám đông đói khát sau những ngày tìm đến với mình để được nghe giảng dạy. Ngài cũng biết rằng bần cùng sinh đạo tặc, bởi vì Ngài đã thường xuyên lui tới với những đám người khốn khổ nhất của xã hội, biết rõ hoàn cảnh đời sống của họ. Thế nhưng Ngài vẫn nhất định không để cho nhu cầu thiết yếu và căn bản ngự trị trên các nhu cầu khác của con người. Ngài nhất định không coi của cải vật chất là tất cả đến nỗi phải làm bất cứ cách nào cho có được.

Người ta sống không nguyên bởi cơm bánh.

Có một thời cách đây không lâu, chúng ta ngơ ngác không hiểu tại sao thanh niên Âu Mỹ lại chán chường, nổi loạn, phá phách hay làm những chuyện điên rồ, có vẻ vô nghĩa, khi mà họ đã có thừa mứa mọi tiện nghi hưởng thụ. Sở dĩ như thế vì lớp thanh niên này có mọi thứ, nhưng lại thiếu lý tưởng, thiếu lẽ sống, thiếu cái gì cao cả để mà vươn lên. Thời ấy, chúng ta nghe, nhưng vẫn cảm thấy đó là những điều hơi xa lạ và viễn vông. Bây giờ, khi nhìn thấy một lớp trẻ sống thực dụng, không lý tưởng, bất chấp đạo nghĩa, đặc biệt là những hạng con ông cháu cha trong xã hội, thì chúng ta mới thực sự thấm thía. Cha ông chúng ta vốn thường dạy: Tốt danh hơn lành áo. Chết vinh hơn sống nhục. Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi. Còn giới trẻ hôm nay thì đã phản ứng ngược lại.

Thầy giáo kể lại câu chuyện về cha Maximilien Kolbê, người đã tình nguyện chết thay cho một bạn tù, là người cha còn trẻ trong gia đình, bị Đức quốc xã giam cùng trại với cha. Vị linh mục nói: Tôi già rồi nếu có sống thì cũng không có lợi ích và cần thiết bằng người cha gia đình này. Nghe xong, một cậu học trò đã phê bình một câu sắc như nhát chém: Sao mà ngu thế.

Ngoài cơm bánh, chúng ta còn đói khát rất nhiều thứ khác, chẳng hạn như đói khát sự thật, đói khát tình thương, đói khát tự do, đói khát phẩm giá, đói khát lòng kính trọng, đói khát kiến thức, đói khát lẽ sống và lý tưởng.

Chúng ta cần phải giúp cho bản thân cũng như cho người khác, để chúng ta cùng nhau vươn lên, vươn lên mãi, cho đến khi gặp được nguồn chân thiện mỹ mới thôi.

 

Bài 2: Cám dỗ.

Adong Eva được Thiên Chúa đặt ở vườn địa đàng, sống trong hạnh phúc và tình nghĩa với Chúa. Hai ông bà không biến đến đau khổ, bệnh tật và chết chóc. Trái lại hai ông bà là những người bạn,là những người con của Thiên Chúa bởi vì mỗi khi chiều xuống, Ngài thường hiện ra đàm đạo với hai ông bà. Chính vì vậy, mà quỷ đã ghen tương và muốn phá huỷ cái thế cân bằng hài hoà ấy. Nó đã cám dỗ hai ông bà về tội kiêu ngạo, muốn trở nên bằng Thiên Chúa. Và rồi hai ông bà đã nghe theo lời quyến rủ đường mật ấy, phản bội cùng Thiên Chúa qua hành động giơ tay bứt trái cấm mà ăn, để rồi phải cúi đầu nhận lãnh hình phạt của đau khổ và chết chóc. Và tệ hại hơn cả là đã làm mất đi tình nghĩa với Thiên Chúa, làm mất đi ơn thánh tức là sự sống của Ngài trong tâm hồn. Cái hậu quả thảm khốc này được truyền cho nhân loại trong suốt dòng thời gian.

Thế nhưng rất may mắn cho chúng ta, bởi vì Thiên Chúa là Đấng nhân từ và giàu lòng thương xót, Ngài không muốn để chúng ta sống trong sự đau khổ và tuyệt vọng, vì thế ngay sau khi hai ông bà sa ngã, Ngài đã hứa ban cho nhân loại một Đấng cứu thế, tức là Đức Kitô. Ngài sẽ đến để sửa lại những hậu quả thảm khốc do tội Adong gây nên, Ngài sẽ đến để nối lại nhịp cầu cảm thông giữa trời và đất, giao hoà chúng ta lại với Thiên Chúa. Bởi đó, trong đêm thánh vọng phục sinh, chúng ta đã gọi tội Adong là tội hồng phúc vì nhờ đó mà chúng ta có được Đấng Cứu thế.

Cũng trong chiều hướng ấy thánh Phaolô đã viết: Bởi một người mà tội lỗi đã đột nhập vào thế gian, và cùng với tội lỗi là sự chết. Thì cũng vậy, bởi một người mà sự công chính đã ngự trị trên thế gian, và cùng với sự công chính là sự sống. Sự sống này được chuyển thông cho hết thảy mọi người. Ba chữ "bởi một người" đã trở nên một điệp khúc được lặp đi lặp lại. Thực vậy, bởi một người mà nhân loại đã bị dẫn vào vòng tội lỗi, nhưng đồng thời cũng bởi một người mà nhân loại được dẫn vào miền đất sống. Thánh Phaolô đã đưa ra sự tương phản giữa Adong và Chúa Giêsu. Adong thì kiêu ngạo, còn Chúa Giêsu thì khiêm nhường. Adong thì sa ngã, còn Chúa Giêsu thì chiến thắng. Kết quả là Adong thì dẫn đến sự chết, còn Chúa Giêsu thì dẫn đến sự sống. Và thánh Phaolô đã kết luận: Nơi nào tội lỗi ngập tràn thì ân sủng lại càng tràn ngập hơn.

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy Satan đã cám dỗ Chúa Giêsu cũng với cái chiến thuật mà nó đã dùng để dụ dỗ hai ông bà nguyên tổ. Từ của ăn vật chất, đến khát vọng kiêu căng muốn thử thách Thiên Chúa và trở nên ngang hàng với Ngài.

Chúa Giêsu đã chiến thắng và nêu gương cho chúng ta. Bởi đó mỗi khi gặp phải những cám dỗ và thử thách, chúng ta hãy xin Chúa nâng đỡ, để chúng ta cũng sẽ chiến thắng, hầu nhờ đó mà trung thành với Chúa mãi mãi.

 

Bài 3: Những cơn cám dỗ

Có nhiều người thắc mắc: Ăn chay là gì? Phải chăng là để dằn vặt thân xác, hành khổ con người cho Chúa vui lòng? Hỏi như vậy là chưa hiểu đạo, chưa hiểu hết ý nghĩa của việc ăn chay. Chúa đâu phải quá độc ác, bệnh hoạn, vui lòng khi thấy con người chịu khốn khổ. Ăn chay một phần để hy sinh đền tội, nhưng mục đích chính của việc ăn chay là để thao luyện tâm hồn chống lại quỷ dữ.

