1
08:20 +07 Thứ năm, 18/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 25


Hôm nayHôm nay : 2534

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 184673

Tổng cộngTổng cộng : 27738957

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Các bài chia sẻ từ Chúa Nhật 10 đến Chúa Nhật 34 Thường Niên A

Thứ năm - 04/06/2020 08:25-Đã xem: 1405
Tất cả những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho Chúa mà những gì chúng ta làm cho Chúa thì không thể mất được. Những gì chúng ta làm cho tha nhân, dù nhỏ mọn như một chén nước lã thì cũng có phúc trước mặt Chúa. Trái lại, những gì chúng ta không làm cho tha nhân tức là không làm cho Chúa, mà đã không làm cho Chúa là một điều có lỗi. Do đó, Chúa sẽ xét xử chúng ta theo nguyên tắc :”Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng” : có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt. Được thưởng hay bị phạt là do chúng ta định đoạt lấy, không ai có thể làm thay cho chúng ta được..
---------------------------------------------------------

LÍCH VÀO XM: http://gplongxuyen.org/NewsDetail.aspx?ID=20200830204536


CÁC BÀI SUY NIỆM MÙA THƯỜNG NIÊN
TỪ LỄ CHÚA BA NGÔI ĐẾN LỄ CHÚA KI-TÔ VUA



LỄ CHÚA BA NGÔI, (năm A)
THIÊN CHÚA LÀ NGUỒN YÊU THƯƠNG
+++
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Chúng ta có thể tuyên xưng với người Do thái giáo và Hồi giáo rằng : Chúng tôi tin một Thiên Chúa duy nhất, Đấng Tạo Hóa, Chủ Tể vũ trụ. Nhưng là người Kitô hữu, được Chúa Kitô soi sáng, chúng ta còn tin Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm nền tảng của đức tin chúng ta.
 
          Không ai biết được Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải cho. Trong thời Cựu ước, loài người chỉ được biết có sự hiện hữu của một Thiên Chúa Giavê, Ngài là Đấng hằng hữu, nhưng còn Thiên Chúa Ba Ngôi thì chính Chúa Giêsu mạc khải cho trong thời Tân ước này.  Theo mạc khải đó, chúng ta biết được có sự hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Ngài là nguồn yêu thương và bình an, là gương mẫu tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Chúng ta hân hạnh được làm con Chúa Ba Ngôi để dám gọi Ngài là Cha : “Cha ơi”. Đáp lại vinh dự đó, chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng và tuyên xưng danh Ngài cho đến tận cùng thế giới.
 
          Giáo hội muốn dành riêng một ngày Chúa nhật trong năm Phụng vụ để đặc biệt tôn kính và tim hiểu mầu nhiệm lớn lao này. Chúng ta sẽ không bao giờ thấu hiểu được Chúa Ba Ngôi như thánh Augustinô đã làm, nhưng chúng ta biết Chúa Ba Ngôi là khuôn mẫu của sự yêu thương và hiệp nhất. Trong cuộc sống hằng ngày Chúa Ba Ngôi vẫn ngự trị và hành động trong chúng ta, do đó,  chúng ta phải tôn kính Ngài, học đòi bắt chước Ngài mà sống yêu thương và phục vụ.
 
B.TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          1. Bài đọc 1 : Xh 34, 4-6.8-9.
 
          Qua đoạn sách Xuất hành hôm nay, chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung. Chính Thiên Chúa đã giải thoát Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, nhưng dân Chúa lại phản bội Ngài, đi thờ con bò vàng thay Chúa. Tuy thế, qua lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã tha thứ cho họ và vẫn trung thành thi hành giao ước đối với họ.
 
          Ngay từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho thấy Ngài là một vì Thiên Chúa của tình yêu. Trong thời Tân ước, việc mạc khải được sáng tỏ hơn với việc Thiên Chúa sai Con Một của Ngài đến cứu độ trần gian là Đức Giêsu Kitô.
 
          2. Bài đọc 2 : 2Cr 13,11-13.
 
          Thánh Phaolô, dựa vào niềm tin : Thiên Chúa là nguồn tình yêu và bình an, đã mời gọi các tín hữu Côrintô hãy vui lên vì mọi người đã được cứu chuộc và được làm con Chúa để mọi người không còn sợ sệt mà dám gọi Thiên Chúa là Cha :”Cha ơi”.
 
          Vì trong cộng đoàn Côrintô có sự lộn xộn bất hoà với nhau, nên thánh Phaolô đã viết thư cảnh cáo và khuyên bảo họ hãy sống đoàn kết thương yêu nhau ; đồng thời cũng cầu chúc họ được tràn đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi.
 
          3. Bài Tin mừng : Ga 3,16-18.
 
          Bài Tin mừng hôm nay nhắc lại tư tưởng đã được  đề cập trong bài Cựu ước ở trên : Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng giầu lòng thương xót. Tình yêu Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể trong Tân ước : Thiên Chúa tỏ ra là Thiên Chúa yêu thương đã ban Người Con duy nhất cho trần gian, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Điều đó buộc mọi người phải tin vào Con Thiên Chúa, ai không tin thì sẽ bị lên án.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                           Ba Ngôi yêu thương và hiệp nhất.
          1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
 
          Đã là mầu nhiệm thì không thể hiểu thấu được, nhất là mầu nhiệâm Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm lớn trong Đạo. Câu chuyện của thánh Augustinô sẽ soi sáng thêm cho chúng ta về vấn đề này :       Sau một đời ăn chơi trụy lạc và chạy theo tà thuyết, Augustinô đãõ tìm về với Kitô giáo. Ngài được xem là điển hình của một sự khao khát và tìm kiếm không ngừng. Điều đó được thể hiện qua một giai thoại như sau :
 
          Augustinô thuộc khuynh hướng  của những người cho rằng với kiến thức và nỗ lực tìm kiếm, con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa, tình cờ Ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sòø ấy  múc nước biển đổ vào.
 
          Nhưng dã tràng xe cát Biển đông, nó cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy. Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự :
          - Thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại dương.
          Thánh nhân lắc đầu bảo nó :
          - Cháu không thể làm được chuyện đó đâu.
          Đứa bé ngước lên và mỉm cười nói :
          - Múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về Thiên Chúa.
          Thánh Augustinô chợt hiểu được một chân lý : Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được.
                          (D.Wahrheit, Tìm về cõi phúc, tr 68).
 
          * Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại. Khi học giáo lý, ta đã học thuộc lòng về các mầu nhiệm, trong đó có 3 mầu nhiệm lớn nhất trong Đạo :
                   . Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể.
                    . Mầâu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc.
                   . Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
 
          * Ta  không thể biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi mà hoàn toàn do Chúa Giêsu mạc khải cho trước khi Ngài về trời, khi Ngài phán :”Mọi quyền năng trên trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,18-19)
 
          * Đây quả là một mầu nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn tả được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng trong vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể lấy được nhiều hình ảnh cụ thể dùng lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi :
 
          Khi thuyết giảng tại công viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để cố gắng giúp người ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi. Ông thường nói :”Nước đang rơi đây thực là nuớc nhưng nó có thể hiện hữu  dưới ba dạng : thể hơi, thể rắn và thể lỏng – nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng  và dạng nước mưa đang rơi đây”.
 
          Dĩ nhiên tất cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả thực tại, tuy nhiên chúng ta có thể thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không phải có ba loại nước, mà chỉ có một loại nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế.
 
          Một phương pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất  vừa đa dạng của Ba Ngôi là ví dụ mà thánh Ignatiô Loyola thường dùng.  Có lần trong lúc cầu nguyện, Ngài bỗng nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
 
          Và cuối cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá của loại xa trục thảo (3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.
 
          Làm thế nào chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên vào hành động cụ thể ?  Chúng ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong cuộc sống riêng tư của chúng ta ? Có phương pháp mà một số người cho là hữu ích đó là cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một ngày vừa chấm dứt...
                    (M. Link. Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr  179-180)
 
          2. Bài học rút ra từ Chúa Ba Ngôi.
 
          Nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thì không bao giờ cùng. Các nhà thần học có nghiên cứu, có tìm hiểu đến đâu, có tranh luận đến khô bọt mép đi nữa thì cuối cùng cũng chỉ đi đến một kết luận chung :TÔI TIN”, vì đây là một mầu nhiệm cao cả trong Đạo mà ! Ngay trong thế giới tâm linh của con người cũng còn có biết bao điều bí ẩn lớn lao mà không khám phá ra như người ta vẫn nói :
                                             Dò sông dò biển dễ dò,
                                   Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
                                                   (Ca dao)
 
          Có ai dám tự phụ cho rằng mình hoàn toàn hiểu được chính mình không ? Khi hai người khác phái được kết hợp với nhau trong hôn nhân, tình vợ chồng dù có thâm sâu đến đâu, cũng không bao giờ con người có thể  hiểu được tường tận người phối ngẫu của mình. Mãi mãi cho đến bên kia cõi chết, mỗi người vẫn là một mầu nhiệm đối với nhau.
 
          Nếu những bí ẩn của đời sống con người còn chưa hiểu hết được, làm sao ta có thể hiểu tường tận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi ? Ta chỉ có thể rút ra được vài bài học từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi để áp dụng vào cuộc sống của ta.
 
          a) Bài học về yêu thương.
 
          Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định :”Thiên Chúa là Tình thương” (1Ga 4,8). Thánh Grêgôriô Cả nói :”Để giữ vững cương vị thì tình thương phải lan tràn sang người khác”. Nói khác đi, tình thương phải bắt nguồn nơi mình và phải kết thúc nơi người khác, chẳng vậy nó chỉ còn là ích kỷ chứ không còn là tình thương nữa.
 
          Bài Tin mừng hôm nay bắt đầu bằng câu :”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Con Một Người sẽ không phải chết mà còn được sống đời đời “(Ga 3,16).  Yếu tính của tình thương là CHO ĐI và KẾT HỢP. Yêu tức là CHO tất cả. Thiên Chúa yêu thương loài người và đã cho loài người tất cả : trời đất, núi non, sông biển cùng với muôn vàn tạo vật. Thiên Chúa còn cho loài người sự sống – một thứ chỉ có Người mới cho được. Thiên Chúa cho loài người một linh hồn – một thứ làm cho loài người nên giống Thiên Chúa (Rm 8,17).
 
          Thiên Chúa đã ban cho loài người tất cả rồi. Còn một điều cao qúi nhất mà Thiên Chúa cũng ban, đó là ban chính Con Một Người :”Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người cho thế gian”.
 
          Chúng ta biết do đức tin : Thiên Chúa là Đấng duy nhất nghĩa là chỉ có một bản thể, trong bản thể ấy lại có Ba Ngôi – Ba Ngôi đúc lại thành một Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa yêu thương thế gian... cho nên đã phó Con Một Người cho thế gian,  nghĩa là đã ban trót mình cho thế gian. Không những ban Chúa Con là ngôi thứ Hai mà là ban chính mình, trong đó gồm cả bản tính Thiên Chúa ở trong Ba Ngôi, cho nên ban Con Một Người tức là đã ban tất cả Thiên Chúa – tất cả mình – và chính mình cho thế gian.  Và như vậy là Thiên Chúa đã THƯƠNG thế gian, và đã giữ đúng nghĩa chữ THƯƠNG là cho TẤT CẢ.
                    (Lm Nguyễn duy Tôn, Lời Chúa, năm A, t II, tr 9)
 
                                      Truyện : Tình yêu hiến thân.
          Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến, nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ chối, thà chết còn hơn để cho bác sĩ chữa trị ung thư bằng quang tuyến.
 
          Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu trai mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng :”Vào mấy ngày cuối cùng của cuộc đời, chị Brown biết mình bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng thế nào chị cũng thành công và sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng xạ”.
 
          Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy sinh mạng  sống cho đứa  con chưa một lần thấy mặt”.
 
          b) Bài học về Hiệp nhất.
 
          Theo Tân ước, chúng ta thấy có một trường hợp hy hữu mà Ba Ngôi Thiên Chúa cùng hiện diện và cùng hoạt động. Đó là khi Chúa Giêsu  xin ông Gioan làm phép rửa cho mình : lúc Ngài ở dưới sông lên thì trời tự nhiên mở ra, và từ trên không trung có tiếng phán ra rằng :”Đây là Con Ta yêu dấu”. Cùng một trật đó, thấy hiện đến và đỗ trên đầu Chúa Con một chim bồ câu.  Đó là lần thứ nhất từ khi có lịch sử loài người, Ba Ngôi hiện diện và hành động trong một lúc : Trước hết là Ngôi Con chịu phép rửa, rồi Ngôi Cha từ trời phán ra, và sau hết Ngôi Thánh Thần dưới hình chim bồ câu hiện đến.
 
          Về niềm tin vào Chúa Ba Ngôi, Hội thánh đã tóm tắt lại trong kinh Tin kính của thánh Athanasiô đại khái như sau : Có một Đức Chúa Trời mà Người có Ba Ngôi : Ngôi nhất khác , Ngôi hai khác, Ngôi ba khác... Đức Chuá Cha là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Thánh Thần là Đức Chúa Trời, nhưng là một Đức Chúa Trời, chứ không phải là ba Đức Chúa Trời... Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời ; Đức Chúa Con phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời ; Đức Chúa Thánh Thần phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời... Không có Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém, Ba Ngôi đều bằng nhau, như nhau về tất cả mọi phương diện... Đức Chúa Cha không bởi ai sinh ra, Đức Chúa Con bởi Đức Chúa Cha sinh ra. Đức Chúa Thánh Thần bởi Ngôi Cha và Ngôi Con mà ra.
 
          Đó là tất cả những điều về Chúa Ba Ngôi do Chúa Giêsu dạy, các tông đồ trối lại và các thánh Giáo phụ để lại cho chúng ta.
 
          Trong các câu mở đầu của kinh cầu, Hội thánh luôn xưng hô và ca tụng Ba Ngôi Thiên Chúa mà trong kinh cầu chữ (bằng chữ Hán của ông Cử Thiện ở Bùi chu) được giáo dân đọc trong các ngày giỗ, được dịch là :”Tam vị nhất thể Thiên Chúa giả” : Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời, thương xót chúng con.   Câu dịch rất vắn gọn và đúng ý nghĩa : Ba Ngôi vị chỉ có một bản tính Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật..
 
          Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi cùng hoạt động trong Hội thánh và nơi từng người nói lên sự hiệp nhất bền chặt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một mô hình tuyệt vời về sự hiệp nhất mà Chúa ban cho ta để ta cũng phải củng cố sự hiệp nhất trong Hội thánh và trong cộng đoàn chúng ta. Sự hiệp nhất sẽ đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.
 
 
                                       Truyện : Bài học từ loài ngỗng.
          Vào mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương Nam  để tránh đông theo hình chữ V , bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ đó. Mỗi khi một con ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con ngỗng bay ngay sau nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được 71% sức lực  so với khi chúng bay từng con một .
          Mỗi khi một con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm thấy sức trì kéo  và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh chóng trở lại đàn để bay theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của sức mạnh từ bầy.
          Khi con ngỗng đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh và một con ngỗng khác sẽ dẫn đầu.
       Tiếng kêu của bầy ngỗng từ đàng sau sẽ động viên những con đi đầu  giữ được tốc độ của chúng.
          Cuối cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống, hai con ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là chết, và khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam     (Lấy từ  internet theo Thùy Trang  forward)
 
          c) Một vài thực hành.
 
          * Kinh Sáng danh :  Khi đọc kinh Nhật tụng, mỗi khi đọc  kinh Sáng Danh , ta hãy tỏ lòng cung kính, cúi đầu, để ca tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi trong đời sống ta. Mỗi chục kinh Mân côi, chúng ta cũng đọc một kinh Sáng danh và còn nhiều dịp khác chúng ta có thể đọc được kinh đó.
         
          * Dấu Thánh giá : một trong những kinh nguyện mà người công giáo chúng ta học, là dấu Thánh giá, thật đơn sơ và tốt đẹp. Chúng ta đưa bàn tay phải lên trán, lên  ngực, vai trái và vai phải khi chúng ta cầu nguyện :”Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” . Hành động thánh đó nhắc nhở chúng ta rằng : có Chúa Ba Ngôi trong một Thiên Chúa, và Ngôi Hai đã chết trên thập gíá vì tất cả chúng ta.
 
          Lạy Cha là Thiên Chúa của con, bây giờ con mới hiểu sâu sắc câu nĩi của Đức Giê-su: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho họ". Thì ra sự cơng bằng vơ biên của Cha khơng cho phép Cha làm một cái gì đơn giản hơn để cứu chuộc nhân loại. Và bây giờ con mới hiểu được tình Cha yêu thương nhân loại, trong đĩ cĩ con, như thế nào! Xin cho con biết sống xứng đáng với tình yêu ấy! Cho con biết đáp lại tình yêu vơ biên ấy bằng trọn tình yêu của con. Đồng thời cũng cho chúng con được biết thể hiện tình yêu ấy trong cuộc sống hằng ngày bằng cách yêu thương, phục vụ mọi người và hiệp nhất với nhau để xây dựng Hội thánh.
 
                                      Truyện : Tình yêu của Thiên Chúa
          Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo :
 
          -Tôi không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương là gì cả.
          Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự thể. Rồi ngài đề nghị  mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp đỡ bà.
 
          Mấy tháng  trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động đến rướm nước mắt :
          - Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.


 
LỄ MÌNH MÁU CHÚA KITÔ A
BÁNH HẰNG SỐNG BỞI TRỜI
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Mặc dầu ngày thứ năm tuần thánh, Giáo hội đã kỷ niệm việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta, hôm nay Giáo hội tiếp tục cử hành lễ kính Mình Máu thánh Chúa Kitô để giáo dân có nhiều thì giờ suy niệm về phép Thánh Thể, thúc giục giáo dân thêm lòng yêu mến tôn sùng.  Qua Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được hiểu biết tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể này, đồng thời thúc giục chúng ta năng rước lễ để lãnh nhận Chúa Giêsu làm lương thực nuôi linh hồn chúng ta trên bước đường đi về Quê Trời.
 
          Qua các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta thấy Thánh Thể thực sự đã được loan báo từ trước bằng những hình ảnh. Manna mà Thiên Chúa ban cho dân Israel dùng trong sa mạc suốt bốn mươi năm chẳng phải là hình bóng phép Thánh Thể mà Đức Giêsu đã lập sao ? Thánh Phaolô cũng nhắc lại cho tín hữu Corintô tư tưởng trên : dân Israel đã được ăn manna, uống nước từ tảng đá… để nói lên rằng tòan dân Israel  đã được thừa hưởng bao hồng ân của Thiên Chúa.
 
          Lời Chúa trong đọan Tin mừng thánh Gioan là những lời Đức Giêsu diễn giảng về Bánh hằng sống, Bánh từ trời, Bánh ban sự sống thần linh. Bánh đó chính là Đức Giêsu Kitô. Thịt máu Ngài đã trở nên cơm bánh, trở thành lương thực, trở thành của ăn của uống giúp con người đi vào thế giới của Thiên Chúa kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Bánh này trổi vượt hơn Manna trong sa mạc mà tổ tiên dân Israel đều đã được ăn. Vì thế ai ăn bánh này sẽ được sống vĩnh cửu trong Vương quốc của Thiên Chúa.
 
          Trung tâm đời sống Kitô hữu là Thánh Thể, mà Thánh Thể là một nhiệm tích tuyệt diệu làm cho Đức Kitô hiện diện thực sự với dân chúng trong mầu nhiệm Vượt qua.  Trong bữa ăn sau hết, chính Ngài bị nộp, Ngài đã thiết lập hiến tế tạ ơn bằng Mình và Máu Ngài. Hiến tế của Tình yêu. Hiến tế của hiệp nhất, giây liên kết đức bác ái, bữa tiệc Vượt qua trong Đức Giêsu là của ăn. Xét theo phương diện này, hôm nay ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm nhiệm tích Thánh Thể là lương thực nuôi linh hồn vì Đức Giêsu đã nói với chúng ta :”Ta là bánh hằng sống từ trời ban xuống”(Ga 6,51).
         
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc 1 : Đnl 8,2-3.14-16.
 
          Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai cập, dẫn dắt họ suốt 40 năm trường trong sa mạc để vào đất hứa. Kết thúc cuộc hành trình, trước khi tiến vào Đâát Hứa, ông Maisen khuyên bảo dân đừng bao giờ quên những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho. Trong số những ơn lành Chúa đã ban, dân Chúa hãy nhớ lại việc Thiên Chúa đã nuôi sống họ bằng cách ban manna từ trời xuống và cũng làm cho nước từ tảng đá vọt ra để thỏa mãn cơn khát khao.
 
          Nhưng đấy mới chỉ là thức ăn vật chất nuôi phần xác thôi, còn cần phải có một thức ăn thiêng liêng khác là Lời Chúa và Thánh Thể nuôi sống linh hồn loài người nữa.
 
          + Bài đọc 2 : 1Cr 1o,16-17.
 
          Nhận thấy trong cộng đoàn tín hữu ở Côrintô có sự bất hoà, chia rẽ, thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy đoàn kết lại, hiệp nhất trong tình yêu thương.  Ngài cho biết : Thánh Thể chính là mối dây tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Khi chúng ta hiệp thông với Mình và Máu Chúa Kitô, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thì chúng ta cũng phải thể hiện sự hiệp thông ấy ra trong đời sống cộng đoàn bằng cách phải hiệp nhất với nhau. Cũng như chỉ có một tấm bánh, chúng ta tuy nhiều người cũng chỉ là một thân thể.
 
          + Bài Tin mừng : Ga 6,51-58.
 
          Dân  chúng say mê nghe Chúa giảng, không nghĩ đến ăn uống. Thấy họ đói, Chúa Giêsu đã nuôi sống họ bằng cách làm cho bánh hoá nhiều. Dân chúng được ăn no nê thừa thãi thứ bánh vật chất mà Ngài vừa làm phép lạ cho có nhiều.  Bây giờ Chúa muốn  đưa họ đến một thứ lương thực cao qúi hơn. Vì thế, Ngài loan báo cho họ một thứ bánh khác. Bánh đó chính là Mình Máu Ngài, Bánh hằng sống mang lại ơn cứu độ cho thế gian.
 
          Chúa Giêsu đã khẳng định mặc dầu người ta không hiểu cũng như không muốn hiểu :”Ta là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, và bánh Ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta đây, để cho thế gian được sống... Ai ăn thịt và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết”.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
 
                                      Thánh Thể, nguồn sống thiêng liêng.
          Trong lời mở đầu của thông điệp về Bí tích Thánh Thể “ECCLESIA DE EUCHARISTIA”, Đức Thánh Cha Gioan-Phalô II đã xác tín “Giáo hội múc nguồn sự sống từ Bí tích Thánh Thể. Sự thật này không đơn thuần diễn tả một kinh nghiệm thường nhật của đức tin, nhưng tóm kết cốt lõi của mầu nhiệm Giáo hội. Trong niềm hân hoan, Giáo hội kinh nghiệm, dưới nhiều hình thức, sự thực hiện liên lỉ lời hứa “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Kể từ ngày Lễ Ngũ Tuần , Giáo hội bắt đầu cuộc hành trình đi về Quê Trời, bí tích thần thiêng tiếp tục ấn dấu trên ngày sống, bằng cách tuôn đổ trên họ niềm hy vọng tin tưởng”.
 
          Công đồng Vatican II tuyên bố cách xác đáng rằng “Mọi Bí tích đều liên hệ và hướng về Thánh Thể. Vì phép Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, nghĩa là chính mình Chúa Kitô Phục sinh. Phép Thánh Thể là nguồn suối, là chóp đỉnh việc rao giảng Tin mừng” (P.O, số 5).
 
          Thánh Thể đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống Giáo hội và giáo dân, nên Giáo hội lập ra lễ kính Thánh Thể để thúc giục giáo dân gia tăng lòng tôn sùng phép Thánh Thể. Lễ kính này đã manh nha ở thành phố Liège bên Bỉ với những ơn lạ của chị dòng Juliana về phép Thánh Thể từ năm 1208 cho mãi đến năm 1263 với phép lạ máu Chúa chảy loang thấm ướt khăn thánh ở làng Polsena bên Đức. Ngày 8.9.1264, Đức Thánh Cha Urbanô ban sắc lệnh Transiturus lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa Kitô trên khắp hoàn cầu.
 
          1. Thánh Thể, nguồn sống của Kitô hữu.
 
          Con người có hồn có xác. Cả hai liên kết chặt chẽ với nhau. Muốn sống cần phải có ăn, không ăn thì chết. Nhưng hồn và xác lại có những của ăn khác nhau. Xác cần có của ăn vật chất, hồn lại có của ăn thiêng liêng là chính Mình Máu thánh Chúa Kitô như lời Ngài đã dạy.
 
          a) Của ăn thể xác.
 
          Người ta thường nói :”Có thực mới vực được đạo” (Tục ngữ). Nói như thế có nghĩa là phải có của ăn phần xác nuôi sống đã , phải sống đã rồi mới có thể thực hiện việc đạo nghĩa được. Nhiều người nói quả quyết hơn :”Dĩ thực vi tiên” : phải lấy cái ăn làm đầu. Câu tục ngữ trên cũng có nghĩa tương đương với câu ngạn ngữ La tinh :”Manducare priusquam philosophare” : ăn đã rồi hãy nói triết lý , vì không có ăn thì lấy hơi đâu mà nói triết lý ? 
 
          Bất kỳ ai cũng phải ăn, không ăn nhiều thì ăn ít. Càng ăn nhiều thức ăn có độ dinh dưỡng cao thì người càng mập , béo , khỏe mạnh. Ăn uống thiếu chất dinh dưỡng thì người sẽ gầy còm, ốm o.  Trung bình mỗi người lớn một ngày phải được cung cấp 2.600 calories, nhưng trong thực tế, trừ một số nước tiên tiến mỗi ngày được cung cấp tới 3,130 calories, khiến con người họ to cao, bép mập ; còn đa số dân chúng ở các nước kém mở mang chỉ được cung cấp dưới mức trung bình ấy. Một số nước mỗi người chỉ được cung cấp 1.700 calories mỗi ngày, và tệ hơn nữa, một số nước ở Phi châu chỉ được cung cấp 1.200 calories mỗi ngày.  Theo tin tức của đài truyền hình cho biết : tính tứ năm 1975 đến nay, chiều cao của trẻ em Việt nam đã tăng thêm được vài centimét.
 
          Trong kinh “Lạy Cha” chúng ta vẫn cầu xin Chúa cho chúng ta có của ăn hằng ngày :”Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Lương thực đây phải hiểu là lương thực của phần xác và phần hồn. Nhưng dù sao chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta có của ăn của để, đừng để chúng ta thiếu thốn quá mà bỏ bề việc đạo.
 
          Người Việt nam chúng ta rất thực tế, không ước ao được giầu sang phú qúi, của cải dư dật vì như thế có thể làm cho người ta dễ hư hỏng hoặc làm cho người ta thêm lo  lắng đêm ngày :
                                      Ăn cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy,
                                      Ăn cơm với cáy thì ngáy o o.
 
          Trong thực tế của đời sống hằng ngày, họ chỉ cần hai chữ “bình an”, họ chỉ ao ước được hưởng những hạnh phúc thông thường, như thế họ đã mãn nguyện :
 
 
                                      Ăn được ngủ được là tiên,
                             Không ăn không ngủ mất tiền thêm lo,
                                                 (Ca dao)
 
          b) Của ăn phần hồn.
 
          Nếu chúng ta nói : thân xác phải ăn thì mới sống được, chúng ta phải nói thế nào về phần hồn ? Dĩ nhiên, linh hồn cũng phải ăn thì mới sống được, nhưng của ăn nuôi sống linh hồn không phải là của ăn vật chất như cơm bánh hằng ngày ta ăn, mà là của ăn thiêng liêng. Nói khác đi, của ăn đó chính là Mình máu Chúa Kitô.
 
          Trong sa mạc, dân Israel đã được ăn  manna hằng ngày để nuôi thể xác. Chúa Giêsu cũng làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để nuôi phần xác cho dân chúng khi đói. Ngoài bánh ấy ra, Chúa Giêsu còn hứa sẽ ban cho họ thứ bánh khác, không phải là thứ bánh họ đã ăn, bánh này ăn vào sẽ không bao giờ đói nữa :”Ta là bánh hằng sống, ai đến cùng Ta không khi nào đói, ai tin kính Ta chẳng bao giờ khát “(Ga 6,35).  Ngài hứa ban bánh hằng sống, dân chúng ước ao ăn bánh này cho khỏi đói khát nữa. Nhưng Chúa Giêsu còn muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài muốn nói về một thứ bánh hằng sống chân thật, đó là chính Thịt Máu Ngài.
 
          Mặc dầu Ngài nói như thế, người ta sẽ không tin, còn làm cớ vấp phạm cho nhiều người  đến nỗi có nhiều người bỏ đi vì thấy nó chói tai quá, kể cả môn đệ cũng có một số bỏ đi.  Tuy thế, Ngài cứ nói, nói một cách thẳng thừng :”Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi : nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con người thì các ngươi chẳng được sống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ được sống đời đời, và Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54-55).
 
          Để bảo tồn sự sống, mọi sinh vật phải có thức ăn thích hợp với bản tính riêng. Linh hồn chúng ta đã được thần hóa, nên cũng cần có một thức ăn thích hợp với nếp sống mới đó. Thức ăn này phải là do việc thông hiệp vào thịt máu Chúa Giêsu ban cho :”Ta là bánh hằng sống. Các ngươi hãy cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các ngươi hãy lãnh nhận mà uống, vì này là máu Ta. Ai ăn mình và uống máu Ta sẽ được sống. Vì mình Ta thực là của ăn, máu Ta thật là của uống”.
 
          Ai lãnh nhận mình máu Chúa Kitô, người ấy được kết hợp với Chúa, được tan biến trong Chúa để cả hai nên một, để người ấy có thể nói như thánh Phaolô :”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
 
          Trong khi rước lễ, chúng ta coi mình như đón nhận Chúa Giêsu , Chúa Giêsu ngự vào lòng tôi. Chúng ta nói về sự hiệp lễ như là ôm ẵm Chúa.  Nhưng hiệp lễ cũng có nghĩa là Chúa ôm ẵm chúng ta.  Chúa Giêsu đón nhận chúng ta vào lòng Ngài cách đặc biệt. Không chỉ là Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, mà chúng ta cũng ở trong Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa của điều Chúa nói với chúng ta trong Tin mừng hôm nay :”Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy”. Chúng ta có thể nói như thánh Inhaxiô :”Đây là nơi Chúa Giêsu bồng ẵm tôi”.
 
          Thánh Cyrillô thành Alexandria so sánh sự hiệp nhất này với hai miếng sáp ong hoà lẫn với nhau. Thánh Têrêsa thành Lisieux đã diễn tả sự hiệp lễ lần đầu của ngài như là sự tan hòa với Chúa Kitô.
 
          Chúng ta hãy suy nghĩ điều này và bắt đầu nhận htức rằng sự quan trọng không phải là tình yêu, lòng khao khát hay những lời cầu nguyện của chúng ta, mặc dầu tất cả cần phải có. Sự quan trọng nhất là tình yêu vô biên của Chúa Giêsu. Ngài ước mong ôm ẵm chúng ta, chia sẻ chính đời sống Ngài cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta ở lại trong Ngài như chúng ta muốn Ngài ở lại trong chúng ta (GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng CN năm A, tr 79).
 
          Mỗi khi rước Chúa ngự vào lòng, chúng ta muốn được hoà tan trong Chúa, muốn được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, muốn được đổi mới con người của mình.  Dĩ nhiên, sự đổi mới này chỉ có tính cách thiêng liêng, nghĩa là linh hồn chúng ta được đầy tràn ơn Chúa, được trở nên thánh thiện hơn, làm chiếu toả Chúa ra bằng cách sống hằng ngày, còn thân xác chúng ta thì không có gì thay đổi.
 
                                      Truyện : Biến đổi trong Chúa.
          Một người  ngoại giáo hỏi người bạn Công giáo :
          - Người Công giáo các bạn ăn Chúa Kitô phải không ?
          - Vâng, người Công giáo trả lời.
          Người kia hỏi tiếp :
          - Vậy sao các bạn không trở nên như Chúa ?
          Một lát sau, khi đi ngang qua trại heo, người Công giáo hỏi :
          - Bạn có khi nào ăn thịt heo không ?
          - Rất nhiều lần. Mà hỏi làm gì vậy ?
          - Sao bạn chưa biến đổi thành heo ?
          Đó là câu trả lời cứng cỏi nhưng kiến hiệu cho câu hỏi cứng cỏi. Trong thực tế, chúng ta được biến đdổi trong Chúa cách thiêng liêng nhờ sự rước lễ.
                             (GM Arthur Tonne, Góp nhặt, tr 8-9)
 
          2.  Thánh Thể là một mầu nhiệm.
 
          Trong Thánh lễ, ngay sau truyền phép Mình thánh, Linh mục đã nhắc nhở cho giáo dân :”Đây là mầu nhiệm đức tin”. Hội thánh muốn nhắc nhở cho giáo dân : Thánh Thể là một mầu nhiệm, không trí khôn nào có thể suy thấu, chỉ dùng con mắt đức tin mà chấp nhận. Với con mắt xác thịt, không ai có thể trông thấy Chúa trong hình bánh hình rượu với cả mình và máu, nhân tính và thần tính của Chúa Giêsu, nhưng không thấy không có nghĩa là không có. Như kinh nghiệm cho chúng ta thấy : ban ngày người mù đâu có thấy ánh sáng, nhưng không thấy ánh sáng thì không thể phủ nhận được sự hiện hữu của mặt trời. Mặt trời vẫn có đó.
 
          Sau khi truyền phép Mình thánh, bánh và rượu đã trở nên mình máu Chúa Kitô.  Cả con người của Chúa Giêsu ở trong đó : thịt và máu, nhân tính và thần tính. Chúa Giêsu đang hiện diện trong hình bánh hình rượu.
 
          Chúng ta phải phân biệt hai sự hiện diện :
                             - Hiện diện tượng trưng (Presentia symbolica)
                             - Hiện diện thực sự (Presentia realis).
 
          a) Hiện diện tượng trưng :
 
Là tin rằng Chúa Giêsu hiện diện trong hình bánh, coi như Ngài hiện diện trong đó, nhưng thực sự không có thịt máu Ngài trong đó.  Như thế là chối bổ sự biến thể (transsubstantiatio) mà Giáo hội dạy : sau truyền phép thì bánh rượu chỉ còn hình dáng bề ngoài(species), còn bản thể (substantia) đã trở nên mình máu Chúa Kitô rồi. Đối với sự hiện diện tượng trưng này , mọi người dễ hiểu, dễ chấp nhận vì nó phù hợp với sự hiểu biết của lý trí con người, không cần dùng đến con mắt đức tin.
 
          b) Hiện diện thực sự.
 
          Đây là vấn đề gai góc. Hiện diện thực sự là có sự hiện diện thực của Chúa Giêsu với mình và máu, với nhân tính và thần tính của Người. Cả con người của Ngài hiện diện trong đó mặc dầu con mắt xác thịt chúng ta không thấy. Đây thực sự là mầu nhiệm đức tin.
 
          Theo cuộc thăm dò ý kiến của Gallup tường trình cho biết, chỉ có 1/3 giáo dân Công giáo Hoa kỳ tin có sự hiện diện thật của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể, số khác chỉ tin Bí tích Thánh Thể là biểu tượng cho sự hiện diện thật của Chúa Kitô.
 
          Phản ứng trước cuộc thăm dò này, các Giám mục Hoa kỳ đã nhắc lại một thông tư trong hội nghị hội đồng Giám mục Hoa kỳ vào tháng 6/2001 “Sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể : Những câu hỏi và trả lời căn bản”. Trong bản văn này xác định lại một lần nữa trong Bí tích Thánh Thể “toàn thể con người Đức Kitô thật sự hiện hữu dưới hình thức bánh và rượu, thân xác, máu, linh hồn và thần linh”.
 
                                      Truyện : Hiện diện thực sự.
          Một linh mục và một mục sư Tin lành ở cùng một tỉnh thường nói chuyện với nhau nhiều về đạo. Thời gian trôi qua, mục sư bắt đầu tin những chân lý của đạo Công giáo dần dần.  Ông tin hết mọi chân  lý, trừ có một – chân lý Chúa ngự thật trong phép Thánh Thể. Chân lý duy nhất này ông không thể nào tin được. Ông vẫn nói :”Nếu tôi có thể tin được rằng tôi rước lấy Chúa thực sự khi chịu lễ, thì chắc là tôi sẽ hạnh phúc nhất trên đời ; nhưng xem chừng tôi không thể tin được”.
 
          Ít lâu sau, vị mục sư đau nặng, Linh mục đến thăm ông, nhưng ông mê man bất tỉnh. Qùi gối bên giường, linh mục cầu xin Chúa ban cho mục sư tỉnh lại và lời cầu nguyện của ngài đã được Chúa nghe. Vị mục sư hấp hối đó mỉm cười và xin được phép ngồi lên, tựa lưng vào gối. Ông có thể tiếp tục nói, nhưng mắt ông nhìn chòng chọc vào cái gì ở chân giường. Ông chỉ tay, nhưng vị linh mục không trông thấy gì cả.  Rồi người hấp hối  cứ nhìn chòng chọc và bỗng nhiên mặt ông tươi lên như hoa. Ông vừa thở hổn hển vừa phều phào :”Hiện diện thực sự – Nếu tôi được biết kịp thời thì chắc tôi đã giảng cho toàn thế giới chân lý này”.  Nói rồi, ông nhắm mắt thở hơi cuối cùng.
                             (W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 161-162)
          Chúng ta may mắn vì được Chúa ban đức tin ngay từ khi mới sinh. Những người khác thường phải chiến đấu lâu ngày lâu tháng mới tin được những điều chúng ta không phải khó lòng gì mà đã tin.
 
          Bí tích Thánh Thể là bí tích của tình yêu.  Dấu chỉ tuyệt diệu nhất của tình yêu Thiên Chúa là sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa , Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta – nơi BÍ TÍCH THÁNH THỂ. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình để những ai tin vào Người thì không bị hư mất, nhưng được sống đời đời”(Ga 3,16). Thiên Chúa yêu chúng ta nên đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu Kitô ; Chúa Giêsu Kitô yêu chúng ta nên đã “Chấp nhận thân phận tôi đòi”(Phl 2,7), đã chịu nạn, chịu chết và phục sinh vinh hiển để đem lại Sự sống cho chúng ta, Ngài còn “Ở lại cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20) nơi Bí tích Thánh Thể ; tất cả chỉ vì yêu chúng ta.


CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN A
  LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
   +++
A. DẪN NHẬP.
 
Chúa nhật hôm nay giúp chúng ta suy niệm về lòng nhân lành hay thương xót của Chúa. Chúng ta đừng chỉ nghĩ đến thân phận yếu hèn của mình, đừng chỉ nghĩ đến những lỗi lầm của chúng ta, mà hãy nghĩ đến lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa.  Chúa Giêsu đến trần gian có mục đích kêu gọi những người tội lỗi chứ không kêu gọi người lành thánh. Ngài muốn chúng ta hiến dâng hồn xác cho Ngài, chứù không phải là những hy lễ bên ngoài :”Ta muốn tình yêu, chứ không muốn hy lễ, Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu”
.
Thánh Phaolô nhắc nhở ta hãy đáp lại tình yêu thương của Chúa bằng cách sống tin yêu như ông Abraham đã làm xưa. Thánh Matthêu cũng ghi lại ơn được Chúa kêu gọi và đã đáp lại tiếng Chúa thế nào. Chúng ta hãy theo gương thánh nhân mà đáp lại tiếng Chúa gọi,  bỏ đang tội lỗi, quay về với Chúa và cố gắng trở nên môn đệ của Chúa bằng đời sống chứng nhân của mình.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc 1 : Hs 6, 3b-6.
 
          Tiên tri Hôsê là người đầu tiên đã ví tình yêu Thiên Chúa đối với dân Israel như mối tình giữa hai vợ chồng.  Tấn thảm kịch trong gia đình Hôsê đã trở nên bức họa tiên tri, mô phỏng cách cư  xử của Giavê đối với dân Ngài chọn.
 
          Theo lời phán của Giavê, Hôsê đã cưới một cô gái giang hồ về làm vợ. Sau khi chung sống và sinh được ba người con, thì Gôme, vợ Hôsê, lại quen đường cũ, tìm về cảnh sống bán thân như xưa. Tuy thế, Chúa lại xúi Hôsê đem tiền bạc đi chuộc về, tha thứ và tiếp tục yêu thương như trước.  Đối với Hôsê, các tội lớn lao hơn cả là tội ngoại tình, phụ bạc đối với Thiên Chúa như sự phản bội của hai người phối ngẫu.
 
          + Bài đọc 2 : Rm 4,18-25.
 
          Trong thư gửi tín hữu Roma, thánh Phaolô khuyên tín hữu hãy nhớ lại tình yêu thương của Thiên Chúa. Tình thương phải đáp lại bằng tình thương. Chúng ta hãy đáp lại tình yêu thương của Chúa bằng một Đức tin mạnh mẽ, một sự phó thác tuyệt đối như ông Abraham đã làm. Tuy đã gia,ø ông vẫn trông cậy vào quyền năng của Chúa sẽ thực hiện lời hứa ấy là ông sẽ có một miêu duệ đông như sao trên trời, như cát dưới biển.
 
          Lời Chúa hứa với chúng ta cũng được thực hiện nơi Chúa Giêsu, đó là Ngài chịu chết để cứu chuộc chúng ta, và đã từ cõi chết sống lại để chúng ta được rỗi, “được công chính hóa”.
 
          + Bài Tin mừng : Mt 9,9-13.
 
          Bài Tin mừng hôm nay nói về ơn gọi của ông Lêvi Matthêu. Ơn gọi này nêu lên gương sáng cho chúng ta phải đáp lại đối với tình thương của Chúa như thế nào.
 
          Ông Matthêu không bao giờ nghĩ được rằng mình sẽ được Chúa gọi, vì mình bị người ta cho là người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu vừa lên tiếng gọi thì ông sẵn sàng vâng theo :”Người ấy đứng dậy đi theo Ngài”, và không phải đi theo một thời gian năm, ba năm,  mà đi theo suốt đời. Ông còn tỏ ra quảng đại, chia nửa gia tài cho người nghèo khó. Theo gương ông Matthêu, tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa “không đến kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi – chúng ta hãy bỏ mọi mặc cảm tội lỗi, bỏ mọi sự ràng buộc quanh mình, đi theo Chúa để làm môn đệ của Ngài..
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Chúa kêu gọi người tội lỗi
I. CHÚA KÊU GỌI ÔNG MATTHÊU.
 
1.  Bản thân ông Matthêu.
 
Ông Matthêu là người gốc Do thái, là một quan chức của ngành thuế giúp việc cho người Roma. Khi Chúa Giêsu bỏ Capharnaum đi về phía bờ biển, ngang qua sở thu thuế thì gặp ông đang làm việc tại đó.  Chúa Giêsu gọi ông vắn tắt :”Hãy theo Ta”, lập tức ông bỏ bàn làm việc màø đi theo Chúa. Ông còn làm một bữa tiệc thịnh soạn để tiếp đãi Chúa Giêsu và các bạn bè.
 
2.  Nói về thuế khóa. 
 
Chính quyền Roma lúc bấy giờ đặt ra hệ thống thu thuế hiệu quả và đỡ tốn kém nhất.: họ cho đấu thầu thu thuế ở các khu vực. Một người mua được quyền thu thuế ở một địa phận nào phải chịu trách nhiệm với chính quyền Roma về một số tiền thỏa thuận. Nếu người đó thu thuế cao hơn thì có quyền giữ, xem như tiền hoa hồng. Rõ ràng hệ thống này sinh ra những lạm dụng nghiêm trọng. Vào thời ấy, chưa có báo chí, chưa có máy truyền thanh, chưa có phương tiện truyền thông rộng rãi, người ta không biết sự thật mình phải đóng thuế bao nhiêu mà cũng chẳng có quyền khiếu nại người thu thuế.  Kết quả là nhiều người thu thuế trở nên giầu có do sự cưỡng thu bất hợp pháp. Hệ thống này đưa đến sự lạm dụng đến nỗi phải hủy bỏ tại xứ Palestine trước thời Chúa Giêsu. Tuy thế, thuế vẫn cứ phải đóng và tất nhiên vẫn còn nhiều lạm dụng.
 
Những người làm nghề thu thuế như vậy đều bị dân chúng ghét bỏ vì tham nhũng, bức bách dân chúng.  Còn một lý do khác khiến người Do thái khinh bỉ những người thu thuế : dân Do thái tin rằng chỉ mình Thiên Chúa là Vua, nộp thuế cho hoàng đế Roma là trao cho ông ta  quyền hành đúng ra chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa mà thôi. .. Điều này giúp chúng ta hiểu được tại sao những người thu thuế bị khai trừ khỏi hội đường và bị xếp đồng loại với đám người tội lỗi, đĩ đếm, và trộm cướp.
 
3.  Thái độ của ông Matthêu.
 
Chính ông Matthêu không bao giờ nghĩ được rằng Chúa Giêsu lại kêu gọi mình làm môn đệ.  Nhưng khi được Chúa gọi, ông đã bỏ mọi mặc cảm, đứng dậy theo Chúa ngay, không phải một thời gian nhưng theo mãi mãi.
 
          Trước lúc Chúa gọi, Matthêu “ngồi” (tư thế không muốn thay đổi) tại “bàn thu thuế” (môi trường sống tội lỗi). Nhưng ngay khi được Chúa gọi, ông đã nhanh chóng “Đứng dậy” và “theo”. Thái độ này biểu lộ một sự dứt khóat thay đổi, một hành trình mới.
 
Đi theo Chúa Giêsu là một sự mát mát lớn : ông phải bỏ ngành thuế, một nghề làm giầu dễ dàng cho mình và cho con cháu. Ông đã bỏ tất cả, nhưng sẽ được tất cả.  Ông rời bỏ bàn thu thuế nhưng đem theo cây bút viết. Có lẽ các người khác trong nhóm 12 môn đệ không quen thuộc lắm với cây bút viết. Các ngư phủ Galilê không có tài viết lách như Matthêu có, và ông đã chép cuốn sách đầu tiên về giáo huấn của Chúa Giêsu, đáng liệt vào sách quan trọng nhất thế gian.
 