Ngày nay người ta quên sự có mặt của ma quỷ. Nhưng ma quỷ vẫn có đó và và vẫn tích cực hoạt động nhằm phá huỷ thế giới, tiêu diệt con người. Ma quỷ rất tinh ma xảo quyệt nên người ta khó nhận ra âm mưu, dấu vết của chúng.

Nhìn vào ba cuộc ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta thấy ma quỷ rất tinh khôn. Nó có kế hoạch, có chiến thuật, tấn công nhiều đợt, nhiều bước.

Thoạt tiên ma quỷ tấn công vào những bản năng sơ đẳng nhất nơi con người: bản năng sinh tồn, bản năng thống trị, bản năng đối nghịch. Những bản năng ấy gắn liền với những nhu cầu căn bản, chính đáng của con người.

Kéo chú ý của người ta vào những nhu cầu rồi, ma quỷ tiến bước thứ hai, đó là phóng đại những nhu cầu đó lên, làm cho người ta lầm tưởng rằng, đó là những nhu cầu cấp bách, phải thoả mãn ngay tức khắc.

Khi ta đã hoàn toàn mê mẩn vì cái bẫy nhu cầu, ma quỷ mới đẩy ta đến bước thứ ba, đó là tìm thoả mãn những nhu cầu theo ý riêng mình. Cách giải quyết đó ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích sau cùng của ma quỷ là xúi giục ta phản loạn, không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng lìa xa Thiên Chúa.

Ông bà nguyên tổ đã rơi vào bẫy của ma quỷ nên đã không sống tâm tình của người con hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn ngang bằng cha mình, muốn chống lại cha mình.

Chúa Giêsu, trái lại, đã sáng suốt vạch trần âm mưu của ma quỷ và kiên quyết sống tâm tình của người con hiếu thảo.

Khi ma quỷ phóng đại nhu cầu, muốn cho Chúa Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, chỉ sống nhờ bánh vật chất, vật chất là tất cả đời sống. Chúa Giêsu đã sáng suốt chỉ cho ta thấy vật chất không phải là tất cả, bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng bánh tinh thần của trời cao còn cần hơn.

Khi ma quỷ thúc giục Chúa Giêsu hãy thoả mãn tức khắc nhu cầu của mình, Chúa Giêsu đã biết kiên nhẫn chờ đợi. Khi ma quỷ khích Chúa Giêsu dùng quyền năng riêng của mình để thoả mãn nhu cầu, Chúa Giêsu đã từ chối. Người muốn vâng phục Đức Chúa Cha, tin tưởng phó thác vận mệnh trong tay Chúa Cha, để mặc Chúa Cha quyết định.

Tuy đã thắng trong cuộc đọ sức đầu tiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị ma quỷ cám dỗ trong suốt cuộc đời. Cơn dỗ khi thì đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất, khi thì đến từ những người chống đối đòi xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượn chính những người thân tín như Phêrô để ngăn cản Chúa Giêsu thực hành ý Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ vì Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Dù khi phải chiến đấu trong mồ hôi pha máu, Người vẫn nói: "Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, xin vâng theo ý Cha mà thôi".

Ma quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ. Và nhiều khi chúng ta đã mắc bẫy ma quỷ. Ta mắc bẫy ma quỷ khi mải mê đuổi theo những nhu cầu tiêu thụ quá đáng. Ta rơi vào âm mưu ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm trong vòng tay ma quỷ khi ta dùng mọi phương tiện để thoả mãn những nhu cầu, bất chấp ý Thiên Chúa.

Thay vì tuân phục ý Chúa, tôi luôn luôn bắt Chúa làm theo ý tôi. Thay vì vâng lời Chúa, tôi luôn luôn muốn sai bảo Chúa.

Mùa Chay này, Chúa kêu gọi tôi trở về với Chúa. Muốn trở về với Chúa, tôi phải chiến đấu chống lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng mình và tìm vâng phục ý Chúa.

Hãy đặt ra cho mình một chương trình sống Mùa Chay bằng tăng cường hy sinh, cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.

Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót đang chờ đón tôi trở về, và sẽ ban sức mạnh để tôi đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu tôi biết sống trọn tình con thảo, tin cậy phó thác vào Người.

Lạy Thiên Chúa là Cha của con, xin đón nhận tâm hồn khiêm nhường sám hối của con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Theo bạn, ngày nay ma quỷ còn hoạt động trong thế giới không? Nếu có, bạn cho một ví dụ.

2) Bạn thường thua hay thắng cuộc khi gặp phải cám dỗ. Thua, tại sao? Thắng, nhờ đâu?

 

3) Đâu là âm mưu của ma quỷ che dấu đàng sau những cơn cám dỗ?


 

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY NĂM A

Chúa biến hình

Tại sao Chúa Giêsu chỉ mang có ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê?

Ngay từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông này được chứng kiến một số hành động của Chúa Giêsu. Ngoài việc làm chứng nhân cho cuộc biến hình, các ông còn được độc quyền đi theo Ngài trong những giây phút hấp hối cuối cùng nơi vườn cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng Chúa Giêsu về những dấu hiệu báo trước ngày sụp đổ của đền thờ.

Có thể nói: Phêrô, Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ lãnh đạo trong Gháo Hội. Việc Chúa Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội để các ông chứng kiến cho sự biến hình không phải là không có ý nghĩa cho sự sinh hoạt của Giáo Hội ngày hôm nay.

Như chúng ta đã biến vấn đề quyền hành là vấn đề then chốt trong Giáo Hội bởi vì chính Ngài đã xác quyết trước mặt Philatô:

- Nếu từ trên chẳng ban cho ông, thì ông chẳng có quyền hành gì trên tôi.

Thế nhưng quan niệm về quyền hành của Chúa Giêsu hoàn toàn khác biệt với quan niệm về quyền hành của thế gian. Bởi vì theo Ngài, quyền hành là để phục vụ chứ không phải là để hống hách, chèn ép và hưởng thụ:

- Thủ lãnh các dân ngoại thì cai trị và chuyên chế, còn giữa các ngươi thì không được như vậy, ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và trở nên đầy tớ cho mọi người.

Chính Ngài, trong bữa tiệc ly cũng đã nói với các môn đệ:

- Mặc dầu các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn quỳ gối rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.

Cũng trong chiều hướng đó mà các vị Giáo hoàng vốn tự xưng mình là “servus servorum”, đầy tớ của các đầy tớ. Ba vị cột trụ của Giáo Hội được chứng kiến việc Chúa biến hình, không phải là để các ông được hưởng một kinh nghiệm lý thú như Phêrô đã tưởng: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay quá, nhưng là để các ông sau này biết vận dụng quyền hành theo một ý nghĩa mới mà Ngài đã đề ra đó là phục vụ.

Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã đổi mới quan niệm của chúng ta theo quan niệm của Chúa Giêsu hay chưa? Liệu chúng ta đã đổi mới cái nhìn của chúng ta theo cái nhìn của Chúa Giêsu hay chưa? Có nghĩa là chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương, đã sống tinh thần phục vụ, đã có được những hành động bác ái an ủi, khích lệ và giúp đỡ những người chung quanh hay chưa?