II. CHÚA KÊU GỌI NGƯỜI TỘI LỖI.
 
1. Lòng Chúa khoan dung.
 
Bài Tin mừng cho biết tình trạng của người được gọi. Đó là một người “publicanô”, một người làm việc cho ngoại bang, một người thu thuế, một người mà dân chúng coi là phường tội lỗi. Thế mà Chúa Giêsu không màng đến dư luận, lại còn kết nạp vào Tông đồ đoàn.
 
Nói về tội nhân, người Do thái coi tội nhân là những kể sống ngoài luật Môsê theo như các nhà thông luật cắt nghĩa , vì hạng người này tiếp tay Roma đàn áp dân của Chúa.
 
Luật Maisen không cấm ăn uống với người thu thuế, hoặc người không cắt bì.  Song các nhà thông luật đã cấm, vì sự chung đụng như thế có nguy hiểm.  Và việc cấm đã được coi như thông lệ. Vì thế mà họ chất vấn các môn đệ Chúa. Nghe thấy, Chúa Giêsu trả lời cho họ :”Những người khỏe không cần thầy thuốc, song người ốm”.  Rồi Chúa nhắc họ lời tiên tri Hôsê :”Ta muốn lòng thương xót chứ không muốn hy lễ”.  Của lễ cũng cần thật nhưng cái cốt yếu của việc thờ phượng Chúa là Tình yêu. Lòng nhân lành đối với tội nhân làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn là sự tỉ mỉ giữ những luật lệ. (Văn Quy và Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật A, tr 161).
 
Chúa là một thầy thuốc đến chữa lành bệnh tật phần xác và nhất là của linh hồn. Người Do thái tự cho mình là lành mạnh vì họ nghĩ rằng sốt sắng giữ lề luật thì Thiên Chúa phải ban cho họ sức mạnh. Ngờ đâu rằng : Chúa muốn lòng nhân lành chứ không phải hy lễ. Lời tiên tri Hôsê đã  được thực  hiện nơi Ngài :”Ta muốn Tình yêu”
 
Chúa Giêsu không nhìn dáng vẻ bề ngoài mà đánh giá con người, Ngài nhìn vào tận tâm can con người mà đánh giá. Những người luật sĩ và biệt phái bề ngoài xem ra tốt lành thánh thiện, xứng đáng làm bậc thầy trong dân, làm phụ mẫu chi dân, mà tại sao Chúa Giêsu lại gọi họ là loài rắn độc, mồ quét vôi trắng ?  Vì Ngài nhìn thấy tâm hồn họ nhơ bẩn, chỉ có kiểu cách bề ngoài. Họ là những kẻ giả hình đáng khinh bỉ.
 
Ngược lại, những người tội lỗi không làm cho Ngài chê ghét, lại còn yêu thương gần gũi, tạo
điều kiện cho họ sám hối, trở lại đường lành.  Bề ngoài bị thiên hạ cho là đáng khinh bỉ, nhưng lòng họ tốt, họ có thiện chí muốn trở nên tốt. Nên người ta mới nói :
 
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.
        (Ca dao)
 
Khi Chúa Giêsu gọi Matthêu, một kẻ thu thuế, để làm một trong những cộng sự thân cận nhất của Ngài thì quả thật đáng ngạc nhiên. Điều này nêu thêm được một ví dụ về khả năng của Chúa Giêsu trong việc nhìn vượt quá hiện tại của con người để thấy được điều họ sẽ trở thành nếu như họ cố gắng.  Chúa Giêsu đã nhìn thấy điều đó mà kẻ khác đã không thấy được ở nơi thánh Matthêu.
 
Điều này cũng cho chúng ta biết Chúa Giêsu có thể nhìn khỏi hiện trạng chúng ta để thấy được điều chúng ta có thể trở thành.  Ngài không chú trọng quá khứ cho bằng tương lai của chúng ta. Ngài không chú trọng khả năng chúng ta đang làm được gì mà là khả năng sẽ làm được gì. Ngài không chú trọng đến tài năng của chúng ta  cho bằng sự sẵn sàng của chúng ta.
(Mark . Linhk, Giảng lễ Chúa nhật năm A, tr 195).
 
2. Tấm lòng ông Matthêu.
 
Theo thói thường, mọi người phải lo làm giầu để lo tương lai cho mình và cho con cháu. Matthêu cũng có quyền lợi dụng ngành thuế để làm giầu. Tuy ông cũng gian tham trục lợi như những quan chức thu thuế khác, nhưng ông vẫn còn lương tri, vẫn còn có tấm lòng.  Tuy bề ngoài bị coi là người đáng khinh bỉ, bị người ta liệt vào hàng tội lỗi ngang hàng với gái điếm, nhưng ông vẫn còn lương tri, biết nhìn ra lẽ phải, biết phân biệt tốt xấu chứ không bị tiền của làm tối tăm mắt mũi ,  và hình như ông cũng có thao thức muốn thay đổi con người nhưng chưa có dịp thuận lợi.  Vậy nhân dịp Chúa Giêsu đi ngang qua gọi ông, lập tức ông bỏ bàn giấy mà đi theo Chúa. Điều đó chứng tỏ ông có một tâm địa tốt, xứng đáng cho người ta khen ngợi :
 
Xanh vỏ đỏ lòng (Tục ngữ)
 
3. Chúa kêu gọi nhiều người tội lỗi khác.
 
Kinh thánh con ghi lại việc Chúa Giêsu kêu gọi nhiều người tội lỗi trỡ lại. Chúng ta thử đưa ra mấy trường hợp . Ngài đã kêu gọi :
. Người đàn bà xứ Samaria (Ga IV)
. Ông Nicôdêmô (Ga 3,4).
. Người đàn bà phạm tội ngoại tình (Ga 8,10)
. Maria madalena thống hối (Lc 7,48)
. Tha tội cho người bất toại (Mt 9,2).
. Phêrô thống hối (Lc 22,62).
. Trên thập giá tha tội cho kẻ trộm lành {Lc 23,43).
. Tha cho quân dữ hành xử mình {Lc 23,34).
 
 
         
III. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA HÔM NAY.
 
Mọi người có thể trở nên lương thiện và có thể trở nên thánh nhân với ơn Chúa và sự cố gắng của mình. Điều đó được minh chứng với lời Thiên Chúa phán với dân Israel, dân riêng của Ngài :”Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng thánh”.
 
          Theo ông Pascal, con người là một cây sậy yếu đuối nhưng là cây sậy biết suy tư. Con người tự sức mình không thể nào làm được việc gì :”Không có Thầy các con không làm được gì” ,      nhưng với ơn Chúa trợ giúp chúng ta có thể làm được như thánh Phaolô nói :”Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi”. Như vậy, con người dù có tội lỗi đến đâu đi nữa, Chúa cũng không chê bỏ, “không dập tắt tim đèn còn bốc khói”, “không bẻ gẫy những cây đã bị giập nát”,  Chúa tạo điều kiện để con người đứng lên làm lại cuộc đời và biến họ trở nên dụng cụ trung thành  của Chúa, biến họ trở nên một tạo vật mới lành thánh hơn.
 
                                      Truyện : khối đá cẩm thạch nứt nẻ.
Nhà điêu khắc Donattello, một hôm từ chối không sử dụng khối đá cẩm thạch vì nó rạn nứt. Người ta mang khối đá này cho điêu khắc gia nổi tiếng Michel-Ange.
 
Xem xét khối đá, Michel-Ange cũng thấy những vết rạn nứt đó. Nhưng ông lại coi đó là một thách thức cho tay nghề của mìinh. Ông nhận khối đá và ra công đẽo gọt. Nhờ đó mà thế giới mới có được bức tượng vua Đavít, một công trình nghệ thuật sáng giá nhất từ trước tới nay.
 
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu chọn gọi Matthêu làm môn đệ, một kẻ thu thuế, bị liệt vào hàng tội lỗi. Matthêu cũng như khối đá cẩm thạch rạn nứt, ông có rất nhiều tì vết : nào là bóc lột dân nghèo, tiếp xúc với người Roma ngoại giáo, nên thường xuyên bị ô uế, phải loại ra khỏi hội đuờng. Tóm lại, ông là kể tội lỗi công khai. Đức Giêsu đã không nhìn ông với cái nhìn ấy. Ngài đã không khước từ, không phán đoán, không chê bỏ. Ngài chấp nhận ông với tất cả tội lỗi và tai tiếng nơi ông. Ngài không một chút do dự cho ông gia nhập vào Tông đồ đoàn, để huấn luyện ông trở thành môn đệ của Ngài, để ông nên một trong mười hai trụ cột của Giáo hội.
                             (Thiên Phúc, Như  Thầy đã yêu,  năm A, tr73)
 
          Chúng ta đừng có mặc cảm về đời sống tội lỗi của mình, Chúa có thể làm nên tốt hết, Chúa sẽ đổi mới con người chúng ta thành những tạo vật mới tốt lành thánh thiện.  Hãy tin tưởng vào Chúa, phó thác cho Chúa và để cho Ngài hành động nơi ta.  Chúng ta cứ tin rằng, với ơn trợ giúp của Ngài chúng ta có thể trở nên con người hoàn thiện được. Đúng như người ta nói :
 
                                       Đừng chê em xấu em đen,
                             Em như nước đục đánh phèn lại trong.
                                               (Ca dao)
 
          Trong việc trở về, Thiên Chúa luôn đi bước trước chứ không phải con người. Ngài luôn mời gọi, con người chỉ cần đáp lại tiếng gọi đó. Nhưng nhiều khi con người vô tình hay cố tình làm ngơ trước những lời mời gọi ấy vì để cho những tính hư nết xấu làm ù tai linh hồn. Tệ hại hơn nữa, nhiềâu khi con người để cho tình tư dục làm điếc tai linh hồn đến nỗi không còn nghe thấy tiếng Chúa nữa. Có một danh nhân nói một câu thật hay :”Nếu ta bước một bước để đi tìm Chúa, thì Ngài nhảy 10 bước đến tìm ta”.
 
                                                Truyện :  Ai đi tìm ai ?
          Một bé gái chơi trò cút bắt với các bạn. Cô tìm một chỗ thật kín để trốn. 5 phút sau, không ai tìm được cô. 10 phút sau cũng không ai đến tìm. Sau cùng cô biết ra rằng các bạn đã nghỉ chơi  và đã đi nơi khác. Cô bé ngồi khóc và cho rằng đám bạn đã chơi xấu cô.
 
          Một người lớn thấy vậy an ủi và dạy cô bé : “Cháu đã học được một bài học quí giá giúp cháu hiểu được Chúa cảm thấy thế nào khi chơi với lòai người. Ngài chờ lòai người đến tìm Ngài nhưng người ta đã nghỉ chơi từ lâu không đến tìm Ngài nữa” (Mark Link, Vision 2000).
 
          Bắt chước Matthêu Chúa gọi đứng dậy liền, bẻ mọi xích xiềng tội lỗi. Cương quyết bỏ đường tội lỗi là điều kiện cần để trở nên môn đệ Chúa. Khi đã dậy rồi cũng kéo anh em theo.  Bắt chước Matthêu mời Chúa vào nhà, mời anh em chung sở làm tức là cùng tội lỗi như Matthêu cho họ tiếp xúc với Chúa và theo Chúa như mình.  Nghĩ đến việc làm tông đồ cho người tiếp xúc với Chúa là một cách tốt nhất tỏ lòng biết ơn.
 
          Để kết thúc, chúng ta hãy suy gẫm câu Kinh thánh sau đây:
 
 “Hỡi những người tội lỗi, hãy trở lại cùng Chúa đang kêu gọi bạn, hãy làm việc lành trước mặt Người và phải tin tưởng Người sẵn sàng thương xót bạn” (Tb 13,8).


CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN A
SỨ MẠNG RAO GIẢNG TIN MỪNG
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Nếu công đồng Vatican II khẳng định “bản tính của Hội thánh là truyền giáo” thì mọi Kitô hữu cũng chính là những sứ giả Tin mừng, cũng có trách nhiệm như Hội thánh.  Những lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ ngày xưa vẫn còn vang vọng nơi chúng ta, vẫn còn có tính cách thời sự của nó. Chúa muốn chúng ta đi vào cánh đồng truyền giáo rộng rãi bao la bát ngát để đem nhiều người về cho Chúa. Cảm xúc của Chúa Giêsu đứng trước cánh đồng lúa chín vàng ối “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” cũng phải là cảm xúc của chúng ta đứng trước tình hình thế giới hiện nay : chúng ta hãy xin Chúa sai nhiều sứ giả Tin mừng đến cánh đồng truyền giáo, đồng thời chúng ta cũng có thể góp phần vào công việc loan báo Tin mừng bằng chính cuộc sống chứng tá
của chúng ta.
          Hãy nhớ lại lời thánh Phaolô :”Khốn cho tôi, nều tôi không rao giảng Tin mừng”.
 
B.. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc l : Xh 19, 2-6.
 
          Khi ra khỏi Ai cập, tiến tới sa mạc Sinai, con cái Israel cắm trại đối diện với núi.  Thiên Chúa gọi ông Maisen lên núi để tỏ cho ông biết Ngài muốn chọn Israel làm dân riêng của Ngài.  Họ sẽ trở nên một dân riêng thuộc về Thiên Chúa, trở nên dân tư tế và được thánh hiến.  Thiên Chúa sẽ thực hiện điều đó nếu dân biết nghe tiếng Ngài và nắm giữ giao ước của Ngài ký kết với dân qua trung gian ông Maisen.
         
          Trong thực tế, dân Israel đã được chọn làm dân riêng của Thiên Chúa, được sống trong tình thân mật với Ngài, được Ngài nâng niu như trên cánh phượng. Nhưng không vì thế mà Thiên Chúa tách họ ra khỏi các dân tộc khác. Là dân tư tế, họ có trách nhiệm làm chứng cho Chúa bên cạnh các dân tộc khác và tỏa chiếu sự hiện diện của Chúa nơi họ.
 
          + Bài đọc 2 : Rm 5,6-11.
 
          Trong thư gửi cho tín hữu Roma, thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Mặc dầu chúng ta là những người tội lỗi, là thù nghịch với Ngài, nhưng Ngài vẫn yêu thương.  Tình yêu đến tột đỉnh là sai Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô xuống thế chịu chết chuộc tội cho chúng ta.  Nhờ cái chết của Con Ngài mà chúng ta được rửa sạch mọi vết tích tội lỗi, được giao hòa với Thiên Chúa, được công chính hoá và thừa hưởng Nước Trời. Sở dĩ Ngài yêu chúng ta như vậy chỉ vì “Ngài là Tình yêu”.
 
          Để đáp lại tình yêu ấy, chúng ta có trách nhiệm làm cho người khác biết về tình yêu ấy  bằng cách góp phần vào việc loan báo Tin mừng bởi vì chúng ta “đã lãnh nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không”.
 
 
          + Bài Tin mừng : Mt 9,36-10,8.
 
          Trong khi đi rao giảng Tin mừng cho dân chúng, Chúa Giêsu thấy thương dân vì họ đang bơ vơ tất tưởi như đàn chiên không có người chăn dắt.  Ngài muốn  trao cho các Tông đồ sứ mạng loan báo Tin mừng cho người Do thái, loan báo cho họ biết về tình yêu của Thiên Chúa và Nước Chúa đã gần đến. Vì thế, Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ như những cán bộ nồng cốt, sai các ông đi rao giảng cho người Do thái biết “Nước trời đã gần đến”, chuẩn bị cho họ sẵn sàng đón nhận những lời Chúa Giêsu sẽ rao giảng.
 
          Mười hai Tông đồ này có những nguồn gốc và thành phần khác nhau. Điều đó nói lên việc loan báo Tin mừng không dành cho riêng một ai hay cho một thành phần nào mà dành cho mọi người, càng nhiều càng tốt vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”.
 
C.THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Lúa chín nhiều, thợ gặt ít
I. CHÚA KÊU MỜI
 
          1.  Tin Mừng Nước Trời.
 
          Trong suốt ba năm, Chúa Giêsu đã đi rao giảng Tin mừng Nước Trời. Thánh Matthêu đã tóm tắt trong một câu rất gọn :”Đức Giêsu rao giảng khắp các thành, các làng, giảng dạy trong các hội đường của họ và loan Tin mừng về Nước Trời cùng chữa lành mọi tật nguyền bện hoạn”(Mt 9,35).
 
          Trong khi đi rao giảng như thế, hình như Chúa Giêsu  có cái nhìn và cái cảm nghĩ không mấy lạc quan. Ngài thấy dân chúng mệt mỏi về thể xác, tinh thần bạc nhược vì thiếu sự săn sóc của chủ chăn. Giáo lý của các nhà Biệt phái rỗng tuếch, nhạt nhẽo mà lại quá phức tạp. Dân chúng có cảm nghĩ bị bỏ rơi, các vị chủ chăn chỉ lo săn sóc những chiên béo tốt xén lông và được danh dự.
 
          Thánh Matthêu cho ta biết cái cảm nghĩ của Chúa Giêsu trước tình trạng dân chúng đó :”Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân chúng liền động lòng thương xót họ””(Mt 9,36). Chúa thương họ như con chiên không có người chăn, như cánh đồng lúa chín không người gặt. Vì thế, Chúa bảo các môn đệ:”Lúc chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến”.
 
          Để giải quyết hoàn cảnh đáng thương đó, Chúa đã chọn 12 tông đồ làm những cộng sự viên, sai họ đi truyền giáo, đến những nơi mà Ngài sẽ đến.  Chúa ban cho các ông quyền hành rộng rãi :làm nhiều phép lạ... kể cả việc làm cho kẻ chết sống lại. Còn đề tài rao giảng của các ông là :”Nước Trời đã gần”,  đấy cũng là đề tài rao giảng của thánh Gioan Tẩy giả, và cũng là đề tài của chính Chúa Giêsu đang rao giảng.
 
          2.  Giáo huấn của Giáo hội.
 
          Công đồng Vatican II khẳng định :”Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Bản tính Giáo hội là truyền giáo tức là đem Tin mừng cứu rỗi cho nhân loại. Nhiệm vụ đó buộc tất cả mọi phần tử của Giáo hội tức là mọi người đã được rửa tội.  Công đồng đặc biệt chú trọng đến  phương diện tông đồ giáo dân :”Giáo dân làm tông đồ tức là tham gia vào chính sứ mạng cứu rỗi của Hội thánh. Chính Chúa – do phép rửa tội và phép thêm sức – giao cho tất cả mọi người bổn phận tông đồ ấy” (LG số 33).
 
          Đức thánh Cha Gioan Phaolô II cũng quả quyết :”Không một ai trong những người tin vào Chúa Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này : Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu độ, 3).
 
          3.  Đồng lúa chín kêu gọi.
 
          “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Đấy là một lời báo động và cũng là một lời kêu gọi tha thiết  và khẩn thiết.  Chúng ta đang ở trong thời kỳ gặt lúa. Nhìn cánh đồng lúa chín vàng ối ai lại không thích ? Nhưng không may, ở đâu thiếu người gặt mà để cho đồng lúa bị lụt lội hay bão táp tàn phá làm hư hỏng thì ai không tiếc ?
 
          Nhìn vào cánh đồng truyền giáo rộng bao la bát ngát, Giáo hội có một ưu tư lớn lao : lấy ai ra mà gặt cánh đồng này ? Trên thế giới có tới hơn 6 tỷ người, mà số tín hữu Công giáo mới có gần
1,1 tỷ. Nếu kể cả những anh em tin theo Chúa Kitô thì mới được 2 tỷ. Còn lại hơn tỷ nữa. Riêng Á châu chiếm một nửa dân số thế giới, mà mới được 3% người biết Chúa. Ở Việt nam thân yêu của chúng ta, dân số lên tới 84 triệu người mà mới có 6 triệu người Công giáo. Cánh đồng truyền giáo của quê hương thân yêu chúng ta cũng còn rất rộng.  Trách nhiệm của những người Việt nam Công giáo cũng còn rất nặng.  Chúa kêu gọi mọi người cộng tác vào công việc truyền giáo này.
 
                                      Truyện : Ta không có tay.
          Câu truyện xẩy ra tại Đức vào khoảng cuối thế chiến thứ hai.  Tại một ngôi làng kia, một toán binh sĩ Mỹ tình nguyện giúp dân chúng xây dựng lại cuộc sống của họ. Nhưng họ không xin thực phẩm, thuốc men, nông cụ, mà chỉ xin tái thiết một pho tượng bị đổ nát vì bom đạn.
 
          Từ nhiều thế kỷ qua, pho tượng là niềm tự hào của họ, giờ đây, chỉ còn là những mảnh vụn. Liệu những binh sĩ Mỹ có thể làm được công việc khó khăn này không ?  Qua bao ngày tìm tòi vất vả, họ cũng đã nhặt lại được từng mảnh và dựng lại pho tượng, chỉ có điều là có hai phần trong pho tượng họ không thể tìm thấy.
 
          Họ dựng pho tượng lên giữa quảng trường ngôi làng và phủ lên bằng tấm vải lụa, tấm vải này chỉ được mở ra bằng một nghi thức do ông Thị trưởng chủ tọa.
 
          Khi dân chúng trong làng tề tựu đông đủ, ông Thị trưởng đọc diễn văn cảm ơn các binh sĩ Mỹ và cho mở tấm lụa ra. Mọi người ồ lên với tất cả kinh ngạc, vì pho tượng tuyệt đẹp nhưng lại không có đôi cánh tay. Dưới chân pho tượng mọi người đọc được hàng chữ lớn :”Ta không có tay, các ngươi có thể cho ta mượn cánh tay của các ngươi không” ?
 
          Trước khi về trời, Chúa Giêsu, qua các Tông đồø, đã trao phó cho Hội thánh tiếp tục sứ mạng của Ngài cho đến tận thế. Vì vậy, Hội thánh chính là Chúa Kitô nối dài. Và một cách nào đó, Chúa Kitô đang xử dụng đôi cánh tay của Hội thánh để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài. Chúng ta cũng là cánh tay nối dài của Hội thánh nên chúng ta cũng phải cộng tác vào trong việc cứu rỗi này.
 
 
 
II. TA ĐÁP TRẢ.
 
          Chúng ta hãy đáp trả lời kêu gọi của Chúa Giêsu bằng cách SỐNG ĐỜI CHỨNG NHÂN. Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, nhưng cách rao giảng Tin mừng hay nhất là sống đời chứng nhân vì nó phù hợp với hết mọi người, mọi nơi, mọi lúc.  Qua kinh nhgiệm, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói :”Người thời nay không thích những thầy dạy cho bằng những chứng nhân”.
 
          Người ta thường nói :”Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình”, trăm nghe không bằng một thấy. Nghe thì biết vậy, người ta vẫn còn bán tín bán nghi. chưa có tính cách thuyết phục cao.  Ví dụ : người ta thường dọa trẻ con là đừng có khóc kẻo “ông Ba Bị chín quai, mười hai con mắt, bắt trẻ bỏ bồ” ! Còn bé chúng ta tin lắm, nhưng làm gì có ông Ba Bị như thế !  Khi đã nhìn thấy, trông thấy rõ ràng, khi đã “kiến kỳ hình” một người hay một sự việc rồi thì người ta không thể phủ nhận được
, người ta phải chấp nhận một sự kiện ngay cả khi lòng không muốn.
 
          Chúng ta có thể sống “đời chứng nhân” theo hai phương diện tích cực và tiêu cực :
 
          1.  Phương diện tích cực.
                                               
a)   Trở nên muối đất và ánh sáng thế gian.
 
 Ta là Kitô hữu, đó là người được mang danh Chúa Kitô. Nhưng người ta có thể thắc mắc có thật là có Chúa Kitô không hay chỉ là một huyền thoại ?  Hay ít ra, người ta không biết Chúa Kitô như thế nào, cần chúng ta phải phác họa cho họ đôi nét về Chúa Kitô. Chúng ta có thể họa cho họ đôi nét trong đời sống được không ?
 
          Người Kitô hữu có nhiệm vụ họa lại khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô và cả con người của Ngài bằng đời sống cụ thể của mình để người ta có thể có vài hình ảnh tốt đẹp về Chúa Kitô. Chúng ta phải thể hiện con người của Đức Kitô ra trong con người của chúng ta để chúng ta dám nói như thánh Phaolô :”Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Chúa Kitô” ! Nói như thế là thánh Phaolô có ý nói rằng Ngài đã được  “Kitô hóa” rồi,  vì Ngài đã nói :”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà Chúa Kitô sống trong tôi”.
 
          Muốn được thế, cuộc sống của người Kitô hữu phải trở nên muối đất và ánh sáng cho trần gian.  Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ :”Chính anh em là muối cho đời, nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.  Chính anh em là ánh sáng trần gian... Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm. mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,13-16).
 
 Hai hình ảnh xem ra khác nhau nhưng đều giống ở sức tác động tốt :
          - Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường chung quanh nó khỏi hư, lại mặn mà.
          - Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi sáng cho người ta biết đường đi, nhận rõ các đồ vật.
          Cả hai đều phải chịu sự hao mòn hy sinh thì mới gây tác động : muối tan dần đi, ngọn đèn nến ngày càng lụn xuống.
          Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt : nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa và phải bị vất đi.
 
          Thân phận và hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu khác nhau : có người âm thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.
 
          Chính con người của ta phải thể hiện hình ảnh Chúa Kitô ra trong đời sống hằng ngày, để thực sự con người ta là tấm gương phản chiếu Chúa Kitô cho người khác.  Qua cuộc sống tốt đẹp của ta, người ta sẽ thấy Chúa tốt đẹp như thế nào.  Nếu ta đã tốt đẹp như thế, thì Chúa còn tốt đẹp biết dường nào. Đúng là :
                                      Xem mặt mà bắt hình dong,
                                    Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
                                                  (Ca dao)
 
                                      Truyện : nhà bác học Louis Pasteur.
          Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, người sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tầu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong sự cầu nguyện.
          Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng không còn đủ kiên nhẫn, anh ta mới lên tiếng :
          - Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à ?
          Cụ già thản nhiên trả lời :
          - Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao ?
          Người sinh viên cười ngạo mạn quả quyết :
          - Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao mà tôi có thể tin vào những chuyện ấy được. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hãy quẳng chuỗi hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
          Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên :
          - Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều này không ?
          Người sinh viên hăng hái đề nghị :
          - Ông cứ cho địa chỉ, tôi sẽ gửi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học.
          Cụ già từ từ lấy trong túi áo ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi : Louis Pasteur, Hàn lâm viện khoa học Paris.
 
b)   Gia đình củng cố ơn kêu gọi.
 
          Trước tiên gia đình hãy cầu nguyện cho ơn kêu gọi. Mỗi ngày hãy thêm vào trong giờ kinh tối lời nguyện cầu xin cho ơn kêu gọi. Điều này có tác dụng như một lời nhắc nhở tế nhị cho con em chúng ta cân nhắc ơn gọi đi tu.
 
          Tiếp đến, mỗi gia đình vun trồng ơn kêu gọi Linh mục và tu sĩ, lo cho gia đình của mình  có nhiều người tận hiến đi truyền giáo, như gia đình ông bà Martin cha mẹ của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu. Để được vậy cha mẹ hãy lo sống đạo đức, làm gương sáng. Năng gợi tư tưởng dâng mình cho Chúa với con cái  mỗi khi trò chuyện thân mật, sau những buổi kinh tối gia đình.
 
          2. Phương diện tiêu cực.
 
          Phải tránh cách sống  giả hình mà người ta gọi là “tốt mã giẻ cùi”, chỉ có cái mã bên ngoài, còn bên trong thì chẳng ra cái gì. Phải tập sống trung thực với lòng mình, phải làm cho danh và thực đồng nhất, có thì nói có, không thì nói không. Đừng theo lối sống giả hình như bọn Luật sĩ và Biệt phái, chính cách sống giả hình làm cho họ mất uy tín. Phải sống theo  nguyên tắc :
 
                                      Hữu ư trung, xuất hình ư ngoại.
 
          Đừng bao giờ để cho “ngôn hành bất nhất”, đừng để cho cách sống bên ngoài phá hoại đời sống bên trong, làm cho người ta mất tin tưởng. Giả hình sẽ bị lột mặt nạ : cái kim giấu trong túi áo có ngày sẽ lòi ra vì như người ta nói : đi đêm có ngày gặp ma .
 
          Phải đóng đúng vai trò của mình, vai nào đóng đúng vai đó, càng đúng càng hay : vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha ra cha, con ra con... theo như đường lối giáo dục của Khổng Tử :”Quân, thần, phụ, tử”.  Đóng đúng vai trò thì được khen, ngược lại thì người ta chê và làm hỏng vai trò mình đóng, lại còn tác hại đến cả vở kịch nữa.
 
                                      Truyện : Bộ mặt của anh hề.
          Có một gánh xiếc bị hỏa hoạn, ông chủ gánh xiếc sai anh hề chạy đi kêu dân chúng trong làng đến tiếp tay chữa cháy, chẳng vậy lửa bốc to có thể lan sang khu vực họ đang ở. Anh hề vội vàng chạy đi, nhưng anh càng gào thét, múa máy bao nhiêu dân chúng lại càng cười lớn bấy nhiêu, vì họ nghĩ rằng anh hề đang diễn một màn hài hước.
 
          Thấy không ai tin mình, anh hề giật râu, giật tóc và bật khóc nức nở, khiến khuôn mặt đầy phấn sáp của anh  càng lọ lem hơn. Gào thét hết cả hơi sức, nhưng chẳng có ai tin anh, cuối cùng ngọn lửa cháy lớn lan tới thiêu hủy cả làng ra tro.
 
          Sống đạo là truyền đạo. Ai cũng biết rằng không có lời rao giảng nào hùng hồn hơn chứng tá của cuộc sống ; không sứ điệp nào đáng tin hơn là gương sáng. Không gì khôi hài bằng đi loan báo tin buồn với khuôn mặt một anh hề, và cũng không gì khôi hài bằng mang tin vui với bộ mặt u buồn của người đi đưa đám.
 
          Nhiều khi trong cuộc sống đạo, chúng ta cũng mang lấy bộ mặt của những anh hề. Sứ điệp mà chúng ta loan báo không được đón nhận, bởi vì cung cách chúng ta  không phù hợp với nội dung của sứ điệp ấy. Chúng ta loan tin vui cứu độ, nhưng chúng ta có bộ mặt của những người không được cứu rỗi. Chúng ta loan báo tin vui của bác ái, hòa bình, nhưng cuộc sống chúng ta lại chỉ có những hành động của oán thù, ích kỷ, chiến tranh, hận thù  (Chờ đợi Chúa, tr 147).
 
          Để kết thúc, chúng ta hãy nghe một đoạn văn trích từ lá thư thánh Phanxicô Xavie gửi cho thánh Inhaxiô Loyola, bề trên của ngài :
 
“Con thường cảm thấy bị thôi thúc muốn đi đến các đại học Âu châu đặc biệt là đại học Sorbonne ở Paris và la lên như một gã điên cho những kẻ giầu tri thức hơn là thiện chí để yêu cầu họ sử dụng tri thức của họ sao cho có lợi ích... Phải chi trong khi nghiên cứu về các nhân văn họ cũng đồng thời nghiên cứu sổ kế toán mà Thiên Chúa sẽ đòi hỏi họ về tài năng Ngài đã ban cho họ ! Lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động thốt lên :”Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn bảo con làm gì” ?



CHÚA NHẪT 12 THƯỜNG NIÊN A
NGƯỜI TÔNG ĐỒ NHIỆT THÀNH
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Các bài đọc của tuần XI mời gọi các Kitô hữu hãy trở nên sứ giả Tin mừng, đem ơn cứu rỗi của Chúa đến cho mọi người. Tuần này, Chúa báo trước cho chúng ta rằng  muốn làm tông đồ của Chúa phải can đảm, vững tâm, đừng sợ trước những gian nan thử thách.  Nếu Chúa là chủ và là Thầy mà người ta còn xử tàn tệ như thế, thì chúng ta, những tôi tớ, những môn đệ của Chúa cũng không tránh khỏi con đường đó.  Nhưng Chúa khuyên chúng ta đừng lo âu sợ hãi vì Thiên Chúa quan phòng luôn nâng đỡ, che chở và hộ phù mọi sứ giả của Chúa. Hãy có một đức tin vững vàng và một đức cậy sáng suốt mà hành động, và phần thưởng của chúng ta đang chờ nếu biết xưng Chúa ra trước mặt thiên hạ.
 
          Người ta thường nói :”Bất nhập hổ huyệt an đắc hổ tử” : không vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Muốn đem Tin mừng đến cho người khác thì người tông đồ phải biết dấn thân và dấn thân cũng gần có nghĩa như liều mạng. Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân. Ngài không nề quản những khó khăn vất vả, những gian nan thử thách, ngay cả đến tính mạng của mình vì ngài luôn tâm niệm :”Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin mừng”.  Các thánh Tông đồ cũng đã dấn thân rao giảng Tin mừng và kết cục là đã nhận lấy cái chết vì Chúa.
 
          Chúa Giêsu luôn nhắc nhở cho cúng ta cái tư tưởng là “Đừng sợ”. Chúng ta có thể tìm thấy từ ngữ  “đừng sợ” 365 lần trong Thánh Kinh. Người Tông đồ chỉ có thể tìm được sự can đảm nếu biết tin cậy phó thác cho Chúa. Chính Ngài sẽ ban ơn đầy đủ để chúng ta có thể hòan thành sứ mạng đã được giao phó. Qua kinh nhgiệm, thánh Phaolô đã khẳng định được tư tưởng trên khi ngài nói :”Omnia possum in eo qui me confortat”.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Gr 20,10-13.
 
          Tiên tri Giêrêmia là một con người đau khổ triền miên. Ông đã lãnh nhận nhiệm vụ tuyên sấm cho người Do thái, một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm: Ông phải vạch tội của dân và cảnh cáo rằng Chúa sẽ trừng phạt họ. Vì thế, dân chúng thù ghét ông và nhiều lần tìm cách hãm hại ông.
          Suốt ngày, Giêrêmia bị coi là trò hề cho họ nhạo báng sỉ nhục, đến nỗi ông phải kêu lên : Ôi, hành hung, ức hiếp... nhưng Thiên Chúa đã ở với ông như tướng quân oai hùng (Gr 20,7-8).  Nhờ thế ông càng tin tưởng vững mạnh, cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa... Ông tiếp tục công bố sứ điệp vừa bằng lời nói, vừa bằng đời sống.
 
          +  Bài đọc 2 : Rm 10,226-33.
 
          Bài đọc 2 hôm nay chỉ là chủ đề phụ, không hoàn toàn ăn khớp với bài đọc 1 và bài Tin mừng, theo đó, thánh Phaolô dạy chúng ta rằng nếu vì liên đới với nguyên tổ Ađam mà chúng ta phải mang tội và phải chết, thì nhờ kết hợp với Đức Kitô, chúng ta sẽ được lãnh nhận ân sủng và sự sống.
          Ân sủng của Thiên Chúa thì lớn lao hơn tội lỗi và sự chết là lương bổng của tội lỗi, khiến cho tội của Adam trở nên “Tội hồng phúc” (bài Exultet) vì nhờ đó mà Ngôi Hai Thiên Chúa mới xuống thế làm người và ở cùng chúng ta.
 
          + . Bài Tin mừng : Mt 10,26-33.
 
          Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng tuần trước : Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng nhưng đồng thời Ngài cũng phải khuyến cáo họ rằng rao giảng Tin mừng không phải là một chuyện dễ dàng, phải dùng đến nội lực , phải can đảm và vững lòng trông cậy trước những khó khăn chồng chất, ngay cả khi bị hãm hại. Đừng sợ ! vì Chúa quan phòng luôn ở bên cạnh để che chở. Đừng sợ vì Cha trên trời đã lưu ý đến cả những con chim chẳng đáng giá gì, cả từng sợi tóc trên đầu từng người. Chúa đã dựng nên tất cả, săn sóc, nuôi dưỡng, bảo tồn  những thứ bé nhỏ như thế, huống chi đối với các tông đồ của Chúa. Ngoài ra, Chúa còn hứa ban thưởng cho những ai dám tuyên xưng Chúa ra trước mặt thiên hạ.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Chân dung người tông đồ
          Bản chất của Kitô hữu là truyền giáo. Mọi người phải trở thành sứ giả Tin mừng.  Sứ mạng thì cao qúi, nhưng thực thi sứ mạng đó rất cam go, việc rao giảng đòi hỏi nơi người tông đồ một số đức tính mà thiếu nó thì không thành công. Dựa theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cho rằng muốn thành công trong việc rao giảng, người tông đồ phải có 3 đức tính sau đây :
 
I. NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI DẤN THÂN.
 
          Đứng trước những công việc khó  khăn, ai cũng thấy ái ngại. Những khó khăn trong việc rao giảng Tin mừng không phải là tình cờ hay do may rủi, nhưng đã được Chúa Giêsu báo trước : “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16).  Con chiên sẽ là mồi ngon cho bầy sói, nguy cơ bị ăn thịt luôn rình  rập. Người tông đồ phải sống hiền lành như con chiên, sẵn sàng hy sinh tất cả cho Tin mừng.
 
          Chúa Giêsu cũng còn cho biết : số phận của tông đồ là bị bách hại, vì nếu Chúa Giêsu mà còn bị bách hại thì làm sao họ lại tha các môn đệ ? Vì thế, Chúa đã dặn trước :”Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em ; anh em chưa đi hết các thành của Israel, thì Con Người đã đến. Trò không  hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,23-24).
 
          Bài đọc hôm nay cũng cho biết tiên tri Giêrêmia phải loan báo cho dân biết những hình phạt mà Thiên Chúa sẽ trút xuống dân. Những lời loan báo này chẳng hay ho gì đối với dân, lại làm cho họ bực mình, nên họ đã chống đối ông, hành hạ ông và muốn giết ông (x. Gr 20,10-11). Các tông đồ nhận trách nhiệm đi rao giảng lời Chúa cho muôn dân, cũng bị người ta chống đối, hành hạ và giết chết.  Các ông đã phải dấn thân vào chỗ nguy hiểm. Số phận các ông cũng giống như Chúa Giêsu.
 
          Những Kitô hữu đầu tiên rất ý thức về sự quan trọng  của việc truyền bá đức tin. Họ mang trong lòng lời dặn dò của Chúa Giêsu trước khi về trời  là hãy rao giảng Tin mừng cho đến tận cùng trái đất. Tuy nhiên, loan báo Tin mừng một cách công khai đã không phải là một chuyện dễ dàng, bởi vì, trong thời gian đó, nhiều cộng đoàn Kitô hữu đã bị bách hại. Giữa những người Do thái, nhiều người xem những người chuyển sang Kitô giáo như là những kẻ phản bội, và tìm cách loại trừ. Làm chứng đức tin trong thời kỳ này, đôi khi là liều mạng sống. Chính vì thế mà một vài người bị cám dỗ sống âm thầm, kín đáo, không dám lên tiếng.
 
          Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân trong việc rao giảng Tin mừng. Ngài nói :”Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”.. Vì vậy, Ngài đã lên đường truyền giáo bất chấp mọi nguy hiểm đang rình chờ. Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô ngài đã cho biết về một số nguy hiểm đã phải trải qua : 5 lần bị đánh 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu một ngày một đêm (2Cr 12,24-25). Ngài phải được gọi là chiến sĩ của Tin mừng, anh hùng của đức tin, của lòng nhiệt thành, bất chấp mọi gian nan thử thách, bởi vì :
 
                                      Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả,
                                      Anh hùng hào kiệt có hơn ai.
                                                (Nguyễn bá Học)
 
          Chúa muốn cho các tông đồ của Ngài phải yêu mến Ngài và dấn thân trọn vẹn trên con đường rao giảng Tin mừng.  Ta thấy khi cưới nhau thì hai người nam nữ hứa hiến thân cho nhau suốt đời. Khi khấn dòng : con hứa với Chúa sống khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh. Khi lãnh chức Linh mục : con có muốn tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa vì phần rỗi mọi người không ?
          - Thưa con muốn.
          Một sự dấn thân trọn vẹn : Chúng ta cùng nhau sống mãi tới già. Đó là một trong những điều cao cả của cuộc sống con người.  Những kẻ ngại ngùng dấn thân trọn vẹn sẽ chỉ có một đời sống nghèo nàn  (André Sève, Sương mai, tr 77).
 
II. NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI CAN ĐẢM : ĐỪNG SỢ.
 
          Con người không biết sợ được coi là một người can đảm. Nói theo kiểu bình dân, người ta gọi đó là người  “có gan cóc tía”. Con người dám liều mạng vì lý tưởng cao cả, không gì có thể lay chuyển được chí khí của họ., không khó khăn nào có thể làm cho họ chùn bước hay bỏ cuộc. Tấm gương sán lạn của thánh Phaolô tông đồ đã chứng tỏ điều đó. Cuộc hành trình truyền giáo của Ngài đã phải trải qua những bước thăng trầm, nhưng không gì làm cho ngài chùn bước :
 
                                      Cũng có lúc mưa dồn sống vỗ,
                                      Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong,
                                      Chí những toan xẻ núi lấp sông,
                                      Làm nên đấng phi thường đâu đấy tỏ.
                                                (Nguyễn công Trứ)
 
          Nhưng bình thường, con người có nhiều nỗi lo sợ : sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thấn  v.v…   Cái sợ làm tê liệt con người : không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống... Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ : sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin mừng... Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng bảo cho các tông đồ :”Đừng sợ”. Ngài đã thấy trước bao nhiêu gian nan khốn khó đang chờ đón các ông khiến các ông nản lòng.  Hãy can đảm lên vì đã có Chúa ở bên. Các ông hãy nhớ lại lần vượt biển bị sóng gió đánh tơi bời, tưởng chừng thuyền chìm tới nơi.  Nhưng Chúa Giêsu đã can thiệp, sóng gió phải vâng lời Ngài, biển lại trở nên tĩnh lặng như tờ.  Ngài khuyên bảo các ông một mặt dựa vào Chúa, một mặt cứ vững tay chèo lái con thuyền đời mình :
                                                Chớ thấy sóng cả mà lo,
                                      Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng.
                                                        (Ca dao)
 
          Chúa Giêsu bảo :”Đừng sợ vì không có gì che giấu mà sẽ không bị tỏ lộ ra, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết”.  Ý nghĩa trong câu này là chân lý sẽ thắng. Châm ngôn La tinh có câu :”Chân lý là vĩ đại và chân lý sẽ thắng”.  Đức thánh Cha Gioan Phaolo II hay nhắc đến đề tài này trong các huấn dụ của ngài.
 
          Khi vua Giacôbêâ VI hăm dọa treo cổ hoặc lưu đầy André Meville, ông khảng khái đáp :”Vua không thể treo cổ hoặc lưu đầy chân lý”.  Khi Kitô hữu chịu khổ và hy sinh, thậm chí chết vì đạo, thì phải nhớ rằng một ngày kia mọi sự được phơi bầy, lúc đó quyền lực của kẻ bách hại và sự anh dũng của người theo Chúa sẽ được minh giải và mỗi người nhận đúng phần công của mình.
 
          Người tông đồ nói điều mình đã nghe Chúa Giêsu và phải nói lại dù phải chuốc lấy oán ghét của người đời, thậm chí có thể toi mạng.  Người đời không ưa chân lý vì “chân lý như ánh sáng chiếu vào mắt đau” (Diogens). Một lần giáo sĩ Latimer đang giảng, có cả vua Henri dự, ngài biết mình sắp nói một điều vua không ưa. Ở trên tòa giảng ngài nói lớn như nói với chính mình :”Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có vua Henri đấy”. Kế đó, ngài ngưng, rồi nói tiếp :”Latimer, Latimer. Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có Vua của các vua đang ở đây”.
 
          Người giảng đạo đem một sứ điệp nói cho loài người, nhưng phải nói trong sự hiện diện của Thiên Chúa.   Khi chôn Gioan Knox, người ta nói về ông :”Đây là nơi yên nghỉ của một người kính sợ Thiên Chúa đến nỗi không bao giờ sợ hãi trước mặt loài người”.  Chứng nhân Kitô là người không biết sợ, vì biết sự phán xét đời đời sẽ điều chỉnh sự phán xét tạm thời. Người truyền giảng là người lắng nghe cách cung kính, và nói với lòng can đảm, vì xác tín rằng vô luận nghe nói đều ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
 
          Các tín hữu thời sơ khai đã gặp bao nhiêu khó khăn, nhưng họ tỏ ra luôn vững tin, không nao núng trước những thử thách. Sử gia Tertullianô đã viết về họ :
“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa. . Câu :”Kẻ muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cũng như bị cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình.  Hèn gì mà trên tín trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu.Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường”.
 
          Người làm tông đồ phải được huấn luyện, tập cho mình biết hy sinh chịu đựng mà không kêu ca phàn nàn.  Người làm tông đồ hãy theo cách huấn luyện thanh niên ở thành Spartes : Hằng năm, một số trẻ em thành Spartes cử hành lễ CHỊU ĐỰNG, các em phải chịu đựng cho roi quất vào mình, máu chảy, thịt rách nhưng không được thối chí hay khóc lóc.  Châm ngôn của họ là đau không khóc, đói không than. Ngoài ra, các em phải tự mưu sinh ở trong rừng một thời gian, chiến đấu với thú rừng để sinh tồn .
 
           Chớ gì người tông đồ tỏ ra kiên trung, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để một lòng một dạ theo chân Chúa dù phải đòn vọt, gông cùm hoặc phải nhận lấy cái chết :
 
                                                Chân xiềng cổ lại đeo gông,
                                      Chết anh anh chịu, anh không buông nàng.
                                                          (Ca dao)
 
                                      Truyện : Gương can đảm.
          Các vị Truyền giáo đã kể lại một nhân chứng đức tin như  sau :
          Ghèssèssén là một bé trai Eùthiopie 12 tuổi, tính tình luôn vui ve ûvà sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Em thuộc một gia đình quí tộc  lâu đời trong tỉnh Agamie. Ba em, thủ lãnh và khô khan. Oâng không bao giờ chấp nhận kẻ khác bất tuân lời ông hoặc chống lại ông.
          Lớn lên em được học ở trường Công giáo Gouala. Tâm hồn em đã bị đánh động bởi các nghi lễ, các lời giảng dạy của các vị Truyền giáo, nhất là gương sống đạo của các em Công giáo sáng nào cũng đi dự lễ, rước lễ. Em rất thích đạo Công giáo, ước ao được rước lễ. Nhưng cac Cha Thừa Sai chưa cho em nhập đạo, vì cần chờ ý kiến của ba má em.
 