Bởi vì trong ngày sau hết chúng ta sẽ không bị xét xử về địa vị xã hội, mà sẽ bị xét xử về những hành động bác ái yêu thương mà chúng ta đã làm hay không làm cho những người chung quanh. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng được tham dự vào cuộc biến hình vinh quang trong ngày sau hết.


 

BÀI 2

Đỉnh cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai

Bên kia những thực tại hữu hình

Bản văn của thánh Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí vượt trên những thực tại hữu hình, qua những con người và biểu tượng. Bản văn là một mặc khải về một mầu nhiệm: căn tính của Đức Giêsu.

Nơi chốn: "một nơi riêng", "một ngọn núi cao". Đây không phải là một địa điểm cụ thể về địa dư. Có thể lấy làm tiếc vì một truyền thống muôn thời đã muốn xác định về một nơi rõ ràng, bởi vì việc Tin Mừng không nói rõ nơi chốn có thể có nghĩa là mặc khải này sẽ xảy ra ở mọi nơi.

Đàng khác, "ngọn núi cao" luôn luôn là một nơi đặc biệt; tại đó đất dường như nối liền với trời, và cũng tại đó, con người vừa cảm nghiệm được sự bé nhỏ của mình, đổng thời vừa muốn vươn mình tới những chiều kích bao la của vũ trụ.

Thời gian: đã được xác định rõ là 6 ngày sau khi Đức Giêsu báo trước cho các Tông Đổ về cuộc Khổ Nạn. Tuy nhiên, cuộc Hiển Dung còn có ý nghĩa lớn lao hơn: nối kết giữa quá khứ (Môsê + Êlia) và tương lai (Đức Kitô phục sinh). Đây là một thời gian vượt-thời-gian.

Các nhân vật: thái độ của các môn đệ (theo Đức Giêsu, muốn ở lại, sự kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất) cho thấy một sự đảo lộn, một ý thức do một nhận biết không thể diễn tả nổi về thực tại nơi Đức Kitô. Con đường này trở thành con đường của các môn đệ sau khi Đức Kitô phục sinh, đổng thời cũng là con đường của tất cả mọi Kitô hữu.

Một bức tranh để chiêm ngắm

Việc Đức Giêsu biến đổi hình dạng không phải chỉ là một trình thuật để nghe, nhưng còn là một bức tranh để chiêm ngắm, tựa như hình ảnh ngắn ngủi về một thế giới thần thiêng và bí nhiệm, rất gần gũi mà cũng rất xa xăm. Trên dung nhan của con người đang bị bóng tối tử thần đe dọa, đã bừng lên ánh sáng chói lòa của ngày Phục Sinh.

Biến cố Hiển Dung xảy ra sau khi Đức Giêsu báo trước cuộc Khổ Nạn của Người cũng như việc dự phần của các môn đệ: biến cố này nhằm củng cố lòng tin của ba vị tông đổ sẽ có mặt vào những giờ phút cuối cùng của Đức Giêsu tại vườn cây Dầu (Mc 14,33). Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên ba vị này được "đi riêng" với Đức Giêsu; ba vị đã từng được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho con gái ông trưởng hội đường sống lại (Mc 5,37).

Tuy vậy, sự kiện này còn có ý nghĩa quan trọng hơn với mỗi vị. Trước hết, với Phêrô, người sẽ được trao quyền lãnh đạo Giáo Hội: từ đây, ông sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến, với Gia-cô-bê, vị tử đạo tiên khởi: ông sẽ hân hoan đỗ máu để làm chứng vì ông đã tận mắt nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Cuối cùng, với Gio-an, người môn đệ được Đức Giêsu yêu dấu: ông sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.

Như vậy, ba vị cột trụ trong sinh hoạt của Giáo Hội thời đầu, nhờ kinh nghiệm sâu xa về vinh quang Thiên Chúa, sẽ làm chứng một cách sống động về Đức Giêsu, Đấng đã đi qua con đường đau khổ để bày tỏ lòng yêu mến và đem lại ơn cứu độ.

Thình lình, các ông đã được chứng kiến Đức Giêsu biến đổi hình dạng. Tác giả đã dùng thuật ngữ khải huyền để mô tả vinh quang Thiên Chúa xuất hiện trên dung nhan Đức Giêsu. Điều đáng nói ở đây là ánh sáng vinh quang mà các môn đệ nhìn thấy nơi Đức Kitô, không phải là điều gì đến từ bên ngoài, nhưng là sự biểu lộ bình thường của vẻ đẹp vẫn gắn liền với "Đấng từ trời xuống". Do đó, điều gây ngạc nhiên không phải là ánh sáng rạng ngời đó đã bao phủ Đức Giêsu trong chốc lát, nhưng là sự che giấu ánh sáng đó trong những lúc khác. Như vậy, Đức Giêsu đã che giấu vinh quang của Người, và giờ đây, trong một khoảng thời gian ngắn, Người rời bỏ nhân tính để con người có thể chiêm ngắm vinh quang của Người; và nhờ đó, họ nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa.

Đang khi Đức Giêsu bày tỏ Thiên tính của Người, thì Môsê, vị anh hùng của Lề Luật, và Êlia, thủ lãnh các ngôn sứ, đã đến đàm đạo với Người. Sự hiện diện của hai chứng nhân thời Cựu Ước cho thấy tính siêu việt của thời đại cuối cùng, đổng thời loan báo Vị Ngôn Sứ thiên hạ vẫn mong chờ, nay đã xuất hiện.

Ngoài ra, nội dung cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môsê và Êlia không phải là những điều Người đã giảng dạy, nhưng là cuộc Khổ Nạn của Người. Đó chính là nhiệm vụ của Người, Đấng hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các Ngôn sứ. Việc loan báo đã kết thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công cuộc cứu độ.

Cuối cùng, sự hiện diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là một xác nhận rõ ràng và dứt khoát về sứ mệnh của Đức Giêsu.

Ở đây, cũng như trong biến cố phép Rửa, vẫn là sự giới thiệu sâu sắc về Đấng phải đến để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân Người. Lời giới thiệu này cho thấy mối hiệp thông sâu xa và bất khả phân ly giữa Chúa Cha và Chúa Con. Tuy thế, lời giới thiệu trong biến cố Hiển Dung còn thêm lệnh truyền "hãy vâng nghe lời Người". Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận tất cả những gì Người sẽ thực hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn yếu đuối, cả sự chết lẫn sự phục sinh. Đó là ơn cứu độ.

Hãy rời ngọn núi, tiếp tục con đường

Một tuần lễ trước khi xảy ra biến cố này, Phêrô đã thử tìm một con đường dẫn đến vinh quang mà không có Thập giá. Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể là con đường tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra, có một cái gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu đừng đi Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi này. Với Đức Giêsu, vinh quang hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (xem 2 Pr 1,16-20).

Bởi vậy, trước khi đạt đến vinh quang đích thực, Đức Giêsu phải rời ngọn núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem. Ngài còn phải đến vườn cây Dầu, còn phải lên đồi Gôn-gô-tha. Mặc dù bóng tối của đổi Gôn-gô-tha có che khuất khuôn mặt vinh quang, như là chẳng còn nhìn thấy gì, chẳng còn chi hi vọng; nhưng điều đó chỉ xảy ra trong giây lát, trong một thời gian ngắn. Ánh sáng đã một lần bừng lên thì không phải là điều ảo tưởng, điều đã xảy ra trên núi không phải là giấc mơ. Biến cố Phục Sinh sẽ cho thấy rằng sự sống có thể nảy sinh từ sự chết.

Biến cố Hiển Dung của Đức Giêsu thực là một kinh nghiệm cho tất cả những ai muốn cùng được tham dự vào vinh quang của Người: Chính kinh nghiệm này là chìa khóa, là sức mạnh giúp chúng ta dám chấp nhận những hi sinh, những từ bỏ để càng lúc càng gắn bó hơn với Đức Kitô. Biến cố này thực là một cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa, xuyên qua những thử thách. Ai không chấp nhận xuất hành, không cùng đi với Đức Giêsu trên con đường lên Giêrusalem, người ấy sẽ không được tham dự vào vinh quang vĩnh cửu. Mỗi người sẽ có thể có một kinh nghiệm nào đó về Đức Giêsu, nhưng đó chưa phải là tất cả. Đỉnh cao này còn chờ một đỉnh cao nữa.

 

 

BÀI 3: 

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM

Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.

Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.

Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.

Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.

Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.

Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.

Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.

Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.

Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.

Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.

Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.

 

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY NĂM A

Thiên Chúa ở đâu?

Phải thờ phượng Thiên Chúa ở Sichem hay ở Giêrusalem?

Chúa Giêsu đã đưa ra một lời giải đáp. Ngài khẳng định rằng Thiên Chúa không bao giờ bị khoanh vùng, Ngài cũng không bao giờ là Chúa riêng của một người hay một dân tộc nào, bởi vì Ngài là Cha chung của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Không một người nào, không một dân tộc nào và không một tôn giáo nào được độc quyền chiếm giữ Ngài cho riêng mình, hay nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ hiện diện trên đất nước của mình hay trong đền thờ của mình.

Không. Chúa Giêsu đã khẳng định với người thiếu phụ Samaria: Đã đến giờ ác ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật.

Thiên Chúa là thần khí, mà thần khí thì vô hình nên ở đâu cũng có. Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi: Trời là ngai toà của Ngài còn đất là bệ chân của Ngài. Ngài không cần nhà để ở và hơn nữa, không một nơi nào dù nguy nga tráng lệ đến đâu chăng nữa xứng đáng với Ngài. Trái lại Ngài có thể hiện diện ở bất kỳ nơi nào, nhất là qua mầu nhiệm nhập thể, Ngài có thể hiện diện trong chuồng bò tại Bêlem, tạm trú bên Ai Cập, vất vả tại xưởng thợ Nadarét, để rồi sau đó rảo bước khắp nơi trên mọi nẻo đường Palestine, đến với mọi người Do Thái, Hy Lạp, cũng như Rôma. Kẻ có đạo cũng như người ngoại đạo, người đạo đức cũng như kẻ tội lỗi.

Thiên Chúa là thần khí nên Ngài tự do tuyệt đối, không ai có thể giam hãm Ngài được. Thánh Phaolô khi đến Athen, đã gián tiếp nói cho dân Hy Lạp biết rằng họ cũng thờ phượng một Thiên Chúa như thánh nhân, tuy họ không biết Thiên Chúa ấy là Đấng nào và thánh nhân còn nhìn nhận rằng họ cũng thuộc dòng giống của Thiên Chúa, bởi vì chính nhờ nơi Thiên Chúa mà tất cả chúng ta được sống và hiện diện.

Một khi đã xác tín Thiên Chúa là Cha chung của mọi người, chúng ta không được nhân danh Ngài mà gây chia rẽ và hận thù, trái lại phải nhân danh Ngài mà yêu thương đoàn kết với nhau. Thực vậy đối với Chúa Giêsu thì cách thế diễn tả lòng kính mến Thiên Chúa một cách sâu xa và trọn vẹn nhất, đó là yêu thương anh em của mình. Cách thế phụng thờ Thiên Chúa đúng theo ý Ngài muốn, đó chính là phục vụ anh em. Bởi vì yêu mến Chúa thì phải tuân giữ điều răn của Ngài, mà điều răn Ngài truyền dạy đó là chúng ta phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.

Bởi vậy, không phải khi chúng ta xây dựng những ngôi thánh đường hay những gian cung thánh nguy nga tráng lệ là chúng ta có thể làm cho mọi người nhận ra chúng ta là những kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực, nhất là khi chúng ta dùng những đồng tiền bất chính để xây dựng nhà thờ. Trái lại chỉ có tình yêu thương anh em bằng tinh thần phục vụ, nhất là đối với những người khổ đau và nghèo túng, mới là cách thế chứng minh rằng Thiên Chúa hiện diện ở khắp nơi, và nhất là ở những nơi nào con người biết yêu thương và phục vụ lẫn nhau.

 

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY
Chỉ có Chúa mới lấp đầy được 
trái tim khao khát của con người.

Có đi cả ngày trời trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung như đoàn dân Do-Thái ngày xưa trong hoang địa mới cảm nhận được cái khát hành hạ người ta như thế nào và nhu cầu được uống cho đã cơn khát mới bức xúc làm sao. Thế nên khi bị cơn khát dày vò, họ đổ lỗi cho Mô-sê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá. (Bài đọc I, sách Xuất Hành 17, 3-7)

Thế nhưng ngoài cơn khát tự nhiên là khát nước, con người luôn có những khao khát mà không có gì trên thế gian có thể làm cho họ được no thoả. Người ta gọi đây là khát vọng vô biên. Đây là cơn khát về mặt tâm linh nên chẳng có thứ nước nào trên đời có thể làm dịu bớt.

Người phụ nữ xứ Samari trong Tin Mừng hôm nay (Ga 4,4-42) cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng rồi nhưng lại phải chia tay để tìm hạnh phúc với người thứ sáu; mà cũng chẳng ai trong họ có thể đem lại cho chị hạnh phúc thực sự trong cuộc đời. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi múc nước. Ngày nào cũng phải lặn lội tìm đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau lại khát và tiếp tục đội vò đi tiếp.

Chính vì thế mà Chúa Giêsu khẳng định với người phụ nữ Samari: "Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại". Ngài muốn nói không gì trên đời có thể đáp ứng khát vọng của con người.

Triết gia người Đức, ông Schopennauer khám phá: "những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói."

Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: "Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao - thoả mãn, thoả mãn - khát khao... cứ tiếp diễn mãi không cùng"... lại càng ngày càng tăng "đô" hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì sự ngọn lửa khao khát trong lòng mình.