          Ngày nọ, em bị Ba gọi về. Em hứa với chúng tôi sẽ trở lại ngay ngày hôm sau. Nhưng em đã không xuất hiện lại mấy ngày nay. Chúng tôi đã nghĩ người ta đã dùng vũ lực để giữ em lại. Tệ hơn người ta bắt em  từ chối ý muốn theo đạo. Và đây là câu chuyện mà em đã kể cho chúng tôi :
 
          Con đến gặp Ba con, cùng đi với con có Mẹ con. Ôâng ôm hôn con, và con hôn đầu gối Ba theo như tập tục ở xứ con. Lúc ấy, ông nói với một giọng vuốt ve :
- Ta và Mẹ đã quyết định cưới vợ cho con, ta chỉ yêu cầu con một chữ : “Dạ”.
Con đã trả lời :
- Không.
Cha con nói gằn giọng :
- Mày nói gì ?
- Con nói “Không”, vì con muốn được học ở nơi các Cha Cố.
- Im đi ! Ta muốn mày cưới vợ. Biết đâu mày còn muốn theo đạo Công giáo!
- Thưa cha, con đã là Công giáo trong tâm hồn rồi.
Nghe các lời này, ông nổi cơn tam bành, hét to :
- Đồ bị chúc dữ ! Mày, con của Rèdada, lại muốn trở thành Công giáo ! Ta thích mày chết đi còn hơn !
Ôâng nghiến răng, nắm tay đấm. Ôâng dữ tợn và hung hăng như một con sư tử. Dì con và các binh lính la to :”Phải phạt nó”.
Mẹ con thì im lặng. Ba con lặp lại :
- Hãy bỏ tôn giáo đó đi ! Nếu không, tao giết mày như một con vật.
- Con không thể bỏ đạo thánh được, thà chết còn hơn. Ba là Ba của thân xác con, nhưng chính Chúa là Cha của linh hồn con.
 
Thế là một trận đòn với biết bao lằn roi cây, roi da hà mã bủa lên thân xác con rất đau đớn do Ba con và các lính của ông đánh đập. Cuối cùng, đao phủ của con thấm mệt và dừng tay.
Ba con lại hỏi một lần nữa :
- Có bỏ đạo Công giáo không ?
Con trả lời :
- Không, thà chết…
          Trải qua mấy ngày liền, bị đánh đập, cho ăn thiếu thốn, trói buộc. Ba con vẫn giữ vững lập trường bắt con bỏ đạo. Ôâng hứa hẹn, dụ dỗ, đe dọa… Nhưng tất cả đều vô ích !
         
          Ngày 7/9 vọng lễ Sinh nhật Đức Mẹ, cậu can đảm nói với Ba cậu :
- Cho con đến Gouala, nhà các Cha.
          Vị thủ lãnh Rèdada không còn biết làm gì khác. Ôâng đồng ý. Trời còn chưa sáng, em đã hăm hở lên đường về lại Gouala.
         
          Một niềm vui lớn lao cho em và cho chúng tôi. Chúng tôi băng bó các vết thương cho em. Em thành khẩn lặp lại ý muốn  chịu phép Rửa tội và Rước lễ. Em nói :
-          Các Cha còn sợ con trở thành kẻ chối đạo nữa sao ? Xin đừng sợ ! Con sẽ không phản bội Chúa Giêsu của con đâu ! Vì Ngài, con sẵn sàng  dâng cả mạng sống con.
 
III. NGƯỜI TÔNG ĐỒ LUÔN TRÔNG CẬY VÀO CHÚA.
 
          Trên bước đường truyền giáo, người tông đồ không còn biết trông cậy vào ai, chỉ còn biết trông cậy vào sự quan phòng của Chúa. Tuy không thấy Chúa nhưng phải tin rằng lúc nào cũng có cánh tay của Chúa đang hướng dẫn và hộ phù.
 
          Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống :”Ta hằng ở với con” (Gr 1,10) hoặc “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 26,20).
 
          Người tín thác vào Chúa luôn tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không có gì xẩy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa :”Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi”(bài Tin mừng hôm nay).
 
          Người phó thác cho Chúa xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Một người cha tốt lành lo cho con tất cả, đem đến cho con những gì tốt lành nhất :”Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì”(Mt 6,32).
                                     
                                      Truyện : Mối dây liên lạc với Thiên Chúa.
          Một em bé chơi diều, thả con diều lên cao     đến độ con diều trở nên như một chấm nhỏ khó có thể trông thấy được. Thấy tay em cầm đầu dây và mặt cứ ngước lên trời, một người qua đường hỏi em :
          - Em đang làm gì vậy ?
          Em bé trả lời :
          - Cháu đang chơi thả diều.        
          Người kia ngạc nhiên hỏi tiếp :
          - Diều đâu, tôi không thấy gì ở trên trời cả.
          Em bé thưa lại :
          - Bác không trông thấy, nhưng cháu chắc chắn là con diều của cháu đang ở trên đó, vì cháu còn giữ được đầu dây trong tay cháu đây mà.        
          Thiên Chúa cũng thế, người ta không trông thấy Ngài, nhưng có thể cầm được những mối dây, để cảm được sự hiện diện và tình yêu thương của Ngài.
                             (Hạt giống âm thầm, tr 196)                       
 
          Chúng ta hãy tiếp tục triển khai lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Hãy tìm hiểu câu nói đầy ý nghĩa này :
                             Thiên Chúa đóng kín cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ.
          Đây là câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống của đạo sâu xa. Thiên Chúa đóng kín cửa chính đó là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc ta đương đầu với thử thách khó khăn. Lúc đó chúng ta nhớ rằng : Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
 
          Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn, và trước đó ta không ngờ những kinh nghiệâm đau thương tiêu cực, mà ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa, để mời gọi ta bước ra một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị ta sẵn sàng đón nhận những hồng ân mới.
 
          Nhìn lại cuộc sống, có thể mọi người chúng ta sẽ cảm nghiệm được những giây phút, Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta.
 
          Khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, thì Ngài sẽ mở ra cửa sổ, chúng ta hãy nhìn trong những biến cố đau thương, tiêu cực xẩy ra trong cuộc đời, với tinh thần tích cực lạc quan và sự tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa. Chính những lúc ta gặp thử thách đen tối, là lúc ta cần tin tưởng phó thác vào Chúa nhiều hơn nữa. Hãy ngắm nhìn thấy những cánh cửa sổ Thiên Chúa mở ra cho cuộc đời mình.  Mỗi người chúng ta cần sống trong sự hiện diện của Ngài, cần lưu hướng về Ngài trong việc thực hành cầu nguyện đối thoại với Ngài. Khi gặp thử thách đau thương, chúng ta không nên giảm bớt hay bỏ quên việc cầu nguyện, chạy đến tiếp xúc với Thiên Chúa.
 


CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN A
BIẾT ĐÓN NHẬN THA NHÂN
 
A.DẪN NHẬP.
 
Các bài đọc Chúa nhật hôm nay nhắc ta hãy lưu tâm đến việc tiếp nhận tha nhân, nhất là đón nhận những người nghèo hèn, bé mọn, cô thế cô thân, bị bỏ rơi... Đón tiếp tha nhân chính là đón nhận Chúa Kitô. Muốn đón tiếp phải có lòng yêu thương, thành thật, hy sinh, từ bỏ, tế nhị, cởi mở. Biết đón tiếp là bước khởi đầu của tình yêu. Chúa Giêsu hứa sẽ ban thưởng bội hậu cho những ai có lòng quảng đại biết tiếp rước những người nghèo hèn, làm phúc bố thí cho họ dù chỉ một bát nước lã.
 
Qua bài đọc sách Các Vua, một bà già son sẻ sang trọng miền Sunêm rất giầu lòng quảng đại đã mời tiên tri Eâlisê dùng bữa khi tiên tri đi ngang qua. Do lòng quảng đại bác ái đó, bà đã khám phá ra  đây là người của Thiên Chúa. Bà lại càng trân trọng tiếp đãi nồng hậu hơn : dọn phòng trên lầu, có giường, có ghế, có đèn…  Qua nghĩa cử “cho khách đỗ nhờ”, bà ta đã được đền đáp xứng đáng : sẽ có được con trai trong lúc hai ông bà đã cao niên.
 
Sự đón tiếp cần phải với tấm lòng.  Đón tiếp vào nhà, với tinh thần chỉ có thể thực hiện  nếu có sự đón tiếp với tấm lòng chúng ta, vì nói cho cùng, đón tiếp là tự hiến dâng : đấy là biết từ bỏ sự thỏai mái riêng tư, sự yên tĩnh của mình để lo cho người khác.  Một sự hiến dâng như thế chỉ có thể thực hiện  theo lệnh của con tim chúng ta.  Sự hiến dâng này chỉ đầy đủ ý nghĩa nếu nó biểu hiện sự đón tiếp từ trong lòng, làm cho tình thương nên trong sáng và bất vụ lợi. Chúa Giêsu đã nói :”Kẻ nào đón tiếp các ngươi là đón tiếp chính ta”.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
+ Bài đọc 1 : 2V 4,8-11. 14-16
 
Trên đường sứ mạng, ngày kia tiên tri Êlisê ghé thăm nhà một người đàn bà ở Sunêm. Bà này tỏ ra rất qúi trọng nhà tiên tri vì bà coi ông là vị thánh của Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà đã dọn cho tiên tri một phòng ở trên lầu với đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào tiên tri cũng có thể đến trú ngụ.
 
Đáp lại tấm thịnh tình của bà, tiên tri đã cầu khẩn Thiên Chúa ban tặng cho bà một đứa con  vì bà hiếm muộn và chồng bà đã già. Lời cầu xin của ông đã được chấp nhận. Ông nói với bà :”Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng” (2V 4,16).
 
+ Bài đọc 2 : Rm 6,3-11.
 
Bài đọc 2 chỉ là chủ đề phụ. Trong thư gửi cho tín hữu Rôma, thánh Phaolô dạy cho các tín hữu biết rằng nhờ Phép Rửa chúng ta đã cùng được mai táng với Đức Kitô, và sẽ được cùng với Ngài sống lại hiển vinh để hiệp thông một cách nhiệm mầu vào chính sự sống của Thiên Chúa :”Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết  đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô”(Rm 6,11).
 
+ Bài Tin mừng : Mt 10,37-42.
 
Đức Giêsu đưa ra một điều kiện rất khắt khe đối với những người muốn bước theo Ngài. Theo Chúa thì phải yêu mến Ngài trên hết, trên cả cha mẹ vợ con và trên cả thân mình. Như vậy Ngài có ý nói theo Ngài thì không được để bị ràng buộc bởi gia đình.
 
Ngoài ra, Chúa đòi chúng ta yêu mến Ngài hơn tất cả trong việc vác thập giá theo Ngài và biết đón tiếp người khác nhất là những người bé mọn. Điều này đòi hỏi người theo Chúa phải quên mình. Quên mình là từ bỏ những gì liên quan đến con người và mọi liên hệ của bản thân từ sự sống cho đến tình cảm.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                      Thương người có mười bốn mối
Mỗi sáng Chúa nhật chúng ta đều đọc kinh “Thương người có mười bốn mối : 7 mối qui về thể xác và 7 mối qui về tinh thần , nghĩa là thương con người toàn diện.  Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta  phải lưu tâm tiếp đón mọi người, không những phải tiếp đón các sứ giả của Chúa một cách cẩn trọng mà còn đón tiếp tất cả những kẻ bé mọn vì tất cả đều là môn đệ của Chúa.
 
I. BÀI HỌC CHÚA DẠY HÔM NAY
 
Nhà triết học hiện sinh Pháp, ông Jean Paul Sartre, có nói một câu làm cho chúng ta ngạc nhiên :” L’enfer c’est les autres”: Tha nhân là hỏa ngục đối với ông. Thật là một câu nói quái gở vì nó đi ngược hoàn toàn với Tin mừng.
 
Tha nhân là ai ? Họ ở đâu ? Làm thế nào tìm được họ ?  Thưa, họ là mọi người ở quanh chúng ta, chúng ta có thể tìm thấy dễ dàng, có thể động chạm đến họ.  Nếu chúng ta hỏi Chúa Giêsu : người khác hay tha nhân là ai ? Chúa Giêsu sẽ trả lời ngay :”Tha nhân chính là Ta”bởi vì Ngài đã khẳng định :”Sự gì ngươi làm cho một người bé mọn nhất vì danh Ta, là làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
 
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đòi buộc các môn đệ của Chúa phải yêu mến Chúa trên hết, hơn cả cha mẹ anh em, ngay cả mạng sống của mình. Đây là một đòi hỏi rất khắt khe và dứt khoát.  Sau đó, Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy tiếp đón các môn đệ của Chúa.
 
Trước hết để xác định sự duy nhất giữa Đấng sai đi và người được sai đi :”Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.Sau đó, để phân biệt chi tiết sự đón nhận theo ba mức độ giảm dần một cách nghịch lý : các  “tiên tri”, những “người công chính”, những “kẻ bé mọn”, và long trọng xác nhận họ có tư cách xứng đáng là sứ giả của Phúc âm.
 
Các “tiên tri” hiển nhiên là những Kitô hữu. Họ đã thi hành một tác vụ được chấp nhận trong Giáo hội sơ khai.
Những “người công chính” có lẽ là những thành phần được kính trọng trong cộng đoàn Kitô hữu.
Còn nhữõng “kẻ bé mọn” là các môn đệ, họ chẳng làm gì hơn là “tin” vào Đức Kitô. Họ cũng đáng được trân trọng và yêu mến đặc biệt.
(Fiches dominicales, năm A, tr 215)
         
Tất cả những điều nói trên chung qui lại cũng chỉ nói về “môn đồ Chúa Giêsu”, nghĩa là Kitô hữu thông thường, kẻ được sai đi và liên kết với sứ mạng của Thầy mình. Ngay cả người Kitô hữu khiêm hạ nhất, tức là kẻ “bé mọn”, cũng có thể gán cho mình những điều đã nói trên.
.
Ta phải lưu tâm đến hết mọi người và phục vụ họ  ngay cả trong những chuyện tầm thường nhất, như một ly nước lã. Vì bất cứ một sự lưu tâm nào đối với kẻ “bé mọn” nhất cũng là một sự lưu tâm đối với Chúa. Khi mở rộng lòng mình cho tha nhân như thế, ta sẽ “được sự sống” là điều duy nhất có thể làm cho ta thỏa mãn.
 
II. GƯƠNG SÁNG VỀ SỰ ĐÓN TIẾP.
 
Trong Kinh thánh chúng ta thấy còn ghi lại một vài nét đẹp của sự tiếp đón đáng cho chúng ta bắt chước. Những gương sáng này vẫn luôn giữ được tính cách thời sự của nó.
 
1.  Ông Abraham (St 18).
 
Ông là một con người hiếu khách và quảng đại. Khi thấy ba khách lạ đang đi trong sa mạc nắng cháy, không những ông mời  mà còn năn nỉ họ vào nhà nghỉ và ân cần săn sóc họ một cách chu đáo.  Ba người khách lạ đó là ai ? Đó là ba sứ giả của Thiên Chúa.
 
Đáp lại tấm thịnh tình và lòng quảng đại của ông, ba sứ giả ban cho vợ chồng hiến muộn này một đứa con trai đầu lòng. Đó là cậu Isáac.
 
2.  Một gia đình ở Su-nêm.
 
Khi tiên tri Elia qua Su-nêm, một bà giầu có rất hiếu khách đã mời Elia vào nhà dùng bữa với sự săn sóc tỉ mỉ. Bà còn dọn cho tiên tri một phòng trên gác đầy tiện nghi để tiên tri có thể lui tới tự do.
 
Đáp lại tấm lòng quảng đại của bà, Elia cũng hứa ban cho bà một đứa con vì bà son sẻ :”Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng” (Bài đọc 1).
 
3.  Gia đình ba chị em ở Bêtania.
 
Chúa Giêsu rất thương ba chị em này, mỗi khi đi qua Bêtania, Chúa và các môn đệ thuờng ghé thăm chị em và nghỉ ngơi. Chị cả Matta rất hiếu khách, dọn cho Chúa những bữa ăn ngon. Còn cô em Maria  đón tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà nghe Ngài dạy dỗ, cách đón tiếp này cũng làm cho Chúa rất hài lòng. Còn Lagiarô là đàn ông thì tiếp theo kiểu đàn ông là nhậu và chuyện trò với Chúa.
Đáp lại sự đón tiếp ân cần và thành thực của ba chị em, Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô sống lại sau khi chết bốn ngày.
 
                             Truyện : Một nghĩa cử tuyệt đẹp.
          Một hôm, hòang đế Napoléon của Pháp vào một nhà hàng nọ. Đi theo hòang đế chỉ có một vị sĩ quan tùy viên. Vì không muốn cho ai nhận ra mình là hòang đế, nên Napoléon và viên sĩ quan cận vệ cải trang ăn mặc như thường dân.
 
          Sau khi đã ăn uống xong, bà chủ nhà hàng đến tính tiền. Tổng cộng số tiền phải trả là 14 quan. Viên sĩ quan cận vệ mở chiếc cặp xách tay để lấy tiền. Bỗng mặt ông tái mét đi vì trong cặp không có đồng tiền nào cả.
 
          Thấy thế, Napoléon hiểu ý nói nhỏ với viên sĩ quan :”Đừng lo, để tôi trả cho”. Nói rồi ông móc túi lấy tiền. Nhưng sờ túi trên, túi dưới, túi trước, túi sau, ông không thấy có đồng tiền nào cả. Napoléon nhìn viên sĩ quan nhướng mắt, nhún vai.
 
          Trước tình thế đó, viên sĩ quan nói với bà chủ :
- Thật là rủi ro cho chúng tôi, chúng tôi quên không đem tiền theo. Xin bà vui lòng cho tôi thiếu một tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ trở lại thanh tóan với bà được không ?
Bà chủ nhất định không chịu và dọa rằng nếu hai người không chịu trả tiền ngay, thì bà sẽ gọi cảnh sát.
Một anh bồi bàn theo dõi công việc từ đầu cảm thông với hai người khách nên nói với bà chủ :
- Quên đem tiền trong túi, đó là điều thường xẩy ra. Vì thế, xin bà đừng gọi cảnh sát làm gì ! Theo tôi thì hai ông đây là người rất thật thà, không có ý lường gạt đâu.
Nghe anh bồi bàn nói, bà chủ vẫn không chịu và cứ nằng nặc đòi kêu cảnh sát.
Thấy thế, anh bồi bàn móc túi lấy ra 14 quan trao cho hai người khách và nói :”Đây tôi cho hai ông mượn để thanh tóan với bà chủ”.
Thế là nhờ anh bồi bàn  mà Napoléon và viên sĩ quan mới có thể rời khỏi nhà hàng.
Một lát sau, viên sĩ quan tùy viên trở lại nhà hàng. Ôâng gặp lại bà chủ và nói :
- Bà đã tốn kém mất bao nhiêu để tạo lập nhà hàng này ?
Bà chủ trả lời : 30.000 quan..
Viên sĩ quan mở chiếc cặp da xách tay lấy ra 30.000 đặt trên bàn và nói :
- Vâng lệnh của chủ tôi là hòang đế Napoléon, tôi xin bà sang lại nhà hàng này cho anh bồi bàn, người đã giúp chúng tôi đang lúc chúng tôi kẹt không có tiền.
 
III. CÁCH THỨC ĐÓN TIẾP
 
Trong việc tiếp đón, người ta phải chú ý đến phương diện vật chất và tinh thần. Phương diện nào cũng quan trọng để làm cho khách được hài lòng, nhưng phương diện tinh thần thì quan trọng hơn.
 
1.  Phương diện vật chất.
 
Khi đón khách vào nhà, ai cũng muốn khách được hài lòng : dọn dẹp nhà cửa, trang bị đồ dùng cần thiết, cơm nước ngon lành...  Phần trang bị vật chất càng đầy đủ càng nói lên lòng hiếu khách, nếu không sợ khách phê bình “khẩu thiệt đãi chi”.  Gia đình ở Su-nêm chẳng những đón tiếp tiên tri Êlia mà còn dọn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới đã có chỗ trọ.  Dĩ nhiên, mến khách thì càng tốn kém, nhưng đó là điều kiện bắt buộc.
 
2.  Phương diện tinh thần.
 
Khía cạnh tinh thần trong việc đón tiếp khách mới là quan trọng.  Người đời thường nói :”Người ta thèm lòng chớ không thèm thịt” hoặc câu khác :”Cách cho thì qúi hơn của cho”.  Cách tiếp đón qúi ở chỗ thành thực, quảng đại và cởi mở, chú trọng đến con người hơn là của cải.  Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ. mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.
 
Đối với hai trường hợp đón tiếp khách ở trên, tại sao những chủ nhà ấy quảng đại đón tiếp khách ?  Thưa, vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác.
 Abraham lo cho ba người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy sức.
Gia đình ở Su-nêm lo sợ tiên tri Êlia phải bơ vơ nơi miền đất lạ, không có chỗ nương nhờ trong hoàn cảnh khó khăn đó.
Gia đình ở Bêtania thì muốn dành cho Chúa Giêsu và môn đệ có chỗ nghỉ ngơi sau những ngày giờ làm việc mệt nhọc. Gia đình kiếm cho Chúa có chỗ dừng chân mỗi khi đi qua Bêtania.
 
IV. PHẦN THƯỞNG DÀNH CHO SỰ ĐÓN TIẾP
 
Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát : mất thì giờ, mất tiền của, mất công... Nhưng tất cả sẽ được Chúa thưởng công cho ở đời này hay đời sau.
 
Trở lại ba việc đón tiếp trên, phần thưởng của lòng quảng đại ấy là gì ? Là sự sống : hai đứa con đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Lagiarô đã chết bốn ngày.  Xét cho cùng,  ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
 
Theo bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã khẳng định không có việc gì làm cho người khác mà bị bỏ quên, Chúa ghi nhớ tất cả và sẽ thưởng công cho, mặc dù việc ấy rất nhỏ nhặt :”Kẻ nào cho một trong những kẻ bé mọn này uống chỉ một bát nước lã thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”.
 
Đến ngày phán xét, ngày thưởng phạt đích đáng, Chúa Giêsu sẽ nói với mọi người chúng ta :”Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).  Ngược lại là chúng ta đã không làm cho Chúa và sẽ phải lãnh hình phạt đời đời
.
Truyện : một chén ân tình
Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính như sau :
Vào sáng một mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar Singh và một người bạn  du lịch qua miền núi Bắc Ấn độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.
 
Đang lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, họ lại thấy một người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.
Chạnh lòng thương, Sadhu ở lại bên cạnh kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân con người sống dở chết dở ấy. Với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết.  Hơi ấm của hai thân thể hoà quyện lấy nhau khiến người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.
 
Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết lạnh cóng bên vệ đường.  Họ càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng nay.
(Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, tr 85)
 
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn đưa ra một điều kiện nghịch lý cho các môn đệ Người theo :”Ai giữ mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,39).  Cứ thực hành đi rồi sẽ thấy nó không nghịch lý nữa. 
 
Chúng ta thấy nghĩa cử yêu thương của Sadhu đã minh chứng hùng hồn cho lời nói của Chúa Giêsu ở trên. Bạn của Sadhu đã cố giữ lấy mạng sống mình nên đã mất mạng, còn Sadhu liều mạng “vì anh em” nên đã được sống.  Một người không có khả năng từ bỏ mình vì anh em thì họ cũng không có khả năng yêu thương. “Phải liều mất đi” để “tìm thấy lại”. Đó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã trải qua để nêu gương cho chúng ta. Người đã sẵn lòng chịu chết ô nhục để rồi sống lại vinh quang cũng để nói lên lời yêu thương con người.
 
          Mỗi ngày Chúa nhật đọc kinh “Thương người có 14 mối”, chúng ta hãy xem lại con người chúng ta còn thiếu sót những mối nào trong kinh ấy, hãy cố gắng thực hiện tất cả. Mỗi lần chúng ta làm cho tha nhân điều gì thì đó là chúng ta đang làm cho Chúa dù cho người bé mọn chỉ một chén nước lãø thôi.
 
          “Một chén nước lã” đối với Chúa là  “một chén ân tình”. Điều đó cho thấy, Thiên Chúa không hề bỏ sót một nghĩa cử yêu thương nào, cho dù chỉ là nghĩa cử bé nhỏ âm thầm, một khi đã được khoác vào tấm áo tình yêu thì nó trở nên vô cùng cao cả. Tình yêu chính là trọng tâm của đời sống Kitô hữu.


CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN A
HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG
                             +++
A. DẪN NHẬP.
 
          Ngày nay, người ta say mê quyền lực và muốn khuất phục người khác dưới quyền mình, muốn sai khiến người khác theo ý mình.  Con người có khuynh hướng trở nên kiêu ngạo. Người ta co ùdị ứng khi nói đến lời dạy “ hiền lành khiêm nhường “của Đức Kitô, nhất là khuyên chúng ta hãy thực hiện đức tính này.
 
          Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta cần đi bước theo chân Chúa Kitô.  Người đã đến chia sẻ kiếp người của chúng ta, Người đã đi đến mức cùng của việc tự hạ : sống chung thân phận với người nghèo khổ, như người tôi tớ rốt hết. Hiền lành và khiêm nhường là những đức tính mà Chúa Giêsu đã thực hiện trước và khuyên các môn đệ hãy đem ra thực hành :”Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
 
          Thực ra, truớc Chúa Giêsu mấy trăm năm, nhà hiền triết Lão Tử cũng đã đưa ra chủ trương:”Nhu nhược thắng cương cường” : lấy mềm dịu thắng cứng rắn (nhu thắng cương, nhược thắng cang). Đây là một chủ trương mới lạ, khó được chấp nhận, chỉ những người có tâm hồn cao thượng mói hiểu và chấp nhận được chủ trương này. Hôm nay chúng ta thấy lời khuyên của Chúa Giêsu rất gần với chủ trương của Lão Tử. Và trong thực tế, có rất nhiều người đã thực hiện lời khuyên của Chúa Giêsu. Họ đã thành công và đã để lại tấm gương sáng muôn đời cho nhiều người.  Chúng ta hãy nhớ lại lời khuyên của Chúa Giêsu trong “Tám mối phúc thật” :”Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ dẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Dcr 9,8-10.
 
          Trong thời Chúa Giêsu, người ta đang trông chờ Đấng Messia đến cứu dân Người với hình ảnh là một  Đấng Messia đầy quyền uy, dùng võ khí để tái lập hoà bình. Nhưng tiên tri Giacaria lại loan báo cho dân thành Giêrusalem biết : Đấng Messia không đến trong quyền uy với võ khí hủy diệt, nhưng đến với một thứ võ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”.
 
          Theo đó, Đấng Messia sẽ đến cũng là một vị Vua nhưng là vị Vua có những đức tính khác biệt :
          . Ngài không phải là vị vua chiến tranh nhưng là hòa bình.
          . Ngài rất khiêm nhường, không ngồi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
          . Ngài rất hiền lành : không muốn giết chết mà chỉ muốn cứu sống.
 
          Đức Giêsu sẽ hoàn tất việc mong chờ này vào ngày lễ Lá, khi Người vào thành Giêrusalem trên lưng một con lừa, như những người nghèo.
 
 
 
          +  Bài đọc 2 : Rm 8,9.11-13.
 
          Đây là đề tài phụ. Thánh Phaolô nhắc cho chúng ta rằng khi được chịu phép rửa tội, chúng ta thực sự  đã trở nên môn đệ Chúa Kitô và để phục sinh với Người chúng ta phải sống theo thần khí của Người (tức là Thánh Thần) chứ đừng “sống theo xác thịt’ là mọi khuynh hướng xấu sẵn có trong chúng ta.
         
          Ai sống đời sống cũ tức là sống theo xác thịt sẽ bị dẫn đến sự chết. Còn ai sống đời sống mới tức là sống theo Thánh Thần sẽ được dẫn tới sự sống vĩnh cửu.
 
          +  Bài Tin mừng : Mt 11,25-30.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta có thể tìm thấy hai ý tưởng chính :
 
          a) Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Người qúi chuộng những kẻ bé mọn và khiêm nhường. Chính Người đã tiết lộ bí mật của Người cho họ trong khi Người lại giấu không cho những người khôn ngoan và quyền thế biết được những điều ấy. Vì sao ? Vì các luật sĩ và biệt phái  đáng lẽ ra  phải là những người đầu tiên nhận ra rằng Chúa Kitô là sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng sự hiểu biết về Sách Thánh của họ đã làm cho họ đầy kiêu căng, một thứ vật cản.
 
          b) Sang phần sau, Chúa Giêsu cho biết, vì không tự mãn, những trí óc khiêm nhường của những kẻ bé mọn lại được mở ra  ngay từ đầu đối với những mầu nhiệm của Chúa. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa và đón nhận lời Người.
 
          Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách của Ngài” tức là “hãy học cùng Ngài” về hai đức tính căn bản là “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.
 
B. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Người hiền lành khiêm nhường
          Trong phần thực hành lời Chúa, chúng ta chỉ bàn đến lời khuyên của Chúa trong phần thứ hai của bài Tin mừng : “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
 
I NÓI VỀ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG.
 
          1. Nói về hiền lành.
 
Hiền lành hay hiền hậu là con người tốt lành, không độc ác, nhưng có lòng thương người , có đức hạnh và hay làm điều thiện. Ví dụ : Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
 
          Theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi.  Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo.
 
          Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Trong đời sống hằng ngày, người có quyền bính đều xử dụng tính nóng nảy của mình đối với người khác, có khi còn “giận cá băm thớt”.  Người ta từng nói :”No mất ngon, giận mất khôn”. Cho nên, để luôn luôn tự cảnh giác, ông Nguyễn đình Giản, thời Lê mạt, đã viết vào một mảnh giấy, dán lên chỗ ngồi giải trí, câu này :
 
                                      Tảo cấp tắc bại sự
                                      Nóng tính thì hỏng việc.
 
          2. Nói về khiêm nhường.
 
          Theo chữ thì Khiêm nhường hay khiêm nhượng là nhún nhường không khoe khoang, hạ mình xuống một chút.  Căn bản của khiêm nhường là biết mình “là” thế nào : từ đó không muốn tỏ ra hơn cái “là” ấy ; và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là ấy” thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái “là” của mình.
          Khiêm nhường trái ngược với kiêu ngạo. Kiêu ngạo là muốn tự cho mình vượt quá cái “là” của mình và bắt người ta phải công nhận như vậy. Người kiêu ngạo được coi là người VIỆT VỊ  trong bóng đá vì đã vượt quá vị trí của mình. Dĩ nhiên, cầu  thủ “việt vị” thì đều bị trọng tài phạt.
 
                                      Truyện : hoàng đế Napoléon kiêu ngạo.
          Trong trận đánh Nga, hoàng đế Napoléon đã mơ tưởng thu phục cả Ân độ, và với lòng kiêu căng vô biên, nhà vua đã cho đúc một thứ huy chương có dòng chữ này :”THIÊN ĐÀNG LÀ CỦA CHÚA, TRÁI ĐẤT LÀ CỦA TÔI”. Nhưng rồi nhà vua đã mất ngôi báu vì trận Nga này. Sau trận thất bại của nhà vua, một viên đại tướng Nga cũng cho đúc một huy chương khác, trên mặt có một hình bàn tay đưa ra đám mây và cầm roi đánh vào lưng Napoléon cùng với lời này :”CÁI LƯNG LÀ CỦA MÀY, CÁI ROI LÀ CỦA TA”.  Và như thế, vị hoàng đế kiêu ngạo, sau này trong nơi vắng vẻ bị tù đầy ở đảo Sainte Helène có thể suy nghĩ về chân lý về những lời này của Chúa :”Kẻ nào đưa mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12).
 
II. NGƯỜI ĐỜI NGHĨ THẾ NÀO ?
 
          Tùy theo quan niệm của người ta, hiền lành nhịn nhục có thể bị coi như một thái độ hèn nhát, nhu nhược. Nhưng cũng có rất nhiều người coi đó là thái độ anh hùng đáng ca tụng. Phải là một con người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được.
 
          1. Thái độ hèn nhát.
 
          Ngày nay sự hiền lành dễ thương không còn được đánh giá cao như trước. Trước đây lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho kẻ khác là gọi họ là “người hiền lành dễ thương”.  Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương.  Truyền hình đã làm cho bạo lực có rất nhiều khán giả bằng những chương trình Nielson rất phổ biến (bên Mỹ).
 
          Nếu thi sĩ Alfred de Vigny coi cầu nguyện và than vãn là thái độ hèn yếu, thì đối với ông và với nhiều người khác, họ nghĩ sao với lời Chúa :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ?  Có lẽ họ muốn theo cách hành động của anh chàng Tân Ti Tụ suốt đời không chịu để cho ai làm nhục .
         
                                      Truyện : Anh chàng Tân Ti Tụ.
          Đời Trang Công nuớc Tề có người tên là Tân Ti Tụ đêm nằm mơ thấy một chàng cao lớn đội mũ trắng đi giầy mới, mặc quần gai, áo vải, đeo gươm tự dưng đến nhà mắng, nhổ vào mặt mà đi.
          Tân Ti Tụ giật mình thức dậy, tuy biết chiêm bao nhưng vẫn tức tối, suốt đêm bực rọc khó chịu, không ngủ được.
          Sáng dậy, Tân Ti Tụ mời một bạn thân đến nói rằng :
          - Bác ạ, tôi từ nhỏ đến giờ vẫn là kẻ hiếu dũng, nay sáu mươi tuổi rồi mà chưa hề chịu ai làm nhục, thế mà đêm qua bị một đứa, tôi phải đi tìm để báo thù, nếu thấy thì hay, còn không tôi chết mất.
          Thế rồi từ hôm ấy, sáng nào Tân Ti Tụ cũng cùng bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình mãi ba ngày không thấy, rút cục Tân Ti Tụ phải uất lên mà chết.
                             (Thái Bạch, Đông tây kim cổ tinh hoa, 1965, tr 134)
 
          2. Thái độ can đảm
 
          Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc thánh nhân, hiền nhân quân tử có cái nhìn khác hẳn. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.
 
          Thánh Francois de Sales nói :”Tất cả đều được chinh phục bởi hiền dịu chớ không phải bạo lực”.
 
          Nhà hiền triết Mạnh Tử nói :”
                             Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân
                             Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ hiền lành.
 
Ông Tô đông Pha, một văn sĩ Trung hoa thời xưa nói rất chí lý :
“Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt, ắt phải có khí tiết hơn người. Nhưng, nhân tính có chỗ không thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục, tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Kẻ Đại dũng trong thiên hạ, trái lại, thình lình gặp những việc phi thường cũng không kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy”.
 
          Để làm nổi bật cái triết lý “Nhu nhược thắng cương cường” trong phương diện cách mạng, ông Nguyễn duy Cần trong cuốn “Cái Dũng của thánh nhân” đã đề cập đến cuộc giải phóng Ấn độ do ông Gandhi điều khiển. Chính sách đề kháng bất bạo động của Gandhi đã làm cho thế giới hết sức ngạc nhiên và thán phục.  Đâu phải người ta không biết dùng bạo động, nhưng vì người ta cho đó là còn hạ sách.
 
          Ông Gandhi nói :”... Tôi tin rằng Ấn độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ ? Bất bạo động đâu phải chịu lụy kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.
 
          Một người như thế thôi cũng đủ khiêu khích cả một đế quốc và làm cho nó “tan tành nghiêng ngửa”.
 
                                      Truyện : Lạn Tương Như  và Liêm Pha.
          Lạn Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị đứng dưới, nên tức giận hăm he hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì thế cứ lánh mặt mãi... Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận  bèn họp nhau hỏi Tương Như :
          - Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thế vậy ? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi không ở nữa.
          Tương Như nói :
          - Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không ?
          Bọn xá nhân đáp :
          - Không.
          Tương Như nói :
          - Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa.  Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân ư ? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì e có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng và thù riêng là khinh vậy thôi.
          Bọn xá nhận mọp lạy mà rằng :
          - Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.
          Liêm Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng :”Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Bèn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng :”Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá”. Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết với nhau.
                   (Nguyễn duy Cần, Cái DŨNG của thánh nhân, 1958, tr 162-163)
 
III. CHÚNG TA NGHĨ SAO ?
 
          Mỗi người phải lựa chọn cho mình một hướng đi. Chúng ta phải có lựa chọn nào trước lời Chúa dạy :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ? Thái độ của người hiền lành là hèn nhát hay can đảm ?
 
          Đối với chúng ta, sự hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu đã làm cho không biết bao người đương thời với Chúa Giêsu và bao thế hệ sau này ngỡ ngàng và kinh ngạc.
 
                                      Truyện : BEN HUR
Nhà văn Lewis Wallace trong tác phẩm BEN HUR cũng nói lên tâm tư sững sờ trước sự khiêm nhường sâu thẳm của Đức Kitô :
          Ben Hur khi chứng kiến cảnh Đức Kitô bị Giuda phản nộp và bị các tên lính bắt trói, chàng hăm hở tiến đến gần Chúa Giêsu và hỏi :
          - Lạy Thầy, hãy nghe tôi, có phải Thầy tự ý muốn đi theo bọn lính và các giáo sĩ hay không ?
          Đức Giêsu lặng thinh.
          - Lạy Thầy, tôi có một binh đoàn quân Galilê trong thành phố này. Hãy ra lệnh đi, họ sẽ phục tùng Thầy. Thầy có thuận không ?
          Đức Giêsu vẫn một mực cúi nhìn đăm đăm xuống đất.
          - Lạy Thầy, một lời thôi, một lời của Thầy thôi, tất cả sẽ theo Thầy...
          Đức Giêsu vẫn im lặng, đến nỗi Ben Hur ngã vật xuống bờ sông Cédron và thốt lên :
          - Người Nazareth, hỡi người Nazareth, thế thì thông điệp của Người mang ý nghĩa gì ?
 
          Mang một ý nghĩa gì ư ? Đó là “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đó là thông điệp mà Đức Giêsu gửi cho mọi người chúng ta. Ngài đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Ngài thôi.
 
          Qua những tư tưởng trên, chúng ta thấy cái hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô không là một sự nhu nhược nhát đảm, nhưng đó là đức tính của những vĩ nhân, của những bậc đại thánh. Bởi vì chính tính khí kiêu căng đã làm cho thế giới bị đảo lộn, hận thù ghen ghét, chiến tranh.  Những kẻ kiêu căng tự mãn là những tiểu nhân, hèn mọn, còn những tâm hồn hiền lành khiêm nhường là bậc anh hùng vì họ đã anh dũng chiến thắng được bản thân với những tính tự ái ích kỷ hẹp hòi.  Đó mới là cuộc chiến quan trọng, và cái chiến thắng của cuộc chiến đó mới đáng kể.
 
                                      Truyện : Đức Gioan 23 và bức thư.
          Lúc được phong chức Tổng giám mục, Đức Cha Roncalli là khâm sứ Toà thánh kiêm đại diện Tông tòa quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ.  Công việc của ngài rất khó khăn, vì phải trông coi một vùng rộng lớn đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo, Công giáo với Tin lành, Chính thống, Hồi giáo, các linh mục triều lại chia rẽ với các tu sĩ.
 
          Trong lúc thi hành công việc mục vụ, Đức Tổng giám mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích Ngài về mọi mặt, do tay một linh mục bất mãn viết.  Đọc xong, Đức cha Roncalli không nói một lời, lòng vẫn tha thiết yêu vị linh mục ấy.
 
          Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức  sứ thần Toà thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêcia, và cuối cùng đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan 23 năm 1958.
 
          Linh mục bất mãn viết thư năm nào vẫn còn sống.  Về sau để ngài tháp tùng với giáo dân sang Rôma và xin được yết kiến Đức Giáo hoàng.
 
          Linh mục ấy đã thuật lại cuộc tiếp kiến riêng tư với Đức Giáo hoàng :
“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi trộm nghĩ, đã mấy chục năm trời qua rồi, giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha không còn nhớ gì... Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp chuyện thân mật, Đức Thánh Cha với lấy cuốn Kinh thánh và lôi ra trước mặt tôi bức thư khốn nạn ấy. Đang khi tôi lo âu lúng túng, Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo :”Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Thánh kinh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xẩy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.
 
          Trong bài “Anh hùng” được chia sẻ với giới trẻ hạt Đức trọng, tôi đã đề cập đến câu định nghĩa về anh hùng của Vương Thông, theo đó :
 
          ANH  là người tự biết mình.
          HÙNG là người tự thắng mình.
 
          Vậy người thực hiện được lời Chúa dạy :”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” phải là vị anh hùng vì họ đã tự biết mình và đã thắng được mình, thắng được tính nóng nảy và hay trả thù của mình.  Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hùng.
 
          Trong bài giảng “Tám mối phúc thật” , Chúa Giêsu đã khẳng định :”Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.  Nếu người ta nói :”Cha nào con ấy” thì chúng ta phải nghĩ thế nào khi chúng ta là con cái Chúa ?  Nếu Cha chúng ta là Đấng hiền lành khiêm nhường, còn chúng ta là con, thì không thể nào đi ra khỏi con đường Chúa đã vạch ra cho chúng ta. Bài học đã có sẵn, chúng ta chỉ việc đưa ra thực hành.


CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN A
HẠT GIỐNG LỜI CHÚA
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Lời Chúa là đèn soi bước đường chúng ta đi, là ánh sáng chỉ đường trong đêm tối và là lương thực nuôi linh hồn chúng ta.  Lời Chúa được ví như hạt giống, tự nó có sức phát triển mạnh mẽ, nhưng hạt giống ấy, tuy là hạt giống hảo hạng có sức mạnh vô song, cũng cần có điều kiện thuận lợi để phát triển. Chúng ta có nhiệm vụ phải làm cho hạt giống ấy nảy nở và phát triển. Chúa đòi chúng ta phải cộng tác vào trong công việc này.
 
          Hạt giống Lời Chúa được gieo vãi khắp nơi một cách dồi dào, nhất là gieo vào lòng người. Hạt giống ấy có được tiếp nhận hay không, hoặc được tiếp  nhận một cách ơ hờ lạnh nhạt, hoặc được tiếp nhận một cách trân trọng, thì hạt giống ấy được phát triển tùy theo thái độ của từng người. Chúng ta cố gắng biến thành thửa đất tốt để đón nhận hạt giống Lời Chúa, hy vọng  hạt giống ấy sẽ sinh hoa kết quả, hạt sinh 30, hạt sinh 60 hay sinh 100 hạt khác.
 
          Tâm hồn mỗi người là một thửa ruộng, và không có thửa ruộng nào là vô ích. Nhưng để thửa ruộng là mảnh đất phì nhiêu đòi hỏi mỗi người chúng ta phải ra công cầy xới. Đương nhiên cuộc cầy xới nào mà không đòi phải vất vả, long đong. Tâm hồn chúng ta sẽ không là mảnh đất sinh hoa trái nếu chúng ta không chịu hy sinh, mất mát lo cầy xới, gạn lọc, nhổ hết gai góc, nhặt đi những sỏi đá của ích kỷ hẹp hòi, của những đam mê hư hèn, của gian tham lừa lọc, của thù hận ghen tương.
 
          Như vậy Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta đừng để tâm hồn mình thành sỏi đá, đường đi bởi do lòng ích kỷ và thói vô tâm, cũng đừng để tâm hồn mình là bụi gai bởi lòng tham những của hư hèn và tính ươn lười ngại hy sinh cố gắng, nhưng là hãy ra công cầy xới cho hồn mình là mảnh đất phì nhiêu.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Is 55,10-11.
 
          Dân Do thái đang phải sống trong cảnh lưu đầy, niềm tin đang lụi dần, tiên tri Isaia được sai đến an ủi, khuyến khích và nói cho dân biết rằng Thiên Chúa đã hứa cho dân thoát cảnh lưu đầy và được trở về quê hương.
 
          Tuy thế, nhiều người Do thái tỏ ra nghi ngờ lời hứa đó, họ không thể tin được. Tiên tri Isaia phải nói cho họ biết tính chất phong phú của lời Chúa giống như mưa và tuyết thấm vào đất làm cho đất nên phì nhiêu thế nào thì lời Chúa luôn luôn hữu hiệu như vậy : Ngài đã nói thì thế nào cũng xẩy ra đúng như lời Ngài đã nói, Ngài đã hứa thì chắc chắn Ngài sẽ thực hiện. Lịch sử đã minh chứng cho lời  tiên tri Isaia : dân Do  thái đã được hồi hương vào năm 538 trước công nguyên đúng như lời đã báo trước.
 
 
          +  Bài đọc 2 : Rm 8,18-23 (Chủ đề phụ).
 
          Trong đoạn thư gửi tín hữu Rôma mà phụng vụ hôm nay ghi lại, thánh Phaolô cố cho chúng ta hiểu thế nào là niềm hy vọng của người Kitô hữu. Tuy mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô. Niềm hy vọng của Kitô giáo là một sự chờ đợi, được thực hiện trong nước mắt khổ đau như một cuộc vượt qua cái chết.
          Tuy sống trong cuộc đời đầy đau khổ nhưng Kitô hữu luôn lạc quan hướng về tương lai, chờ đợi ngày được hưởng ơn cứu độ viên mãn trong Nước Trời.
 
          +  Bài Tin mừng : Mt 13,1-23.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn về người gieo giống đi gieo lúa, để dạy rằng cũng một lời Chúa rao giảng nhưng sinh nhiều hiệu quả khác nhau là tùy theo thái độ đón nhận của các tâm hồn người nghe.
 
          Để ý nhận xét, ta thấy người nông phu này gieo hạt giống xuống mọi loại đất mặc dù biết trước là nhiều hạt sẽ không nảy mầm mọc lên. Điều đó có ý nói Thiên Chúa rất hào phóng sẵn sàng ban lời Ngài cho mọi người và ban cách quảng đại dồi dào.
 
          Một nhận xét nữa là dụ ngôn kể ra 4 loại đất trong đó có tới 3 loại đất xấu. Điều đó có ý nói là có rất nhiều người không sẵn sàng đón nhận lời Chúa để cho lời ấy sinh hoa kết quả. Nhưng cũng có những người thiện chí biết đón nhận lời Chúa và đem ra thực hành để cho Lời Chúa sinh hoa kết quả dồi dào : hạt sinh 30, 60, 100 hạt khác.
 
          Qua bài dụ ngôn  hôm nay, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta phải nhận thức giá trị thiêng liêng của Lời Chúa, để nhờ đó chúng ta biết tha thiết lắng nghe và chăm chỉ đem ra thực hành trong đời sống hằng ngày.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Lời Chúa sinh hoa kết quả.
          Khi đi truyền giáo, Chúa Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa hay Nước Trời.  Đây là những ý tưởng quá trừu tượng mà thính giả phần lớn là dân quê, ít học, ngay các tông đồ nồng cốt cũng ở trong tình trạng đó. Để diễn tả về Nước Trời, Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để giảng dạy, mỗi dụ ngôn diễn tả được một khía cạnh của Nước Trời. Đây là một lối giảng dạy rất cụ thể , dễ hiểu, hấp dẫn, động não để đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng mà các nhà hiền triết thời xưa thường dùng.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống đi gieo lúa để nói về hạt giống của Lời Chúa. Theo đó, Lời Chúa như hạt giống được gieo vào lòng mọi người để có thể phát triển và sinh hoa kết quả tùy theo thái độ đón nhận của từng người : có người không chấp nhận, có người chấp nhận với thái độ ơ hờ lạnh nhạt, có người đón nhận với lòng thành để Lời Chúa có thể sinh hoa kết quả dồi dào gấp 30, 60 hay 100 lần.
 
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA.
 
          1. Lời Chúa trong Thánh Kinh .
                                          
          Thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, Giáo hội đã khuyên nhủ chúng ta :”Thánh công đồng Vatican 2 nhiệt liệt cổ vũ các tín hữu chuyên cần lắng nghe và đọc Thánh Kinh, suy gẫm và sống Lời Chúa, vì đó là khoa học cao siêu dạy về Chúa Kitô. Vì theo thánh Giêrônimô :”Dốt Thánh Kinh là không hiểu biết về Chúa Kitô”(cf Verbum Dei # 25). Thánh Kinh dạy cho chúng ta hiểu biết về Chúa, am tường về các mầu nhiệm cao cả của Nước Trời, hay nói cách khác ,Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa nói với chúng ta, tỏ cho chúng ta thánh ý của Ngài.
 
          2. Ba bước đón nhậnLời Chúa.
 
          Theo Mark Link, có ba bước trong việc lắng nghe Lời Chúa, mỗi buớc một tiến hơn :
 
          * Bước thứ nhất là nghe Lời Chúa. Chúng ta có thể gọi đây là bước của trí não. Bước này bao hàm việc chăm chú lắng nghe, đọc và giải thích Kinh thánh.
 
          * Bước thứ hai là trân trọng tích giữ Lời Chúa. Bước này có thể được gọi là bước của trái tim, bao hàm việc ghi sâu vào lòng lời ta vừa nghe, và suy nghĩ xem có cách nào áp dụng lời ấy vào cuộc sống và làm sao để lời ấy biến cuộc sống của chúng ta nên tốt đẹp hơn.  Bước thứ hai này không nhất thiết xẩy ra tại nhà thờ. Nó có thể khởi sự tại nhà thờ nhưng thường kéo dài suốt tuần lễ sau khi chúng ta suy nghĩ Lời Chúa đã nghe hôm Chúa nhật.
 
          * Bước thứ ba là đem Lời Chúa ra thực hành. Nếu chúng ta gọi bước thư nhất là của “trí não”, bước thứ hai là của “trái tim”, thì chúng ta có thể gọi bước thứ ba là bước của “linh hồn”. Bước này bao hàm tác động lên những gì trí óc chúng ta lãnh nhận và con tim chúng ta tích chứa giữ gìn.
 
          3. Bốn thái độ tiếp nhận Lời Chúa.
 
          Theo bài Tin mừng, Chúa Giêsu đã phân chia thành 4 loại đất mà người nông phu gieo hạt giống vào. Bốn loại đất ấy tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Chúa :
 
          * Đất vệ đường : những kẻ chẳng thiết tha gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị qủi dữ cướp đi.
          * Đất lẫn sỏi đá : những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không qúi chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó là bỏ cuộc.
          * Đất có nhiều gai : những người cũng đón nhận Lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải...Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa chết ngẹït.
          * Đất tốt : những người sốt sắng đón nghe Lời Chúa, ghi sâu vào tâm hồn và quảng đại đem ra thi hành trong cuộc sống.
 
          Mỗi người phải chuẩn bị đất tốt  để đón nhận hạt giống Lời Chúa :
          . Đất phải xốp : không cứng như vệ đường, tức là phải có tinh thần khao khát Lời Chúa như một nhu cầu của sức sống để lắng nghe, tìm hiểu và thực hành lời Chúa.
 
          . Đất không có sỏi đá : tức là phải cất những chướng ngại vật như : sự lười biếng, thờ ơ, chểnh mảng Lời Chúa, bỏ các thành kiến, khuynh hướng xấu trong tâm hồn.
 
          . Đất không có gai : tức là tâm hồn phải thanh thỏa, không có những bồn chồn lo lắng về những sự ở đời như thú vui xác thịt, danh vọng, của cải vật chất... vì những cái đó là những gai góc bóp chết lời Chúa.
 
          . Đất tốt : là tâm hồn khiêm nhường biết tin tưởng, trông cậy và yêu mến Lời Chúa để biến đổi đời sống.
                   (Trần hữu Thành, Suy niệm Tin mừng Chúa nhật năm A, tr 218).
 
II. SỐNG THEO LỜI CHÚA..
 
          1.  Sức mạnh của Lời Chúa.
 
          Hạt giống lời Chúa là thứ hạt giống tốt có thể phát triển mạnh. Lời Chúa có thể thay đổi được lòng người nhưng Chúa không muốn can thiệp vào đời tư của con người một cách thô bạo. Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người.
 
          Lời Chúa tự nó có sức mạnh vô biên. Ta có thể ví lời Chúa như nước chảy, nước rất mềm, nhưng có thể làm cho đá mòn như người ta thường nói :”Nuớc chảy đá mòn” (tục ngữ). Lời Chúa tuy êm ái nhẹ nhàng nhưng có sức bào mòn những gì gồ ghề trong tâm hồn để trở nên những viên đá tròn trịa.
 
          Thiên Chúa cứ gieo hạt giống Lời Chúa vào lòng người, còn việc hạt giống đó có phát triển được hay không là do thái độ của tùng người có muốn cộng tác hay không.
 
                                      Truyện : nước làm sạch rổ rau.
          Bà vợ đi lễ về làm cơm sáng hơi muộn làm người chồng khó chịu. Người chồng thì khô khan, thỉnh thoảng mới đến nhà thờ. Vợ thì siêng năng đi lễ để nghe Lời Chúa.
          Bụng đang đói, chồng tức bực hỏi vợ :
          - Em đi lễ hằng ngày như vậy để được cái gì ?
          Bà vợ trả lời :
          - Được nhiều lắm, anh ạ.
          Chồng hỏi tiếp :
          - Được cái gì ?
          Vợ thản nhiên đáp :
- Được nghe Lời Chúa. Được Lời Chúa soi dẫn và rửa sạch tâm hồn em !
Chồng trợn mắt :
          - Rửa sạch ?
          Vợ chỉ tay vào rổ rau mới rửa, trả lời :
          - Vâng, nước đã làm cho bụi bặm rổ rau này sạch trơn !
          Người chồng hiểu, lặng thinh và suy nghĩ !
 
          2. Sống đạo bằng gì ?
 
          Nếu được hỏi câu này, một người bàng quan nhìn chúng ta sống sẽ trả lời rằng : họ sống đạo bằng đọc kinh, bằng nhận lãnh các bí tích và bằêng tham dự các lễ nghi.
 
          Đúng vậy, người Công giáo chưa hoặc rất ít sống đạo bằng Lời Chúa. Nếu sống đạo bằng đọc kinh thì sau giờ kinh là hết sống đạo ! Nếu sống đạo bằng lãnh nhận các bí tích  thì có bao nhiêu dịp sống đạo đâu ! Và nếu sống đạo bằng cách  tham dự các lễ nghi thì sẽ không còn sống đạo khi ra khỏi nhà thờ ! Vả lại, đạo ở các kinh đọc, trong các bí tích và trong những lễ nghi không thấm nhập vào cuộc đời, vào xã hội.
 
          Đạo là đường, sống đạo là đi đường. Trong cuộc hành trình này. Lời Chúa chỉ hướng cho ta đi. Lời Chúa dạy ta giải quyết những tình huống như thế nào, Lời Chúa là kim chỉ nam đưa ta tới cùng đích (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 387-388).
 
                                      Truyện : Lời Chúa khắc ghi trong lòng.
          Hôm ấy, một nhà thừa sai Công giáo gặp một cậu bé người Ả rập trên đường từ trường về nhà. Nhà truyền giáo vui vẻ hỏi :
          - Sao, hôm nay con học thêm được gì về sách Coran ?
          Mắt cậu sáng lên và mau mắn đọc thuộc lòng những câu trích từ sách Coran là sách thánh của các tín đồ Hồi giao. Nhà truyền giáo nói thêm :
          - Bây giờ, con thử viết những lời đó trên đất để cha có thể hiểu dễ dàng hơn và học mau thuộc hơn không ?
           Cậu bé đáp :
          - Thưa cha, không được ! Lời Thánh phải được viết trong trí và ghi khắc trong lòng chứ không thể viết trên đất được.
 
          Theo tư tưởng của cậu bé đó thì Kinh thánh phải được ghi khắc trong tâm hồn, nghĩa là Lời Chúa phải thấm nhập vào lòng trí người Kitô hữu để họ phải sống bằng Lời Chúa.
          Sống đạo là để cho Lời Chúa thấm nhập tâm hồn.
          Sống đạo là để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống.
          Sống đạo là để cho Lời Chúa tuôn trào ra cửa miệng và thấm nhuần môi trường sống.
 
III. PHỔ BIẾN LỜI CHÚA.
 
          Lắng nghe và thực hành Lời Chúa là điều cần thiết nhưng chưa đủ, chúng ta còn có sứ mạng rao giảng Lời Chúa cho người khác. Chúa Giêsu đã nói :”Nếu các con đã lành nhận nhưng không, thì cũng phải cho đi nhưng không” (Mt 11,08).  Nếu bản chất của Hội thánh là truyền giáo thì bản chất của những thành viên trong đó cũng phải là truyền giáo.
 
          Lời Chúa phải được chúng ta loan truyền để mang lại nhiều mùa gặt khác. Cũng như những hạt giống được gió đưa đi, rơi xuống và nảy mầm ở nơi xa, hạt giống Phúc âm phải được rải ra từ chính tấm lòng của chúng ta vào trong lòng anh em chúng ta. Nếu chúng ta giữ Lời Chúa cho riêng chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ mất Lời Chúa. Hạt giống không phải được tạo ra để nằm trong một góc của bồ lúa, mà là để được nảy sinh trong những cánh đồng và cuối cùng là trên khắp thế gian.
 
          Mỗi người chúng ta tùy theo ơn gọi , địa vị, chức vụ và khả năng, đều được Chúa mời gọi lãnh nhận sứ vụ rao giảng Lời Chúa, như hạt giống được gieo vào hồn chúng ta, như sức sống nuôi dưỡng làm cho triển nở tới thời sung mãn, để rồi sau đó lại phải gieo rắc sự dư tràn đó vào lòng những người khác. Đó là sứ mạng Chúa ủy thác  cho mỗi người chúng ta phải chu toàn.
 
                                      Truyện : rao giảng bằng cuộc sống.
          Khi một người ra đi gieo Lời Chúa, người ấy không biết rõ việc mình đang làm và kết quả của hạt giống đó sẽ ra thế nào thì ông H.L. Gee đã thuật lại cho chúng ta câu chuyện sau đây :
 Trong xóm đạo của ông, có một cụ già cô độc tên là Tôma. Cụ thọ hơn bạn bè của cụ nên không còn ai biết cụ nữa. Khi cụ Tôma qua đời, ông Gee nghĩ rằng không ai đi đưa đám cụ nên ông quyết định đi để còn có người đưa cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Không có ai đi đưa cả, hôm đó trời lại mưa dầm ướt lạnh. Khi quan tài đến nghĩa trang, có một quân nhân đứng ở cổng chờ, đó là một sĩ quan nhưng trên áo mưa không thấy quân hàm. Quân nhân đó đứng bên huyệt dự lễ an táng. Xong lễ, ông ta tiến đến bên huyệt đưa tay lên chào theo nghi thức dành cho một vị vua. Rồi ông Gee và quân nhân đó ra về.
 
          Khi họ đang đi, gió thổi bật cái áo mưa của vị sĩ quan và ông Gee thấy quân hàm của ông ta, quân hàm thiếu tướng.  Vị sĩ quan nói với ông Gee :
- Có lẽ ông ngạc nhiên không hiểu tôi làm gì ở đây. Nhiều năm trước đây cụ Tôma là giáo viên dạy giáo lý ở trường tôi. Tôi là một thằng bé ngỗ nghịch và là một thứ gai nhức nhối cho cụ.  Cụ không hề biết cụ đã làm gì cho tôi nhưng cả đời tôi mang ơn cụ, và hôm nay tôi phải đến để nghiêng mình chào tiễn cụ lần cuối.
 
Tôma không biết được việc mình đã làm, không một giáo sư hay nhà truyền giáo nào biết được. Công tác của chúng ta là gieo ra không chút nản lòng và phần còn lại hãy để cho Chúa định liệu.
 
          Khi một người đi gieo giống, anh ta không thể và không được trông đợi có kết quả tức khắc. Trong thiên nhiên, sự tăng trưởng không bao giờ vội vã, phải mất một thời gian dài để hạt giống đơm bông kết trái, và có thể còn phải mất thời gian dài hơn nữa để hạt giống nảy mầm trong lòng người.
 
          Chúng ta tin chắc rằng hạt giống Lời Chúa có sức tăng trưởng phi thường trong những môi trường thuận lợi.  Công việc chúng ta là gieo, cứ gieo rồi để hạt giống mọc lên và khi đã mọc lên thì phát triển mạnh mẽ để sinh hoa trái dồi dào
 
                                      Truyện : hạt giống bông lau.
          Trong số những vị anh hùng xây dựng Hợp chủng quốc, phải kể đến Benjamin Flanklin, tạ thế năm 1790. Ông là một văn sĩ, nhà ấn loát và xuất bản ; lại còn là một nhà phát minh, một khoa học gia, thương gia và nhà ngoại giao. Một hôm, ông nhận được món quà từ Ấn độ. Đó là một cây chổi bông lau. Nhìn cây chổi, ông thấy có vài hạt còn dính lại ở đó, ông đã nhặt ra và lấy đem gieo, thế là hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết hạt. Tới mùa gặt, ông lại lấy những hạt giống đó đem phân phát cho các bạn bè xóm ngõ. Tất cả đều đem gieo và chẳng bao lâu, Hoa kỳ đã có một kỹ nghệ làm chổi bông lau phát đạt rải rác khắp nơi trong quốc gia. Đó cũng là nhờ Benjamin Franklin đã có sáng kiến, biết lợi dụng vài hạt giống nhỏ mọn.
 
          Sau khi đã tìm hiểu lời Chúa, chúng phải quyết tâm lắng nghe, thực hành và phổ biến Lời Chúa cho người khác.  Muốn cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả, muốn cho bản thân thành đạt trên đường đời, hãy kiểm tra ruộng  lúa tâm hồn thường xuyên và kỹ lưỡng như người nông dân luôn biết săn sóc ruộng sạ của mình. Càng vất vả cầy bừa, diệt cỏ, càng can đảm diệt tính hư nết xấu, Lời Chúa gieo xuống, càng đem lợi ích cho cuộc đời chúng ta.


CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN A
SỰ KIÊN NHẪN CỦA THIÊN CHÚA
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Tuần vừa qua, chúng ta đã suy niệm về dụ ngôn Lời Chúa, hạt giống Lời Chúa phải được sinh hoa kết quả trong lòng chúng ta. Hôm nay, chúng ta suy niệm về dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng. Trong đồng lúa tốt lại có xen cỏ lùng do hạt giống xấu sinh ra, cỏ dại này cùng mọc bên cạnh lúa tốt, cả hai cùng mọc lên xanh tốt.
 
          Cũng thế, trong trần gian cũng như trong Giáo hội luôn có những người xấu  sống bên cạnh những người tốt, cái thiện và cái ác lẫn lộn, và trớ trêu thay, có khi người xấu lại được gặp may mắn hơn cả người tốt.  Chúng ta phải có thái độ nào đối với những người xấu ? Phải tiêu diệt người xấu đi chăng để chỉ còn lại người tốt ?
 
          Câu trả lời sẽ là : theo gương Chúa, chúng ta phải có thái độ như  trong bài Tin mừng hôm nay : hãy bắt chước lòng kiên nhẫn của Chúa. Thiên Chúa cho kẻ lành người dữ sống chung với nhau, cũng như cho cỏ lùng và lúa cùng mọc lên, đến ngày tận thế Thiên Chúa mới phân xử, mới tách biệt chiên ra khỏi dê, người lành khỏi kẻ dữ. Trong khi chờ đợi ngày phân xử, chúng ta hãy yêu thương mọi người, nhất là tạo điều kiện cho những kẻ tội lỗi biết sám hối trở về đường lành, còn việc xét xử thì dành cho Thiên Chúa.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Kn 12,13,16-19.
 
          Các chương 10-19 của sách Khôn ngoan chứa đựng những suy tư về cách hành xử của Thiên Chúa qua những biến cố lịch sử. Dân Do thái bị kẻ thù hãm hại đủ điều, họ tưởng rằng Thiên Chúa sẽ dùng sức mạnh, dùng bạo lực để tiêu diệt quân thù của họ, nhưng ngược lại, Ngài hành xử với chúng bằng sự kiên nhẫn và nhân hậu.
 
          Sự kiện này làm cho dân Do thái hiểu lầm rằng Thiên Chúa quá yếu ớt không thể can thiệp giúp họ.  Nhưng câu trả lời cho họ là những kể thù ấy cũng là thụ tạo của Chúa, nên cũng được Ngài yêu thương. Ngài có đủ uy quyền phá tan kẻ dữ, nhưng Ngài chỉ dùng sức mạnh ấy đối với những kẻ ngoan cố. Còn đối với những người mà Ngài còn hy vọng họ hoán cải thì Ngài luôn kiên nhẫn chờ đợi cho họ sám hối để được tha thứ.
 
          +  Bài đọc 2 : Rm 8,26-27 (Chủ đề phụ)
 
          Thánh Phaolô đề cao vai trò Chúa Thánh Thần trong đời sống Kitô hữu, nhất là trong việc cầu nguyện. Vì chúng ta yếu đuối không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp với ý Chúa,  nên Chúa Thánh Thần sẽ ở trong chúng ta, Ngài giúp chúng ta cầu nguyện thế nào cho xứng hợp. Ngài sẽ dạy chúng ta cầu nguyện thế nào cho có hiệu quả bằng những “tiếng than khôn tả” như lời thánh Phalô đã nói.
 
          +  Bài Tin mừng : Mt 13,24-43.
 
          Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để nói đến từng khía cạnh của Nước Trời. Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra ba dụ ngôn để ta suy gẫm , đó là dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men bánh.
 
          Dụ ngôn cỏ lùng giải thích cho chúng ta lý do tại sao lại có sự thiện và sự ác trên trần gian, tại sao trong Hội thánh lại có người lành kẻ dữ ? Và tại sao Thiên Chúa lại để cho người dữ sống chung với người lành mà không tiêu diệt nó đi.
 
          Hai dụ ngôn hạt cải và men bánh nói lên sự tăng triển của Nước Trời. Nước Trời hay Hội thánh chỉ là cộng đoàn nhỏ nhưng sẽ phát triển mạnh trong âm thầm và trong những hoàn cảnh khó khăn, như những cuộc cấm cách, bách hại đạo.
 
          Qua những dụ ngôn này, chúng ta có thể rút ra được một kết luận để cảnh giác chúng ta : đừng có ảo tưởng là có thể có một Hội thánh hoàn hảo ở trên trần gian này, trong đó chỉ còn có toàn những người thánh thiện. Trái lại, kẻ lành người dữ sống chung với nhau. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho kẻ dữ biết ăn năn sám hối để được tha thứ.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Chúa kiên nhẫn chờ đợi.
I. DỤ NGÔN CỎ LÙNG.
 
          1. Ý nghĩa dụ ngôn :
 
          Dụ ngôn này cho biết trong các công việc của Nước Thiên Chúa, vẫn có xen lẫn những công việc của ma qủi, mà trong giai đoạn sống ở trần gian, nguời ta không thể nào triệt bỏ hết được, chỉ đến ngày tận thế sự phân định mới rõ ràng. Vì thế, dụ ngôn cỏ lùng có mục đích diễn tả lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, Ngài chấp nhận tốt xấu pha trộn, đợi đến ngày cuối cùng Chúa mới lấy quyền phân xử.
 
          2.  Lúa và cỏ lùng.
 
          Những hình ảnh trong dụ ngôn này rất rõ ràng và quen thuộc với người Palestine.  Cỏ lùng là một thứ cỏ dại mà nhà nông phải diệt trừ. Lúc còn nhỏ, cây cỏ lùng giống như cây lúa mì nên khó phân biệt hai thứ, cho đến khi cả hai đâm bông thì có thể nhận ra cách dễ dàng,  nhưng lúc đó rễ cỏ lùng và rễ lúa đã mọc quyện vào nhau đến nỗi hễ nhổ cỏ lùng thì lúa cũng dễ dàng bị trốc theo.
 
          Lúa và cỏ lùng không thể tách riêng ra một cách an toàn khi cả hai đang phát triển nhưng cuối cùng chúng phải được tách riêng ra. Cần phải tách riêng chúng ra  bởi vì (khác với cỏ lồng vực bên chúng ta) hạt cỏ lùng rất độc, nó gây chóng mặt, đau ốm và hôn mê. Một số lượng nhỏ của nó cũng có thể gây vị đắng khó chịu. Rốt cuộc người ta thường tách riêng nó ra bằng tay.
 
          Ông Levison mô tả diễn tiến như sau : người ta thuê đàn bà lượm hạt cỏ lùng trong lúa trước khi đem đi xay. Theo nguyên tắc thì người ta tách cỏ lùng với lúa mì sau khi đập xong. Người ta bầy hạt lên trên một cái nia to và các bà có thể lựa ra những hạt cỏ lùng có kích thước và hình dáng y như hạt lúa mì nhưng có mầu xám nhạt.
 
          3. Người tốt và người xấu.
 
          Ánh sáng và bóng tối trong thế giới ta đang sống, thiện và ác trong lòng mọi người, đó là cánh đồng lúa mì mà trong đó cỏ lùng mọc lẫn lộn bên cạnh cây lúa tốt. Còn đối với con người, xấu tốt ở xen lẫn với nhau, vàng thau lẫn lộn, không phân biệt được tốt xấu, hoặc đôi khi đánh giá lầm mà coi người tốt ra người xấu, hoặc người xấu ra người tốt.
 
          Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác  đó là điều không tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chất, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối và tội lỗi, và chúng ta,  mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội. Thánh Phaolô đã nói :”Tôi không làm được điều thiện mà tôi muốn, mà điều ác tôi không muốn, tôi lại làm”.
 
II. THIÊN CHÚA KIÊN NHẪN CHỜ ĐỢI.
 
          1. Cách hành xử của con người.
 
          Chúng ta là những con người bất toàn nhưng lại muốn tiêu diệt những kẻ bất toàn vì chúng ta mang một thái độ bất bao dung. Chúng ta cảm thấy khó chịu tại sao trong Hội thánh lại có những kẻ xấu, những kẻ bách hại Hội thánh, gây đau khổ cho nhiều người mà họ cứ sống nhởn nhơ con cá vàng, đôi lúc lại còn may mắn hơn người chịu đau khổ ? Chúng ta thường có thái độ như  những đầy tớ của ông chủ trong Tin Mừng :”Vậy ông có muốn chúng tôi nhổ cỏ đi không”?
 
          Đây là thái độ chung của mọi tín hữu chúng ta. Đó cũng là phản ứng của thánh Gioan Tẩy giả, người đã vẽ nên bức tranh gây ấn tượng về việc Đấng Messia sắp đến :”Tay Người cầm nia. Người rê sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm,còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3,12).  Hụt hẫng vì không thấy cách xét xử của Chúa diễn ra y như mình đã loan báo, nên từ trong ngục tù, Ngài sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu rằng :”Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác “?
 
          Đó là phản ứng ngỡ ngàng của tất cả những ai đã nghe lời Đức Giêsu loan báo :”Nước Trời đã đến gần”, thế mà họ lại chẳng thấy có gì được phác họa giống như sự xét xử vẫn trông đợi khi Nước này tới.
                             (Fiches dominicales, năm A, tr 230)
 
          2. Cách hành xử của Thiên Chúa.
 
          Phản ứng tự nhiên của con người là muốn tiêu diệt ngay cái xấu, diệt cả con người xấu. Nhưng Thiên Chúa lại có một lối hành xử khác với con người. Theo Tin mừng, đáp lại lời hỏi của đầy tớ, ông chủ nói :”Đừng, cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt... sợ rằng khi nhổ cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa”.
 
          Từ mùa gieo – hình ảnh Nước Thiên Chúa đến – đến mùa gặt kèm theo việc đập lúa – hình ảnh việc xét xử – có một khoảng thời gian : Lúc này đang là thời kỳ lúa lớn lên là thời gian nhẫn nại của Thiên Chúa : nếu Thiên Chúa gớm ghét sự ác, thì Người vẫn cứ phải yêu thương con người – kẻ tội lỗi cũng như người công chính – và Người biết rõ tiềm năng lạ lùng của Lời trong lòng họ.  Ngày thu hoạch mùa và lựa lọc sẽ đến vào giờ của Người ; ngày đó không thể dự đoán trước. Ông chủ nói với các đầy tớ ông rằng :”Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt : hãy nhặt cỏ lùng trước đã, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”.
                                    (Fiches dominicales, năm A, tr 231)
 
          Trong Thánh vịnh chúng ta thấy có câu :”Chúa  chậm bất bình và giầu lòng khoan dung”.  Chúa kiên nhẫn đợi chờ con người sám hối. Cỏ lùng thì không có cách nào thay đổi đuợc chỉ chờ đến ngày là thu hoạch cho vào lửa ; còn con người thì khác, con người có thể cải tà qui chính, có thể từ một thằng qủi biến thành một vị thánh.  Trong lịch sự Giáo hội, có biết bao “cỏ lùng”, nhờ ơn Chúa, đã trở nên hạt lúa tốt. Những Augustinô, những Charles de Foucauld, những Ève Lavallìere là những chứng tích sáng chói.
 
                                      Truyện : Cải tà qui chính
          Piri Thomas  có viết một tác phẩm nhan đề :”Hãy xuống những con đường tồi tàn này” Tác phẩm thuật lại việc ông cải tà qui chính từ một người bị kết án tù vì nghiện ma túy và cố tình giết người, cuối cùng đã sám hối để trở thành một tín hữu Kitô gương mẫu.
 
          Một đêm kia, Piri đang nằm trong phòng giam chuẩn bị ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng tệ hại xấu xa mà anh đã gây ra trong đời mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt cần phải cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm chung với một tù nhân khác tên là Chicô. Nên anh phải đợi cho Chirô ngủ đã, anh mới qùi gối trên sàn nhà và cầu nguyện. Anh kể lại rằng :”Tôi bầy tỏ với Chúa những gì có trong trái tim tôi... Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng... Tôi cảm thấy dường như có thể khóc đuợc... đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm được”.
 
          Sau khi Piri vừa cầu nguyện xong, một tiếng nói đáp lại :”Amen”. Đó là tiếng của Chicô. Rồi Chicô nói nhỏ với Piri :”Tôi cũng tin Chúa”. Thế là hai người bạn tù dốc cạn quá khứ tội lỗi xấu xa và cùng chia sẻ quyết tâm sám hối trở về.  Không biết họ đã tâm sự với nhau bao lâu, nhưng trước khi đi ngủ lại, Piri đã nói :”Chúc Chicô ngủ ngon nhé ! Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.
 
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.
 
          1.  Tích cực hay tiêu cực.
 
          Đứng trước tình trạng như thế trong trần gian và trong Giáo hội , chúng ta phải có thái độ nào ? Chỉ có hai thái độ : hoặc là tiêu  cực, hoặc là tích cực. Nếu có thái độ tiêu cực thì cho thế gian này là đồ bỏ đi, một thế giới hư hỏng đầy tội lồi, cứ để cho nó qua đi. Thái độ tiêu cực này làm cho chúng ta tuyệt vọng, không còn tin vào cái gì nữa, chỉ còn biết ngồi mà rủa bóng tối. Chắc chắn Chúa không cho chúng ta có thái độ tiêu cực này.
          Chúng ta phải có thái độ tích cực. Thái độ này giúp chúng ta hãy hướng lòng lên, không ngồi đấy mà nguyền rủa bóng tối, mà chấp nhận nó, đồng thời cố gắng đốt lên một ngọn nến. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ :”Các con là ánh sáng cho thế gian, không ai đốt đèn rồi đặt dưới đáy thùng, ngược lại người ấy sẽ đặt trên giá đèn để soi sáng cho mọi người trong nhà. Ánh sáng các con cũng phải tỏa sáng trước thiên hạ như thế”(Mt 5,14-16).
 
          Nhưng một cách thực tế, làm sao chúng ta có thể thắp lên một ngọn nến giữa đêm đen tối tăm của thế giới hôm này ?  Trước hết, chúng ta có thể cầu nguyện.  Một thi sĩ đã nói :”Lời cầu nguyện mang lại nhiều điều hơn những điều thế giới dám mơ ước”. Thứ đến và tích cực hơn, chúng ta có thể xắn tay áo lên làm một điều gì đó chống lại sự ác trong thế giới chúng ta.
 
          2.  Tấm lòng khoan dung.
 
          Chúa để người lành kẻ dữ sống chung với nhau là để gây ích lợi cho nhau như lời thánh Augustinô đã nói :”Kẻ dữ người lành đều là con cái Chúa, được Chúa thương yêu tất cả, chúng ta cũng phải thương yêu nhau và phải có thái độ khoan dung”.
 
          Có lần Liên hiệp quốc đã chọn nguyên một năm làm “năm quốc tế về lòng khoan dung” để giảm thiểu khuynh hướng bất bao dung ngày càng gia tăng trong nhân loại. Bao dung là nhân từ, kiên nhẫn chịu đựng những điều xấu của người khác để dần dần tìm cách hoán cải họ.
 
          3.  Kiên nhẫn chịu đựng.
 
          Sự kiên nhẫn mà Chúa khuyên chúng ta phải có là phản ảnh sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Đây không phải là sự cam chịu vô ích là đè nén cơn giận và cay cú thất vọng. Sự kiên nhẫn phải cóù là sự bình thản đợi chờ để kẻ tội lỗi có cơ  may quay trở lại.
 
          Chúa ghét tội nhưng lại yêu tội nhân vì họ còn có thể thống hối để được tha thứ (Rm 2,4). Nếu Chúa không kiên nhẫn với ta, ta sẽ thế nào ?  Ta có cần kiên nhẫn với người gây phiền hà cho ta không ? Nhưng nên nhớ rằng Chúa kiên nhẫn chịu đựng là để giải thoát chứ không phải để dung túng.
 
                                      Truyện : Giai thoại về thánh Antôn.
          Một hôm thánh nhân nghe tin một người thợ giầy tiến bộ hơn Ngài về đường nhân đức. Lòng hăm hở tiến đức đã thúc đẩy Ngài quyết chí đi tìm người thợ giầy kia để học hỏi cách tu đức của người ấy.
 
          Sau những ngày cố công tìm tòi, Ngài đã gặp được người thợ giầy kia. Thoạt thấy công việc của người thợ giầy, thánh nhân hơi nản lòng, vì thấy sinh hoạt duy nhất của người này là đóng giầy. Nhưng để cho bõ công đi tìm kiếm, thánh nhân đã trao đổi với người thợ giầy kia về lối sống tu đức.
 
          Thánh nhân hỏi người thợ giầy về chương trình sống hằng ngày của người thợ ấy. Người này cho biết một ngày của ông được chia ra làm ba phần như sau :
          - 8 giờ cho công việc của người thợ giầy.
          - 8 giờ cho việc cầu nguyện.
          - 8 giờ cho việc ăn uống nghỉ ngơi.
 
          Sau khi nghe người thợ giầy nói, thánh nhân nản lòng vì chính Ngài đã dành cho hết cả ngày để cầu nguyện chứ không phải chỉ tám tiếng.
 
          Thánh nhân hỏi cách xử dụng tiền của ông ta. Người này cho biết 1/3 dành cho ông, 1/3 dành cho Giáo hội, 1/3 dành cho người nghèo.
 
          Nghe vậy thánh nhân cho rằng người thợ giầy này không thể nhân đức hơn Ngài được vì Ngài đã dành tất cả của cải của Ngài cho người nghèo chứ không phải chỉ 1/3.
 
          Cuối cùng thánh nhân khám phá ra người thợ giầy phải sống giữa một thành phố sa đọa, chung quanh đầy những người tội lỗi và gương xấu, và ông thợ giầy đau khổ về chuyện đó, ông không ngớt kêu cầu cùng Chúa cho họ, và ông hằng cầu nguyện cho kẻ có tội chung quanh ông. Và thánh nhân chợt nhận ra rằng đó là điều mà Ngài thua kém người thợ giầy. Ngài thấy rằng Ngài chưa có được sự thao thức về những nỗi khổ đau của những người chung quanh, trái lại, Ngài lại đi tìm cho một mình một cuộc sống an phận với nếp sống ẩn tu.
                              (Cử hành phụng vụ Chúa nhật, năm A, tr 67-68)
 
          Các bài đọc hôm nay dạy chúng ta rằng : luôn luôn có một thế lực thù địch ở trong thế gian, tìm kiếm và chời đợi để phá hủy hạt giống tốt. Kinh nghiệm đời sống chúng ta có hai loại ảnh hưởng và cùng tác động trên đời sống chúng ta : ảnh hưởng giúp cho hạt giống Lời Chúa được nảy nở tăng trưởng và ảnh hưởng tìm hủy hoại hạt giống tốt trước khi nó có thể đâm bông kết trái. Đó là bài học nhắc nhở chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác.
 
          Không có vinh quang nào mà không phải trải qua đau thương, không có vinh dự nào mà không đòi hỏi phải chiến đấu. Bởi đó, khi sống trong trần gian đối diện với cái ác, chúng ta không run sợ đầu hàng, hoặc thất vọng nản chí, nhưng hãy kiên tâm chiến đấu để luôn đứng vững trong hàng ngũ con cái Chúa, rồi chắc chắn Chúa sẽ đội mũ triều thiên cho ta. Trong khi chiến đấu với cái ác, chúng ta cũng phải luôn có cái nhìn bao dung với những người tội lỗi, phải có lòng quảng đại, biết cảm thông, và luôn giúp họ tìm dịp trở về. Có như thế chúng ta mới thực sự là những Kitô hữu hoàn thiện như người thợ đóng giầy trong câu chuyện trên.


CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN A
SỰ KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay thúc dục chúng ta hãy tìm kiếm sự khôn ngoan. Vua Salomon trong bài đọc 1 đã không xin Chúa điều gì khác ngoài sự khôn ngoan. Lời cầu xin ấy làm đẹp lòng Chúa nên Salomon đã được như ý và Chúa cho ông trở thành người khôn ngoan nhất trên đời.
 
          Dụ ngôn kho tàng và viên ngọc qúi trong bài Tin mừng cũng nhắc cho chúng ta phải đi tìm kiếm sự khôn ngoan. Hai người tìm được kho tàng và viên ngọc qúi tỏ ra khôn ngoan, sẵn sàng bán hết của cải để mua cho được hai thứ đó. Người Kitô hữu đã được biết Chúa Giêsu, là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa, đã lãnh nhận được đức tin thì phải dứt bỏ tất cả để chiếm hữu cho được của qúi giá ấy, mặc dầu phải hy sinh .
 
          Đức tin là một kho tàng vô giá, nó đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu và sự sống bất tận của Thiên Chúa. Chính nhờ Đức tin chúng ta chiếm hữu được Thiên Chúa là nguồn mọi sự thiện hảo. “Đức tin cho ta biết liên hệ giữa đời này và đời sau, giữa người ta và Thiên Chúa. Với Đức tin ta được đón nhận ánh sáng siêu nhiên để nhận biết ở trong ta những khả thể mà đến nay ta không biết. Đức tin đổi mới cái nhìn của ta về Thiên Chúa, về vũ trụ và về chính chúng ta. Nó làm cho ta có cái nhìn siêu việt của Thiên Chúa” (Lm Thân văn Tường trong tập “Đối diện với Chúa”).
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : 1V 33,5.7-12.
 
          Bài đọc 1 cho chúng ta biết Salomôn là ông vua sáng chói nhất trong Cựu ước và của riêng dân Israel. Vị vua này lúc 20 tuổi lên kế vị cha là vua Đavít vào năm 960 trước công nguyên.  Salomôn đến Gabaon và cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện, Thiên Chúa hiện ra và bảo :”Ngươi muốn xin gì thì hãy xin và Ta sẽ ban cho”. Salomon không xin sống lâu, được giầu có, tiêu diệt quân thù mà lại xin được ơn khôn ngoan để biết suy xét và lãnh đạo dân chúng.  Thiên Chúa khen ông và ban cho sự khôn ngoan, đến nỗi sau này trong lịch sử, ông được mang tên là “Ông Vua Khôn Ngoan”. Sự khôn ngoan biến  thành từ ngữ “Khôn ngoan như vua Salomôn”.
 
          Nhưng bất hạnh thay, lúc về già, vua Salomôn thay tính đổi nết, đã trở nên dại dột, đã làm những điều ngang trái và đây là cả một sự tai hại lớn cho Israel.
 
          +  Bài đọc 2 : Rm 8,28-30.
 
          Trong thư gửi cho tín hữu Roma, thánh Phaolô đã đề cập đến ơn “Tiền định”. Theo đó, tiền định đây chỉ có nghĩa là ngay từ trước khi tạo thành thế giới, Thiên Chúa đã định cho loài người nên con cái của Người, theo hình ảnh của Con của Người, Đấng đã trở nên người Anh Cả của một đàn em đông đúc.
 
          Đối với những người được Thiên Chúa thương yêu thì :
          - Người giúp họ được sự lành,
          - Người kêu gọi họ nên thánh,
          - Người kêu gọi họ và sẽ cho họ được vinh quang.
 
          +  Bài Tin mừng : Mt 13,44-52.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra ba dụ ngôn để khuyến khích thính giả hy sinh tất cả, không do dự, để sở hữu được Nước Trời.
 
          Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc qúi dạy chúng ta rằng Nước Trời là một thứ qúi giá nhất, đối tượng của mọi nỗ lực tìm kiếm của ta, đáng cho mọi người bán đi tất cả để mua lấy.
 
          Dụ ngôn mẻ lưới kéo nhiều cá từ biển lên cũng cùng một ý nghĩa với dụ ngôn lúa và cỏ lùng của tuần trước.  Dụ ngôn nhắc cho chúng ta : trong Nước Trời có người tốt kẻ xấu sống lẫn lộn.  Thiên Chúa chỉ phân xử trong ngày tận thế để lựa lọc : kẻ tốt sẽ được thuởng, còn kẻ xấu sẽ bị phạt trong lửa đời dời.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Hãy tìm kiếm sự khôn ngoan.
          Người ta thường nói :”Khôn sống mống chết” hay “Khôn sống bống chết” nghĩa là khôn ngoan thì sống, dại dột đần độn thì chết. Tục ngữ “khôn sống mống chết” dùng nói về việc ở đời, nếu biết cách lo liệu, tính toán làm ăn, cư xử thì mọi việc đều đạt được đời sống khá giả. Ngược lại, sẽ lâm vào cảnh thất bại, khổ sở.
 
          Trong đời sống thiêng liêng, người Kitô hữu cũng phải biết khôn ngoan lo cho tương lai của mình . Đời sống mai hậu hoàn toàn tùy thuộc ở nơi mình : được hạnh phúc vĩnh cửu hay trầm luân đời đời. Nước Trời là đối tượng của mọi sinh hoạt nơi trần thế, nhiều khi phải từ bỏ tất cả để chiếm hữu được Nước Trời, vì Nước Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh (regnu coelorum vim patitur). Theo Kinh thánh thì “Đầu mối sự Khôn ngoan là lòng kính sợ Chúa”.
 
I. Ý NGHĨA BA DỤ NGÔN..
 
          Dụ ngôn Nước Trời giốâng như kho báu chôn trong ruộng có vẻ hơi lạ đối với một số người, nhưng lại hoàn toàn tự nhiên đối với dân chúng ở Palestine.  Trong thời Chúa Giêsu và cả ngày nay nó cũng vẽ ra bức tranh mà dân ở Đông phương đều biết cả.
 
          Người thường dân hay cất giấu tài sản qúi giá nhất dưới đất, xem đó là nơi an toàn. Trong dụ ngôn về các nén bạc, người đầy tớ không trung tín chôn giấu nén bạc mình dưới đất để khỏi mất (Mt 25,25) đều nói lên thói quen đó.  Ở Việt nam chúng ta thỉnh thoảng cũng có người tình cờ đào được chum vàng hay những vật qúi giá chôn dưới đất từ lâu mà nay đã mất chủ.
                                      
Truyện : Kho tàng ở Sidon.
          Thompson trong quyển “Xứ thánh và Kinh thánh” xuất bản đầu tiên năm 1876 kể lại một trường hợp chính ông đã chứng kiến một kho tàng ở Sidon. Trong thành phố đó có một đại lộ nổi tiếng có trồng cây, một số công nhân đang đào xới trong một khu vườn trên đại lộ đã khám phá ra nhiều hũ bằng đồng chứa đầy những đồng tiền vàng. Họ có ý giữ kín chuyện khám phá này, nhưng vì họ đông và vì quá mừng nên chuyện lộ ra và chính quyền địa phương sung công kho tàng ấy.  Đó là kho tàng của Alexandre đại đế và phụ hoàng Philippe. Thompson cho rằng khi Alexandre bất ngờ qua đời ở Babylon và tin này đến Sidon thì một số viên chức chính quyền đã chôn giấu số tiền này với ý định chiếm đoạt chúng trong cuộc khủng hoảng sau cái chết của Alexandre.
 
          Cả ba dụ ngôn này có ý nói rằng Chúa muốn dạy chúng ta phải là người khôn ngoan chân chính, là người biết đi tìm Nước Chúa, biết lo phần rỗi linh hồn mình, lo việc Chúa trước đã. Nói thế không phải là không lo đến đời sống vật chất, đời sống gia đình. Chúng ta phải lo việc Chúa trước đã “Mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau”.
 
II. NÓI VỀ SỰ KHÔN NGOAN.
 
          Nếu nói về chuyện” khôn dại dại khôn” thì chúng ta hãy nói đến chuyện vua Salômon.  Vua Salomon xem ra “dại” nhưng thực ra lại quá “khôn”. Chúa đã bảo :”Ngươi muốn gì cứ xin, Ta sẽ ban cho ngươi”. Ông dại quá, không xin giầu có, không xin sống lâu, không xin một thế lực hùng mạnh... mà lại xin khôn ngoan. Tuy nhiên, thực ra ông quá khôn, bởi vì Khôn ngoan là nền tảng và nguồn gốc của mọi thứ khác : nhờ khôn ngoan nên sau đó ông giầu có, triều đình ông vững bền, đất nước ông giầu mạnh... và nhất là ông được Thiên Chúa che chở bảo vệ.
 
          Thi sĩ Nguyễn bỉnh Khiêm, sau khi đã chán ngán với đường danh vọng, và bị ảnh hưởng triết lý “vô vi” của Lão Tử đã về ở ẩn.  Ông đã nói lên cái  “triết lý dại khôn” của ông trong một bài thơ :
                                      Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
                               Người khôn người tìm chốn lao xao.
                                         (Nguyễn bỉnh Khiêm)
 
          Ở đời, có những người khôn mà không ngoan, có người ngoan mà không khôn. Có những người khôn vặt, khôn láu cá, khôn lỏi, cái khôn mà Thánh Kinh gọi là sự Khôn ngoan của con cái tối tăm. Nghĩa là chỉ biết khôn ngoan trong việc trần thế vật chất, tội lỗi, mà không có một chút khôn ngoan trong sự sáng, biết phân biệt lành dữ, biết lo phần rỗi.  Chúa phán :”Được mọi sự thế gian, nghĩa là khôn ngoan nơi trần thế mà mất linh hồn thì nào được ích gì “? Vì thế người ta mới nói :
                                      Khôn thế gian làm quan địa ngục,
                                      Dại thế gian làm quan thiên  đàng.
 
          Muốn có sự khôn ngoan, con người phải dùng đến lý trí và lương tâm trong sáng mới đạt được, nghĩa là đừng để cho vật dục lôi kéo, trấn áp, làm cho tâm trí trở nên mê muội. Có những người học thức cao, bằng cấp đầy mình mà hành động hết sức thiếu khôn ngoan. Trường hợp của vua Salomon cũng nói lên điều đó.  Salomon là vị vua khôn ngoan nhất trần gian, sáng tác được những câu châm ngôn tuyệt vời, không ai sánh bằng, nhưng khi về già đã đổi tính đổi nết, kết hôn với những người đàn bà ngoại đạo, đưa các thần ngoại vào trong triều đình, khiến nhà vua mất khôn ngoan sáng suốt, làm những việc ngu xuẩn khác với thời trước.
 
Truyện : Ngọc bích họ Hòa.
          Nước Sở có người họ Hòa, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói :”Đá, không phải ngọc”. Vua cho người họ Hoà là nói dối, sai chặt chân trái.
 
          Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hòa lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem.  Thợ ngọc nói :”Đá, không phải ngọc”. Vua lại cho họ Hòa là nói dối, sai chặt nốt chân phải.
 
          Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hòa ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi  Sở-sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa:”Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối”. Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là “Ngọc bích họ Hòa”.
                             (Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 144)
 
III. CÁCH HÀNH XỬ CỦA TA.
 
          1. Phải can đảm chọn lựa.
 
          Trong cuộc đời có nhiều sự chọn lựa. Quyền chọn lựa là do mỗi người và mỗi người phải nhận lấy hậu quả của sự chọn lựa ấy. Không một chọn lựa nào có thể hoàn toàn bảo đảm cho tương lai, nên con người luôn bị day dứt về sự lựa chọn : bởi vì có người lựa chọn trong sự khôn ngoan sáng suốt, có người lựa chọn trong sự  u tối mờ mịt. Nhưng riêng trong việc lựa chọn Nước Trời luôn là một sự lựa chọn khôn ngoan, một chọn lựa đúng hướng. Muốn lựa chọn Nước Trời, chúng ta phải có thái độ can đảm, dám hy sinh tất cả, dám gạt bỏ mọi trở ngại trong việc tìm kiếm, dám nhận lấy cái nhãn hiệu là “người dại, người khờ”
 
          Hai người trong bài Tin mừng hôm nay rất khôn ngoan : người thứ nhất khám phá một kho tàng giấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc qúy, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc qúy đó.  Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc qúy mà không làm như hai người ấy ! Đương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn qúi giá hơn nhiều.
 