* * *

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho người phụ nữ Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối mang lại hạnh phúc: "Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." (Ga 4,13-14)

* * *

Augustinô là người mải mê tìm kiếm lạc thú trần gian suốt nhiều năm trường nhưng không gì trên thế gian có thể lấp đầy trái tim khao khát của ngài, mãi đến tuổi 33, nhờ ơn soi sáng và lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện là Mônica, Augustinô mới tìm được Thiên Chúa là Đấng đem lại cho ngài niềm hoan lạc vô biên. Bấy giờ lòng đầy hoan hỉ, Augustinô thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì thế hồn con mãi thổn thức khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên trong tay Ngài".

Chỉ trong Thiên Chúa, khát vọng của Augustinô mới được lấp đầy. Quả đúng như Lời Chúa Giêsu nói: "Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại, còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." (Ga 4,13-14)

* * *

Lạy Chúa Giêsu, chúng con sung sướng được đón nhận Chúa là Mạch Suối thiêng liêng làm tươi mát đời chúng con. Chúng con như những lùm cây trồng bên suối nước. Chúng con được xanh tốt là nhờ giáo huấn của Chúa đem lại sức sống thiêng liêng cho chúng con. Chúng con thật sự hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Chúng con cảm thấy bình an và hoan lạc vì Chúa đã lấp đầy trái tim khao khát của chúng con.

Nhưng chúng con biết rằng còn rất nhiều người đang khát Chúa mà vẫn chưa tìm thấy Chúa. Xin thương đến với họ như xưa Chúa đã đến với người phụ nữ Samari.

Xin cho chúng con, như người phụ nữ Samari xưa, sau khi nhận được Mạch Suối Chúa ban, thì cũng giới thiệu cho cả thành ra gặp Chúa, để họ cũng được no thoả nơi Chúa là Mạch Suối mang lại sự sống đời đời. Amen.
 

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY NĂM A

Hãy biết mình 

Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: "Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!". Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: "Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!". Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.

Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Đúng như cha ông ta vẫn nói:

"Chân mình còn lấm bê bê

Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".

Bài tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.

Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:

Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của thân nhân để cảm thông và giúp đỡ.

Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.

Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội.

Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.

Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.

Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.

Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Đó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.

Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen.

 

Suy niệm: Mở mắt nhìn đời

Có một mẩu đối thoại như sau:

Ông A: Có một tín hiệu đáng mừng, cho thấy sự suy giảm đạo đức đã chững lại, cái tốt đang được thổi bùng lên.

Ông B: Khi cuộc sống no đủ, người ta sẽ không tham tiền của người khác nữa.

Ông A: - Giàu có thì nói làm gì. Có một người phụ nữ tên là Nguyễn Thị Hoài ở tỉnh Nghệ An nhặt được 10 triệu đồng ở ven đường. Cô ấy đã tìm đến khổ chủ trả lại dù bản thân rất nghèo, lại bị khuyết tật nặng.

Ông B:- Chắc khi nhặt được có người trông thấy nên mới đem trả chứ gì?

Ông A- Không hề, trên đường đi nhận tiền mai táng cho bố, cô này nhìn thấy bọc tiền trong đám cỏ, trên đường vắng tanh không một bóng người.

Ông B- Cô này bị tàn tật chắc cũng chẳng ăn uống được mấy nên số tiền đó không cần thiết lắm cho cuộc sống, giữ lại trong nhà, trộm cướp biết được đến 'hỏi thăm' thì khốn, trả cho yên chuyện.

Ông A:- Ai chẳng cần tiền, cô ấy có thể không ăn uống được nhiều nhưng tiền thuốc men là hết sức cần thiết. Một người luôn bị ốm đau, bệnh tật mà vượt qua được sức cám dỗ của đồng tiền như cô Hoài là rất đáng quý, thật đáng trân trọng. Bác không nên nghi ngờ người có lòng tốt như vậy.

Ông A:- Sở dĩ dạo này tôi mất niềm tin vào con người bởi đến đâu cũng gặp nhan nhản những kẻ giàu nứt đố đổ vách rồi mà vẫn tìm cách cấu véo, bòn rút của người nghèo. Những người như cô Hoài là hiếm hoi lắm, tôi tỏ ra nghi ngờ là để thử lòng bác thôi.

Đôi khi vì những gì diễn ra hằng ngày khiến chúng ta có cái nhìn sai lệch về thế giới chung quanh. Chúng ta thường đổ đồng mọi sự theo nhãn quan của mình. Nhất là vì lòng ích kỷ mà chúng ta nhìn người bằng ánh mắt xét nét, đa nghi. Cho dù họ làm việc tốt, họ làm việc thiện cũng bị chúng ta nhìn với ánh mắt nghi ngờ và kết án.

Nhất là giữa một thế giới gian ác, lắm thị phi khiến chúng ta luôn nhìn đời bắng ánh mắt bi quan. Chúng ta thường nhìn vấn đề trong cái nhìn tiêu cực hơn là tích cực. Giả dụ bây giờ được hỏi máy bay Malaysia mất tích ngày 08.03 vừa qua do nguyên do gì? Có lẽ đa phần sẽ trả lời là do khủng bố. Bởi thế giới ngày nay người ta quá quen với những hình ảnh khủng bố, máu đổ, chém giết, bom đạn.

Có một lần, một người nói với tôi họ mất một con gà và họ nghi ngờ người hàng xóm lấy trộm. Tôi hỏi rằng: Có bằng chứng không? Tại sao chị không nghi ngờ là con gà của mình nó bị con chồn bắt mất hay mèo hoang ăn mất. Vì nơi nhà chị là giữa đồng hoang . . .? Đừng kết án vội kẻo sai lầm tội nghiệp cho họ.

Đây cũng là cái nhìn cố hữu của những người biệt phái. Họ nhìn để bắt bẻ, để xem có đúng luật hay không? Thế nên, thường là họ tìm cách quy kết tội vào một con người. Những người biệt phái có lẽ cũng đã quá quen nhìn mọi sự trong cái nhìn bi quan nên họ không thể nhận ra cái tốt nơi tha nhân. Họ chỉ muốn phân tích theo chiều hướng tiêu cực hơn là tích cực.

Chúa Giê-su là Đấng có thể mang lại ánh sáng cho người mù. Ánh sáng của tâm hồn và thể xác. Mù kiểu nào cũng đáng thương, cũng tội nghiệp. Mù kiểu nào nhìn sự việc cũng khiếm khuyết, cũng không trọn vẹn, cũng sai lầm. Nhất là những người mù về tình người sẽ làm cho họ nhìn đời, nhìn người bằng ánh mắt ghen tương, giận hờn . . .

Thế nên, hãy để cho Chúa chữa trị con mắt của chúng ta. Hãy để cho Chúa mang lại ánh sáng cho cặp mắt chúng ta nhìn đời, nhìn người trong cái nhìn của yêu thương, của hy vọng. Một cái nhìn cuộc đời thật đơn giản, thật đáng yêu.

Đây cũng là cái nhìn mà Xuân Diệu đã từng nói:

Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non

Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo

Hãy để cho bà nói má thơm của cháu

Hãy nghe tuổi trẻ ca ngợi tình yêu

Khi nhìn đời bắng ánh mắt lạc quan sẽ giúp ta nhìn người trong cái nhìn thân thiện, nhìn cuộc đời mới đáng yêu làm sao! Nhìn người đi trước trong cái nhìn kính trọng, nhìn người đi sau trong cái nhìn trân trọng. Và hơn nữa, muốn nhìn đời cho đúng phải biết chỗ đứng của mình mới có cái nhìn chính xác về cuộc đời.