Truyện : cách bắt khỉ.
          Muốn bắt khỉ, người ta cho quả táo vào cái ống to, miệng nhỏ, chỉ để vừa tay con khỉ thò vào,  đầu kia gắn vào gốc cây, rồi người ta ngồi rình chờ. Khỉ đến thấy quả táo ngon thì thò tay vào lấy luôn nhưng không rút tay ra được vì vướng miệng ống. Muốn rút tay ra được thì phải buông quả táo ra. Nhưng con khỉ không biết buông quả táo ra mà cứ nắm chặt lấy nó mà la hét.  Người ta đến bắt dễ dàng.
 
          Con khỉ thật dại dột, không biết buông quả táo ra để có thể rút bàn ta ra khỏi ống mà cứ khư khư giữ lấy quả táo thì không bao giờ có thể rút tay ra được. Con khỉ không biết  bỏ cái nhỏ mà chọn lấy cái lớn, không biết bỏ quả táo đi mà giữ lấy bản thân.
 
          Chúng ta đôi lúc cũng hành động như vậy. Chúng ta muốn thờ Thiên Chúa vừa muốn thờ thần Mammon, trong khi đó Chúa đã nhắc nhở :”Không ai có thể làm tôi hai chủ”. Bao lâu chúng ta còn hành động theo kiểu “bắt cá hai tay” thì không bao giờ thành công, phải chọn một trong hai. Muốn vào Nước Trời thì phải hy sinh, phải từ bỏ những gì làm cản trở :”Không phải cứ kêu Lạy Chúa, Lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý Cha trên trời”. bởi vì Nươc Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh, sức mạnh tinh thần (regnum coelorum vim patitur). Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để chiếm được một viên ngọc qúi. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để chiếm hữu được Nước Trời.
 
          2. Chuẩn bị cho Giờ của Chúa.
 
          Hình ảnh chiếc lưới vét hết mọi loại cá thường được dùng chỉ ngày tận thế, ngày cuối cùng của lịch sử (x.Lc 21,34). Điều khác biệt với dụ ngôn trên đây là vào ngày đó, tất cả mọi người, dù muốn hay không đều phải ra trình diện truớc toà phán xét. Ngày ấy sẽ là cuộc thanh lọc người dữ người lành. Sự lành sự dữ không thể được xếp đồng hạng với nhau. . Sẽ có thời điểm phân tách để thưởng phạt công minh. Như vậy người khôn ngoan là người sống hôm nay mà đang chuẩn bị cho tương lai ngày mai.  Họ sống trên trần gian nhưng không thuộc về trần gian, vì họ luôn hướng về Quê Hương vĩnh cửu. Tuy vậy, hạnh phúc đời đời không làm chúng ta quên đi bổn phận đối với anh em, đối với cuộc sống hiện tại. Vì hạnh phúc vĩnh cửu chính là kết quả của những gì chúng ta đã thực thi trong cuộc đời này.
 
Truyện : Cần phần rỗi linh hồn
Attila xâm chiếm nước Italia với các binh đoàn hùng hậu của ông. Khi đã chiếm đóng làm chủ khắp mọi nơi thuộc đế quốc Roma, ngày kia quân lính đến báo cáo với ông ta rằng :”Ở vùng ông ta đang trú đóng có một vị ẩn tu rừng” Attila, ông vua hiếu chiến, hung dữ, rất kiêu căng này luôn muốn mọi người run sợ sụp lạy trước mặt mình nên ông ta nảy ra ý định thử đến gặp vị ẩn sĩ xem sao.
 
Tưởng rằng vị tu hành sẽ sợ hãi khi đối diện với nhà chinh phục khét tiếng này, không ngờ, người của Thiên Chúa chẳng những không run khiếp, trái lại còn tỏ ra ung dung tự tại khiến Attila vừa nể phục vừa cảm mến. Sau khi trò truyện với một người khôn ngoan, có tài đáp ứng mau lẹ, Attila bèn hứng chí nói :”Ta sẽ cho ngươi tất cả những gì ngươi có thể ước muốn trong vương quốc ta”. Lúc đó, vị ẩn sĩ vừa ngửa tay chìa về phía Attila vừa nói :”Thưa Ngài, trong toàn vương quốc của Ngài, tôi chỉ ước muốn một điều duy nhất : Phần rỗi của linh hồn Ngài thôi”.
(Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 98)
 
          Phần rỗi linh hồn là một điều quan trọng và khẩn thiết nhất trong cuộc đời. Đức tin đưa chúng ta đến phần rỗi đời đời. Như người lái buôn tìm được ngọc quí, ông ta về bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy. Người Kitô hữu được Thiên Chúa tặng ban cho Đức tin là một hồng ân quí giá, chúng ta hãy về bán tất cả để giữ cho được cái kho tàng ân sủng ấy, có nghĩa là chúng ta phải dứt khóat từ bỏ những sở hữu phàm trần như : những đam mê thấp hèn, lòng tham danh vọng, tiền tài vật chất quá lẽ, tính ích kỷ kiêu căng, sự thờ ơ trước những đau khổ của người khác…
 
Suy gẫm các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa ra ba dụ ngôn  này là muốn mỗi người chúng ta phải nhận thức cho bằng được bài học quan trọng này : đang lúc còn sống ở trần gian, ai cũng phải ghi tâm khắc cốt rằng không có gì cao qúi và quan trọng cho bằng NƯỚC TRỜI.  Nước Trời là kho báu tuyệt vời mà mọi người đáng mong ước. Xác tín như thế, người ta mới dám hy sinh từ bỏ mọi sự khác, hy sinh cả bản thân mình để chiếm được hạnh phúc thiên đàng.
 

CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN A
CHÚA BAN LƯƠNG THỰC CHO LOÀI NGƯỜI
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Mọi sinh vật trên mặt đất này cần phải có một thứ lương thực thích hợp để nuôi sống. Con người cũng là một sinh vật nên cũng phải theo qui luật bất di bất dịch ấy. Nhưng con người lại khác với những sinh vật khác ở chỗ ngoài sự sống vật chất còn có sự sống tinh thần, sự sống thần linh mà lương thực trần gian không thể đáp ứng được.  Căn cứ vào lời Chúa Giêsu nói với qủi đến cám dỗ Ngài :”Người ta không sống nguyên bởi bánh”. Như vậy con người còn có một thứ lương thực đặc biệt khác, đó là lương thực thần linh.
 
          Mọi người đói khát hãy đến với Chúa vì theo ý Chúa Cha, Đức Giêsu đã tự hiến dâng để làm dịu cơn đói khát luơng thực thiêng liêng ấy.  Ngày nay Hội thánh dạy chúng ta : lương thực thần thiêng nuôi dưỡng chúng ta đó là Lời Chúa và Thánh Thể.  Khi đã được Chúa nuôi dưỡng bằng luơng thực ấy, chúng ta cũng có trách nhiệm phải làm cho người khác cũng được nuôi dưỡng như vậy vì :”Các con đã lãnh nhận nhưhg không thì cũng phải cho đi nhưng không”.
 
          Thiên Chúa như nguồn nước, Ngài không ngừng thông ban ân phúc cho con người qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và Lời Chúa, nên các môn đệ Chúa ngày nay mặc dù không có khả năng sản xuất ra lương thực nuôi dân, nhưng họ sẽ gắng sức, tận dụng tài năng, trí lực của mình để đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, rồi trao ban cho con người để người người biết cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, làm giầu mặt đất và đem lại hạnh phúc cho nhân lọai.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Is 55,1-3.
 
          Khi thời gian lưu đầy ở Babylon sắp hết, tiên tri Isaia được sai đến kêu gọi toàn dân (-540) khi thoát cảnh lưu đầy trở về xây dựng lại đất nước, hãy “lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe thì sẽ được sống”.  Thiên Chúa mời gọi người ta đến dự một bữa tiệc do Người khoản đãi. Bữa tiệc sẽ có những cao lương mỹ vị, hoàn toàn miễn phí, không phải trả đồng xu nào.
 
          Với hình ảnh thức ăn và thức uống vật chất được tặng miễn phí cho người nghèo của Giavê, Isaia muốn dạy chúng ta phải biết thèm muốn và tìm lương thực tâm linh là Lời Chúa và tình thân hữu với Chúa.
          Như vậy, hình ảnh bữa tiệc mang ý nghĩa tượng trưng :
          - Tượng trưng cho sự thoả mãn những khát vọng của con người.
          - Tượng trưng cho hạnh phúc Nước Trời.
 
          +  Bài đọc 2 : Rm 8,35, 37-39.
 
          Trong đoạn thư này, thánh Phaolô biểu lộ niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa Kitô. Tình yêu của Chúa Kitô chiến thắng tất cả, vì thế không có gì có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô, dù bị gian nan thử thách như gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo.
 
          Chúa yêu thương chúng ta  như chưa có ai đã thương như thế bao giờ. Ngay từ bây giờ chúng ta tham dự cuộc sống thần thánh của Người trong khi chờ đợi chúng ta chia sẻ vinh quang của Người trên trời.
 
          +  Bài Tin mừng : Mt 14,13-21.
 
          Thánh Matthêu mô tả việc Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều để nuôi hơn 5000 người ăn. Phép lạ cũng được cả bốn Thánh sử ghi chép lại, nói lên sự quan trọng của sự việc.  Chiều đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ :”Họ chẳng cần phải đi đâu, anh em hãy cho họ ăn”.  Việc biến hoá bánh ra nhiều là biểu tượng phép Thánh Thể mà Chúa sẽ thiết lập sau này. Thánh Thể cũng sẽ là lương thực, là của ăn của nhân loại trên đường về quê trời.  Và Chúa Giêsu cũng thiết lập vào một buổi chiều tối, Giáo hội tiên khởi cũng “bẻ bánh” lúc đêm về.
 
          Phép Thánh Thể là bí tích của đoàn người đi trong sa mạc, trong đêm tối dưới ánh sáng Chúa Phục sinh, như ngày xưa dân Chúa đi qua sa mạc dưới ánh cột lửa và nhờ manna nuôi sống.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                      Lương thực dưỡng nuôi chúng ta.
I. NHU CẦU CỦA CON NGƯỜI.
 
          Con người được kết hợp bởi hai phần : linh hồn và thể xác. Mỗi phần có những nhu cầu khác nhau.  Con người không những cần phải được thỏa mãn những nhu cầu vật chất nhưng còn những nhu cầu tinh thần nữa.
 
          1. Nhu cầu vật chất.
 
          Con người cũng như các sinh vật phải ăn mới có thể sống. không ăn không uống là chết, đó là qui luật tự nhiên cho mọi sinh vật trên mặt đất này. Người Việt nam chúng ta hay nói :
                                      Dĩ thực vi tiên
                             hay
                                      Có thực mới vực được đạo.
          Người Tây phương cũng nói giống như thế :”Ăn đã rồi hãy triết lý” (manducare priusquam philosophare).
 
          Điều ấy chứng tỏ rằng ăn uống là cần thiết và cũng là điều kiện tất yếu của sự sống.
 
          Một cuộc nghiên cứu có tính cách quốc tế cho biết một nửa dân số thế giới không được cung cấp đủ nuớc sạch và 450 triệu người mỗi đêm đi ngủ mà bụng đói meo. Nhiều nước châu Phi đã bị nạn đói hoành hành trầm trọng cần được Liên hiệp quốc cứu trợ.
 
          Xem ra loài người được cho là thông minh nhất vẫn mãi mãi lo giải quyết cái ăn cái mặc. Và oái oăm thay vẫn những phương tiện tối tân như cơ giới hóa việc cầy cấy, gieo trồng lúa đúng khoa học kỹ thuật, thay trời làm mưa gió để tăng năng xuất, thế mà dường như thế giới loài người càng ngày  càng nghèo hơn, đói khổ lan tràn.  Ở Việt nam chúng ta, chương trình xóa đói giảm nghèo đang được xúc tiến mạnh mẽ, hy vọng dân  chúng sẽ bớt nghèo đói.  Phải chăng đói khổ mãi mãi là hậu quả của tội nguyên tổ mà con cháu loài người chúng ta phải lãnh đủ lời nguyền rủa của Thiên Chúa “phải khó nhọc bưới đất nhặt cỏ mới có của ăn” ?
 
          Chúng ta nên nhớ rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên trái đất này, một trái đất phong phú, sản sinh ra đầy đủ đến dư thừa mọi lương thực chẳng những cho loài người mà còn cho muôn loài. Cho nên trên căn bản là Chúa bảo đảm cho con người được no nê.
 
          2. Nhu cầu tinh thần.
 
          Con người tuy cũng là con vật nhưng là một con vật có lý tính (Homo est animal rationale) không những chỉ đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu vật chất mà còn đòi hỏi thỏa mãn  những nhu cầu cao hơn vật chất : đó là những khát vọng cao hơn và quí hơn như bình an sâu sắc, tình yêu chân thật, sự sống vĩnh cửu... Chân, thiện, mỹ tuyệt đối. Những khát vọng này không ai và không cái gì có thể thoả mãn cho chúng ta, ngoài một mình Thiên Chúa.
 
          Chúa Giêsu rao giảng ở đâu thì người ta tấp nập kéo đến khắp nơi từ thành thị đến thôn quê. Người ta đến quấy rầy Chúa đến nỗi Ngài và các môn đệ không có thì giờ nghỉ ngơi ăn uống. Số người  đến nghe Chúa rao giảng rất đông. Nếu chỉ tính riêng đàn ông mà đã tới 5000 người thì con số sẽ lên đến 10.000 hay 15.000 người nếu kể cả đàn bà và con nít.  Họ say mê đi nghe Chúa giảng đến nỗi quên cả thời gian, quên cả ăn uống. Như trong bài Tin mừng hôm nay, sau khi đã giảng dạy dân chúng lâu giờ, trời đã xế chiều, có lẽ vào khoảng 3 giờ chiều, các môn đệ giục Chúa cho họ về, vào làng mạc mà mua thức ăn, kẻo ở nơi hoang địa thì không có gì ăn và đêm đã xuống dần.
 
II. CHÚA THỎA MÃN NHU CẦU CON NGƯỜI.
 
          Thánh Matthêu cho biết khi hay tin Chúa Giêsu xuống thuyền đi đến chỗ hoang vắng riêng biệt thì dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người.  Chúa Giêsu thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương vì họ như đàn chiên không có người chăn. Họ đến với Chúa như đến với vị mục tử nhân lành, họ đặt tin tưởng vào Chúa. Đáp lại, Chúa Giêsu chữa lành nhiều bệnh nhân và đáp ứng nhu cầu vật chất cho họ.
 
          Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, quên ăn quên uống, nhưng dù sao dạ dầy của họ cũng phải nổi loạn khi không được cung cấp thức ăn thức uống cho nó. Bóng chiều đang xuống dần mà dân còn đang ở trong nơi hoang vắng xa làng mạc thành thị, họ ra về, đường còn xa sợ có người đói lả dọc đường. Chúa Giêsu muốn các môn đệ cho họ ăn. Nhưng trong hoang địa này lấy đâu ra lương thực cho ngần ấy người ăn. Ở đây chỉ có thằng nhỏ có 5 chiếc bánh và 2 con cá.  Bằng ấy thực phẩm thì nhằm nhò gì với một biển người như vậy ! Nhưng Chúa Giêsu cứ bảo họ ngồi xuống thảm cỏ để cho Người làm việc.  Thánh Matthêu kể :”Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được 12 giỏ đầy”.
          Lời giảng của Chúa đã làm cho dân chúng say mê, Lời Chúa là thức ăn nuôi dưỡng và bồi bổ cho linh hồn. Tuy thế, Chúa không quên thỏa mãn nhu cầu vật chất cho họ, vì họ là con người có hồn có xác, phải được nuôi dưỡng đầy đủ. Như vậy Chúa thực hiện lời khuyên :”Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa, còn mọi sự khác Người sẽ thêm cho”.
 
          Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, qúi trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuốn đến với Chúa mong Người tái diễn phép lạ ấy, nhưng Người đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của thánh Gioan , Người còn nói với họ :”Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”.  Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tich Thánh Thể.
 
III. CHÚA CẦN CHÚNG TA CỘNG TÁC.
 
          Ở đây diễn tả lòng nhân đạo của các Tông đồ đối với dân chúng. Nhưng lòng nhân đạo này chỉ có tính cách hạn hẹp theo khả năng tự nhiên của con người, nên bất lực không thể lo cho họ ăn được. Vì thế ở đây muốn nói lên sự hạn hữu và bất lực của con người nơi các Tông đồ nhưng chính sự bất lực này làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu  trong việc làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng.
 
          Chúa Giêsu biết rõ các Tông đồ bất lực trong việc cho dân chúng ăn no, nhưng Người vẫn ra lệnh cho các ông để chứng tỏ việc phân phát có ý nghĩa như một trung gian, cho dân chúng ăn là việc các Tông đồ làm được, còn việc làm cho có bánh nhiều là việc các Tông đồ bất lực thì chính Người sẽ làm thay (x Ga 6,6).
                   (Trần hữu Thành,  Suy niệm Tin mừng Chúa nhật năm A, tr 235-236).
 
          Chúa Giêsu không muốn làm việc một mình, Ngài muốn cho chúng ta cộng tác, mỗi cái Ngài làm một nửa, Ngài để công việc còn  “dang dở” cho chúng ta tiếp tục.
 
          Chiều hôm ấy, đám dân chúng đói không có gì ăn. Các môn đệ không đủ bánh, nghĩa là có nhưng thiếu ; hoặc nói cách khác là có mà dở dang. Chúa không vất cái dở dang ấy rồi tự mình làm phép lạ. Chúa bảo đem cáo dở dang ấy đến. Sao Chúa không làm phép lạ cho có bánh, mà chỉ làm phép lạ  cho bánh hóa ra nhiều ? Sao Chúa ưa thích cái dang dở của các Tông đồ làm chi (Mc 6, 36-43) ?
 
          Chúa thích làm phép lạ dang dở. Chúa làm có một nửa nên nhân loại mới được  góp phần trong công việc trọng đại ấy. Cái dang dở Chúa để xẩy ra là dang dở huyền nhiệm. Thiếu dang dở này con người thiệt thòi biết bao.  Cần có những dang dở của Chúa để dang dở của con người hết dở dang. Con người không thể làm phép lạ tự cứu lấy mình. Chúa cũng không cứu con người khi con người không tự do lãnh nhận. Phép lạ của Chúa cần là phép lạ một nửa, phép lạ dang dở để tôi được tham dự. Cái dở dang của Chúa là chỗ trống cho tôi bước vào. Cái dở dang của Chúa thật là huyền diệu, sâu thẳm.
                   (Nguyễn tầm Thường, Viết trong tâm hồn, tr 7)
 
          Các Tông đồ chỉ kiếm cho Chúa được có 5 cái bánh và 2 con cá. Thật là một đóng góp quá nhỏ nhoi, nhưng thực ra, chỉ cần bằng ấy đã quá đủ đối với Chúa. Chúa không muốn làm phép lạ tự không mà có bánh cho họ ăn, nhưng Chúa muốn cho con người đóng góp  một chút để cộng tác với Chúa. Như vậy, phép lạ hóa bánh ra nhiều là kết quả của sự kết hợp giữa quyền năng vô biên của Chúa với sự cộng tác nhỏ bé của con người.
 
          Việc này muốn dạy rằng để giải quyết kinh tế, con người với trí óc thông minh và sức lực sẵn có của mình tự tìm kiếm miếng cơm manh áo cách chính đáng trước, còn thiếu những gì Chúa sẽ bù đắp thêm. Cho nên phải tránh tính ỷ lại, lòng cậy trông kiểu giao khóan trắng cho Chúa an bài, còn mình ngồi không mà thụ hưởng hay kiêu căng tự phụ cho mình làm ra tất cả, chẳng ai giúp đỡ kể cả Thiên Chúa.
 
                                      Truyện : Người chạnh lòng thương.
          Me Têrêsa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau : Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.
          Ở Calcutta mỗi ngày dòng Nữ tử Bác ái Truyền giáo chúng tôi phải cung cấp lương thực cho 9000 người. Bởi đó không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ tặng vào mục tiêu trên.
          Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi :
          - Hai con có thể cho  mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế ?
          Họ trả lời :
          - Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức linh đình, để dùng tiền đó giúp những người kém may mắn hơn chúng con..
          Mẹ Têrêsa hỏi tiếp :
          - Ở Ân độ, không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Tại sao các con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ và họ hàng ?
          Họ thưa :
          - Chúng con yêu nhau và muốn tặng nhau món quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một hy sinh mà cả hai cùng đóng góp vào.
                   (Thiên Phúc,  Như Thầy đã yêu, tr 106-107)
 
          Hôm nay, Người cũng mời gọi chúng ta góp phần nhỏ bé và âm thầm của mình cho anh em. Người chờ đợi nơi chúng ta một chút lòng chạnh thương. Và cả thế giới được hưởng chung phép lạ lẫy lừng của Thiên Chúa.
 
          Thực ra, con người chỉ tìm được ý nghĩa cho cuộc sống khi biết chia sẻ cho đi. Con người chỉ lớn lên theo mức độ của sự trao ban vô vị lợi mà thôi.  Có biết trao ban thì con người mới thực sự triển nở trong nhân cách. Có biế trao ban thì con người mới vui sống và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống.  Triết gia Platon quả quyết :”Con người chỉ tìm được hạnh phúc khi làm cho người khác được hạnh phúc”.  Thánh Phaolô cũng đã ghi lại khuôn vàng thước ngọc của Chúa Giêsu :”Cho thì có phúc hơn nhận lãnh” (Cv 20,35).
 
         
          Chúng ta hãy làm cho thế giới này được hạnh phúc. Chắc chúng ta cho rằng   mình chỉ là hạt cát trong biển cả làm sao có thể làm gì cho thế giới ?  Đúng vậy, chúng ta quá nhỏ nhoi và yếu đuối, tài hèn, nhưng  Thiên Chúa chỉ cần chúng ta đúng góp phần nhỏ mọn của chúng ta như một dụng cụ trung thành, còn bao nhiêu hãy dành cho Chúa.  Cậu bé với 5 cái bánh và 2 con cá làm sao có thể làm cho ngần ấy người ăn no lại còn thu được 12 thúng đầy ? Cậu không làm được, nhưng Chúa làm được. Thiên Chúa sẽ hoành chỉnh được những cái  “dang dở” của ta.
          Trong thời kỳ mới tìm hiểu đạo Chúa, Premanand đến liên lạc với Giám mục Whiley ở Ranchi. Ông viết :”Vị giám mục đọc Kinh thánh với tôi mỗi ngày. Đôi khi tôi đọc tiếng Bangal. Càng sống gần vị giám mục, tôi càng đến gần ngài hơn, và Chúa Cứu thế càng được bầy tỏ cho tôi qua đời sống của ngài.  Hành động và lời nói của ngài khiến tôi dễ hiểu được giáo huấn của Chúa Giêsu về những điều tôi đọc trong Kinh thánh mỗi ngày. Tôi có một sự hiểu biết mới về Chúa Giêsu khi tôi nhìn thấy cuộc đời yêu thương, hy sinh và từ chối bản thân của Chúa Cứu thế trong đời sống hằng ngày của vị giám mục, đối với tôi ngài thực sự là sứ giả của Chúa Giêsu.  Chúa Giêsu cần những môn đệ để Ngài có thể làm việc qua họ, và nhờ họ đem chân lý và tình yêu của Ngài đến với đời sống của người khác. Không có những người như vậy, Ngài không thể làm việc. Phận sự chúng ta là làm những người đó cho Ngài. Người ta dễ lo sợ nản lòng đối với một công tác to lớn như vậy”.
 
          Nhưng còn một điều khác trong câu truyện này có thể nâng cao tinh thần của chúng ta. Khi Chúa Giêsu bảo môn đệ cho đám đông ăn, họ bảo chỉ có 5 cái bánh và 2 con cá. Với những thứ họ mang đến đó, Chúa Giêsu đã làm phép lạ. Chúa đặt trên mỗi chúng ta một công tác trọng đại là truyền đạt Ngài cho người khác, nhưng Ngài không đòi hỏi chúng ta những tài năng, tiền của và những phẩm tính mà chúng ta không có. Ngài bảo chúng ta :”Hãy đến với Ta bằng con người thật của ngươi, dù nó nghèo nàn, hãy mang đến Ta điều gì ngươi có, dù ít ỏi, và Ta sẽ xử dụng nó một cách lớn lao trong công việc của Ta”.
                             (TVH, Tin mừng Chúa nhật, năm A, tr 192)
 
          Chúng ta hãy kết thúc với bài thơ của Amado Nervo, một đại thi sĩ cũng là một nhà huyền bí, người Mễ tây Cơ.  Bài thơ này tóm tắt sứ điệp và tinh thần bài Tin mừng hôm nay :
          “Con chỉ là một tia lửa,
                   xin biến con thành ngọn lửa.
          Con chỉ là một sợi dây,
                   xin biến con thành chiếc đàn.
          Con chỉ là một ngọn đồi cỏn con,
                   xin biến con thành ngọn núi.
          Con chỉ là một giọt nước,
                   xin biến con thành một giòng suối.
          Con chỉ là một cọng lông,
                   xin biến con thành chiếc cánh.
          Con chỉ là gã ăn mày,
                   xin  biến con thành một ông vua”.

CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN A
HÃY TÌM GẶP THIÊN CHÚA
+++
 
A. DẪN NHẬP.
 
Trong cuộc sống ai cũng muốn cho mình có một đời sống an toàn, được bảo đảm, không gặp những thử thách, những trở ngại làm cho mình phải lo sợ. Đấy là ước vọng chung của mọi người. Nhưng trong thực tế, không ai có một cuộc đời tươi đẹp như thế, bao lâu còn ở trên trần thế này. Cuộc đời không thiếu gì chông gai, không thiếu gì những gian nan thử thách  làm cho nhiều người có thể vươn lên và có thể làm cho nhiều người bị tụt xuống.
Phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt nước và cứu ông Phêrô cho khỏi bị chìm nói lên quyền năng vô biên của Chúa. Trong cuộc sống bình yên cũng như trong những lúc gặp gian nan thử thách, Thiên Chúa luôn ở bên cạnh con người. Chúa sẵn sàng ban ơn phù trợ và cứu giúp khi chúng ta kêu cầu.  Để bảo đảm cho cuộc sống, chúng ta hãy luôn ngước mắt nhìn lên Chúa, đừng nhìn xuống, đừng cậy dựa vào mình hay vào người khác mà chỉ cậy nhờ ơn Chúa phù giúp, kêu cầu Chúa như thánh Phêrô đã làm :”Lạy Thầy, xin cứu con”. Tin tưởng phó thác vào Chúa như vậy con người sẽ có một cuộc sống an toàn.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
+  Bài đọc 1 : 1V 19,9a.11-13.
 
Thời vua Akháp đang trị vì nước Israel, hoàng hậu Zébabel đem việc thờ phượng thần Baal vào nước,  tiên tri Elia phải liều mạng đến kéo đồng bào ông về với Thiên Chúa, giải thoát họ khỏi gông cùm của tà thần, dù một mình phải thách thức với cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Dù thắng cuộc và sư sãi thần Baal bị tiêu diệt, ông vẫn phải trốn thoát tay hung tàn của hoàng hậu lùng bắt.
 
Ông phải chạy trốn lên núi Horeb trong một quãnh đường dài mệt mỏi. Nơi đây Thiên Chúa đã hiện ra với ông, không phải trong tiếng sấm sét ầm ĩ của một thiên nhiên giận dữ như khi hiện ra với ông Moisen, nhưng hiện ra với ông một cách êm dịu trong sự tĩnh mịch của miền rừng núi. Elia không nhìn thấy Ngài, nhưng ông biết Ngài đang hiện diện bên cạnh ông qua một làn gió hiu hiu.
+  Bài đọc 2 : Rm 9,1-5.
 
Thánh Phaolô giãi bầy tâm sự với tín hữu Roma : Ngài rất đau buồn khi thấy đồng bào Do thái của Ngài không tin nhận Đức Kitô. Ngài muốn nói lên tình yêu của Ngài đối với dân Do thái, dân Chúa chọn, mà trong những thế kỷ trước đã được đầy tràn hồng ân của Chúa. Vì tình yêu thắm thiết ấy, thánh Phaolô sẵn sàng chịu cho người ta nguyền rủa, ngay cả việc xa rời Chúa Kitô, nếu mãi mãi sự hy sinh này cứu được dân Do thái.
Nhưng dù sao, Ngài cũng hy vọng rằng cuối cùng dân Do thái cũng sẽ tin, bởi vì dù sao họ cũng “được quyền làm con, được cho thấy vinh quang, nhận giao ước, lề luật, phụng tự và lời hứa”.
+  Bài Tin mừng : Mt 14,22-33.
 
Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng hào hứng, muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Điều đó không phù hợp với sứ mạng Messia của Ngài. Có lẽ Ngài không muốn cho  lòng hăng hái lệch lạc này tác động lên các tông đồ, nên đã vội vã bảo các ông lên thuyền sang bên bờ kia.
Sáng sớm Ngài đã đi trên mặt nước mà đến với các ông. Họ tưởng Ngài là ma nên đã kêu rú lên. Nhưng Chúa Giêsu đã trấn an họ. Ông Phêrô muốn rời thuyền đi trên mặt nước mà đến với Chúa. Được sự đồng ý của Chúa, ông mạnh dạn bước đi, nhưng vì sóng lớn, ông sắp bị chìm, đã kêu lên :”Lạy Thầy, xin cứu con”.  Chúa Giêsu đưa tay ra đỡ ông lên tuyền và trách ông thiếu lòng tin. Sau biến cố này, các môn đệ đã thốt lên :”Quả thật, Ngài là Con ThiênChúa”.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Có Chúa trong cuộc đời.

I. CUỘC ĐỜI CỦA CON NGƯỜI TRÊN TRẦN THẾ.

 
Trên trần gian này ai cũng muốn được hạnh phúc, còn hạnh phúc đời sau thì tùy ở mỗi người, có đức tin hay không. Sống trên đời, con người ai cũng muốn được an toàn may mắn, gặp những điều tốt đẹp... nên họ chúc nhau : vạn sự như ý.  Thế nhưng những trang lịch sử của toàn thế giới, của các dân tộc và của riêng bao con người, đã cho thấy rằng các điều tốt đẹp trên nếu có đạt được thì rất giới hạn và mau qua.  Ngay trong đời sống của các thánh hiền hay của những người có đức Kitô hiện diện  cũng không có nghĩa là họ thoát khỏi những khó khăn không ngờ xẩy đến.
Tuy nhiên, nếu như xưa Đức Kitô ở bên cạnh các tông đồ, giúp đỡ các ông thắng vượt những khó khăn trên mặt biển, thì sự hiện diện của Đức Kitô nơi chúng ta sẽ giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận và vượt qua những khó khăn hằng ngày trong cuộc sống như vậy vì “ngày nào có sự khó cho ngày ấy”. Chính trong các hoàn cảnh này, niềm tin của chúng ta  mới phát triển và trưởng thành hơn.
Kinh nghiệm cho hay những người có đức tin hay những người chẳng có đức tin  đều bị chi phối bởi những luật lệ thiên nhiên mà không ai chống lại được. Không thiếu gì những thiên tai do thiên nhiên đưa đến như bão lụt, động đất, hạn hán, sóng thần... hoặc do con người gây ra như chiến tranh, loạn lạc, hận thù chia rẽ, khủng bố, nghèo đói...
Nữ sĩ Đoàn thị Điểm đã nói lên nhận xét của mình về một xã hội chứa đầy những đau khổ loạn ly trong phần mở đầu cuốn “Chinh phụ ngâm khúc” :
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
                                      Khách má hồng nhiêu nỗi truân chuyên
                                      Xanh kia thăm thẳm tầng không,
                                      Nào ai gây dựng nên nông nỗi này ?
             
Thi sĩ Nguyễn Du cũng gửi gấm tâm sự của mình trước những cảnh nhiễu nhương của xã hội thời ông, trong cuốn “Đoạn trường tân thanh” :
 
Trăm năm trong cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
 
   Theo nhận xét của Nguyễn Du đời người là mộc cuộc bể dâu, thay thay đổi đổi không ngừng, không có gì là vững chắc. Trong những thay đổi ấy thi sĩ thấy có biết bao nhiêu cảnh đoạn trường xẩy ra làm cho mình đau đớn.  Chính những điều thay đổi ấy không làm cho thi sĩ được yên ủi, nhưng ngược lại làm cho thi sĩ phải buồn sầu đối với “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
   Thi sĩ Xuân Diệu thì có cái nhìn bi quan vềà sự thay đổi của sự vật, nghĩa là chỉ nhìn thấy cái mất mà không thấy cái còn :
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt.
   Một thi sĩ khác cũng phát biểu như thế :
Hoa nở để mà tàn,
Trăng tròn để mà khuyết,
Mây hợp để mà tan,
Nước đầy để mà vơi.
 
Có rất nhiều người trên đời đã phải vật lộn với biết bao gian nan thử thách để mà sống. Có người đã vượt qua, có người bị đắm chìm, nên người ta đã gửi kinh nghiệm sống ấy vào câu tục ngữ : Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh : nghĩa là số phận của con người, hoặc cuộc sống long đong gặp nhiều gian truân vất vả.

II. NHỮNG THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI.

 
1. Trong đời sống vật chất và tinh thần.
 
Đối với những người yếu đuối tinh thần, những người nhu nhược thì sự gian nan khốn khó làm cho họ nản lòng rủn chí. Trái lại, đối với những người có ý chí vững mạnh, gian nan khốn khó  càng là động lực  thúc đẩy họ tiến lên.  Ông Baden Powell, ông tổ của Hướng Đạo, đã nói :”Đời sẽ thành vô vị nếu toàn là đường mật ; muối sẽ mặn chát nếu ta nhấm một mình nó, nhưng khi bỏ nó vào đồ ăn, nó là một thứ gia vị ngon lành. Khó khăn, trở ngại đều là những hạt muối trong đời”.
Người Đông phương thường truyền lại một câu chuyện mang tính chất ngụ ngôn như thế này : Ngày xưa có chàng nông phu theo truyền thống lâu đời của gia đình, năm nào cũng chăm chỉ cầy bừa đào xới đất ruộng, dù mười hai năm liền trời không mưa.
Ngày nay phần đông chúng ta chỉ cần một năm trời hạn hán là đâm ra chán nản, không muốn tiếp tục cầy ruộng nữa.  Chúng ta thường là những người thiếu ý chí, quên lời dạy của cổ nhân :”Ở đời không có con đường nào bước một bước mà đến nơi bao giờ”.
Người ta cho gian nan thử thách là một điều cần thiết để đề cao giá trị con người không biết mỏi mệt, không chịu đầu hàng trước những khó khăn :
                             Có gió lung mới biết tùng bá cứng,
                             Có ngọn lửa hừng mới biết thức vàng cao.
                                                (Tục ngữ)
 
          Hoặc một nhận xét rất thực tế của một danh nhân :
          “Những cây mạnh nhất, cao nhất, mọc trên những mảnh đất cằn cỗi nhất”.
          Bời vì kinh nghiệm của một thi sĩ đã cho biết :
                                      Chiến đấu có gian nan
                                      Khải hoàn mới vinh quang.
                                                (Corneille)
 
          2. Trong đời sống thiêng liêng.
 
          Chúa Giêsu đã lãm gương cho chúng ta về sự chấp nhận và biết thánh hoá những gian nan thử thách trong đời sống hằng ngày. Thánh Phaolô đã diễn tả trong một bài Thánh ca :
 
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Tc Pl 2, 6-8).
 
          Kinh thánh cũng cho biết gian nan thử thách là cần vì nhờ đó mà vàng thau không còn lẫn lộn nữa. Nhờ thử thách vàng ròng sẽ được tinh luyện :”Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Vì thế người ta nói :
                                      Vàng vào lửa hoá vàng y
                                      Rác rơm vào lửa biến đi đàng nào.
 
          Thánh vịnh 90 cho biết cuộc đời con người vắn vỏi chỉ như cơn gió thoảng qua, nhưng trong đó có biết bao đau khổ con người phải chịu :
 
                                      Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục
                                      Mạnh giỏi chăng là được tám mươi
                                      Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ
                                      Cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
                                                          (Tv 90,10)
 
          Thánh Phaolô đã bị đau khổ dằn vặt vì những khó khăn xẩy ra nơi mình. Ngài đã phải chiến đấu khổ sở. Ngài đã tiết lộ cuộc chiến đấu cam go của ngài cho tín hữu Côrintô:”Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi đã bị như một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi :”Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12,7-9).
 
                                      Truyện: Chỉ bán hạt giống.
          Cha Antony de Mello kể lại giấc mơ  của Paquita như sau : Nàng rảo quanh các quầy hàng của một trong những cửa tiệm lớn nhất hành tinh. Bỗng nhiên nàng nhận ra  Thiên Chúa sau một quầy hàng :
          - Lạy Chúa, Ngài bán gì vậy ?
          - Tất cả những gì mà lòng con mong ước.
          - Con muốn mua sự bình an trong tâm hồn, tình yêu, sự khôn ngoan, những liều thuốc chữa trị mọi thứ sợ hãi.
          - Tốt  lắm, nhưng ở đây không bán trái mà chỉ bán hạt giống thôi.
                             (André Sève, Sương mai, tr 51-52)
 
III. THÁI ĐỘ CỦA TA TRƯỚC GIAO NAN THỬ THÁCH.
 
          Ta có thể coi trần gian là một biển rộng mênh mông, con người chỉ là một chiếc thuyền trên mặt biển. Mặt  biển có lúc phẳng lặng, con thuyền có thể lướt qua mặt nước một cách an toàn. Nhưng cũng có lúc mặt biển nổi sóng to gió lớn như biển Tibériade mà các tông đồ đang gặp phải trong bài Tin mừng hôm nay thì con thuyền sẽ chao đảo, phải chèo chống mạnh mẽ.  Trong những lúc con thuyền đời ta đang gặp sóng gió trên biển cả, ta phải làm gì  ? Một mình chèo chống chưa đủ vì sức người yếu đuối, sóng gió lại dữ dội.  Ngoài sức chèo chống của mình, chúng ta còn phải kêu cầu Chúa đến giúp đỡ như các tông đồ đã làm :”Xin cứu con với”!
 
          1. Ta phải tin cậy Chúa.
 
          Trong cơn gian nan thử thách ta hay thất bại, nản lòng vì chỉ tin vào sức mình hay vào người khác. Để vượt qua những khó khăn ấy, Chúa đòi chúng ta phải có lòng tin vào Chúa. Thánh Phêrô đã chứùng minh điều đó : khi bước xuống khỏi thuyền đi trên mặt nước đến với Chúa : ông tin. Khi sắp bị chìm, ông sợ hãi kêu cứu : ông mất tin. Khi Chúa kéo ông lên thuyền : ông tin.  Tại sao ông Phêrô cũng như chúng ta sợ ? Vì thiếu lòng tin. Chúa khuyên :”Đừng sợ”.
 
                                       Truyện : đức tin lớn lao.
          Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tĩnh trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :
          - Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
          - Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là một người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
                             (Trích ở Góp nhặt)
 
          Hai hình ảnh về một lòng tin đã được thánh Matthêu nối kết với nhau, như một đối trọng, nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa ở cùng, luôn là điều cần thiết cho các môn đệ năm xưa. Lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa như một mặt hồ phản chiếu. Có những lúc phẳng lặng trong suốt soi rõ những vẻ đẹp thiên nhiên. Nhưng nhiều khi chỉ một làn gió nhẹ làm gợn sóng, mặt hồ liền xáo động, bao nhiêu vẻ đẹp đều tan biến.
 
          Nhìn lại những thăng trầm của cuộc đời, mỗi khi chúng ta được sống trong bầu khí an vui, được hài lòng với mọi sở nguyện, chúng ta dễ dàng xác tín và cảm nhận mạnh mẽ sự quan phòng của Chúa. Thế nhưng khi gặp phải những gian nan thử thách, những điều bất ưng, những nghịch cảnh – như các môn đệ xưa ở giữa sóng gió -  chúng ta dễ dàng hoang mang lo sợ và không nhận ra Ngài. Bởi lẽ chúng ta đã quá lo lắng về cuộc sống và chỉ biết tự lo liệu lấy một mình.  Nhưng “Phúc thay ai bước đi không phải nhờ cái nhìn, mà nhờ sự phó thác của niềm tin” (Sh Roger). Quả thật, lòng tin của chúng ta đã nhiều lúc yếu ớt, mong manh – một khi chúng ta không biết tín thác vào Chúa Kitô để có sự bình an, không còn chia sẻ con đường thập giá như một phương tiện để hưởng nhờ vinh quang với Ngài.
                   (Mai Chi, CG và DT, số Giáng sinh 95, tr 228)
 
          2. Ta phải nỗ lực.
 
          Chúa luôn yêu thương ta, Chúa không bao giờ “đem con bỏ chợ”. Nhưng thương yêu không có nghĩa là lúc nào Ngài cũng âu yếm ôm ta vào lòng, chiều chuộng như một đứa con nít, nhưng Chúa muốn ta phải trưởng thành, phải chịu gian nan thử thách để thành nhân.
 
          Tuy Chúa để ta phải chịu thử thách, Ngài đã đo lường sức chịu đựng của chúng ta, không bao giờ chúng ta phải chịu thử thách quá mức. Chúa chỉ đòi chúng ta cộng tác một nửa hay ít ra một phần, còn bao nhiêu thì để phần cho Chúa, giống như trường hợp các tông đồ chỉ cung cấp cho Chúa có 5 cái bánh và 2 con cá, nhưng Chúa đã làm cho 5000 người đàn ông ăn no không kể đàn bà con trẻ, lại còn thu được 12 thúng bánh vụn.
 
          Muốn thành công, Chúa đòi chúng ta phải cộng tác, Chúa không chịu làm một mình. Thánh Augustinô đã có kinh nghiệm về chân lý ấy khi viết trong cuốn “Tự thuật” :”Lạy Chúa, khi dựng nên con Chúa không cần có con, nhưng Chúa không thể cứu con nếu con không cộng tác’.
 
                                      Truyện : Phải kiên trì
          Ông Paden Powell kể : Có hai con ếch té nhào vào trong một lu sữa to lớn. Cả hai dẫy dụa và mệt lử. Một con nản lòng và chết đuối. Con kia cũng thất vọng, nhưng mà điều đó càng khiến nó vùng vẫy đến nỗi nó trèo được lên đỉnh một khối bơ, vì nhờ vậy mà nó thoát chết.
 
          3. Ta phải cầu nguyện.
 
          Trong cuộc sống chúng ta gặp phải nhiều khó khăn, những ngăn trở làm cho chúng ta hoang mang. Chúng ta có thể tham khảo ý kiến của những người khôn ngoan, hiểu biết hơn, nhưng những hiểu biết đó chỉ có hạn ; hơn nữa những khó khăn ấy vượt khả năng của chúng ta, chỉ còn một lối thoát là hãy chạy đến với Chúa, xin Ngài giúp đỡ. Hãy theo gương thánh Phêrô kêu xin Chúa giúp :”Lạy Thầy, xin cứu con”. Hãy nhìn thẳng vào Chúa, đừng rời Chúa. Bao lâu con mắt ta rời Chúa là ta thất bại vì chỉ biết nhìn vào chính mình hoặc vào người khác.
 
                                       Truyện : Hãy nhìn lên.
          Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột buồm. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt gắn chặt vào bầu trời.  Nhưng đến lưng chừng cậu lại phạm một sai lầm. Cậu nhìn xuống mặt nước biển trong cơn bão, thế là cậu bị chóng mặt và sắp sửa ngã xuống.
 
          Thấy thế, một thủy thủ già la to lên với cậu :”Này nhóc, ngước nhìn lên lại bầu trời đi ! Nhìn lên lại bầu trời đi”. Cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn và cuối cùng đã leo lên được an toàn.
          Lỗi lầm của cậu bé, giống hệt lỗi lầm của Phêrô trong bài Tin mừng hôm nay.  Cậu ta đã rời mắt khỏi đích nhắm của mình và đã nhìn xuống mặt biển giông tố giống như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu và nhìn xuống mặt biển giông tố.
                   (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 242)
 
          Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta thẳng thắn nhìn vào cuộc sống của mình. Nếu chúng ta không cảm nghiệm được sự bình an là niềm vui thiêng liêng mà ta đã từng cảm nhận, thì chắc hẳn  là vì chúng ta đã rời khỏi mắt Chúa Giêsu. Nếu chúng ta đang sắp bị bão tố cuộc đời nuốt trửng, thì có lẽ là vì chúng ta đã rời mắt đi xa Chúa Giêsu.
 


CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN A
THIÊN CHÚA MUỐN CỨU RỖI MỌI NGƯỜI
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Thiên Chúa không dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc nào mà muốn dành cho mọi dân tộc không phân biệt mầu da, tiếng nói. Dân Do thái là dân được tuyển chọn, dân riêng của Chúa được chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ, đón nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu , nhưng họ dã từ chối, lại còn chống đối Ngài.
 
          Người đàn bà Canaan là đại diện cho dân ngoại được đón nhận đức tin, được Chúa ban hồng ân theo lòng tin khiêm tốn và kiên trì của bà. Chính Chúa Giêsu đã phải bỡ ngỡ về lòng tin sắt đá của bà nên đã khen ngợi :”Lòng tin của bà mạnh thật”, và đáp lại lòng tin ấy Chúa Giêsu đã nói :”Bà muốn sao thì được như vậy”.
 
          Chúng ta là những Kitô hữu , ai cũng đã có đức tin nhưng nhiều khi còn non yếu, có khi còn non  yếu hơn cả người ngoại. Hãy củng cố đức tin ấy và sẵn sàng đón nhận những thử thách Chúa gửi cho để đức tin của chúng ta mỗi ngày một tăng trưởng dưới sứ hướng dẫn và che chở của Chúa.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Is 56,1.6-7.
 
          Tiên tri Isaia đã viết đoạn sách này từ một thế kỷ sau cuộc lưu đầy ở Babylon. Dân Israel được trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ Giêrusalem, và đền thờ trở nên trung tâm của mọi sinh hoạt tôn giáo và xã hội.  Isaia cho biết : Thiên Chúa không những chỉ dành ơn cứu độ cho dân riêng của Ngài là Israel, Ngài còn muốn mở rộng dân này bằng cách nhận tất cả những ai thừa nhận Ngài như là Đức Chúa chân thật và duy nhất, mà hiến thân phục vụ Ngài vì “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.
 
          +  Bài đọc 2 : Rm 11,13-15.29-32.
 
          Trên bước đường truyền giáo, thánh Phaolô thấy dân Do thái đã được chuẩn bị đón Chúa lại khước từ không nhận Người.  Tuy thế, Ngài không thất vọng, vì dân ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ nên được Thiên Chúa xót thương, để cho dân Do thái, dân đã có đạo từ lâu, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên phải có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.
 
          Lòng thương xót của Chúa đối với dân ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh mẽ của dân ngoại, đánh thức lòng tin của dân Chúa để sẽ được Chúa xót thương.
 
 
 
          +  Bài Tin mừng : Mt 15,21-28.
 
          Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta : Thiên Chúa không phải chỉ dành riêng cho dân Do thái mà còn ban ơn cho cả dân ngoại.  Người đàn bà Canaan là một người dân ngoại, đáng lẽ bà không được hưởng hồng ân của Chúa ban  vì Đức Giêsu chỉ muốn thi hành sứ mệnh của Ngài với dân Do thái mà thôi, theo lời Ngài đã hứa với họ, nhưng Chúa không ngần ngại nhận lời cầu xin của người dân ngoại này.
 
          Tại sao Chúa ban hồng ân cho bà ấy ? Vì bà đã có đức tin rất khiêm nhường và hoàn toàn trông cậy nên bà ấy đã làm cho Chúa xiêu lòng : Ngài đã nhận lời cầu xin của bà và hứa cho con bà khỏi bị quỉ ám.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
                                                Lòng tin của bà mạnh thật
          Lòng tin mạnh mẽ cần thiết,  thế nên lòng tin ấy cần phát sinh tâm tình khiêm hạ, can đảm, kiên trì cũng như niềm hy vọng thật  sự thì lòng tin ấy mới có hiệu lực và ích lợi.  Người đàn bà Canaan ngày hôm nay, do lòng tin mạnh mẽ, nên bà đã khiêm hạ thực sự, nhìn nhận tất cả những thành kiến của người khác đối với mình, sự khiêm hạ này đã khiến Đức Kitô động lòng như thế nào ?
 
          Bà cũng đã can đảm nói lên ước muốn và kiên trì  xin cho được một ân huệ, bất chấp sự thinh lặng hững hờ của Chúa Giêsu, và bà đã không thất vọng vì những câu trả lời của Đức Giêsu đối với các môn đệ. Trái lại, qua những lời bà nghe thấy, bà nắm chắc được tia hy vọng lóe sáng ở đó : Ngài để cho vụn bánh từ bàn ăn rơi xuống... nhờ niềm hy vọng mà lời cầu xin của bà ta có sức mạnh.
 
I. NÓI VỀ ĐỨC TIN.
 
1. Tin là gì ?
 
  Đức tin là hạt giống thiên ân. Hạt giống đức tin vun trồng nhờ ơn thánh và sự nỗ lực của từng cá nhân. Tin là đòi hỏi chúng ta chấp nhận những điều vượt trên sự lý giải của lý trí. “Tin là chấp nhận vô điều kiện và bước theo” (ĐHY Nguyễn văn Thuận).
 
Phân tích chữ TIN.
          Chữ TIN bởi chữ TÍN.
          Theo Hán học, chữ TÍN gỗm chữ ‘nhân” và chữ “ngôn”, nghĩa là tin vào lời người khác nói.
          Tiếng Pháp thì chữ  CROIRE , nguyên ngữ của nó nghĩa là ‘dựa vào lời lẽ kẻ khác và chứng kẻ khác mà tin” vì họ không thể sai lầm và không thể đánh lừa ta.
 
          Chữ TIN còn có nghĩa rộng là nhận làm chắc chắn những cái ngũ quan ta không thấy, chỉ nhờ lý luận của ta mà biết có thực.  Ví dụ : Tôi thấy có vùng khói trước mặt tôi, tôi tin có lửa sau bức tường che mắt tôi.
          Theo SPINOZA và những triết gia khác đã phân tách : tin là việc hoàn toàn tùy thuộc vào lý trí, chúng ta tin vì những lý chứng hiển nhiên đáng cho ta tin. Một ý tưởng hiển nhiên nó thúc bảo chúng ta phải tin, chúng ta không thể phủ nhận không tin được ...
         
Ông J. Calvet nói :”Dĩ nhiên lòng tin phải dựa vào lý chứng bởi vì một phần nào nó cũng là kiến thức về chân lý, nhưng nó là một hành động tự do của ý chí cho chúng ta tin tưởng gieo mình vào cánh tay của Thiên Chúa, khi ta tới chỗ nào mà khoa học không còn gì cho ta biết nữa” (J. Calvet, Prends  et lis)
                           (Lê thành Trị, Tìm hiểu Duy linh, tr 91-92)
 
          2. Thấy và hiểu mới tin ư ?
 
          Khó hiểu là một chuyện mà phi lý lại là một chuyện khác ! Khó hiểu mà hợp với chân lý thì không sao. Chỉ sợ khó hiểu mà đi ngược với chân lý thôi.
 
          Biết bao điều bí ẩn trong vũ trụ mà ta chưa hiểu hết được, hay nói một cách thông thường, chán chi những sự dễ dàng trước mắt mà ta không hiểu nổi và không hiểu hết.
 
          Trí khôn con người chỉ hiểu biết một mức nào thôi, cũng ví như cậu học sinh không thể hiểu biết được ngang với trình độ giáo sư.  Ví dụ : một em bé, học mới trình độ toán cộng, em làm một bài toán : 1+1+1 = 3.  Nhưng tôi lại bảo rằng cũng phương pháp làm toán mà ba con số 1 bằng số 1 : 1x1x1 = 1.
 
          Em bé chưa hiểu quy tắc phép nhân nên không hiểu biết được. Vậy thì hỏi em bé này có tin phương pháp làm toán này không ?  Ví dụ trên cũng như trăm ngàn ví dụ khác đều chứng minh cho ta thấy rằng : chán chi sự việc trong đời rất tầm thường mà ta không thể hiểu hết được nhưng ta vẫn tin. (Sđd, tr 88-89).
 
                                      Truyện : Hiểu mới tin
          Một vị trạng sư tự phụ rêu rao trước mặt đông người rằng : mình chỉ tin cái mình hiểu thôi. Trong đám đông có một thằng nhỏ đã được nghe cha xứ giảng, đứng lên hỏi :
          - Thưa ông, nếu vậy ông không tin những gì ông không hiểu ư ?
          - Dĩ nhiên thế.
          - Thưa ông, vậy xin ông cho cháu biết : tại sao ông cử động được ngón tay ?
          - Tại vì ta muốn, chỉ có thế thôi.
          - Ông muốn, vậy sao ông không thể cử động được hai tai ?
          Vị trạng sư bí lối không biết trả lời thế nào, bèn mắng :
          - Thằng nhỏ này mày muốn giảng cho ta phải không ?
          Nghe vậy mọi người đều cười.
                (Trần công Hoán, Tìm hiểu ít thắc mắc, tr 50)
 
II. ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN.
 
          Người đàn bà Canaan ngoại giáo này có một đức tin đặc biệt đã làm cho Chúa phải xiêu lòng mà ban cho bà được như ý sở nguyện :”Bà muốn thế nào sẽ được như vậy “(Mt 15,28). Như vậy, đức tin của người đàn bà này có nhiều đặc tính, chúng ta cùng tìm hiểu.
 
          1. Đức tin mạnh mẽ.
 
          Tại sao một số người co ùđức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém ? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn ?  Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà ?  Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia :”Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời”(Mt 8,8).  Nghe vậy Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài :”Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel”(Mt 8,10).
         
          2. Tin và khiêm nhường.
 
          “Con cái” thì hiểu về dân Do thái, “chó con” thì hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do thái chứ không có ý mỉa mai.  Dùng chữ “chó con” mà không dùng chữ “chó” không. Chó con giống nuôi trong nhà được vỗ về, còn chó hay chạy bậy nơi đường phố có ý nghĩa khinh bỉ.  Và chính tiếng “chó con” đã gợi cho bà này một lời thỉnh nguyện đầy khiêm nhường và tin tưởng.
 
          Các Tông đồ đuổi bà đi mà không được, và chính Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói hơi nặng lời :”Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.  Bà sụp lạy trước mặt Ngài hơn lũ chó con nằm chực vụn bánh trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa :”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”.  Thật đáng kinh ngạc ! Không ai trong dân Israel hay dân có đạo nào lại khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.
 
          3. Tin và yêu thương.
         
          Người đàn bà Canaan này có đứa con gái bị qủi ám đau khổ lắm.  Bà thương con vô cùng mà không biết làm cách nào để cứu chữa con, bà bất lực hoàn toàn trong cảnh huống này.  Vì quá thương đứa con gái bị qủi ám nên đã lặn lội đi tìm Đức Giêsu, nài nỉ van xin Ngài, bị các Tông đồ xua đuổi nhiều lần, bị Chúa Giêsu có vẻ hững hờ và còn nói những lời khinh bỉ nữa. Bà vẫn kiên trì, lòng yêu thương con bà  giúp bà chịu đựng tất cả. Bà đến với Chúa Giêsu là vì người khác chứ không vì chính bà, bà đã đến vì tình yêu, đã đến với tư cách một người mẹ đầy lòng yêu thương, tin tưởng. Lòng yêu thương của bà đối với đứa con đã làm cho Chúa cảm động và nhận lời cầu khẩn của bà. Còn tình yêu nào cảm động cho bằng câu chuyện dưới đây :
 
                                      Truyện : người mẹ Arménia.
          Câu  truyện này xẩy ra vào tháng 12 năm 1987. Một cơn động đất đã xẩy ra ở Armenia thuộc Liên xô cũ giết chết hàng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có hai mẹ con  bà Suzanna. Hai mẹ con may mắn  nằm lọt trong một khoảng trống nhỏ.  Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 thuổi kêu lên :”Mẹ ơi, con khát quá”.  Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình mẫu tử đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo : bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút.  Một lúc sau nữa nó lại kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến cuối cùng người ta cứu hai mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng :”Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”.
 
4 .Tin và kiên nhẫn.
 
          Người đàn bà này gặp cản trở vì không phải là người Do thái. Bà ấy thuộc về một dân tộc không những là ngoại giáo, nhưng từ lâu còn là thù địch của dân được Chúa tuyển chọn. Thế mà bà đã cứ kêu to nài xin Chúa Giêsu cứu chữa con của bà bị qủi ám.
 
          Bà mẹ người Canaan này là người dân ngoại. Bà biết ít hay không biết gì về Đấng là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên, rõ ràng là bà đã nghe biết phép lạ của Chúa Giêsu, bà kêu lớn tiếng :”Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Tóm lại, bà này không tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà tin Ngài là một người khác thường và có quyền năng tuyệt vời.
 
          Các môn đệ cứ muốn đuổi bà ấy đi, còn Chúa Giêsu thì thoái thác. Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất vọng. Bà kêu lớn tiếng :”Lạy Ngài, xin giúp tôi”…  Người đàn bà này đến với Chúa không phải chỉ vì Ngài có thể giúp đỡ, nhưng Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của bà. Bà đến với niềm hy vọng tha thiết với nhu cầu thúc bách, với quyết tâm không chịu nản lòng. Người đàn bà này có một đức tính tối cần để cho lời cầu nguyện được hữu hiệu, đó là bà có lòng kiên nhẫn và thiết tha vô cùng. Cầu nguyện đối với bà không phải là một nghi thức nhưng là dốc đổ ước vọng nung nấu linh hồn bà, khiến bà cảm biết mình không thể bị từ chối.
 
III. ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA THẾ NÀO ?
 
          Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn mời gọi chúng ta noi gương bắt chước người ngoại giáo này để có một đức tin chân thành, khiêm tốn và kiên trì trong khi cầu nguyện.
 
          Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị hay được Thiên Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn, khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh thánh nói lên sự thử thách có thể tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giêsu đối với người đàn bà Canaan là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách tới một mức độ nào đó rất là cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử thách ta mới được rèn luyện vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lĩnh của ta tới mức độ nào.
 
          Kinh thánh nói :”Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Thử thách rất quan trọng cho con người trong cả đời sống vật chất cũng như tinh thần, nhất là trong đời sống thiêng liêng.  Tổ phụ Abraham được gọi là  “Pater credentium” (cha của những kẻ tin) vì ông đã chịu một thử thách quá sức tưởng tượng mà ông đã thắng .
 
Khi nghe tiếng Thiên Chúa phán, Abraham kể ra có nhiều cớ để từ chối đề nghị của Thiên Chúa. Người ta thường dễ phiêu lưu, mạo hiểm khi con trẻ tuổi,  chưa bị gắn buộc bởi nghĩa vụ gia đình, hoặc chưa gây được sự nghiệp : nhưng Abraham đã cao niên, tuổi quá thất tuần (St 12,4), lại đã lập gia thất (St 11,29), còn cơ nghiệp thì dư dật, bộ hạ đông đúc, lục súc không ít, lời Thiên Chúa mời gọi xem như chẳng đem thêm gì đến cho Tổ phụ.      
 
          Người ta lại cũng dễ thay đổi môi trường sinh hoạt khi có môi trường phong phú hơn đem đến cho mình cơ  hội sống an toàn, sung mãn, với đủ tiện nghi : nhưng khi ấy Abraham đang sống tại Harân, một thị xã miềm Mêsopotamia mà lịch sử công nhận là văn minh, phồn thịnh. Bỏ Harân đã chắc gì tìm thấy một vị trí khá hơn ?  Nơi Thiên Chúa ấn định là nơi xa lạ, chẳng hiểu đến rồi làm ăn có nổi chăng ? Đành rằng Chúa cũng hứa nơi ấy sau này sẽ phì nhiêu cho con cháu  của ôngAbraham (St 12,2-3) : nhưng tổ phụ làm gì có con cái để mà hy vọng cho hậu thế (St 18,11-12) ?
 
          Vậy mà lời Chúa vang lên, Abraham đáp liền, rời cảnh an ninh, nếp sống nhàn hạ, lên đường để khởi xuớng một giai đoạn lang thang, long đong, chật vật, hết nếm mùi đói kém lại chịu cơn khói lửa của chiến tranh (St 12,10 và 14,13-14). Abraham đã gỡ mọi dây liên ái để gia nhập đất khách quê người : mà tổ phụ đã làm như thế CHỈ VÌ THIÊN CHÚA ĐÃ GỌI, CHỈ VÌ ABBRAHAM ĐÃ TIN.
 
          Đức tin bao giờ cũng là một cuộc  VĨNH BIỆT, CHIA LY : vĩnh biệt cái lòng tự phụ làm mình đinh ninh là có thể giải quyết mọi vấn đề, đối phó với các trở ngại bởi duy sức riêng mình, chẳng cần nhờ đến sự can thiệp bên ngoài, bên trên.  Vĩnh biệt để chấp nhận một trật tự khác : trật tự siêu nhiên của Thiên Chúa
                    (Nguyễn huy Lịch,  báo Nhà Chúa, số 3, 1968, tr 6-7).
 
          Trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng dờ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy.  Con mắt Ngài hằng theo dõi chúng ta như người mẹ hiền đang tập cho con bước đi. Đứa con cứ tin tưởng bước đi trong vòng tay của mẹ, nếu có ngã thì vòng tay của mẹ đã ôm vào lòng.
 
                                        Truyện : Chính ba tôi cầm tay lái.
          Ông Byron, một thi sĩ Anh, có viết một câu truyện như sau :
          Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mông lung. Phía chân trời xa, một chòm mây xám chờn vờn nổi lên. Bầu trời quang đãng không mấy chốc đã bị phủ kín đen đặc. Rồi cơn giống tố ầm ầm phát nổ. Sấm chớp kinh hoàng. Và càng lâu mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách hoảng hồn mất vía kêu la thất thanh, hỗn loạn. Duy có một đứa trẻ cứ ngồi chơi trên cầu tầu, bình tĩnh ngồi nhìn con tầu chòng chành nghiêng ngửa, giữa muôn con sóng dữ tợn gầm gừ đang lao mình tới, như không có việc gì xẩy ra.
          Lạ lùng ! Một thủy thủ giương to đôi mắt hỏi :
          - Em không sợ chết sao ?
          - Sao lại sợ ? Chính ba tôi cầm tay lái con tầu này kia mà.
 
          Chớ chi ta cũng trả lời được như vậy trước mỗi một cơn thử thách, mỗi một bước gập gềnh trên biển dương thế đầy giao động vì chính Cha chúng ta đang cầm lái con tầu trần gian !
 
          Chớ chi ta biết áp dụng vào đời sống lời Chúa đã nói lên trước ngày Thương khó :
                             “Tôi phải đâu một mình đơn côi ?
                              “Tôi có Người Cha vạn năng ở bên cạnh”
                                                 (Ga 16,32)
 
          Xin Chúa cho mọi người chúng con cũng có một lòng tin mạnh mẽ vào quyền năng của Chúa như người đàn bà Canaan nọ, và từ niềm tin đó chúng con cũng biết khiêm hạ, trước nhan Chúa, nhưng không khiếp sợ; trái lại, can đảm kiên trì bầy tỏ tất cả những ước muốn chất chứa trong cõi lòng chúng con với niềm hy vọng sâu xa vào sự giúp đỡ của Chúa. Có như  thế đời sống của chúng con sẽ đầy tràn sự thỏa mãn và hạnh phúc.

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN A
NHẬN LÃNH TRÁCH NHIỆM CHÚA TRAO
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Chúa nhật 21 hôm nay giúp chúng ta hướng lòng về Mầu nhiệm Hội thánh. Công đồng Vatican II gọi “Hội thánh là Dân Thiên Chúa” , một dân có tổ chức hẳn hoi, một Hội có đầy đủ các đặc tính của nó.  Hội thánh được coi như một gia đình, trong đó mỗi người đóng một vai trò hoặc lớn hoặc nhỏ nhưng mọi người đều có trách nhiệm phải bảo vệ vàø xây dựng gia đình đó.
 
          Trong số các hồng ân Chúa ban cho loài người, Hột thánh chắc hẳn là hồng ân qúi giá nhất. Chính Hội thánh có nhiệm vụ tiếp tục công trình của Đức Kitô, và ban cho chúng ta những đặc ân Người mang đến. Chính Hội thánh làm cho Chúa Kitô hiện diện giữa chúng ta.  Chúng ta hãy tìm hiểu Hội thánh để thêm lòng yêu mến và cố gắng làm tròn nhiệm vụ của chúng ta đối với Hội thánh.
 
          Chúng ta là những thành viên trong Hội thánh. Đã là thành viên thì mỗi người đều có quyền lợi và bổn phận bởi vì quyền lợi và bổn phận phải đi liền với nhau. Chúng ta đã được lãnh nhận nhiều ơn Chúa qua Hội thánh thì chúng ta cũng phải có bổn phận bảo vệ và xây dựng Hội thánh . Tuy mỗi người chỉ là một thành phần nhỏ nhưng cũng quan trọng, bởi vì một ngôi nhà được xây dựng lên phải bao gồm nhiều yếu tố, nhiều chất liệu mà thiếu một yếu tố nào thì ngôi nhà ấy chưa được hòan hảo. Hội thánh là một ngôi nhà chung, mỗi ngườii phải có trách nhiệm góp vần vào việc xây dựng ngôi nhà đó.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Is 22, 19-23.
 
          Lời tiên tri của Isaia hôm nay nói về việc truất phế một vị quan coi đền  thờ là Sobna, dưới triều vua Ezechia, vì ông này có những hành vi nhũng lạm.  Ông này không xứng đáng, nên chức vụ này được trao cho người khác là Éliakim, ông này sẽ lo quyền lợi chung và sẽ là người cha cho dân của ông.
 
          Mặc dù Eliakim phục vụ cho vua Ezéchia, nhưng trách nhiệm của Eliakim không phải do vua trao, mà do chính Thiên Chúa. Ngài trao cho Eliakim “chìa khoá”, nghĩa là thẩm quyền để hành xử trong phạm vi trách nhiệm của mình. Ngài còn hứa sẽ che chở, trợ giúp để ông thi hành trách nhiệm được giao phó.
 
          +  Bài đọc 2 : Rm 11,33-36.
 
          Trong thư gửi cho tín hữu Roma, thánh Phaolô ca tụng sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Đường lối của Ngài không ai hiểu thấu vì mọi vật đều do Ngài mà có, nhờ Ngài mà tồn tại. Chúng ta chỉ biết ca ngợi tình thương của Chúa đối với chúng ta và cố gắng sống theo đường lối và thánh ý của Ngài : Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời.
          +  Bài Tin mừng : Mt 16,13-20.
 
          Sau khi các Tông đồ cho Chúa Giêsu biết dư luận của dân chúng về Ngài, thì Chúa Giêsu lại hỏi chính các ông xem các ông bảo Ngài là ai ? Thánh Phêrô đã thay cho các ông khác mà tuyên xưng :”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.  Chúa Giêsu đã chấp nhận lời tuyên xưng ấy và để đáp lại, Ngài đã  đặt Phêrôâ làm thủ lãnh Hội thánh, tượng trưng cho tước vị và quyền hạn này là việc trao chìa khóa.
 
          Như vậy, thánh Phêrô và những người kế vị đã nhận được nhiệm vụ  tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô điều khiển Hội thánh, là dân Thiên Chúa.  Ngài còn hứa sẽ bảo trợ thánh Phêrô và các Đấng kế vị trong chức vụ mình, và bảo đảm với các vị là Hội thánh của Ngài luôn bền vững, không một quyền lực nào có thể phá nổi.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                   Hội thánh  của Chúa Kitô
I. HỘI THÁNH VÀ VIỆC TRAO QUYỀN BÍNH.
 
          1.  Xây dựng Hội thánh.
 
          Sau khi Phêrô đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu :”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu liền thưởng cho ông :”Phêrô, con là Đá trên Đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy”.
 
          Con là Đá : Đá ở đây vừa là tảng đá vừa là tên mới của Simon. Trong Kinh thánh, khi trao nhiệm vụ đặc biệt cho một nhân vật nào thì Thiên Chúa thường đổi tên người đó (St 17,5-15. 35,10 . Tv 13,16. 2V 23,34) . Việc đổi tên như vậy cho thấy có mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và kẻ được đổi tên.  Quả vậy, khi đổi tên Simon là Phêrô (Đá), Chúa có ý chỉ Phêrô  sẽ là Đá tảng vững chắc, trên đó Người sẽ xây Hội thánh của Người.  Tất nhiên đây chỉ là tảng đá hữu hình của Hội thánh, còn đá vô hình là Chúa Giêsu (1Cr 3,10-11 ; 1Pr 2,6-8).
 
          Qua đặc tính tự nhiên của đá, ta có thể hiểu về đặc tính của Hội thánh. Đá có đặc tính :
          * Cứng : nói lên sức mạnh của Hội thánh.
          * Bền : nói lên sự trường tồn của Hội thánh.
          * Chắc : nói lên sự vững bền của Hội thánh.
          Vì thế Phêrô quả là nền tảng của Hội thánh.
                  (Trần hữu Thành, Suy niệm Tin mừng Chúa nhật, năm A, tr 257)
 
          Hội thánh là chính Chúa Giêsu  tiếp tục sống giữa chúng ta. Qua các thời đại, cũng có những người lớn tiếng hô hào rằng : Hội thánh đã đến ngày tận số !  Nhưng Hội thánh vẫn còn tiếp tục qua 2000 năm nay và vẫn còn tiếp tục. Chúng ta hãy nghe một số phát biểu :
 
          Năm 305, hoàng đế Dioclesianô ra lệnh đúc những kim tiền  với dòng chữ  : Để kỷ niệm ngày đạo Kitô bị tiêu diệt.
          Năm 1758, Voltaire nói tiên tri : hai mươi năm nữa đạo Công giáo sẽ hết đời.
          Năm 1850, P. Proudhon quả quyết : các người đạo đức hãy lo giấy thông hành trước đi. Mười năm nữa sẽ không còn vị linh mục nào  để xức dầu cho đâu.
          Và năm 1904, Combes tuyên bố : ba tháng nữa bọn giáo sĩ phản động sẽ bị tiêu diệt.
 
          Đời nào cũng có những người cao hứng muốn làm nhà tiên tri để phê phán về số mạng của Hội thánh. Nhưn bây giờ họ ở đâu ? Họ đã chết. Hội thánh vẫn còn sống, sống mạnh, sống mãi.
          Thánh Augustinô nói :”Họ nhìn thấy Hội thánh, họ nói : Hội thánh sẽ chết, giáo dân đã đến ngày tận số. Nhưng tôi thấy họ chết mỗi ngày mà Hội thánh vẫn tồn tại để rao giảng quyền lực của Thiên Chúa cho các thế hệ nối tiếp nhau”.
 
          2. Phêrô được trao quyền lãnh đạo.
 
          Sau khi Chúa Giêsu tuyên bố sẽ lập Hội thánh trên nền tảng là Phêrô, Chúa Giêsu liền ban quyền lãnh đạo cho ông :”Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời, dưới đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy ; dưới đất, con tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” (Mt 16,19).
 
          Không còn nghi ngờ gì nữa, Đức Giêsu đã tuyển chọn và tấn phong Phêrô làm thủ lãnh của Hội thánh. Ngài xây dựng Hội thánh của Ngài trên tảng đá Phêrô và hứa sẽ bảo vệ Hội thánh khỏi mọi tấn công của tử thần.  Ngài còn trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất.  Với quyền tối thượng này, Phêrô sẽ cai quản, giáo huấn và thánh hóa Hội thánh của Đức Kitô trong tinh thần phục vụ và yêu thương, sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên đã được trao phó.
 
II. SỨ MẠNG LÃNH ĐẠO HỘI THÁNH.
 
          Hội thánh được Công đồng Vatican II gọi là “Dân Thiên Chúa”. Đã là một dân thì phải có tổ chức hẳn hoi. Chúa Giêsu đã lập một hội giáo. Hội đó là một hội hoàn toàn, có người chỉ huy và có kẻ phục tùng, không phải cá mè một lứa, theo hình thức quân chủ theo nghĩa một người có trọn quyền chỉ huy.  Hội đó có đủ các quyền hành của một hội hoàn toàn : có quyền cai trị, quyền giáo huấn và quyền thưởng phạt.  Các quyền này nhận thẳng từ Đấng sáng lập không chịu quyền của trần gian.
 
          Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu đã thiết lập Hội thánh không rõ từ lúc nào, các nhà thần học chưa đồng ý với nhau, nhưng biết chắc chắn rằng Chúa Giêsu đã thiết lập và trao quyền lãnh đạo Hội thánh cho thánh Phêrô :”Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời, dưới đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất con tháo cởi cái gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy”.. Do đó, thánh Phêrô là vị Giáo hoàng tiên khởi, rồi các vị khác tiếp tục thay phiên nhau mà cai trị Hội thánh. Các ngài cũng chỉ là con người như mọi người, nhưng được Chúa Giêsu tuyển chọn để thay quyền Ngài mà cai trị Hội thánh.  Các ngài là những vị đại diện của Chúa Kitô ở trần gian.
 
                                      Truyện : ĐGH Gioan-Phaolô II
          Một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về ĐGH Gioan-Phaolô II. Tờ báo cho biết, khi Đức Giáo hoàng còn là sinh viên du học tại Roma, một hôm đã cùng với các bạn  đi thăm cha đáng kính Piô, một Linh mục được Chúa in 5 dấu thánh. Vừa gặp, Cha Piô ôm chầm lấy ngài và nói rằng một ngày kia Cha sẽ làm Giáo hoàng và sẽ chịu đau khổ, máu sẽ chảy.  Wojtyla trả lời : “Điều ấy tôi không sợ vì tôi sẽ không bao giờ làm Giáo hoàng”.  Nhưng thánh ý Chúa nhiệm mầu ! Wojtyla đã làm Giáo hoàng và máu đã chảy trong cuộc mưu sát ngày  13.10.1981 tại công trường thánh Phêrô.  Gioan-Phaolô là vị Giáo hoàng thứ 264, từ ngày vị Giáo hoàng tiên khởi là thánh Phêrô được Chúa trao quyền tối thượng.
                   (Lm Hồng Phúc,  Suy niệm lời Chúa, năm A, tr 128)
 
                                      Giáo hoàng là vị Cha chung
                                      Cầm quyền thống trị với lòng yêu thương.
 
          Chúa Giêsu xây dựng Hội thánh trên Tảng đá Phêrô. Đá là một vật cứng , nhưng người ta thường nói :”Nước chảy đá mòn” nên tảng đá Phêrô có thể bị sứt mẻ nhưng không bị vỡ tan.  Điều đó nói lên sự yếu đuối của Phêrô. Mặc dù ông đã hứa với Chúa :”Dầu tất cả có vấp  phạm vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26,33). Và ngay đêm sau đó, không ai bắt ông phải chết, không ai ra tay tra khảo, chỉ có mấy người đầy tớ gặng hỏi, ông đã thốt lên những điều độc địa và thề rằng :”Tôi không biết người ấy” (Mt 26,74).
 
          Thế là đã rõ, Chúa Giêsu đã không chọn một vị thánh để dẫn dắt Hội thánh của Ngài, mà đã chọn một dân chài, ít học, nóng nảy, bộc trực, sa ngã và... phản bội.  Vượt lên những khuyết điểm, sai lầm và yếu đuối của Phêrô, hẳn Chúa Giêsu đã nhìn thấu suốt tâm can của Phêrô một tâm tình khiêm tốn sâu thẳm và một lòng sám hối chân thành.
 
          Thật vậy, trước đây trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu đã tâm sự với các môn đệ :”Đêm nay tất cả các con sẽ vấp ngã vì Thầy” (Mt 26,21) thì Phêrô không thể nào tin được.  Ông quả quyết với Chúa :”Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,35). Nhưng “ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô” (Lc 22,60). Ánh mắt của Chúa nhìn thấu tâm hồn ông làm cho ông đau nhói. Ông rút lui ra ngoài, tan nát cõi lòng, bước đi nặng trĩu.
 
          Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết vì lầm lỗi của mình : tại sao mình lại phản bội Thầy ?  Lúc này Phêrô mới nhận thấy mình không còn là tảng đá vững chắc nữa, mà mình chỉ là cát bụi, mình yếu đuối dễ sa ngã, không còn cậy vào sức mình như trước nữa, mà phải hoàn toàn trông cậy vào sự nâng đỡ của Chúa.  Gương sa ngã của thánh Phêrô làm cho chúng ta nhớ đến lời khuyên của thánh Phaolô : Ai đang đứng, ý tứ kẻo ngã. Cái cột trụ Hội thánh đã đổã thì những cột khác có đứng vững không ?
 
          Tuy thế, ông Phêrô cố quên đi quá khứ tội lỗi để hướng tới tương lai của ơn thánh : cảm nghiệm sâu xa của lòng Chúa khoan dung tha thứ.  Với kinh nghiệm bản thân đã kinh qua, sau này thánh Phêrô đã khuyên bảo các tin hữu của mình :”Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,19).
 
III. SỨ MẠNG XÂY DỰNG HỘI THÁNH.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chọn thánh Phêrô là Tảng đá để Ngài xây dựng Hội thánh trên đó.  Hội thánh này phải vững chắc vì xây nhà trên nền đá thì phải vững chắc, không sợ mưa sa bão táp (x. Mt 7,24-27).  Hội thánh được xây dựng trên đá tảng Phêrô là đúng rồi, nhưng câu hỏi được đặt ra là “Chúa còn xây dựng Hội thánh của Ngài trên tảng đá nào khác nữa không” ?  Thánh Phêrô đã trả lời cho chúng ta trong thư thứ nhất của ngài :”Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên đền thờ thiêng liêng”(1Pr 2,5). Như thế có nghĩa là thánh Phêrôâ trả lời cho chúng ta là “có” : vì mỗi Kitô hữu cũng là một viên đá để xây dựng Hội thánh.
 
          Như thế, thánh Phêrô không dành độc quyền xây dựng Hội thánh mà chia quyền ấy cho mọi tín hữu. Công đồng Vatican II cũng không nói khác với Phêrô : mọi Kitô hữu đều có sứ mạng xây dựng Hội thánh, mỗi người trong cương vị của mình, hoàn cảnh của mình và theo khả năng của mình mà xây dựng.
 
          Hội thánh là gia bảo mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta qua các tông đồ và các Đấng kế vị.  Trải qua 2000 năm Hội thánh đã phải chịu bao phen sóng gió, bao cuộc bách hại nhất là tại đế quốc Rôma trong 250  năm kể từ năm 64 đến năm 315, và tại Việt nam chúng ta trong suốt hơn 100 năm dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và nhóm Văn thân. Tuy thế Hội thánh vẫn luôn đứng vững vì Chúa đã hứa với Phêrô là không sức mạnh nào có thể phá nổi.
 
          Nếu Hội thánh là di sản quí báu cha ông chúng ta đã để lại, chúng ta phải bảo vệ và xây dựng Hội thánh, đừng bao giờ để cha ông chúng ta phải than vì “Đời cha vo trò, đời con bóp méo”. Hội thánh là ai ? Hội thánh là ta, là mỗi người chúng ta. Chúng ta phải làm sao cho Hội thánh luôn  mặc một vẻ đẹp và hấp dẫn trước mặt luơng dân. Bảo vệ và xây dựng Hội thánh, đó là công tác của chúng ta. Hãy giữ lấy gia sản quí báu ấy như các em thiếu nhi thuờng hát trong các buổi sinh hoạt giáo lý :
                                      Cái nhà là nhà của ta
                                      Ông cố ông cha làm ra.
                                      Cháu con hãy gìn giữ lấy
                                      Muôn năm với nước non nhà.
 
          Qua 2000 năn lịch sử của Hội thánh, chúng ta thấy Hội thánh luôn được phát triển trong những hoàn cảnh thật khó khăn, có biết bao thế lực chống phá, ngăn cản việc truyền giáo, nhiều nhà truyền giáo đã phải đổ máu ra để xây dựng  Hội thánh vì “máu các thánh Tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertulien).
 
                                      Truyện : Viên đá đầu tiên
          Cho đến năm 1896, vùng Cayenne ở Saint Ouen không bao giờ thấy bóng chiếc áo dòng đen. Nhưng một ngày trong năm đó, một vị Linh mục cả gan xâm nhập vào vùng ấy. Một người thấy vậy liền ném đá vào đầu Linh mục. Vị Linh mục cúi xuống nhặt lấy viên đá đầy máu đỏ.
          - Xin cảm ơn ông, đây là viên đá đầu tiên của một đền thờ tôi muốn xây ở đây.
          Và sự thật viên đá đó là viên đá đầu tiên của đền thờ Mân côi được xây ở đó.
          Nước Chúa trên mặt đất này là Hội thánh, cũng bắt đầu trong nhỏ hèn, trong bạc đãi như vậy. Hội thánh vẫn phát triển trong âm thầm và đau khổ.
                   (Nguyễn hài Đồng, Tự điển câu truyện, 1969, tr 114).
 
          Chúng ta luôn tin tưởng rằng Hội thánh của Chúa luôn vững bền, mặc dầu luôn gặp muôn vàn khó khăn vì Hội thánh là ngôi nhà được xây trên đá vững chắc. Vậy xây nhà trên đá là gì ? Thưa là biết lắng nghe Lời Chúa và nhất là biết đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống hằng ngày.  Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, ai xây nhà trên đá là người khôn (Mt 7,24-27), còn ngược lại,  kẻ nào không lắng nghe Lời Chúa và nhất là không thực hành Lời Chúa thì giống như người ngu xây nhà trên cát.
 
          Còn đối với các Đấng bậc trong Hội thánh, Chúa Giêsu đã muốn cho thánh Phêrô và những người kế vị trở thành lãnh đạo Hội thánh mà Ngài đã lập ra, điều này không thể chối cãi được. Bởi đó, chúng ta phải công nhận quyền uy của các Ngài, phải vâng theo lời dạy của các Ngài và làm cho nhiệm vụ của các Ngài được dễ dàng. Vâng lời các Ngài là vâng lời chính Đức Kitô. Ngài đã phán :”Ai nghe lời các con là nghe Ta”.
 
          Nếu người ta đang hô hào người dân phải bảo vệ và xây dựng Tổ quốc vì đó là bổn phận của mỗi công dân,  thì chúng ta, mỗi người la đều là công dân Nước Trời , làø thành viên trong Hội thánh, chúng ta cũng có nhiệm vụ phải yêu mến, bảo vệ và xây dựng Hội thánh, xây dựng giáo xứ, xây dựng xã hội và xây dựng gia đình. Việc xây dựng đầu tiên , làm nền tảng cho mọi cuộc xây dựng tiếp theo, chính là nỗ lực lắng nghe và sống Lời Chúa.
 

CHÚA NHẬT 22 THUỜNG NIÊN A
ĐI THEO CON ĐƯỜNG CỦA CHÚA
+++
A. DẪN NHẬP
 
          Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã trở thành Kitô hữu. Từ ngữ “Kitô hữu” có nghĩa là người thuộc về Chúa Kitô hay người được mang danh Chúa Kitô. Đã là Kitô hữu thì phải theo Chúa Kitô. Theo ở đây không phải  chỉ tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” như thánh Phêrô đã tuyên xưng. Theo Chúa không phải là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài, cũng không phải chỉ thực hành một số tục lệ và nghi lễ do tôn giáo ấn định  như đi xem lễ và lãnh nhận các bí tích.
 
          Theo Chúa là phải chấp nhận một số điều kiện khắt khe như Ngài đã đề ra và mời gọi :”Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Như vậy, Ai muốn làm môn đệ Chúa Kitô thì phải từ bỏ chính mình và vác thập giá của mình trong cuộc sống hằng ngày. Đây là điều kiện khắt khe và quyết liệt  đòi chúng ta phải nỗ lực không ngừng, nhưng nó sẽ dẫn ta tới sự sống đời đời.
 
          Như chúng ta thường nghe và cũng đã nói cái quí nhất của con người là sự tự do, nhưng kèm theo nó như hình với bóng còn có một điều hết sức quan trọng và mang đầy tính chất mạo hiểm : đó là sự lựa chọn theo nhận thức của mỗi người. Chính vì sự lựa chọn này khiến con người phải chịu ttrách nhiệm về hậu quả của hành động mình. Do đó, khi dùng tự do có ý thức để lựa chọn, con người phải cân nhắc lựa chọn, theo đúng nguyên tắc luật lệ chính đáng, luân thường đạo lý và luơng tâm ngay thẳng mới có thể tránh khỏi những sai lầm tai hại về tinh thần lẫn thể xác. May mắn thay cho chúng ta là những Kitô hữu vì chúng ta đã có Chúa hướng dẫn, ơn Chúa soi sáng giúp chúng ta dễ dàng trong việc chọn lựa.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Gr 20,7-9.
 
          Tuy Gêrêmia là con người nhút nhát, nhưng Thiên Chúa cũng gọi ông làm ngôn sứ để tuyên bố những lời chói tai mà người ta gọi ông là “nhà tiên tri loan tin dữ”. Sứ mạng của ông gặp nhiều khó khăn : nguời ta chống đối, chế nhạo ông, thậm chí còn lên án ông nữa vì ông công kích cuộc sống tội lỗi của họ,  lại còn loan báo án phạt của Thiên Chúa.  Bị đau khổ tư bề , nhiều lần ông đã định bỏ cuộc, nhưng dù sao, ông cũng phải thú nhận là ông không thể nào từ bỏ sứ mạng đau khổ đó, vì “Chúa đã quyến rũ được con, Chúa đã hùng mạnh hơn con và đã thắng con”.
 
          +  Bài đọc 2 : Rm 26,21-27.
 
          Lời khuyên nhủ của thánh Phaolô đối với tín hữu Rona cũng giống như lời Chúa Giêsu kêu gọi trong bài Tin mừng hôm nay :”Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Người theo Chúa là người từ bỏ cách sống theo thời của mình, và hơn nữa là từ bỏ chính mình, tự hiến toàn thân cho Chúa như một của lễ sống động dâng cho Chúa, giống như chủ tế dâng của lễ lên Thiên Chúa trong thánh lễ.
 
          Thánh Phaolô cho biết : làm như thế là một việc rất đẹp lòng Chúa, và đó chính là việc phụng thờ hợp lý và đáng trân trọng nhất.
 
          +  Bài Tin mừng : Mt 26.21-27.
 
          Đây là lần đầu tiên, Chúa Giêsu báo cho các môn đệ biết là Ngài phải chịu bắt bớ, chịu chết và sau ba ngày sẽ sống lại.  Lời tiên báo này làm cho các môn đệ bỡ ngỡ , không hiểu nổi vì các ông vẫn còn cái nhìn và sự hiểu biết của con người, đến nỗi thánh Phêrô phải phản đối.  Nhưng Chúa gạt ý kiến này đi và cho các ông biết chính các ông cũng sẽ phải đi theo con đường của Ngài.
 
          Những ai muốn làm môn đệ của Ngài thì phải chấp nhận đi theo con đường của Ngài, con đường đó đòi hai điều kiện căn bản :
 
                   - Điều kiện thứ nhất là từ bỏ chính mình.
                   - Điều kiện thứ hai là vác thập giá của mình.
 
          Ai thi hành hai điều kiện đó sẽ được phần thưởng :”Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên sứ của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                   Nếu muốn theo Chúa.
I. LỜI CHÚA MỜI GỌI.
 
          Sau khi các môn đệ đã tuyên xưng cách rõ ràng Ngài là Đấng Thiên Sai :”Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16), Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các ông biết “Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, bị giết chết, rồi ngày thứ ba sẽ sống lại”.  Ở đây có nghĩa là Chúa Giêsu mở ra một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này Chúa muốn mạc khải về mầu nhiệm  khổ nạn và phục sinh của Ngài. Quả vậy, đây là lần thứ nhất trong ba lần (Mt 16,21 ; 17,22; 20,17) Ngài báo về mầu nhiệm đó. Mỗi lần loan báo như đánh dấu một chặng đường tiến về Giêrusalem.  Việc loan báo như vậy cũng là để chuẩn bị đức tin cho các môn đệ có thể đương đầu với cuộc khủng hoảng sắp tới, khi Ngài bước vào cuộc tử nạn và phục sinh.
 
          Vì thế, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng :”Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
 
          Trông thấy trước con đường khó khăn đang trải ra trước mặt các môn đệ, Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ phải dứt khóat lập trường là có muốn theo Ngài nữa hay không ? Câu hỏi và lời mời gọi này nêu lên tinh thần tự do đáp trả của con người hơn là sự đòi hỏi của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do mà Ngài đã trao ban cho con người như một món quà độc đáo và quí báu nhất.
 
          THEO ở đây không có nghĩa là chỉ chấp nhận giáo lý của Ngài,  không phải chỉ là mang tên môn đệ của Ngài mà có nghĩa là bước theo chân Ngài, gắn kết với Ngài, lấy Ngài là làm lẽ sống “sự sống của tôi là Đức Kitô”, giống như cô gái theo một chàng trai. Cô nàng phó thác con người mình cho chàng, cùng chung số phận với chàng, sống chết với chàng, không khó khăn nào có thể làm cho họ lìa bỏ nhau :
 
                                      Đi đâu cho thiếp đi cùng
                             Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
                                                (Ca dao)
          Trong lời mời gọicủa Chúa Giêsu, chúng ta nên để ý đến hai từ “NẾU” và “THÌ”.  Khi dùng chữ “nếu” thì luôn luôn giả thiết lời mời gọi ấy hoàn toàn có tính cách tự do, tự nguyện, muốn theo cũng được, không theo cũng được. Nếu không theo thì thôi, còn nếu đã theo là phải bắt buộc phải dùng chữ “thì”, vì đây là điều kiện bắt buộc, không có không được.
 
II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA.
 
          Phân tích lời kêu gọi của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài đưa ra hai điều kiện cho bất cứ ai, các môn đệ hay chúng ta, muốn làm môn đệ của Ngài phải thi hành :
          - Từ bỏ chính mình.
          - Vác thập giá mình.
 
          1.  Từ bỏ chính mình.
 
          Đây là phương diện tiêu cực của việc theo Chúa. Quả vậy, muốn theo Chúa thì phải khước từ tất cả những cản trở bên ngoài như tha nhân, xã hội, tạo vật... và do bên trong  như chính bản thân mình là các khuyết điểm, thói hư tật xấu, tội lỗi...
 
          Đức thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11.03.1970 đã nói :”Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất trong đời sống Công giáo : đó là sự từ bỏ.
 
          Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa.  Người ta nói : 3 với 4 là 7, có đúng không ? Chưa đúng.  Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn là 3,4.  Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình là phải làm tan rã ý riêng của ta cho hòa vào ý Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự là từ bỏ chính mình.
 
          Một hình ảnh nữa để chúng ta suy nghĩ : Quan sát các nhà điêu khắc tạc tượng, họ chọn một phiến đá cẩm thạch rồi họ kiên nhẫn đục đẽo, khoét dần mài đi, cho tới khi thành một cỗ tượng mỹ thuật.  Không bao giờ thấy nhà điêu khắc lại đắp thêm vào. Cũng thế, trong việc từ bỏ mình, chúng ta phải dẹp lòng ham muốn, để mình sống xả thuộc trọn về Chúa.
 
          Chúng ta phải cố thi hành việc đục khoét bỏ bớt những gì bận rộn không cần thiết, gạt chúng ra một bên, nếu có bận tâm  thì chỉ bận tâm vào việc nhà Chúa :”Sự sốt sắng việc nhà Chúa làm tôi hao tổn tinh thần”(Tv 68,10).
                   (Nguyễn duy Phượng, Thực yêu thanh bần, 1967, tr 124-125)
                  
                                      Truyện : Thánh Têrêsa chịu đựng.
          Trong cuốn “Một tâm hồn”, thánh nữ Têrêsa Hài đồng có kể :”Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con. Chị kia liến thoáng nói một thôi dài, mà đại ý chỉ có thế này : Chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay... Nhưng con bảo mình : nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho mà không thưa lại một vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “Dĩ đào vi thượng sách” (Trích Một tâm hồn, tr 40-41).
 
          Nghĩ xong, con lủi đi như con quốc... nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách ngồi xệp xuống chân thang để được bình tĩnh tạo hưởng cái thú không chiến mà thắng.
 
          2.  Vác thập giá mình.
 
          Đây là khía cạnh tích cực của việc theo Chúa. Quả vậy, theo Chúa thì phải nỗ lực, cố gắng trong việc sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Tin mừng trong sự chịu đựng và kiên trì.
 