Đôi mắt xanh non cha xin của con

Người đi trước xin của người sắp tới

Biết chỗ đứng để nhìn cho thật mới

Cuộc sống xanh non mãi mãi tươi giòn....

Xin Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian soi sáng tâm trí để chúng ta biết nhìn đời thật đáng yêu, nhìn người bên cạnh thật đáng trân trọng. Xin đừng vì ích kỷ, mù quáng mà sống thiếu tình thân với tha nhân. Amen.

 

 

Suy niệm: Ngọn đèn đức tin 

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.

Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.

Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.

Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?

2) Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?

3) Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?

4) Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?

 

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY

Phải nói ngay rằng khi đọc câu truyện này tôi cảm thấy rất phấn khởi và vui mừng. Lý do là vì trong câu truyện này tôi gặp được một Đức Giêsu rất gấn gũi với tôi, với những con người.

  1. Trước hết, tôi gặp được một Đức Giêsu đầy tình người. Chúa đã cư xử rất “người” đối với những con người.

            Tôi xin đan cử vài thí dụ:

  a/ Khi Lazarô đau, hai chị em của ông đã dùng những lời như thế này để báo tin cho Chúa: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đang đau liệt”(Ga 11,3). "Người Thầy yêu" Chúng ta khó có thể tìm thấy được một kiểu nói nào chân thành và đầy tình người hơn như thế ở trong cả Kinh Thánh chứ không phải là chỉ trong Tin Mừng mà thôi.

b/ Khi được tin Lazarô đau, Chúa nói với các môn đệ của Ngài: “Lazarô, bạn của chúng ta đang ngủ"(Ga 11,11). Lazarô-bạn. Bạn của chúng ta, bạn của Chúa, bạn của cả các tông đồ.

Thật là thân mật! Khó có thể mà tìm được một cách diễn tả thân tình, một cách xưng hô tuyệt vời hơn thế.

c/ Khi biết Lazarô chết, Chúa quyết định đi thăm ông. Các môn đệ can: “Thưa Thầy mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thấy mà Thầy lại còn trở lại đó sao?”(Ga 11,8) nhưng Chúa nhất định cứ đi. Chỉ có những người đã trở thành một lòng một dạ, mới dám sống chết cho nhau, mới có đủ can đảm và dám hy sinh cho nhau như thế.

Bất chấp sự hiểm nguy có thể đe dọa đến cả tính mạng, Chúa nhất định cứ đến, đến để cho mọi người biết cách Ngài đối xử với bạn của mình như thế nào, Ngài yêu thương bạn mình như thế nào.

d/ Lúc đầu khi Chúa tới, chỉ có một mình Martha ra đón Chúa. Chúa chưa vào nhà. Chúa cho gọi Maria ra. Macta vào gọi em. Chị nói: “Thầy đến ở ngoài kia, Thầy cho gọi em” (Ga 11,28)

Tại sao Chúa lại làm như vậy? Đây là cách đối xử tế nhị: Một chút cách ly trong không gian và thời gian để tránh những xúc động quá đáng có thể phương hại đến sức khỏe. Phải là một người tế nhị lắm mới có thể nghĩ ra được một cách ứng xử đẹp như thế.

e/ Khi gặp Chúa, Maria khóc. Chị khóc rất tự nhiên, rất chân thành, làm cho những người có mặt chung quanh cũng khóc theo. Rồi Chúa cũng xúc động và Chúa cũng khóc theo, khóc rất tự nhiên, rất chân thành. Chúa khóc, khóc với những người đang khóc, khóc với Maria, khóc bằng nước mắt có chất mặn của con người. Những giọt nước mắt trào ra từ một tâm hồn như đang cùng chịu một niềm đau vì có một người thân qua đời. Đó là những gì rất người.

2. Nhưng đàng sau những gì rất người ấy, tôi còn gặp được một Đức Giêsu là một Thiên Chúa.

Vâng đúng như vậy anh chị em. Tôi đã gặp được một Đức Giêsu là một Thiên Chúa.

a/ Khi Chúa có mặt, một số người Do thái đã nói với nhau “Ông ấy đã mở mắt cho người mù...mà không thể làm cho anh ấy khỏi chết hay sao ?”(Ga 11,37) Một cách nào đó, họ đã thấy được quyền năng của Chúa.

b/ Khi đến trước cửa mộ, Chúa chỉ vào phiến đá lấp cửa mồ và ra lệnh: “Hãy đem phiến đá đó đi”(Ga 11,39). Thật là không ai dám nghĩ tới điều đó. Đây là một lệnh truyền kinh khủng bởi vì luật pháp Do Thái phạt rất nặng tất cả những ai dám xâm phạm đến mồ mả của người chết. Bởi vậy khi Chúa truyền lệnh phải gỡ hòn đá lấp cửa mồ Lazarô ra thì tất cả mọi người đều cảm thấy sợ hãi.

Ở đây lại một lần nữa Chúa làm cho mọi người thấy là Chúa có quyền làm tất cả những gì Ngài muốn vì Ngài là Thiên Chúa. Trước đó khi Martha bày tỏ sự thất vọng của mình: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”(Ga11,32). Chúa trả lời ngay, như  một lời hứa: “Em con sẽ sống lại”(Ga 11,23) và bây giờ thì Chúa sắp làm những gì Chúa đã nói. Tất cả mọi người đều ngỡ ngàng và khiếp sợ, Martha đánh bạo thưa với Chúa: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, em con đã ở trong mồ bốn ngày rồi”(Ga 11,39) 

Bốn ngày cho một cái xác chết, không còn có thể làm gì được nữa. Con người hoàn toàn bất lực. Con người hoảng sợ cũng phải vì con người chẳng có thể làm gì cho một cái xác không hồn đã được chôn 4 ngày rồi.

  Nhưng với Chúa thì không như thế vì Chúa có quyền. Ngài có quyền vì Ngài là Thiên Chúa.

c/ Khi phiến đá chắn cửa mộ đã được đem đi, Chúa đưa ra một lệnh tiếp theo còn kinh khủng hơn: “Lazarô! Hãy ra khỏi mồ”(Ga 11,43). Đó là một lệnh truyền cho người đã chết và đã được người ta đem chôn 4 ngày rồi, không còn bất cứ một khả năng tiếp thu nào nữa. Vâng, một lệnh truyền cho một con người đã chết, và Phúc âm ghi thật rõ: "Người đã chết liền đi ra, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn.”(Ga 11,44) "Người đã chết đi ra". Đây không phải là ngôn ngữ của con người nữa, mà là ngôn ngữ của Thiên Chúa. Không ai trong con người dám truyền lệnh cho người đã chết. Chỉ có Thiên Chúa mới làm được những điều kỳ diệu như thế. Thiên Chúa có quyền trên sự chết. Và sự chết phải tuân lệnh của Người.

d/ Rồi bằng một lệnh truyền thứ ba “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”(Ga 11,44), Chúa đã hoàn tất công việc trả lại sự sống cho người đã chết. Trả lại sự sống cho ngưòi đã chết. Đó là một điều kỳ diệu không thể tin được nhưng lại là một sự thật Chúa đã làm trước mặt rất nhiều người. Nếu không phải là Thiên Chúa thì làm sao làm được những diều kỳ diệu như vậy.

3. Tôi không dám dài dòng. Chỉ còn một tuần nữa là chúng ta bước vào cao điểm của năm Phụng vụ, vào những ngày chúng ta cùng được rất gần gũi với mầu nhiệm tử nạn và Phục sinh của Chúa. Nhưng làm sao để cho những ngày này thực sự là những ngày đem lại một sức sống mới cho chúng ta. Có nhiều cách, nhưng tôi nghĩ chúng ta nên nhắc lại lời tuyên xưng mà Martha đã tuyên xưng cách đây gần 2000 năm. "Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa”(Ga 11,27) 

Không có được lòng tin vào Đức Kitô như thế, chúng ta sẽ không thể hiểu được những gì Chúa làm...thậm chí chúng ta còn thấy ghê sợ. Nhưng khi đã tin, mọi sự sẽ thay đổi. Chúng ta sẽ không còn khiếp sợ. Chúng ta sẽ trở nên can đảm và chúng ta có thể làm cho đời sống của chúng ta thành một đời sống thật đáng sống.

Thánh Charles Borromêô sống ở Ý cách đây hơn 400 năm (1538-1584), khi còn trẻ, Ngài có đầy những tước vị, danh vọng, nhưng Ngài đã nhận ra một ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ lại tất cả. Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức tranh treo trong tư thất để diễn tả cái chết. Bức tranh hoàn thành. Họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: Một bộ xương người tay cầm lưỡi hái. Thánh Borromêô nói: đồng ý, nhưng thần chết cũng mở cửa để chúng ta vào nước trời nữa chứ? Tôi đề nghị họa sĩ bỏ chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng. Phải, Đức Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm chìa khóa vàng để mở cửa trời cho những ai đang sống trong ân sủng của Chúa Kitô phục sinh.
 

CHÚA NHẬT LỄ LÁ

TÌNH YÊU ĐÁP LẠI HẬN THÙ

Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.

Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.

Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.

Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự.

Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.

Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.

Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.

Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.

Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.

Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.

Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
 

CHÚA NHẬT PHỤC SINH

ĐỨC GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI THẬT VÀ CÁC CUỘC ĐỔI ĐỜI

SUY NIỆM LỄ PHỤC SINH

(Cv 10,34.37- 43; Cl 3,1- 4; Ga 20,1- 9)

Câu nói nổi tiếng của thánh Phaolô đã thể hiện niềm tin tuyệt đối và niềm hy vọng chắc chắn của ngài vào Đức Kitô Phục Sinh, ngài nói: “... nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14); “Mà nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Ðức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Ðức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15,17-19). Đúng thế, nếu cả cuộc đời của mỗi chúng ta, sự hy sinh dài lâu cho một con người mà chính người đó lại kết thúc cuộc đời của họ qua cái chết thì quả là một điều vô lý, hão huyền, thua thiệt và dại dột. Tuy nhiên, Đức Giêsu, Đấng mà các môn đệ tin; nhiều người Dothái tin; Giáo Hội tin; và chúng ta tin, Ngài đã chết thật, nhưng Ngài cũng đã sống lại thật.

Như vậy, niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu quả là khôn ngoan và có cơ sở vững vàng. Vậy tại sao biết được Đức Giêsu chết thật, và luận cứ gì làm bảo chứng cho niềm tin Ngài đã sống lại? Việc Ngài chết và đã phục sinh có để lại dấu ấn gì nơi những người tin hay không?

1. Đức Giêsu đã chết?

Đức Giêsu đã chết thật. Đây là lời khẳng định rõ ràng qua các chứng cứ sau:

Cái chết của Ngài là hệ quả của những phiên tòa do những tác động gây sức ép từ phía dân chúng, khiến những nhà lãnh đạo tôn giáo Dothái thời bấy giờ kết án tử Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã bị xử tử theo trình tự như: bị đánh đòn; vác thập giá; bị đóng đinh với hai tên gian phi trên đỉnh đồi Canvê.

Khi họ đóng đinh xong, Đức Giêsu đã chết thật, nên quân lính không đánh dập ống chân Ngài nữa, tuy nhiên để cho chắc ăn, một người lính đã lấy lưỡi đòng đâm cạnh nương long Đức Giêsu, tức thì máu và nước đã vọt ra cho thấy nhát đâm của người lính này đã đâm trúng tim của Đức Giêsu.

Sau đó, có các môn đệ thầm lặng của Ngài như Giuse Arimathia đến xin lĩnh xác Đức Giêsu để táng xác. Philatô đã đồng ý, nhưng ông vẫn phải hỏi lại viên sĩ quan phụ trách thi hành án xem Đức Giêsu đã chết thật chưa? Khi được trả lời là đã chết thật, Philatô mới cho phép tháo xác Đức Giêsu xuống để an táng. Và, họ đã an táng Đức Giêsu trong một ngôi mộ mới.

Như vậy, Đức Giêsu đã chết thật. Không thể không tin vào chuyện này được. Tuy nhiên, nếu cái chết là điểm đến, là kết cục, thì nó là chuyện vô lý, không có gì để chúng ta bàn nữa. Nhưng cái chết đã không còn quyền chi đối với Đức Giêsu khi Ngài đã phục sinh.

2. Ngôi mộ bị bỏ trống

Tin Mừng cho thấy: vừa tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ đi ra mồ, khi tới nơi, họ không còn thấy xác Đức Giêsu trong đó nữa. Các bà thì ngỡ ngàng và không hiểu tại sao lại như vậy? Phải chăng Ngài đã phục sinh như lời Ngài đã phán trước? Và thật thế, Thiên Thần đã trấn an các bà, để các bà khỏi hoảng hốt, khiếp đảm và bỡ ngỡ, Thiên Thần nói: "Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Ðức Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói” (Mt 28,5-6).

Còn đối với những kẻ chủ mưu giết Đức Giêsu thì có sẵn những âm mưu từ trước nên đã gán cho sự việc này giả thiết như sau: có thể các môn đệ của ông ấy đến ăn cắp xác Đức Giêsu và phao tin Ngài đã sống lại? Và những Thượng Tế, Kỳ Lão đã cho tiền quân lính để chúng đồng thuận với họ về ý tưởng này.

Tuy nhiên, giả thiết này đưa ra thật không có bằng chứng và đáng ngờ vì những lý do:

- Thứ nhất, khi những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ nghe biết Đức Giêsu nói là sẽ sống lại, nên họ đã đề phòng cẩn thận, bởi vì nếu không lường trước sự việc, thì không khéo điều đó diễn ra thật thì chẳng khác gì như một cú tát, bát nước lạnh tạt vào mặt những kẻ kết án Đức Giêsu. Còn với chính họ, chẳng khác gì tự mình ngửa mặt lên và nhổ nước miếng...? Vì thế, họ đã đặt một đội lính canh tinh nhuệ để trông chừng, phòng chống những rủi ro sẽ sảy ra!