          Thập giá thường là dấu chỉ của khổ hình ô nhục, xưa kia quân Roma dùng nó để đóng đinh những tội phạm nô lệ và tiện dân phạm trọng tội đối với đế quốc.  Nhưng đối với người Hy lạp, Thập giá trở thành hoa văn xin đẹp trang hoàng trên các lâu đài sang trọng. Đối với người Ai cập, thập giá tượng trưng cho sự bất tử. Những người thám hiểm Tây ban nha đã khám phá thấy thập giá nơi thổ dân Trung Mỹ xưa là biểu tượng của thần mưa ân phúc. Các nước Tiểu Á và Đông Á vẽ thập giá hình chữ vạn hay chữ thập tượng trưng trời chiếu sáng khắp bốn phương.
 
          Nhìn chung, nhân loại phân chia Thập giá làm hai thứ : một thứ thập giá nhục hình tử tội đen tối, một thứ thập giá vinh quang sáng ngời. Cả hai đều mang dấu vết thương đau khác nhau : một đàng thương đau xấu xa tiêu diệt, nên gọi là KHỔ GIÁ, một đàng thương đau để được sống trường sinh nên được gọi là THÁNH GIÁ.
 
          Trong đời sống Kitô hữu. ai cũng phải vác thập giá vì không ai có thể trốn tránh được đau khổ. Đau khổ chính là thập giá chúng ta phải vác hằng ngày. Công việc chúng ta là phải vác như thế nào : tự nguyện hay miễn cưỡng ?  Theo kinh nghiệm của chúng ta và cũng là của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu , nếu ai vác bổng thánh giá lên thì sẽ thấy nó nhẹ, còn ai vác uể oải hay kéo lê thì thánh giá sẽ trở nên nặng nề..  Tuy nhiên, Thiên Chúa biết sức chịu đựng của từng người, có người Chúa trao cho thánh giá nặng, có người Chúa trao cho thánh giá nhẹ, nhưng thánh giá nào cũng vừa sức cho mỗi người.
 
 
                                      Truyện : Thánh giá vừa sức mình.
          Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta. Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó : có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán bảo :
- Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy lựa thánh gía vừa sức con.
          Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được : có cây quá là dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần :
          - Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.
          - Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.
 
III. THEO CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY.
 
          Qua bài Tin mừng hôm nay, Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta  cần phải  nhìn rõ vào gương tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, để can đảm và sẵn sàng từ bỏ mình và vác thập gía mình mà sống theo Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
 
          Tại sao Chúa bảo chúng ta :”Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.  Bởi vì thánh Matthêu viết sách này vào khoảng năm 80-90 SC , nghĩa là ông viết vào những ngày cay nghiệt nhất. Những lời này có ý nói rằng : “đã đến lúc người có thể cứu mạng sống mình bằng cách chối bỏ niềm tin, nhưng như thế thì chẳng những không cứu được mạng sống mình theo đúng nghĩa thật sự mà là đánh mất nó”.  Người giữ lòng trung tín có thể chết, nhưng chết để mà sống. Còn người bỏ đức tin mình để được an thân thì có thể sống nhưng sống để mà chết.  Trong thời đại chúng ta, không có những cuộc cấm đạo khắt khe như thế, nhưng của cải vật chất, chức quyền, danh vọng... có thể làm cho chúng ta chết mà mất linh hồn.
 
          Chúng ta thấy có mối tương quan biện chúng giữa “mất đi” và “được lại”.  Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái  mau qua để được cái trường tồn.  Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn lòng “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời.  Và Chúa Giêsu đã kết luận bài giáo huấn của Ngài bằng những lời này :”Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì”.
         
          Đứng trước thập giá, đứng trước đau khổ, chúng ta không thể hiểu , không thểå cắt nghĩa được vì đó là mầu nhiệm. Cuối cùng, tất cả những gì chúng ta có thể làm khi gặp đau khổ là tín thác vào Chúa Giêsu, Đấng đã phán :”Bất cứ ai chấp nhận mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm lại được sự sống ấy”. Trong cuộc sống, người ta luôn gặp thập giá, đau thương, gian nan thử thách... Tất cả những cái đó có thể làm nên những điều có lợi cho chúng ta.
 
                                      Truyện : biến bại thành thắng.
          Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau : trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.
 
          Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.
 
          Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói : cái khó bó cái khôn. Nếu ta biết từ bỏ mình, vác thập giá mình thì chính những cái ấy có lợi cho ta . Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm về vấn đề này : Thậpgiá đã nói lên chân lý ấy, và “hạt giống có mục nát ra thì mới sinh hoa kết quả được. Có lẽ chúng ta không bao giờ hiểu được mầu nhiệm của đau khổ trong thế giới này, nhưng đây là điều chắc chắn : Một khi về trời chúng ta sẽ hiểu được điều ấy.
 
          Có một bài thơ cổ của một tác giả vô danh. Bài thơ mang tựa đề “The Folded Page” (Trang sách bị gấp nếp). Sau đây là một đoạn trong đó :
 
“Trên căn gác một nhà xưa cổ,
Khi hạt mưa từ mái nhà đổ xuống,
Tôi ngồi đó lật từng trang tập cũ.
Bỗng nhận ra một trang bị gấp nếp,
Ghi dòng chữ của mình hồi nhỏ :
“Thầy giáo bảo : tạm bỏ qua điều này,
Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.
Tôi liền mở nó ra và đọc,
Đoạn mỉm cười và gục gặc đầu nói :
“Thầy có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.
Trong cuộc đời có nhiều trang khó hiểu
Ta chỉ việc gấp lại và viết lên :
“Thầy giáo bảo : tạm bỏ qua điều này
Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu”.
Rồi một ngày nào đó trên nước Trời,
Mở trang cũ ra đọc lại ta sẽ nói :
“Thầy giáo có lý, bây giờ tôi mới hiểu”.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Amen.


CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN A
VIỆC SỬA LỖI TRONG CỘNG ĐOÀN
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Có ai trong chúng ta dám cho mình là người thập tòan không ? Những người có lương tri chắc không ai dám khẳng định như thế  vì đặc tính này chỉ dành riêng cho Thiên Chúa  là Đấng thánh thiện tuyệt đối. Ý thức về thân phận thực tế của con người, Elbert Hubbard đã phát biểu rất xác đáng :”Người nào cũng là kẻ chí ngu ít  ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh hiền là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”. Như vậy, sai lỗi và lầm lỗi là một thực trạng của con người trong xã hội, trong cộng đòan. Và nếu đã sai lỗi thì cần phải được sửa lỗi để trở nên tốt hơn.
 
          Thực ra, sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỗi người trong cộng đòan, chứ không phải là một công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lỗi lầm của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đòan kết giữa các thành phần. Hơn nữa, một cộng đòan không bao giờø gồm tòan những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại, vẫn còn những phần tử bất hảo, cố chấp, lầm lạc. Vậy phải đối xử thế nào đối với những người có lỗi ?
 
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói lên nhu cầu phải sửa lỗi cho nhau theo ba bước : từ sửa lỗi giữa hai người, tới việc cần có 2, 3 người làm chứng, và sau cùng đưa người ấy ra trước mặt Hội thánh. Tuy nhiên, trong bất cứ hòan cảnh nào, người ta phải giữ tinh thần bác ái huynh đệ, mục đích giúp người có lỗi ý thức về sai lầm của mình mà sửa đổi. Thái độ trong khi sửa lỗi là luôn phải yêu thương, kính trọng và cầu nguyện cho họ.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Ez 33,7-9.
 
          Ezéchiel được chọn làm tiên tri. Vai trò của tiên tri làø phải tuyên sấm Lời Chúa. Tiên tri có trách nhiệm mang đến cho loài người sứ điệp của Chúa và để báo cho con người sự nguy hiểm nếu họ không tuân lệnh Chúa. Nếu tiên tri nói với kẻ gian ác mà nó không nghe, thì nó phải chịu trách nhiệm về tội của nó. Còn nếu tiên tri không chịu vạch tội và kẻ gian ác phải chết, thì tiên tri phải chịu trách nhiệm về cái chết đó. Như vậy, tiên tri được coi như người lính gác phải luôn thức tỉnh để nhắc nhở kẻ có tội để họ khỏi phải hư đi.
 
          +  Bài đọc 2 : Rm 43,8-10.
 
          Thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma nhắc lại lời Chúa Giêsu trả lời cho người biệt phái muốn biết điều răn nào trọng nhất : điều răn thứ nhất và quan trọng nhất là mến Chúa trên hết và điều răn thứ hai cũng giống như vậy là thương yêu anh em như chính mình.  Tất cả những giới răn chỉ gồm lại trong một điều là : thương yêu người anh em.  Thánh Phaolô tóm tắt lại : Yêu thương là chu toàn cả lề luật.
          +  Bài Tin mừng : Mt 18,15-20.
 
          Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến mối tương quan giữa mọi người trong cộng đoàn. Một trong những mối tương quan đó là sửa lỗi cho nhau. Khi một người phạm lỗi thì đều liên quan đến cộng đoàn. Vì vậy, với tinh thần anh em trong cộng đoàn ta phải sửa lỗi cho họ trong tinh thần yêu thương và kính trọng.  Diễn tiến việc sửa lỗi này là tiệm tiến, phải đi từ kín đáo đến công khai :
 
          - Riêng ngươi với nó : giữa hai người.
          - Đem theo một hay hai người làm chứng.
          - Kể nó như người ngoại hay thu thuế.
 
          Tuy nhiên, thánh Matthêu ghi tiếp sau đoạn này (Mt 18,21-35) là có lỗi giữa hai cá nhân với nhau.  Trong trường hợp này thì giải pháp hay nhất là tha thứ.
 
          Mục đích của việc sửa lỗi này không phải nhằm lên án người có tội mà là thức tỉnh họ, giúp họ trở về với cộng đoàn. Cả hai trừng hợp cần có sự cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ, nhất là việc cầu nguyện chung trong cộng đoàn.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                 Hãy sửa lỗi cho nhau
I. MỌI NGƯỜI ĐỀU SAI LỖI.
         
          1. Lời khẳng định.
 
          Người ta thường nói :”Nhân vô thập toàn” : Không ai dám bảo mình là không có lỗi, không có những sai phạm trong đời sống thường ngày. Thánh nhân cũng phải nhận là người có lỗi.  Chính vì vậy mà ông Elbert Hubbard đã nói :” Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh nhân là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”.
 
          Thánh Gioan tông đồ khẳng định :”Ai nói mình không có tội, đó là kẻ nói dối và sự  thật không ở trong họ” (Ga 1Ga 1,10).  Thánh Phaolô tông đồ cũng nói tương tự :”Tôi ăn ở như một người ngu, còn sự lầm lạc của tôi thì vô kể” (Ep 4,11).
 
          2.  Từ chối nhận lỗi.
 
          Tuy biết mình có nhiều lỗi lầm nhưng không mấy khi thành thật nhận lỗi bởi vì tính tư ái dâng cao khiến người ta chối bỏ lầm lỗi của mình, nhất là khi người ta nhắc đến những lỗi lầm ấy.  Đây chính là chứng bệnh gia truyền, từ đời Nguyên Tổ. Ông bà Nguyên Tổ đã phản bội Chúa. Nhưng khi Ngài ngự đến hỏi ông, thì ông nói :
          - Lỗi là do bà ấy.
          Hỏi bà, bà nói :
          - Lỗi là do con rắn ấy.
          Ông cũng như bà, bà cũng như ông, không ai chịu nhận trách nhiệm cả.
          Phải chi ngay lúc bấy giờ, hai ông bà biết uốn đầu gối xuống đất, có lẽ Thiên Chúa chưa hất đổ vườn địa đàng đi và nhân loại sẽ được thoát cảnh lầm than điêu đứng.
 
                                      Truyện : không nhận lỗi
          Dale Carnegie nổi tiếng về những sách học làm người, đã viết :”Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy được ánh sáng chân lý này : dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội”.
 
 Bà đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp nổi tiếng nhất nước Mỹ : Crowley, Capone và Schultz.
 Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói :”Dưới lớp áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai“.
 Capone đã tự tuyên bố :”Ta dùng những năm tươi đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi, bị săn bắt như thú dữ”.
 Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả :”Ta là ân nhân của thiên hạ”
                      (Dale Carnegie, Đắc nhân tâm, tr 33-3).
 
II. NHU CẦU PHẢI SỬA LỖI.
 
          Trước hết sự sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỡi người trong cộng doàn, chứ không phải là công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lầm lỗi của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đoàn kết liên đới giữa các thành phần . Hơn nữa, một cộng đoàn không bao giờ gồm toàn những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại vẫn còn những phần tử bất hảo cố chấp, lầm lạc.
 
          Trong cách sửa lỗi người ta hay nói :”Yêu con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”.  Chúng ta nghĩ thế nào trong việc sửa lỗi theo câu tục ngữ này ?
 
          * Cho roi : nghĩa là dùng hình phạt theo pháp luật.
          Trước những lỗi phạm, những tội ác,  có nhiều hình phạt khác nhau như : phạt tiền, phạt lao động, cải tạo, khổ sai, bắt tù, tra tấn, tịch thu của cải, lưu đầy biệt xứ hoặïc tử hình như pháp luật vẫn làm.
 
          * Cho ngọt : nghĩa là dùng những biện pháp êm nhẹ, dụ dỗ, dẫn bảo, khen thưởng, ca tụng ngọt ngào hay nuông chiều buông thả như chủ trươhg của nhà giáo dục của J.J. Rousseau.
 
          Cả hai cách giáo dục đó : một đàng thái quá vì hạ nhục phẩm giá con người, một đàng bất cập vì buông xuôi theo khả năng dục vọng biến thành thứ vô giáo dục và nguy hơn nữa tăng bốc tính kiêu ngạo.
                   (Vũ khắc Nghiêm,  Xây nhà trên đá, năm A, tr 154-155)
 
          Việc sửa lỗi cho anh em là cần thiết nhưng lại là một vấn đề rất khó khăn và tế nhị :
          - Tế nhị về phía người được sửa lỗi.
          - Khó khăn về phía người sửa lỗi, muốn giúp người khác nên hoàn thiện.
 
          Người ta thường nói :”Thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng”. Không ai muốn người khác nhắc đến lỗi lầm của mình nhưng dù sao cũng  phải uống thuốc đắng cho đã tật, cho mình biết sửa lỗi lầm của mình.  Kinh nghiệm cho hay : người đứng ra sửa lỗi rất ngại ngùng, một đàng vì người có lỗi không muốn nghe, một đàng chính người sửa lỗi người khác cũng cảm thấy e ngại vì  nhớ đến lời Chúa phán :”Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt  anh đã”.
 
          Nhưng dù sao, Lời Chúa hôm nay xác định cách rõ ràng : sửa lỗi anh em là hành vi tích cực của đức  Bác ái, vì sửa lỗi anh em là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Đối với người có trách nhiệm hay bề trên thì sửa lỗi bề dưới còn là một điều cần thiết và là bổn phận nữa.
 
          Chúa khuyên chúng ta phãi sửa lỗi cho nhau vì đó là điều cần thiết cho đời sống cộng đoàn, nhưng chúng ta phải đề phòng, tránh thái quá cũng như ø bất cập. Trong việc sửa lỗi đó, chúng ta có hai thái độ trái ngược nhau :
          * Giây mình vào hết mọi công việc của người khác, tự phong mình làm cảnh sát, kiểm soát mọi công việc của người ta, làm cho người ta mất tự do.
          * Không quan tâm đến ai cả, một mình mình biết, một mình mình hay, sống chết mặc bay. Đây là thái độ lãnh đạm đối với mọi người, thái độ này cũng hàm chứa tính ich kỷ.
 
III. PHẢI SỬA LỖI NHƯ THẾ NÀO ?
 
          Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu  muốn việc sửa lỗi anh em phải trở thành một cuộc vận động tiệm tiến gồm có ba bước :
 
          * Bước 1 : Giữa ngươi với nó (Mt 18,15). Bước một là nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em  với một người anh em mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhìn ra lỗi lầm.
 
          Một cuộc hoà giải thực sự  luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này.  Chính vì thế, ở mọi thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho một đối thoại cá nhân.
 
          * Bước 2 :  Nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi, sẽ sang bước 2.  Trong bước 2 này sẽ có 2 hoặc 3 nhân chứng, theo đề nghị của sách Đệ  nhị luật (St 19,1) như đã được thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô (2Cr 13,1).
 
          Sự hiện diện của các nhân chứng bảo đảm cho tính khách quan, đồng thời đưa vào đó một yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo.
 
          * Bước 3 : Nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng : đưa ra trước Giáo hội : trình bầy sự việc trước cộng đoàn Giáo hội.
 
          Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo hội, thì, theo như bài Tin mừng, “Ta hãy coi họ như người ngoại và người thu thuế”.  Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án : Đức Giêsu đã trở nên “bạn bè với những người thu thuế” kia mà.  Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng người tội lỗi tự loại mình ra  khỏi cộng đoàn và Giáo hội chỉ chứng nhận  sự tách lìa này, và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng thế,  sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng (Fiches dominicales, năm A, tr 281-282).
 
IV. THÁI ĐỘ KHI SỬA LỖI.
 
          Henry Ford nói :”Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách chữa trị”.  Nói cách khác,  sửa lỗi là một việc rất tế nhị và rất khó, làm sao cho người được sửa lỗi dễ dàng đón nhận sự sửa lỗi ấy ?  Chúng ta tạm đưa ra ba thái độ căn bản này :
 
          1.  Yêu thương :
 
          Hãy bầy tỏ lòng thương yêu họ. Hãy nghĩ rằng  đây là một cách giúp đỡ anh em nên tốt hơn : đừng lên án, chỉ trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị, dịu dàng.  Tán dương ưu điểm của họ, và cho họ thấy việc sửa đổi lỗi lầm  cũng dễ dàng thôi.
 
                                      Truyện : Đức Giám mục đi kinh lý.
          Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây : Một hôm, khi Đức Giám mục A-mo-la đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bầy tỏ với ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống. Vị ẩn tu này đã không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án :”Hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải giải quyết dứt khoát tình trạng bê bối này gây nhiều gương xấu của vị ẩn sĩ trên núi kia”.  Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Đức Giám mục quyết định leo lên  núi.  Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt theo sau.  Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình thì hoảng sợ và bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một chiếc thùng rỗng.
 
          Đức Giám mục là người đầu tiên đến túp lều và cũng là người đầu tiên bước chân vào.  Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ngài ung dung đi thẳng đến chiếc thùng gỗ và ngồi trên đó để nghỉ chân, rồi bình thản gọi dân làng vào và bảo :”Vào đây, anh chị em hãy vào và lục soát túp lều để tìm người phụ nữ”. Họ lăng xăng lục lọi, nhưng không tìm đâu ra  bóng dáng người đàn bà. Khi ấy,  Đức Giám mục mới nói :”Bây giờ anh chị em phải qùy xuống  xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ”.  Nhưng sau đó, khi mọi người đã kéo nhau xuống núi,  Đức Giám mục tiến lại gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị  nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rải nói :”Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy”.
 
          2.  Kính trọng :
 
          Hãy kính trọng cách chân tình, luôn giữ  thể diện cho họ, đừng chà đạp lòng tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người khác, nên khiêm tốn nhận mình cũng lỗi lầm. Hãy đặt câu hỏi cho họ, và kiên nhẫn lắng nghe, khích lệ họ sửa lỗi.  Người đời xưa có những cách sửa lỗi rất tế nhị và sâu sắc.
 
                                       Truyện : Án Tử căn ngăn vua.
          Vua Cảnh Công nuớc Tề, có một con ngựa qúi, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa.  Án Tử ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi nhà vua :
          - Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước ?
          Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói :
          - Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội.
          Án Tử nói rằng :
          - Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan.  Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy bỏ ngục.
          Vua nói :
          - Phải.
          Án Tử kể tội rằng :”Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất qúi của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ (ngấp nghé xem nguời ta hở cơ là làm hại), là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa ? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục...”.
          Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng :
          - Thôi, tha cho nó ! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân.
                   (Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 28-29)
 
          3. Cầu nguyện :
 
          Lời cầu nguyện của riêng một người đã là tốt rồi, song lời cầu nguyện của hai người hay nhiều người chung lại càng tốt và hiệu nghiệm hơn vì họ cùng hiệp lời cầu xin.
 
          Tụ họp nhân danh Chúa không phải là tụ họp theo ý riêng mình, hoặc tụ họp theo tinh thần thế tục.  Nhưng tụ họp theo tinh thần khiêm tốn như trẻ nhỏ (Mt 18,4-5) tự nhận biết mình hèn yếu và đặt niềm tin cậy nơi Chúa. Không phải tụ họp thành những cộng đoàn biệt lập, nhưng là trong sự hiệp thông với Giáo hội.  Giáo hội là cộng đồng cầu nguyện. Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu nguyện nối kết và hiệp nhất chúng ta lại với nhau. Vì thế, cả những lúc có sự bất bình không đồng ý kiến, nếu có “hai ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Chúa ở đó như gạch nối niềm tin.
 
          Không phải chỉ khi cầu nguyện, mà cả những khi họp mặt nhân danh Chúa thì Chúa cũng hứa sẽ hiện diện để khuyến khích  sự hòa giải giữa anh em trong cộng đồng Giáo hội. Ở đây muốn nhấn mạnh về khuyến khích mọi cố gắng sửa lỗi và hòa giải giữa anh em trong lòng Giáo hội. Vì được như vậy thì chắc chắn Chúa sẽ hiện diện để giúp đỡ.
 
Lạy Chúa biết nhìn  nhận mình sai là một điều rất khó, nhất là nhìn nhận với lòng thành thật, không tìm cách chữa mình, không tìm cách để vứt đi trách nhiệm của việc đã làm, cũng không tìm cách để đổ lỗi cho người này người khác, cũng không vịn lẽ để chứng minh cho kẻ khác rằng : sự vật đã sai lệch và thế gian được dựng nên cách không đàng hoàng.
 
          Ôi ! Lạy Chúa, xin chữa chúng con khỏi run sợ khi phạm lỗi, dẫu lỗi ấy do hiểu lầm, tính sai, hoặc do yếu đuối cũng vậy.
 
          Để thực hành điều ấy, con cần phải sống nên  người mạnh mẽ, chứ không như một thằng bé mặt mày úp mở trong một sự sợ sái mua.
                   (L. Terphagnon)


CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN A
HÃY THA THỨ CHO NGƯỜI KHÁC
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Không ai trong chúng ta là người hoàn toàn trong sạch trước mặt Chúa.  Không ai dám tự hào nói  mình không hề lỗi phạm đến Chúa. Trái lại, phải thành thực mà nói, ai cũng đã phạm đến Chúa rất nhiều, nhưng Chúa lại rộng lòng tha thứ cho sự yếu đuối của chúng ta.
 
          Nếu Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì, như Chúa dạy, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau.  Chúa Giêsu đã nói :”Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em  đang bất hoà với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau”.  Đó là cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác như Chúa đã tha cho chúng ta.
 
          Hơn nữa, nếu chúng ta có tha thứ cho người khác thì Cha trên trời mới tha thứ cho chúng ta, đó là một điều kiện bắt buộc phải có khi chúng ta cầu nguyện :”Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Hc 27, 30 – 28.7.
 
          Ông Ben Sira, tác giả sách Huấn ca, khuyên người ta phải biết tha thứ. Ông đưa ra những lý do bênh vực cho sự tha thứ :
          - Ai báo thù phải chuốc lấy báo thù của Chúa.
          - Ai bỏ qua điều sai trái cho người khác, Chúa sẽ tha tội cho.
          - Nếu nuôi lòng oán thù thì làm sao dám xin Chúa tha thứ cho mình.
          - Hãy nghĩ đến điều sau hết, tức là cái chết, để chấm dứt hận thù.
          - Và sau cùng, hãy nghĩ đến giao ước của Chúa, tức là giao ước yêu thương, để bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
 
          +  Bài đọc 2 : Rm 14,7-9.
 
          Thánh Phaolô nhận thấy tín hữu Roma hay phê bình chỉ trích nhau vì họ không có cùng một quan niệm về nhiều vấn đề ví dụ như ăn của cúng hay là tin vào ngày tốt xấu...  Ngài cho họ biết là mọi người chỉ có Đức Kitô là đối tượng duy nhất để tin theo.  Chúng ta có sống hay chết cũng là sống chết cho Chúa. Cũng như chỗ khác Ngài khẳng định : Sống của tôi là Đức Kitô. Như vậy Ngài cóù ý khuyên : đừng để ý đến người khác, cũng đừng để ý đến mình, nhưng tất cả hãy qui chiếu vào Chúa Kitô.
 
          +  Bài Tin mừng : Mt 18,21-35.
 
          Ônt Phêrô tỏ ra hào hiệp khi hỏi Chúa Giêsu : khi anh em xúc phạm đến mình, thì phải tha tới mấy lần ? Có đến 7 lần không ? Đối với ông, con số 7 là con số tròn đầy, con số quá lớn đối với ông, vì theo thói quen người ta chỉ : “quá tam ba bận” thôi”.
          Để trả lời, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn : Một ông quan nợ vua 10 ngàn nén vàng, nhưng không có gì trả, xin khất một kỳ hạn. Vua thương tha ngay, tha hết nợ cho.
          Khi ra đường, ông quan này gặp một người bạn nợ có 100 nén bạc (quá nhỏ đối với 10 ngàn nén vàng). Anh này xin khất nợ nhưng quan không chịu, tống anh ta vào ngục cho đến khi trả hết nợ.
          Sự việc đến tai vua, nhà vua thịnh nộ ra lệnh bắt ông quan tống ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
 
          Dụ ngôn trên có ý khuyên chúng ta hãy tha thứ cho anh em vì nếu chúng ta có tha thứ cho anh em thì Thiên Chúa mới ta cho chúng ta. Lỗi của chúng ta thì nặng nề vô cùng mà Chúa còn tha thứ cho ta, phương chi anh em chỉ lỗi đến ta có một chút, tại sao ta lại không biết tha thư
ù
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                 Tha thứ thì được thứ tha.
I.  THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG THA THỨ.
 
          1. Trong Cựu ước.
 
          Chính lúc đối diện tội lỗi mà Thiên Chúa hay ghen (Xac 20,5) tỏ ra là Thiên Chúa đầy lòng tha thứ. Việc chối bỏ Thiên Chúa sau khi đã ký giao ước, đáng lý ra khiến Thiên Chúa hủy diệt toàn dân (Xac 32,30tt), lại trở nên cơ hội để Thiên Chúa tự xưng là “Thiên Chúa dịu dàng và hay thương xót, chậm bất bình, giầu ân sủng và trung tín... dung thứ lẫm lẫn, sai phạm và tội lỗi, tuy nhiên Ngài sẽ không bỏ qua sự gì mà không sửa phạt...”.  Thế nên Moisen mới có thể yên tâm cầu nguyện với lòng tin tưởng :”Thật là một dân cứng đầu cứng cổ. Nhưng xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con và cho chúng con trở thành gia nghiệp Ngài” (Xac 34,6-9)
 
          Xét theo khía cạnh nhân bản và pháp lý, sự tha thứ tự nó không thể biện minh được, Thiên Chúa thánh thiện đã không phải bầy tỏ sự thánh thiện của Ngài bằng sự công bình của Ngài (Is 5,16) và gia phạt những ai khinh thường Ngài đó sao ? Làm sao vị hôn thê bất trung với Giao ước lại có thể ỷ lại  vào lòng tha thứ khi nàng không biết xấu hổ vì mình đã gian dâm (Gr 3,1-5) ? Tuy nhiên lòng Thiên Chúa không như lòng loài người và đấng thánh không thích hủy diệt, thay vì muốn cho tội nhân  phải chết, Ngài muốn cho họ hoán cải (Ez 18,23) để có thể đổ tràn ơn tha thứ của Ngài , vì đường lối của Ngài vượt xa tư tưởng của chúng ta một trời một vực.
 
          Sau cùng, Thiên Chúa thực hiện ơn tha thứ một cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu. Ngài đã tuyên bố Tin mừng cứu độ, Ngài kêu gọi hoán cải tất cả những ai cần trở lại (Lc 5,32t) vàNgài thúc đẩy họ trở lại bằng cách mạc khải cho biết Thiên Chúa là một người Cha chỉ vui khi tha thứ (Lc 15) và Ngài không muốn ai bị hư mất (Mt 18,12t).
 
          2.  Trong Tân ước.
 
          Chúa Giêsu đến không phải phá hủy lề luật nhưng để kiện toàn. Các lề luật trong Đạo Cũõ đều tốt nhưng chưa được hoàn hảo. Vì thế khi ai phạm đến ta thì người ấy trở nên kẻ thù của ta. Do đó, theo Đạo Cũ, người ta không cần thương yêu kẻ thù, chỉ cần thương yêu thân nhân thôi, còn kẻ thù thì phải chịu luật công bình. Ta hãy nghe Chúa nói :”Các ngươi có nghe lời truyền rằng : hãy yêu thương thân nhân, mà ghét thù địch mình. Song Ta dạy các ngươi rằng : hãy yêu thương kẻ thù, cứ làm ơn cho kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho những người bắt bớ vu vạ cho ngươi nữa,  để các ngươi nên con cái Cha các ngươi ở trên trời : vì Ngài cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ tốt cũng như người xấu, và làm mưa trên người chính trực cũng như kẻ bất luơng” (Mt 5,43-45).
 
          Theo với luật yêu thương, ta thấy cần có luật tha thứ đi kèm, vì nếu không có luật tha thứ thì luật thương yêu sẽ bị giới hạn rất nhiều.Nên Chúa Giêsu đã phán :”Nếu khi nào ngươi dâng của lễ trên bàn thờ. mà ngươi sực nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, hãy để của lễ ngươi trên bàn thờ, hãy đi làm hòa cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24).  Hoặc chỗ khác Chúa cũng nói :”Nếu các ngươi tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha thứ cho các ngươi”(Mt 6,14).
 
II. CON NGƯỜI PHẢI THA THỨ.
 
          1.  Thực hiện lời Chúa dạy.
 
          Người ta thường nói :”Quá tam ba bận”, nghĩa là chỉ tha có 3 lần thôi, quá 3 lần thì không tha nữa.  Thánh Phêrô cũng theo chủ trương đó nhưng có phần rộng rãi hơn. Ông tin rằng tha thứ 7 lần đã là quá nhiều, vì số 7 là con số tối đa theo quan niệm của Kinh thánh, nói lên tính chất dư dật đúng mức.
 
          Vì thế, ông Phêrô mới hỏi Chúa Giêsu rằng :”Lạy Thầy, nếu anh em con lỗi phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần, đến 7 lần không” ? Chúa Giêsu đáp :”Thầy không bảo đến 7 lần đâu, mà đế 70 lần 7”(Mt 18,21-22 ; Lc 17,4). Chúa bảo không tha chỉ tới 7 lần nhưng phải 70 lần 7, nghĩa là tha thứ đến 490 lần. Chúa trả lời như thế không có nghĩa chỉ tha 490 lần, rồi sang lần 491 thì không tha nữa, nhưng Chúa có ý nói rằng : phải tha luôn mãi không có giới hạn (x. Mt 18,22 ; Lc 17,4).
 
          Để quảng diền tư tưởng ấy, Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn : một người nợ vua 10.000 nén vàng mà không có gì trả, vua đã quảng đại tha nợ cho ; nhưng chính người được tha nợ lại không tha cho người bạn chỉ nợ có 100 quan tiền. Nghe được câu truyện đó, nhà vua phải nổi cơn thịnh nộ mà phạt tên bất nhân đó.
 
          Để hiểu thêm số tiền nợ này cách nhau thế nào, theo các nhà chú giải Thánh kinh,thì một nén  vàng tương đương 10.000 quan tiền.  Vậy tên đầy tớ nợ ông chủ 60.000.000 quan tiền, một số tiền quá lớn. Trong khi người bạn chỉ mượn anh ta  một số tiền la 100 quan,  như thế tỷ lệ chênh lệch là 1/600.000.
 
          Dụ ngôn này nói lên cách đầy đủ một thực tại khác. Mặc dầu giữa những con người có những khác biệt, nhân loại vẫn có vẻ ngang hàng với nhau và những bất công gây ra cho con người không đến nỗi qúa trầm trọng nếu so với những bất công đối với Thiên Chúa. Đối với con người tất cả đều giới hạn. Dù con người có tỏ ra đòi hỏi nghiêm khắc, họ cũng chỉ cốt nhằm  bảo vệ quyền lợi nên không muốn tha thứ.
 
          Vì thế, chúng ta nói rằng nhân danh con người, các bất công gây nên những tranh luận và kiện tụng.  Nhưng nếu nhân danh Thiên Chúa và căn cứ theo ân sủng hơn là quyền lợi,  con người sẽ tỏ lòng thương xót đối với anh em.  Trước mặt Thiên Chúa, con ngườiphải điều chỉnh tương quan của mình với tha nhân.  Thái độ đối với Thiên Chúa sẽ xác định thái độ đối với anh em.  Ngược lại, tương quan giữa con người với anh em sẽ xác định lối cư xử của họ đối với Thiên Chúa.
 
          Người tín hữu khi đã biết Thiên Chúa đối xử với họ tốt lành, mà còn tới gần anh em với tinh thần khắc nghiệt, họ cũng sẽ bị điều mà Đức Kitô nhấn mạnh khi tuyên bố :”Cha Ta cũng đối xử như thế đối với các con, nếu các con không tha thứ cho nhau” .  Lòng quảng đại của Thiên Chúa sẽ thắng vượt tính hèn kém của con người, và lòng từ ái của Ngài sẽ biến cải thái độ khắc nghiệt của họ.
                   (R. Gutwiller, Suy niệm Tin mừng Matthêu, tập 2, tr 78)
 
          2.  Người đời và sư tha thứ.
 
          Tha thứ không phải là một giáo thuyết xây trên không tưởng, hay chỉ dành cho những người theo giáo lý cuả Chúa Giêsu, mà dành cho mọi người. Có những người đã xuất hiện trước Chú Giêsu mà họ cũng đã đề cập đến vấn đề này. Chúng ta thử rảo qua xem :
 
          * Nhận xét của nhân gian.
 
          Người đời chia con ngườilàm hai loại xung khắc nhau, đó là hiền nhân quân tử và kẻ tiểu nhân. Trong xã hội bị ảnh hưởng Nho giáo, con người hiền nhân quân tử được đề cao, coi là bậc thầy, coi như mẫu mực của con người ; còn tiểu nhân là những người tầm thường, bề tôi và nếu hiểu theo tinh thần Kitô giáo, thì lại hiểu tiểu nhân là những kẻ tội lỗi. Vì thế, người đời mong ước được trở nên các hiền nhân :”Sĩ hy hiền, hiền hy thánh, thánh hy thiên “: người học mong ước trở nên hiền nhân, hiền nhân mong được trở nên thánh nhân, và thánh nhân được ví như trời.
          Những kẻ tiểu nhân, những kẻ vũ phu có những hành động vụt chạc, thiếu suy nghĩ, không cầm mình được, khi bị xỉ nhục là tuốt gươm xông đánh kẻ thù giống như trường hợp chàng Tân Ti Tụ ; còn người quân tử hiếu dũng không thèm chấp nhặt những sỉ nhục ấy, họ bình thản đón nhận như không có sự gì xẩy ra, lại còn đón nhận một cách vui vẻ như hiền triết Soccrates. Vì thế, người đời coi tha thứ là đặc tính của bậc trượng phu, anh hùng :
 
                             Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,
                             Đấng anh hùng đừng oán mới hay.
 
          *  Chủ trương của hiền nhân quân tử.
 
          Các hiền nhân quân tử luôn đề cao sự tha thứ, đặc biệt các vị sáng lập các tôn giáo, trong đó ta thấy có hai khuôn mặt dạy sự tha thứ nổi bật nhất là Phật Thích Ca và Đức Giêsu. Nhưng về phương diện thực hành thì Đức Kitô là một tấm gương sáng chói.
          .  Nhà Nho dạy thế nào ? Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng phu tử còn giống với luật báo oán của Cựu ước, ngài dạy học thuết :”Dĩ trực báo oán”. Nhưng sau này, các đồ đệ của ngài muốn đi xa hơn, họ thêm vào học thuyết của ngài câu :”Dĩ đức báo oán”.
 
          . Ông Gandhi nói :”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”. Chính ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn độ khỏi ách thống trị của người Anh.
 
          . Tertullien nói :”Kẻ bị nhục, dùng sỉ nhục để báo thù, có khác gì người sỉ nhục họ không ? Chẳng qua là những kẻ cùng làm quấy như nhau, nhưng chỉ kẻ trước người sau mà thôi”.
 
. Hiền triết Marc Aurèle  nói :”Biết yêu kẻ đã xúc phạm mình, đó là hạnh phúc của quân tử. Muốn được vậy, phải biết nghĩ rằng : những kẻ ấy là họ hàng thân thích mình – Những kẻ ấy phạm lỗi, là vì không biết, chớ không phải cố ý – Những kẻ ấy rồi chẳng bao lâu cũng cùng với ta mà chết – mà thứ nhất, những kẻ ấy, không có làm thiệt hại cho mình chút nào cả, bởi họ không từng làm cho tâm tính mình hư  đi được”.
 
. Hiền triết Épictète có một lối suy nghĩ khác, vượt trên lối suy nghĩ của mọi người. Ông tìm cách qui lỗi vào mình và không oán giận kẻ khác nữa. Nhà ông có một chiếc đèn khá qúi, bị thằng ăn trộm lấy mất. Ông tự trách mình có chiếc đèn qúi đã khêu gợi lòng tham của kẻ ăn trộm, chứ ông không trách lòng tham của đứa ăn trộm ấy. Ông cho rằng chính người gây ra căn cớ cho sự ăn trộm mới là đáng trách, và như vậy chính ông là thủ phạm.
 
                             Truyện : Hoàng đế Trung hoa trả thù.
          Một hoàng đế Trung hoa nói :”Một khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù của ta”.
          Ông đã chinh phục nước ấy, và cả đình thần của ông chờ đợi một cuộc thảm sát địch quân. Họ mong cho những địch thủ đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu. Họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả các địch thù ngồi ăn với vua và lại nói cười vui vẻ nữa.
          Họ tâu vua :
          - Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng nói  hoàng thượng sẽ tiêu diệt tất cả địch thù kia mà.
          Hoàng đế trả lời :
          - Ta đã tiêu diệt bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ thành những người bạn của ta.
                   (Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 166)
 
          *  Cách trả thù hay nhất.
 
          Có những người có tâm hồn cao thượng, họ không thèm đếm xỉa gì đến những xúc phạm người khác làm cho mình, vui vẻ đón nhận tất cả. Và cách trà thù cho người khác tức là tha thứ cho họ. Sở dĩ họ làm như thế vì họ muốn làm người trên chứ không ngang hàng với người làm sỉ nhục họ. Khi tha thứ  là mình đã đứng trên người được tha thứ.
 
          Ông Swift nói :”Bị người ta làm nhục mà hận, là đem cái lỗi của người mà hành hạ báo thù mình.
          Marc Aurèle nói :”Không có cách nào báo thù những kẻ làm ác với mình hay bằng cách này : đừng giống họ”.
 
          Người ta ở đời, đối với loài người mà gặp phải kẻ xử với mình một cách ngang ngược, thì nên coi như mình  đi trong bụi rậm, vướng phải gai, chỉ nên thong thả đứng lại, gỡ dần ra mà thôi. Gai góc kia có đáng gì đâu màgiận ? Xử được như thế, thì tâm hồn không phiền não, mà bao nhiêu nỗi oán hận cũng tiêu tan. Mạnh Tử nói :”Ta nên coi những sự ngang ngược phạm đến ta  như chiếc thuyền không lỡ đâm phải ta, như cơn gió dữ lỡ tạt nhằm ta, ta nghĩ cho cùng thì có gì đáng giận”.
 
                                      Truyện : trọng danh dự
          Một thi hào Ý danh lừng bốn bể, ông Le Tasse, tác giả cuốn “Thành Giêrusalem được giải cứu” có thời bị bao nhiêu quân thù ganh tị âm mưu ám hại. Người ta loan tin xấu về ông. Các lời lăng mạ, vu khống đổ về ông như mưa bấc có ý cho ông ở tù.  Có người thân tín cho ông biết tên đầu sỏ của vụ vu oan cáo ông  đã phạm một tội nhục nhã tầy trời và yêu cầu ông phổ biến điều ấy ra để trả đũa.
          Le Tasse nghiêm trang trả lời :
          - Tôi không muốn làm mất danh dự và sinh mệnh của người ta. Tôi chỉ muốn bài trừ ở họ ý muốn hành ác thôi : đó là sự phục thù độc nhất của tôi.
                   (Hoàng  xuân Việt, Thuật sống dũng, 1970, tr 200)
 
          Vì thế, nhà hùng biện trứ danh nước Pháp, cha Lacordaire, đã khuyên bảo ta :”Anh muốn vui sướng trong chốc lát : cứ trả thù. Anh muốn yên ủi mãi mãi : nên tha thứ”.
 
III. CHÚNG TA CŨNG PHẢI THA THỨ.
 
          Với tất cả những tư tưởng được trình bầy ở trên, chúng ta thấy rằng tha thứ là một điều cao thượng và cần thiết. Không những người Kitô phải biết tha thứ theo lời Chúa dạy, mà cả những người ngoại giáo cũng đã thực hiện.  Tronh bài giảng tên núi, Đức Giêsu đặc biệt lưu ý chúc phúc cho ai hiếu hoà, một cách gián tiếp Chúa bảo những kẻ hiếu hòa là kẻ biết tha thứ cho nhau để tạo bầu không khí hoà thuận giữa mọi người (x. Mt 5,9). Còn nhiều phần thưởng được dành cho người biết tha thứ, như ta thấy có hai phần thưởng được Chúa ban trực tiếp khi ai biết tha thứ và cũng là điều kiện “sine qua non” của lời cầu nguyện :
 
          . Được Chúa tha thứ tội lỗi cho (Mt 6,14-15 ; Mc 11,25; Lc 11,4).
          . Được Chúa nhận của lễ ta dâng (Mt 5,23-24) ; Mc 11,25).
 
          Ta còn phải tha thứ cả bề trong lẫn bề ngoài.  Tha thứ cho người khác những xúc phạm đến mình, tha thứ thật trong lòng đã là một điều đáng khen ngợi., và đấy là điều kiện căn bản và khởi điểm để đi xa hơn nữa.  Tha thứ bề trong mà thôi, chưa đủ,  còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.  Tại sao lại chưa đủ ? Vì ta dựa vào  lời Chúa khi Ngài nói :”Hãy để của lễ ngươi trước bàn thờ, hãy đi làm hoà cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24). Chúa dạy phải đi làm hoà cùng anh em đã. Chữ “đi làm hoà” gợi lên trong đầu óc ta một hành động cụ thể.  Chúa đòi ta phải thực hiện sự tha thứ bằng việc làm bên ngoài, nếu không thì Chúa chỉ bảo “hãy để của lễ trên bàn thờ, tha thứ cho anh em đã rồi hãy dâng của lễ”.  Như vậy ta có thể kết luận rằng : không những Chúa đòi ta  tha thứ trong lòng, mà còn đòi ta phải thực hiện sự tha thứ ấy ra bên goài, bằng một hành động cụ thể.
 
          Tại sao sự tha thứ cần được biểu lộ ra bên ngoài bằng những hành động cụ thể ? Sở dĩ cần có những hành động bên ngoài vì chính những hành động ấy phá tan tình trạng lạnh lùng, khẩn trương, phá tan một cuộc chiến tranh lạnh bao trùm cuộc sống giữa hai người. Nhiều khi trong lòng đã thực sự tha thứ, nhưng vẻ lạnh lùng bên ngoài khiến người khác tưởng rằng mình không tha thứ hoặc coi như họ khinh mình.
 
          Văn hào Goethe đã nói :”Sự tha thứ chỉ có thể là một trạng thái trung gian. Nó phải đưa đến sự kính trọng. Tha thứ là làm nhục”.
 
          Và còn tệ hơn nữa, như  P.J. Poulet nói :”Sự tha thứ  có khi chỉ là một bộ mặt của sự trả thù”.
         
          Đã nhiều lần chúng ta đọc kinh Lạy Cha, chúng ta có để ý đến câu này không :”Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” ? Có lẽ chúng ta chỉ chú ý đến phần trên “và tha nợ chúng con”, mà lại bỏ quên phần sau “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.  Nếu trong chúng ta có sự xích mich với nhau thì hãy tha thứ đi đã rồi hãy dâng lễ, nếu không Chúa sẽ không nhận lễ vật chúng ta dâng.
 
                                       Truyện : Hoàng đế Othon tha thứ
          Dưới thời hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần bị hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathide. Lần thứ tư  Henri lại nổi loạn, bị bắt,  lại bị xử tử hình.  Hoàng đế nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dầu biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.
 
          Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại nhà thờ chính toà Quellimbourg.  Đến phần phụng vụ lời Chúa, bá tước Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và xấp mình dưới chân hoàng đế xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói :”Ba lần ta đã tha chết cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu ngươi sẽ rơi. Đúng lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi Chúa :”Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần ? Có phải 7 lần chăng “? Chúa đáp :”Ta không nói với con là 7 lần mà là 70 lần 7”.
 
          Nghe lời đó, hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những nhà vua tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavier nữa.              (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 113-114)
 

CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN A
LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA
+++
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Hôm nay Chúa sẽ nói với chúng ta :”Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi”(Is 55,8).  Đúng vậy, có bao giờ chúng ta ngạc nhiên và sửng sốt  bởi cách hàng động của Chúa không ? Những hành động đó không đúng với tính toán và dự liệu của chúng ta, và có khi đi ngược lại các dự tính của chúng ta.
 
          Tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa khác hẳn con người, khác nhau như trời cao đất thấp. Con người thì thấp hèn nhỏ nhen, hay so đo ghen tị. chỉ thích giữ công bằng mà quên đi Tình yêu. Còn Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài không thích chúng ta  chỉ sống như người làm thuê, tính toán sòng phẳng như kẻ mua người bán, mà Ngài chỉ muốn là người Cha yêu thương hằng săn sóc đến con cái, cung cấp cho nó những cái gì cần thiết và tốt đẹp nhất.
 
          Vì thế dụ ngôn những người thợ được thuê vào giờ thứ 11 mà phụng vụ hôm nay đọc lại cho chúng ta sẽ va chạm với ý niệm của chúng ta về công bằng trong phân phát. Đấy và vì Chúa Kitô đặt công lý của Nước Trời trên một bình diện khác hẳn bình diện của chúng ta dưới thế gian, đến độ mà “đường lối và tư tưởng của chúng ta” bị xáo dộng và sửng sốt.
 
          Chúng ta hãy cố gắng sống với Chúa như người con thảo, muốn làm đẹp lòng Cha yêu thương. Đừng bao giờ sống như người làm thuê trong nhà Cha mà so đo tính toán với Chúa. Hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, đừng kiêu ngạo, đừng phân bì với tha nhân. Hãy sống trong tình anh em con một Cha trên trời.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Is 55,6-9.
 
          Kẻ có tội thường sợ Thiên Chúa trừng phạt nên trốn tránh Ngài.  Tiên tri Isaia hối thúc dân Israel từ chốn lưu đầy trở về, phải sám hối và hãy tìm đến Chúa. Hay tin tưởng vào Thiên Chúa bởi vì những dự định và cách hành xử của Ngài không giống với tư tưởng của ta.  Ngài không nghĩ đến trừng phạt mà chỉ nghĩ đến cứu vớt, Ngài không bắt tội mà chỉ thứ tha.
 
          Nếu đem so sánh tư tưởng và cách cử xử của loài người và của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhận ra một khoảng cách rất xa, rất cách biệt :”Như  trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối của Ta cao hơn của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy”
 
          +  Bài đọc 2 : Pl 1,21-24,27.
 
          Thánh Phaolô viết thư này ở trong tù vào khoảng năm 63 gửi cho tín hữu Philipphê biết : Ngài không biết số phận của Ngài sẽ ra sao, được tha hay bị kết án. Nhưng Ngài sẵn sàng đương đầu với tất cả :
          - Nếu được thả tự do, Ngài sẽ tiếp tục rao giảng Tin mừng Đức Giêsu Kitô, và Đức Kitô sẽ được vẻ vang.
- Nếu bị giết chết, Ngài sẵn sàng hy sinh vì Chúa. Vì cái chết của Ngài cũng làm vẻ vang cho Đức Kitô.
          Và Ngài kết luận : Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô sẽ được vẻ vang nơi tôi.
 
          +  Bài Tin mừng : Mt 20,1-16a.
 
          Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn này có ý nói lên lòng quảng đại của Thiên Chúa. Ngài là người Cha yêu thương và nhân hậu. Cách cử xử của Ngài không giống với lối cư xử của con người.
 
          Dụ ngôn này gợi cho ta hai cách suy nghĩ :
          a) Suy nghĩ của loài người : theo cách cư xử thông thường thì người thợ làm nhiều sẽ được lãnh nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương ít. Như thế mới công bằng và hợp lý.
          b) Suy nghĩ của Thiên Chúa : ông chủ vẫn trả lương cho người làm nhiều giờ như đã hợp đồng.  Nhưng ở đây, ông chủ có lòng quảng đại, muốn trả cho người thợ làm có một giờ cũng được lãnh một quan tiền mà không có hợp đồng , hoàn toàn do lòng tốt của ông chủ.  Như vậy, người làm thợ giờ cuối cùng được ông chủ thương cách riêng, không có lỗi đức công bằng.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Tất cả là hồng ân
I. TÌM HIỂU DỤ NGÔN.
 
          1. Tình trạng thất nghiệp.
 
          Mọi người phải có công ăn việc làm để nuôi sống mình và gia đình. Ai cũng phải có một việc làm hoặc bằng chân tay hoặc bằng trí óc.  Không có việc làm là thất nghiệp. Tình trạng thất nghiệp đã làm đau đầu các nhà lãnh đạo quốc gia vì phải tìm cách tạo công ăn việc làm cho dân.  Ngay như nước Mỹ vẫn còn 9.500.000 người thất nghiệp, hơn 4 triệu người ăn xin, hơn 300.000 người tự tử hằng năm (theo đài Hà nội đưa tin hồi 07g15 sáng ngày 21.09.1987) . Ngày nay, những người thất nghiệp được nhận vào làm việc trong các nhà máy là một niềm vui và hy vọng.  Ngày xưa cũng không thiếu gì người thất nghiệp cả ngày ngồi ở chợ chờ đợi mà không có chủ thuê, nếu được gọi vào làm công cho người ta thì là một sự may mắn.
 
          2. Cách thuê thợ ở Palestine.
 
          Ở Palestine, mùa hái nho chính vào đầu tháng 10. Sau đó là mùa mưa. Nếu không hái nho kịp trước khi mưa đến thì nho sẽ hư,  vì vậy người ta phải chạy đua với thời gian để kịp thu hoạch. Bất cứ người làm công nào cũng được thu nhận dù người đó chỉ làm được một giờ.
 
          Tiền công trả cũng bình thường, một denier (một quan tiền) là tiền công của một ngày bình thường của một người làm mướn.  Những người đứng ở chợ không phải là những người biếng nhác ở đầu đường xó chợ, hạng ăn không ngồi rồi.  Ở Palestine, chợ là nơi trao đổi lao động.  Người ta đến đó vào sáng sớm, mang theo dụng cụ lao động của mình và chờ ở đó cho đến khi có người đến mướn.  Họ ở đó chờ công việc, bằng chứng là trong số họ  có người chờ đến 5 giờ chiều, chứng tỏ họ muốn làm việc như thế nào.
 
          Thời giờ trong dụ ngôn cũng là thời giờ bình thường của người Do thái. Giờ của người Do thái bắt đầu từ 6 giờ sáng và được tính từ đó đến 6 giờ chiều. Tính từ 6 giờ sáng thì giờ thứ 3 là 9 giờ sáng, giờ thứ 6 là 12 giờ trưa, và giờ thứ 11 là 5 giờ chiều.
 
          3. Ý nghĩa dụ ngôn.
 
          Để hiểu dụ ngôn này, chúng ta phải chú ý tới tâm trạng của người Do thái lúc bấy giờ.  Họ quan niệm rằng : Nước Trời chỉ dành cho họ những con cái Abraham, còn người ngoại bang, dân ngoại bị loại trừ hoàn toàn.  Người Do thái chiếm được Nước Trời là vì sự trung thành của họ đối với Lề luật Moisen, được thể diện ở giao ước Sinai giữa Israel và Giavê.  Để đả phá quan niệm sai lầm này, Chúa Giêsu đã đưa ra dụ ngôn “Thợ vườn nho” đây, vì Nước Trời không phải là món tiền lương, hay một đặc ân, nhưng là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại.
 
          Dụ ngôn này là lời cảnh cáo đối với người Do thái.  Người Do thái biết họ là dân được chọn, và không bao giờ quên được sự tuyển trạch đó. Kết quả là họ khinh người ngoại bang, chỉ muốn cho người ngoại bang bị hủy diệt.  Thái độ này có nguy cơ được đem vào Hội thánh Chúa. Nếu người ngoại bang được cho vào thân hữu của Hội thánh  thì phải vào như những kẻ thấp kém hơn.
 
          Trong đạo Chúa không có quan niệm ưu đãi một dân tộc nào. Chính những người tin Chúa lâu năm có thể học hỏi được nhiều nơi những người tân tòng,  những người mới bước vào cộng đồng đức tin.       
 
          Ông chủ trong Tin mừng hôm nay thật là siêu việt, ông đã thực thi và đề ra chính sách công bằng, bác ái  vượt thời gian và không gian.  Ông chủ đó chính là Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Đấng cứu thế đã đặt ra giải pháp cứu con người và truyền dạy con người phải biết sống công bằng và bác ái, như thế mới mong xây dựng được một xã hội tuyệt hảo.
 
          Thế nhưng, con người từ bao nhiêu ngàn năm vẫn đốù kỵ, ghen ghét lẫn nhau.”Họ lẩm bẩm kêu trách chủ rằng : bọn sau chỉ làm một giờ mà ông trả bằng chúng tôi sao” ?  Ông buộc lòng phải sửa trị thói ghen tị đó bằng cách vạch ra cho họ thấy lòng bác ái cao cả của ông :”Chẳng lẽ tôi không có quyền cho của cải của tôi sao ? Hay vì bạn thấy lòng tốt của tôi, mà bạn ghen tức ư” ?
 
Truyện : Với Chúa không có mặc cả so đo.
          Một người công giáo thấy mình chết phải đến tòa phán xét. Vừa bước chân vào pháp đình, một tòa nhà nguy nga đồ sộ,  liền thấy một quang cảnh vừa uy nghiêm vừa im lặng đáng sợ. Trên ngai cao rực rỡ, Chúa Giêsu ngồi oai nghi xử án, có các Thiên thần mặc toàn trắng chầu chực giúp việc.  Bên hữu Chúa có một cánh cửa rộng mở một lối đi tràn ngập ánh sáng.  Còn bên tả cũng có một cánh cửa, nhưng lớn hơn và nhìn vào chỉ thấy đen thăm thẳm.  Trước mắt Chúa đặt một chiếc bục để con người đến đứng trình diện . Cả một biển người đủ mọi lứa tuổi, mọi chủng tộc, sang hèn cao thấp chen chúc nhau, hồi hộp chờ đợi.
 
          Và một hồi chuông rung lên, một Thiên thần cầm một quyển sổ đọc tên thì thấy một đứa bé da đen khoảng 10 tuổi đi đến đứng trên bục.  Rồi Thiên thần trình cho Chúa một tờ giấy , thấy Chúa mỉm cười và giơ tay chúc lành cho em. Lập tức các Thiên thần xúm lại dẫn em vào cửa có ánh sáng giữa tiếng đàn đón chào tưng bừng.
 
          Tiếp đến là một thanh niên da trắng và Thiên thần cũng làm như lần đầu, nhưng thấy mặt Chúa phẫn nộ giơ tay xua đuổi. Tức khắc, mấy thằng qủi nhảy tới chộp ngay lấy chàng thanh niên và lôi tuột vào cửa đen ngòm giữa tiếng la hét chửi rủa. Cứ như thế cuộc phán xét tiếp tục khi thì vui mừng khi thì đau thương.
 
          Bỗng người công giáo thấy bà già bên luơng bước lên bục phán xét và bà ta được Chúa cho lên thiên đàng. Thấy thế, ông công giáo mừng thầm trong bụng.  Đến lượt một người mà ông biết rất rõ và tin chắc thế nào cũng bị phạt vì đời sống của người ấy quá bê tha tội lỗi.  Nhưng kìa Chúa mỉm cười và được các Thiên thần an ủi dẫn vào luyện ngục.
 
          Đến đây người công giáo chắc mẩm mình sẽ được Chúa thương vì dù sao mình cũng đã theo Chúa bấy lâu nay. Do đó, khi được gọi lên toà phán xét, ông ta tỏ vẻ hiên ngang vui sướng, nhưng khi nghe Thiên thần báo cáo với Chúa về những gì đã sống thì ông ta xanh mặt run rẩy. Chúa phẫn nộ xua đuổi, lập tức ba thằng quỉ lôi tuột ông ta vào hỏa ngục.  Ông ta thét lên đau đớn và tỉnh dậy.  Té ra ông ta nằm mơ. Một giấc mơ hãi hùng khủng khiếp khiến ông lạnh toát cả người, suy nghĩ đặt lại vấn đề sống xưa nay.  Vậy Chúa đã tỏ cho biết sai chỗ nào nghiêm trọng đến nỗi bị sa hoả ngục.
                             (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr  117)
 
          Đọc câu truyện trên, chúng ta thấy Chúa muốn chúng ta sống với Chúa như tình con thảo chứ không muốn chúng ta sống như một người làm thuê, tính toán sòng phẳng. Thực ra, những gì chúng ta có là do hồng ân Chúa ban, là món quà Chúa ban nhưng không.
 
          Suy đi nghĩ lại, chúng ta thấy đó là sai lầm của ông công giáo kia đã hành xử suốt đời mình khi đặt mối liên hệ giữa ông ta với Chúa trên cơ sở trao đổi mặc cả giống như những người làm thuê giờ thứ mười một đã lẩm bẩm kêu trách Ông Chủ trong dụ ngôn của Tin mừng hôm nay.  Và phải chăng đây cũng là lối suy nghĩ và cung cách sống đạo của chúng ta thường mắc phải và cứ cho là đúng, nhưng thực tế lại sai lầm trầm trọng.
 
II. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.
 
          1. Tư tưởng của Chúa và của ta.
         
          Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán : món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào ? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai ?
 
          Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa : tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
 
          Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con.  Ngài chỉ có yêu thương và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Đối với từng đứa con, Ngài không xem xét nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu.  Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất.
 
          Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên lối suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông chủ đừng làm người cha yêu thương mà hãy làm người buôn bán vô tình.
                   (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 478).
 
          2. Hai bài học cho ta.
 
          a)  Bài học thứ nhất : như đã nói : mọi công việc đối với Chúa đều bằng nhau, Vấn đề không phải ở số lượng công việc nhưng ở tình yêu thúc đẩy làm công việc đó. Một người có thể tặng chúng ta  một món quà cả trăm ngàn, chúng ta rất biết ơn người đó.  Một em bé có thể tặng chúng ta một món quà chỉ đáng giá vài ngàn, nhưng đó là món quà dành dụm đầy nỗ lực và yêu thương của nó, dù món quà nhỏ không giá trị bao nhiêu nhưng nó khiến chúng ta cảm động nhiều hơn.  Thiên Chúa không nhìn vào số lượng công việc của chúng ta. Bao lâu ta còn làm, công việc đều được xếp như nhau trước mặt Chúa.
 
          b)  Bài học thứ hai :  Đó là tất cả mọi sự Chúa ban cho ta đều là ân sủng của Ngài. Chúng ta không thể làm ra những điều Chúa ban cho, chúng ta không xứng đáng với điều đó. Thiên Chúa cho chúng ta là do bởi lòng tốt của Ngài, bởi ân sủng Ngài. Tất cả những gì Chúa ban cho không phải là để trả công nhưng là quà tặng, đó không phải là phần thưởng nhưng là ân sủng.
 
          3. Thái độ chúng ta phải có.
 
          Chúng ta phải chấp nhận như một người con khiêm nhường những hành động của Chúa vì chúng ta biết rằng động cơ duy nhất thúc đẩy người ta trong sự lựa chọn là tình yêu.  Chúng ta hãy khôn ngoan chấp nhận những quyết định của Người với sự mau mắn và biết ơn.
 
          Chúng ta phải hành động như Chúa đối với tha nhân : không ganh tị, không nghiêm khắc, không phán xét xấu, không lên án chung thẩm, nhưng phải thông cảm, ưu ái với một “nụ cười của tâm hồn”.
 
          Muốn nên giống Chúa Kitô, chúng ta phải sống theo tinh thần Tân ước, không chỉ chú ý đến công bằng mà nhất là chú ý đến Bác ái. Đối với Chúa, đức công bằng chưa đủ vì như thế chúng ta còng đang sống theo tinh thần Cựu ước vì Cựu ước chưa được hoàn hảo.. Chính vì vậy mà dụ ngôn hôm nay nhắc cho chúng ta là phải chú trọng đến Tình yêu đối với Chúa và với tha nhân. Từ nay chúng ta đừng bao giờ phân bì với nhau mà hãy để cho Chúa hành động theo ý Ngài.
 
Truyện : Cha Sở và Cha Phó.
          Tại một xứ đạo kia số giáo dân khá đông, có Cha Sở, Cha Phó. Một số giáo dân, vì cuộc sống bác ái chưa trưởng thành, nên có hai nhóm xung khắc với nhau. Một nhóm quí Cha Sở, nhóm kia mến Cha phó, vì ngài còn trẻ, năng nổ.
          Một hôm nhóm ủng hộ Cha Sở đến trao đổi tâm tình với ngài :
          - Thưa cha, cha ở đây đã lâu năm, công dầy, đức cao, sao cha để Cha Phó thay đổi nề nếp giáo xứ mình – bỏ đi công lao cha xây dựng ? Và đám thanh niên cùng một số lớn giáo dân có vẻ nghiêng cảm tình về Cha Phó. Xin cha ngăn cản đi.
          Cha Sở bình tĩnh trả lời :
          - Giữa tôi và Cha Phó ai vất vả hơn ?
          - Cha Phó.
          Cha Sở chậm rải nói tiếp :
          - Ngài còn trẻ, còn có sức hoạt động, phải dấn thân nhiều, và Chúa cũng lo liệu và trợ giúp Ngài bằng cách cho những tâm hồn biết thông cảm, cộng tác. Đó là điều công bằng, điều tốt đẹp, sao các ông bà so bì với tôi – một người đáng lẽ đã về hưu ?
          Nghe Cha Sở nói sai  tần số với mình, nhóm kia chống chế :
          - Cha cũng đã từng hoạt động dấn thân, có khi còn hơn Cha Phó bây giờ.
          Cha Sở nói tiếp :
          - Và tôi cũng đã từng được người ta qúi mến, ủng hộ. Và biết đâu còn hơn Cha Phó. Vì bây giờ Cha Phó vẫn còn một số người thiếu thông cảm, muốn hạ thấp.
Đám người kia ra về, họ cảm phục Cha Sở “đức cao” và cảm thấy tâm hồn, cõi lòng mình sao nhỏ nhen, trần thế quá ! Từ đó nạn “bè phái” bớt nhiều.
                             (Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, năm A, tr 175-177).
 
          Chúng ta hãy nhớ : ghen tị là một trong bảy mối tội đầu. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác.
 
          Người ta ghen tị về đủ mọi mặt : của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thỏa mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn.
 
          Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường  những người ở trong một hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt hàng cá... ghen tị nhau.
 
          Bài Tin mừng trong Thánh lễ hôm nay nhắc cho chúng ta hai điều :
 
          1. Chúng ta phải luôn luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không có gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban. Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Ta hãy nói như thánh Phaolô :”Tất cả là hồng ân”.
 
          2. Mỗi nguời hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu.
 
“Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống tâm tình tạ ơn vì muôn ơn phúc  Chúa đã tặng ban cho chúng con suốt cả cuộc đời.
“Xin giúp chúng con lánh xa lối suy nghĩ do lòng ghen tị, và biết cố gắng làm cho  trổ hoa kết trái  ân phúc Chúa đã ban cho mỗi người, để Chúa được vinh danh, anh em được an bình và hạnh phúc”.
 
          Ta hãy có tâm tình như Chúa Giêsu đã dạy trong Tin mừng :
                             Khi hoàn tất việc phải làm
                             Nâng lòng lên Chúa mà than thở rằng :
                             Này con vô dụng muôn phần,
                             Phần con, con đã thi hành mà thôi.
                                         (Mt 5,16)

CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN A
HÃY BẮT TAY VÀO VIỆC
 
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường nói nhiều mà làm ít, giữa lý thuyết và thực hành còn một khoảng cách lớn, vì thế mới có câu nói :”năng thuyết bất năng hành”, đúng là làm láo, báo cáo hay.  Lý thuyết có hay mấy  mà không được thực hiện thì cũng không có giá trị.
 
          Trong đời sống đạo cũng thế, chúng ta cần biết Chúa, cần thông hiểu giáo lý vì “vô tri bất mộ” mà. Như thế cũng chưa đủ, còn phải đem cái biết ra thực hành trong đời sống hằng ngày nữa.  Chúa Giêsu đã nói :”Ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy” mà “giữ lời Thầy” thì có nghĩa là hãy thực hành những điều Thầy dạy, là làm theo ý Thầy.  Bài dụ ngôn về “Hai người con” trong Tin mừng hôm nay đã chứng tỏ điều đó.
 
          Người ta thường nói :”Trăm voi không được bát nước sáo” (Tục ngữ). Câu này mang tính chất mỉa mai, ngụ ý chê những người ba hoa khóac lác, hứa hẹn suông, nói thì to tát, mà rốt cuộc chẳng có gì, họ là người biết nói mà không biết làm. Có những người xưng mình là Kitô hữu, nhưng họ chỉ có cái tên, cái mã bề ngòai, còn cuộc sống của họ chẳng có gì cả, có khi còn ngược lại. Hãy sống trung thực với lòng mình. Hãy sống cho xứng đáng là một Kitô hữu chính danh để cuộc sống của mình lúc nào cũng phải “ngôn hành đồng nhất”.
 
B.. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Ez. 18,25-28.
 
          Cái nhìn của con người chỉ có một chiều : hoặc tốt hoặc xấu. Đã tốt thì cứ tốt, đã xấu thì cho xấu luôn. Do đó, con người có hai mặc cảm : Tự tôn và tự ti.
          - Tự tôn hay tự mãn : có những người cho là mình “công chính” rồi, nên tự mãn không chịu cố gắng sống tốt hơn.
          - Tự ti : có những người cảm thấy mình tội lỗi  nên thất vọng, cứ ở lỳ trong tội lỗi.
 
          Cái nhìn của Thiên Chúa có hai chiều hoán đổi : người tốt có thể trở nên xấu và người xấu có thể trở nên tốt. Tiên tri Ezéchiel cảnh cáo những người tự mãn, họ sẽ bị chết nếu bỏ đường công chính và phạm tội ác. Trái lại, những người đang ở trong tình trạng tội lỗi mà biết bỏ đường gian ác, quay về đường lành thì sẽ được cứu sống.
 
          Như vậy, Thiên Chúa mở rộng cho con người con đường tương lai để người tội lỗi bỏ con đường xấu mà trở nên tốt lành và người công chính sẽ trở nên tốt lành hơn.
 
          +  Bài đọc 2 :  Pl 2,1-11.
 
          Thánh Phaolô  vạch ra cho các tín hữu Philipphê một phương hướng để duy trì tình đoàn kết huynh đệ trong cộng đoàn Kitô hữu.  Chúng ta có thể chia phương hướng này thành hai phần :
          a)  Để tránh sự chia rẽ mà duy trì sự đoàn kết huynh đệ thì đừng ai lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn để mà tự mãn. Cũng đừng lấy người khác làm đối tượng để phân bì.
 
          b)  Thánh Phalô đã xử dụng một Thánh thi phụng vụ  đã được xử dụng trong cộng đoàn Kitô hữu để ca tụng sự khiêm nhường thẳm sâu và sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu khi Ngài chấp nhận từ bỏ mọi vinh quang trên trời để mặc lấy thân xác hèn mọn của con người.  Ngài đã hạ mình xuống phục vụ cho ơn cứu rồi loài người, nhưng nhờ đó Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên đến tột bậc.
 
          +  Bài Tin mừng : Mt 21,28-32.
 
          Đường lối của Thiên Chúa khác với đường lối của loài người. Nếu  trong bài đọc 1,  tiên tri Ezéchiel cho biết Thiên Chúa không nhìn đến quá khứ mà chỉ nhìn đến tương lai,  Ngài mở đường cho những người tội lỗi có thể quay về với đường lành, thì bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu hé mở cho chúng ta cái nhìn của Thiên Chúa về cuộc sống con người.  Thiên Chúa không quan tâm đến lời nói mà chỉ chú ý đến việc làm.
 
          Để triển khai tư tưởng này, Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn “Hai người con” : đứa thứ nhất đãø từ chối lời người cha để đi làm vườn, nhưng sau hối hận lại đi làm. Đứa con thứ hai : mau miệng thưa vâng để đi làm ngay, nhưng rồi nó chẳng chịu đi làm.
 
          Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu cho biết :
          - Đứa con thứ nhất tượng trưng cho dân ngoại, tuy ban đầu họ đã từ chối, nhưng sau hối hận lại đi “làm” theo ý Thiên Chúa.
          - Đứa con thứ hai đại diện cho dân Do thái, họ mau mắn thưa “vâng”, nhận lời ngay, nhưng trong thực tế thì không “làm” theo ý Thiên Chúa.
          Dụ ngôn này áp dụng vào lời Chúa Giêsu đã nói :”Có những kẻ đứng trước hết sẽ nên sau hết và kẻ sau hết lại trở nên trước nhất”.
 
B. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Kitô hữu thật hay giả
I. TÌM HIỂU DỤ NGÔN.
 
          1. Dụ ngôn về hai người con.
 
          Các thượng tế, kỳ hào, luật sĩ và biệt phái Do thái thường tự hào mình là con cái Abraham, đã từng giữ luật Maisen một cách cặn kẽ, thế nào cũng được phần thưởng là Nước Trời. Theo họ nghĩ, Nước Trời được dành riêng cho người Do thái, còn các dân tộc khác, những người ngoại giáo sẽ bị loại ra ngoài, nhất là những người tội lỗi như bọn thu thuế và gái điếm.
 
          Để sửa đổi quan niệm sai lạc đó, Chúa Giêsu đã đưa ra cho người Do thái dụ ngôn về hai đứa con.  Người cha có hai đứa con, ông bảo đứa thứ nhất đi làm vườn nho cho ông, lúc đầu nó từ chối, nhưng sau nghĩ lại, hối hận, lại đi làm.  Ông cũng bảo đứa con thứ hai như vậy, nó vui vẻ nhận lời, nhưng nó lại không đi làm.  Chúa Giêsu  hỏi người Do thái, trong hai đứa con, đứa nào đã làm theo ý cha mình ? Họ đều cho là đứa con thứ nhất.
          2. Ý nghĩa dụ ngôn.
 
          Chúa Giêsu đã kết luận dụ ngôn này :”Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm, sẽ vào Nước Trời trước các ông”. Chưa bao giờ ta thấy Chúa Giêsu  đã nói thẳng với người biệt phái như lần này.  Chính họ có lẽ cũng không ngờ.
 
          Câu đó có nghĩa là : các ông tưởng mình thánh thiện trong sạch, giữ luật không trách được điểm nào, còn người thu thuế các ông coi như cặn bã xã hội, những người mà các ông cấm không cho đi chung đường với họ, coi như là những đàn bà dơ dáy đến nỗi con cái Israel đi vô ý quệt phải áo họ thì phải về tắm rửa đã. Các ngươi lầm. Những người thu thuế và đĩ điếm mà các người miệt thị đến mức đó sẽ vào Nước Trời trước các ông. Nói rõ là họ tốt hơn các ông.
 
          Sự thực đã xẩy ra : Lêvi (Mt 9,9) và người đàn bà tội lỗi (Lc 7,37) đã theo sống bên Chúa, và biết bao người thu thuế đã tin lời Gioan (Mt 9,10 ; 11,19 ; Lc 3,12) trong khi đó thì Hội đồng Cộng tọa chống đối Chúa tìm giết Chúa.
                   (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm A, tr 236)
 
          3. Con người thật và con người giả.
 
          a) Thế gian có hai hạng người : thật và giả.
 
          Người ta chia con người thành hai loại : tốt và xấu, thật và giả.  Nhưng làm sao có thể phân biệt một cách chính xác vềø hai loại người đó ?  Ai là người tốt hay xấu ? Ai là người thật hay giả ? Bởi vì có những người bề ngoài tốt lành thánh thiện mà trong lòng thì xấu xa, như người ta thường mỉa mai :
         
                             Bề ngoài thơn thớt nói cười
                             Mà trong nham hiểm giết người không dao.
                                      (Truyện Kiều)
 
          Người đời xưa cũng như đời nay hay công kích những bậc tu hành, những vị này sống khắc khổû, chay tịnh,  tuân theo kỷ luật của giới mình, là những người đáng kính  nể, nhưng trong nơi riêng rẽ kín đáo thì lại phạm luật trai giới, việc làm bị bại lộ, người đời không kiêng nể đã giáng trên đầu những vị phá giới đó những câu không thương tiếc :
 
                             Nam mô,
                             Một bồ dao găm,
                             Một trăm con chó,
                             Một lọ mắm tôm,
                             Một ôm rau húng.
                             Một thúng rau răm.
 
          Có những người chỉ chú trọng đến cái dáng bên ngoài theo phương châm “tốt đẹp khoe ra, xấu xa che lại”, nhưng chính cái họ khoe ra không phải là cái tốt thật bên trong mà chỉ là lớp hào nhoáng bên ngoài, làm lòe mắt mọi người, nhưng không bịt được ai :
 
                             Khác nào quạ mượn lông công
                             Ngoài hình xinh đẹp trong lòng xấu xa.
                                            (Ca dao)
 
          Thế giới ngày nay, quá ít người sống chân thật. Quá nhiều người sống mã nước sơn bên ngoài. Họ không còn biết giá trị “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Lợi dụng nhược điểm này, nghệ thuật tuyên truyền quảng cáo tràn ngập thị trường. Hàng giả, hàng giỏm, đẹp mã, bán chạy như tôm tươi. Hàng thật, hàng tốt thì lại ế ẩm không ai mua. Người tài đức bị liệng bỏ. Kẻ vô tài thất đức, lẻo mồm tâng bốc nịnh hót thì lên như diều, để rồi “làm láo , báo cáo hay” :
 
                             Trông anh như thể sao mai,
                             Biết rằng trong có như ngoài hay không.
                                              (Ca dao)
 
          b)  Kitô hữu thật hay giả ?
 
          Theo bài đọc 1 hôm nay, thì tiên tri Ezéchiel cho biết, tiên tri thật thì ít, tiên tri giả thì quá nhiều. Họ làm nhiều người công chính, bỏ đàng công chính của Thiên Chúa đi theo tà thần đế quốc Babylon để kiếm danh lợi. Tiên tri Ezéchiel đã phải quyết liệt cảnh cáo họ :”Khi người công chính bỏ đàng công chính mà làm điều gian phi...thì nó phải chết”. Đồng thời ông cũng kêu gọi :”Kẻ bất luơng bỏ đàng bất lương, mà thi hành người công chính thì nó sẽ được sống”.
 
          Ngày xưa có nhiều tiên tri giả, ngày nay không còn tiên tri nữa thì lại có Kitô hữu giả. Họ mang danh là Kitô hữu nhưng cuộc sống thực tế của họ không còn là Kitô hữu nữa.  Có nhiều người cố gắng làm ra vẻ bề ngoài là Kitô hữu nhưng cuộc sống riêng tư của họ không còn là Kitô hữu chính danh nữa, vì họ không còn sống theo luật Chúa nữa. Có thể họ sẽ nói rất hay về đạo đức nhưng trong thực tế họ không sống đạo chút nào. Họ chỉ có cái vỏ bề ngoài là đạo nghĩa.
          Muốn trở thành người Kitô hữu chính danh thì cần có sự “Hối cải”, vì như triết gia Soren Kierkegaard, thì “không hề có tình trạng đã thành một Kitô hữu mà chỉ có trong tình trạng đang trở thành một Kitô hữu”.
 
          Theo Mark Link thì sự hối cải chỉ là một tiến trình, là một cuộc du hành đang tiếp diễn và chỉ chấm dứt khi nào chúng ta chết.  Tiến trình này gồm ba bước :
 
          - Bước thứ nhất trong tiến trình này là sự bất mãn tận căn với nếp sống hiện tại của chúng ta..
          - Bước thứ hai là bước tia lửa làm thành ngọn lửa thúc giục chúng ta làm điều gì đó cho cuộc sống mình.
          - Bước cuối cùng là thực hiện việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng là hướng về một cuộc sống mới, nhờ sự cầu nguyện kiên trì.
         
          Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá ra cuộc sống của mình. Chúng ta có cảm thấy bất mãn về mối tương giao hiện tại giữa mình và Chúa Giêsu không ? Chúng ta có ao ước thân tình sâu sắc với Chúa không ? Chúng ta có muốn yêu thương gia đình láng giềng của chúng ta nhiều hơn giống như Chúa Giêsu yêu thương họ không ?
          Nếu có thì các bài đọc hôm nay có thể ví như tia lửa bật ra để biến thành ngọn lửa mà chúng ta cần thiết phải có để làm nên một điều gì cụ thể cho các mối tương giao trên.
                             (x. Mark Link, Giảng lễ Chúa nhậtä, năm A, tr 289).
 
II. TRỞ THÀNH KITÔ HỮU THỰC THỤ.
 
          1. Tránh tính phô trương.
 
          Chúa Giêsu đã nhiều lần lên án thói phô trương của đám luật sĩ và biệt phái. Ngài không ngại gọi họ là rắn độc, mồ quét vôi trắng. Chúa khuyên họ hãy lo làm đẹp cái bên trong chứ đừng chỉ lo cái bên ngoài :”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái ! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác”(Mt 23,27).
 
          Cái tính phô trương này xuất hiện trong khi người ta không để ý đến bởi vì nó được ngụy trang bằng nhiều cách. Nhưng giấu đầu hở đuôi, sự phô trương cũng bị lộ ra một cách bất ngờ.
 
                                      Truyện : Ông Diogène và ông Platon.
          Platon hồi ấy là người yêu nghệ thuật. Nhà ở của ông được trang trí bằng nhiều bức thảm qúi đẹp.  Một hôm, DIOGENE, - người chủ trương sống màn trời chiếu đất, đầu đường xó chợ -, tới thăm Platon. Tới nơi, mặt đỏ gay, con mắt trợn trừng, ông ta vừa đạp thình thịch lên tấm thảm qúi của Platon, vừa nghiến răng nói :
          - Ta chà đạp dưới chân tính phô trương kiêu hãnh của nhà ngươi.
          Ông Platon bình tĩnh trả lới :
          - Phải, và với một sự phô trương kiêu hãnh sâu rộng hơn nhiều.
 
          Thì ra đời sống bên ngoài đầy quảng cáo của Diogène không đi đôi với đời sống bên trong. Nhà quân tử cũng mắc phải  chứng bệnh phô trương như ai.
                             (Vũ minh Nghiễm, Dừng, 1962, tr 207).
 
          2. Sống trung thực với lòng mình.
 
          Chúa Giêsu đã nói :”Có thì nói có, không thì nói không,  thêm thắt là do lòng xấu mà ra”.  Biết thế, nhưng con người vẫn phô trương, mà phô trương là phô ra ngoài những cái mình không có, ví dụ các luật sĩ và biệt phái, họ chỉ có cái vỏ bề ngoài, còn bên trong thì trống rỗng.
 
          Phải sống trung thực với lòng mình, phải làm sao cho “ngôn hành đồng nhất”, lời nói và việc làm không được mâu thuẫn nhau. Nhiều người nói thì rất hăng nhưng khi làm thì chẳng thấy đâu, họ giống như đứa con thứ trong dụ ngôn hôm nay.  Lời nói không có giá trị khi không có việc làm kèm theo :”Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Nói mà không làm thì sẽ bị người ta chê cười :                   
                             Nói thì đâm năm chém mười,
                             Đến khi tối trời chẳng dám ra sân.
                                      (Tục ngữ)
          Người ta đánh giá trị một người không phải ở lời nói nhưng là việc làm. Có một khoảng cách xa giữa lời nói và việc làm, cũng như giữa lý thuyết và thực hành : một lý thuết dù hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Vì vậy mà người ta nói :”Năng thuyết bất năng hành”, chỉ nói mà không làm.
 
                                      Truyện : anh chàng Aristogiton.
          Aristogiton hồi ấy lúc thanh bình, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa trận, nói ra sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ võ những đức tính anh hùng kiêu hùng của người chiến sĩ yêu nước.  Nghe chàng nói, thính giả có ấn tượng như chàng đang tuyên chiến với tất cả các cường quốc trên thế giới.
          Nhưng đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước đi khập khiễng, tay chống gậy, chân thì băng bó, trông thảm não vô cùng.
          Biết rõ những bí ẩn của chàng, ông Photion trợn mắt nói :”Aristogiton đã làm một người què lại còn hèn nhát”.
         
          Theo các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể rút ra được hai bài học :
 
          1. Giá trị của một đời người không nằm ở quá khứ đạo đức hay tội lỗi của người đó, mà hệ ở hiện tại người đó có quyết tâm sống công chính hay không. Theo bài đọc 1 :”Khi người công chính bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình... nó không phải chết”.
 
          2. Giá trị thực của con người không do những lời nói tốt đẹp người đó nói ra, mà do hành động của người đó :”Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ? Họ trả lời : “Người thứ nhất””.  Vì Thiên Chúa theo đường lối như thế cho nên Ngài đã ưu ái  những người một thời nổi tiếng tội lỗi như Giakêu, Mađalena, tên trộm lành...
 
          Phần chúng ta đã biết đường lối của Thiên Chúa là như thế, chúng ta phải làm sao ?
          - Đừng nghĩ rằng mình đang thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.
          - Cũng đừng cho rằng mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi buông xuôi  cho dòng đời lôi cuốn. (x. Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 491-492)
 
          Hãy sống trung thực với lòng mình. Hãy sám hối và chỉnh sửa lại cuộc sống, sao cho mình xứng đáng là con Chúa, là Kitô hữu để cuộc sống tốt lành của mình toả ra mùi thơm tho nhân đức vì “hữu xạ tự nhiên hương”. Lúc đó không cần phải phô trương, tự cuộc sống của mình đã minh chúng điều đó :
 
                             Trúc xinh trúc mọc bờ ao,
                             Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.
                             Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
                             Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
                                            (Ca dao)
 
          Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta có một tâm hồn và thể xác xinh đẹp như lời cầu của nhà hiền triết Aristote :
                             “Lạy các thần thánh
                             Xin cho tôi được xinh đẹp bên trong.
                             Xin cho mọi sự tôi có ở bên ngoài
                             đều thuận lợi cho vẻ đẹp của hồn tôi”.


CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN A
VƯỜN NHO CỦA CHÚA
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Ngày xưa Thiên Chúa đã chọn Israel là dân riêng của Ngài và coi dân Ngài như “vườn nho” được Ngài săn sóc cẩn thận. Ngài chỉ mong cho vườn nho đem lại nhiều hoa quả tốt tươi, nhưng vườn nho chỉ đem lại những trái nho dại đắng đót. Cả những người trồng nho cũng phản loạn, bất trung trong việc canh tác ,  nên Thiên Chúa đã trao vườn nho cho người khác.
 
          Ngày nay, chúng ta cũng được coi là vườn nho mới của Chúa. Tất cả những gì Chúa ân cần săn sóc ban cho đều là hồng ân của Chúa. Chúng ta được tự do hành động, sắp xếp công việc theo ý ta, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm ấy.  Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng làm việc cho tốt để đáp lại tình thương của Chúa đối với chúng ta.
 
          Sách có chữ rằng :”Tiền xa ký phúc, hậu xa khả giới” : Xe trước đổ xe sau phải coi chừng. Dân Do thái ngày xưa đã bất trung nên đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Ngày nay chúng ta là dân Do thái mới được Thiên Chúa săn sóc giữ gìn, chúng ta phải tránh xa vết xe cũ kẻo phải hư đi, nhưng phải trung thành với những hồng ân Chúa ban, bằng cách làm cho ơn Chúa được sinh hoa kết quả dồi dào trong đời sống; đồng thời cũng phải biết chia sẻ cho người khác nữa.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc 1 : Is 5,1-7.
 
          Tiên tri Isaia đã dùng “bài ca cây nho” để nói lên tình yêu của Thiên Chúa đã yêu dân Chúa như thế nào và dân Chúa đã đáp lại ra sao.  Trong dụ ngôn này, “vườn nho” tượng trưng cho dân Israel. Thiên Chúa đã yêu thương và săn sóc dân Chúa như thế nào, Ngài chỉ muốn cho nó sinh ra  những hoa trái ngon ngọt. Nhưng than ôi ! trước sự yêu thương và săn sóc của Thiên Chúa, dân Chúa vẫn bất trung, bạc tình bạc nghĩa giống như vườn nho  chỉ sinh ra những trái nho đắng đót.
 
          Trước sự bất trung ấy, Thiên Chúa định bỏ mặc dân Israel cho quân thù giấy xéo, phải làm tôi ngoại bang. bị đi lưu đầy.  Thực tế đã chứng minh : những sự việc này đã xẩy ra trong lịch sự dân Israel.
 
          + Bài đọc 2 : Pl 4, 6-9.
 
          Gặp những hoàn cảnh khó khăn, nhiều người tỏ ra xao xuyến ngã lòng, thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Philipphê hãy trút bỏ mọi lo âu và hãy tin tưởng vào Chúa để được bình an trong tâm hồn. Ngài đưa ra cho tín hữu bí quyết để được sự bình an ấy :
 
          a) Hãy cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh :”Anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bầy trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”.
          b) Hãy sống với lương tâm trong sáng và hãy đem ra thực hành những điều đã được học hỏi nơi thánh Phaolô.
 
 
          + Bài Tin mừng : Mt 21, 33-43.
 
          Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn này để cảnh giác các nhà lãnh đạo Do thái : vua chúa, luật sĩ, biệt phái và những tư  tế. Thiên Chúa đã giao dân Chúa - là cây nho qúi - cho những nhà lãnh đạo Do thái, nhưng những người này lại khai thác cây nho để hưởng lợi riêng, bách hại những tiên tri, những sứ giả của Thiên Chúa và giết cả Con  của Người.
         
          Đồng thời Chúa Giêsu cũng cảnh cáo dân Do thái : đáng lẽ dân Do thái phải biết ơn Chúa khi gọi họ vào Nước Trời, và đáp lại họ phải có một đời sống tốt, như một phần hoa lợi nộp cho Thiên Chúa là chủ vườn nho.  Nhưng chẳng những họ không làm thế mà còn giết luôn cả Chúa Giêsu, Con duy nhất của Thiên Chúa.
 
          Do đó, Chúa Giêsu kết luận :”Nước Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.
 
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Hãy sinh hoa trái tốt
I. TÌM HIỂU DỤ NGÔN.
 
          1. Tục lệ trồng nho ở Palestine.
 
          Palestine là một vùng đồi núi thích hợp cho việc trồng nho, nên trồng nho  là một nghề rất quen thuộc.  Chúa Giêsu muốn dùng vườn nho để làm dụ ngôn. Vườn nho thường có hàng rào làm bằng hàng rào gai dầy để ngăn chặn heo rừng vào phá và kẻ trộm có thể vào ăn trộm nho.  Mỗi vườn nho đếu có hầm ép rượu gồm hai cái chậu đục từ đá hay xây bằng gạch, cái này đặt cao hơn cái kia và nối với nhau bằng hai cái rãnh.  Nho được ép từ chậu cao  sẽ chảy xuống chậu thấp.  Cái tháp trong vườn được dùng cho hai mục đích. Nó dùng làm chòi canh kẻ trộm khi mùa nho chín và làm chỗ cho người làm việc trong vườn nho.
 
          Những người có nhiều đất thì thường đem đất đai cho mướn, giống như ở Việt nam xưa cho tá điền phát canh thu tô.  Tiền cho mướn phải trả bằng ba cách : bằng tiền, bằng số trái cây nhất định hoặc bằng số bách phân của hoa mầu.
 
          Hành động của những người trồng nho mướn cũng không phải là việc bất thường. Trong thời Chúa Giêsu, xứ Palestine ở vào thời kinh tế bất ổn, người làm công bất mãn và làm loạn . Hành động của những tá điền tìm giết con chủ vườn không phải là chuyện không xẩy ra.
 
          2. Ý nghĩa dụ ngôn.
 
          Bài Tin mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn  những người làm vườn nho giết người, để trình bầy về sự tương phản giữa tình yêu của Thiên Chúa với sự độc ác của những kẻ bất trung vô ơn bội nghĩa với tình thương yêu ấy.
 
          Theo từng chi tiết, vườn nho ám chỉ Nước Thiên Chúa hay là Nước Trời được trao cho dân Do thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn  nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là các tiên tri, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến đều bị ngược đãi hoặc bị giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, Nước Thiên Chúa được chuyển sang cho một dân tộc khác là Hội thánh, một dân phổ quát và Công giáo,  sẽ lan tràn trên khắp thế giới.
 
          Ý nghĩa câu chuyện thật rõ ràng đối với thính giả Do thái thời Chúa Giêsu.  Thiên Chúa đã chọn người Do thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết chết các tiên tri của Thiên Chúa và đóng đinh chính Con của Ngài chết trên thập giá.
 
          Rồi Thiên Chúa kêu mời những người Do thái, là chúng ta đây, làm những tá điền mới trong vườn nho của Ngài, làm công dân mới trong Nước Thiên Chúa. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải nộp một loại “tiền thuế”, một loại “dịch vụ”, một loại “nợ” về ân huệ gia nhập dân Chúa.
 
II. NHỮNG BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.
 
          Đọc dụ ngôn này, chúng ta có thể rút ra được mấy bài học để thực hành trong đời sống hằng ngày :
                   - Lòng yêu thương và kiên nhẫn của Thiên Chúa.
                   - Sự tựï do của con người trong cuộc sống.
                   - Phải sinh hoa trái tốt trong đời sống.
 
          1. Lòng yêu thương và kiên nhẫn của Thiên Chúa.
 
          Suy nghĩ về thái độ của ông chủ vườn nho đối với các tá điền,  ta thấy chủ vườn nho đã cố gắng tới ba lần để giúp các tá điền thay đổi đường lối. Ông sai hết người đại diện này đến người đại diện khác đến với họ.  Ông không đến báo thù ngay khi người đại diện ban đầu bị ngược đãi, ông cho những người tá điền hết cơ hội này đến cơ hội khác để đáp ứng đòi hỏi của ông.  Khi ông thấy rằng có kiên nhẫn hơn nữa cũng vô ích, ông ta mới ra tay xét xử  đám này và bắt họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.   Cuối cùng, ông chủ lấy lại vườn nho và trao lại cho người khác.
 
          Thiên Chúa cũng cư xử với chúng ta y như thế.  Cha chúng ta trên trời vô cùng kiên nhẫn.  Nhưng rồi sẽ đến lúc sự kiên nhẫn của Chúa sẽ nhường bước cho sự xét xử.  Và chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
 
          2.  Sự tự do của con người.
 
          Ông chủ vườn nho đã sắp xếp mọi thứ : có hàng rào, có hầm ép rượu và tháp canh để giúp cho công việc được dễ dàng. Ông chủ không những giao công việc để làm, mà còn giao phương tiện để làm nữa.  Ông chủ vườn để những người tá điền làm công việc theo sở thích của mình và chỉ đòi họ canh tác để đến mùa thu hoa lợi, chứ không phải là người độc đoán, ông như một vị chỉ huy khôn ngoan trao công tác rồi để cho họ làm.
 
          Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tin của ông chủ. Những người tá điền cố tình thực hiện kế hoạch chống lại và không vâng phục chủ mình.
 
          Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.
 
          3. Phải làm nảy sinh ra hoa trái tốt.
 
          a) Những ơn lành đã nhận.
 
          Tất cả mọi cái chúng ta có là do Chúa mà có, ngay cả con người chúng ta, mạng sống chúng ta. Chúng ta phải nói như thánh Phaolô :”Tất cả là hồng ân”.  Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đặt một câu hỏi khiến mọi người chúng ta phải suy nghĩ :”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận” (1Cr 4,7).
 
          Thật vậy, những ân phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết xử dụng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người Chúa ban cho một vốn liếng khác nhau không ai giống ai : người