- Thứ hai, nếu gán rằng có kẻ thù ăn cắp xác Đức Giêsu thì lại càng không ổn, vì nếu làm như vậy thì vô hình chung lại là điều kiện tốt cho việc phao tin Đức Giêsu sống lại. Và tỷ lệ thuận là điều có thể xảy ra đối với những người đã từng cảm phục Đức Giêsu lúc Ngài còn sống.

- Thứ ba, điều này rất khó xảy ra vì các Tông đồ phần đông là dân chài lưới, ít học, lại kém tin nữa. Bằng chứng là khi cuộc thương khó của Đức Giêsu đến, các ông đã bỏ trốn, có kẻ còn trút lại cả quần áo để miễn sao thoát thân, rồi Phêrô là Tông đồ trưởng nhưng đã vì lo sợ mà trối cả Thầy mình, rồi sau khi Đức Giêsu chết, họ tụ họp với nhau nhưng cửa đóng then cài vì sợ người Dothái..., tiếp theo là sự thất vọng được lộ rõ trên khuôn mặt của hai môn đệ trên đường Emmau. Như vậy, không có lý do gì mà các môn đệ của Đức Giêsu làm được chuyện này trước một đội lính tinh nhuệ và có bề dày kinh nghiệm...!

Như vậy, Đức Giêsu đã sống lại thật và sự kiện ngôi mồ trống là bằng chứng. Đây là dấu chỉ thứ nhất. Dấu chỉ thứ 2 là những lần hiện ra với nhiều người, nhiều nơi và cùng lúc, cũng như những người đó lần lượt nhận ra Ngài với kỷ niệm và những dấu hiệu mà họ đã biết trước đó.

3. Những cuộc hiện ra

Điều đáng nói và cũng là quan trọng nhất, đó là tất cả những diễn biến qua cuộc khổ nạn, chết và sống lại của Đức Giêsu đều được Kinh Thánh báo trước. Khi thì qua hình ảnh, dấu chỉ, tiên báo, hay do chính Ngài loan báo với các môn đệ: Thầy “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21). Và hôm nay, Ngài đã sống lại, đã hiện ra cho Maria Mácđala (x. Ga 20, 11- 18); với các phụ nữ đi ra viếng mồ Ngài (x. Mt 28,9-10; Mc 16,9; Ga 20,11-18); hiện ra với 2 môn đệ trên đường về Emmau (x. Mc 16,12-13; Lc 24,13-35); hiện ra với các môn đệ khi các ông đang họp kín, trong đó có Tôma (x. Ga 20,19-29); bên bờ hồ Giênêdarét (x. Ga 21); phép lạ đánh cá (x. Ga 21, 1- 14).v.v; và hiện ra tại Galilê, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 28,16-20; Mc 16: 14 -18; Lc 24: 36 -49; Ga 20: 19 -23; Cv 1:6-8).

Những lần hiện ra, có những nhận thức khác nhau, và việc nhận thức này được thực hiện theo nhiều mức độ khác nhau:

Nhận ra khuôn mặt Đức Giêsu (x. Ga 20, 20.27); nghe thấy những gì Ngài nói (x. Ga 20,16); những hành động Ngài làm (x. Lc 24, 35); hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24,27.45)...

Mặt khác, đây chính là sáng kiến từ phía Đức Giêsu: Ngài đến gặp họ (x. Mt 28,9); Ngài tiến lại gần các môn đệ, đến ở giữa họ, hiện ra với họ (x. Lc 24,15), đón gặp họ, cùng đi với họ, và, ở lại với họ (x. Lc 20,14;21,4).

Các bằng chứng đã rõ. Chúng ta không thể không tin được. Chỉ có cố chấp và trai lì trong ích kỷ, tội lỗi...thì mới không tin mà thôi.

4. Những cuộc đổi đời

Cuối cùng, như trong phần mở đầu đã đề cập đến lời tuyên xưng của thánh Phaolô khi nói: “... nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14). Cũng vậy, nếu Đức Giêsu đã không sống lại thì làm sao có những cuộc đổi đời ngay tức khắc như vậy?

Các Tông đồ, là những người nhát đảm sợ sệt, ấy vậy mà sau biến cố phục sinh của Đức Giêsu, các ông đã trở nên mạnh dạn khác thường.

Nếu trước kia họ chỉ là người đi theo Thầy của mình, thì từ ngày Thầy mình phục sinh, các ông đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đấng bị đóng đinh và đã sống lại để rao giảng chân lý Tin Mừng.

Nếu trước kia, các ông là những người ít học, khô khan, kém hiểu biết, thì sau khi Đức Giêsu phục sinh, các ông đã hiên ngang, hùng hồn, uyên thâm khi rao giảng về Đấng đã bị chính dân mình giết chết.

Nếu việc Đức Giêsu sống lại chỉ là chuyện bịa đặt thì làm gì các ông lại dại dột mà đi phỉnh lừa người khác, trong khi mình còn biết bao chuyện phải lo... và các ông cũng đều biết rằng việc các ông rao giảng về Đức Giêsu, thì đồng nghĩa với việc lãnh nhận sự liên lụy và sẽ có nguy bị giết chết.

Nhưng không! Các ông đã không sợ, bởi vì giờ đây, các ông mới hiểu rõ rằng Đức Giêsu là Chúa; là đường, là sự thật và là sự sống. Nên không có gì tách các ông ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, cho dù là gian truân, thử thách, gươm đao và ngay cả cái chết, bởi vì mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, nên vì Ngài, các ông đành mất hết để được tất cả, và đỉnh cao của cái được đó là đồng hiển trị với Ngài trong Vương Quốc của Ngài.

Rồi trải qua biết bao thế hệ, trên khắp thế giới, có biết bao nhiêu con người đã bất chấp hiểm nguy, rừng thiêng núi độc, hiểm trở trăm bề, nhưng vẫn quyết chí lên đường để đi và đến nhằm loan báo Tin Mừng về một Đức Giêsu đã chết, đã phục sinh hầu cứu chuộc nhân loại..., và nếu cần thiết, các ngài sẵn sàng lấy mạng mình để minh chứng điều mình tin là thật. Các thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta là một điển hình.

Như vậy, không ai và cũng không thể nào kéo dài cả hơn 2000 năn nay với một câu chuyện, một niềm tin vô lý được! Và nếu tồn tại đi chăng nữa thì chúng ta là những kẻ ngu dốt nhất trong thiên hạ vì đã tin vào cái xác chết. Nhưng không! Chúng ta tin vào Đấng đã chết và đã phục sinh; Đấng ấy có đủ quyền năng để dẫn đưa những ai cùng chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại hiển vinh, vì Ngài đi trước dọn chỗ cho chúng ta.

Lạy Đức Kitô Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con thêm đức tin và vững lòng trông cậy theo Chúa đến cùng để được Ngài cho phục sinh vinh hiển. Amen.

Sưu tầm


 

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn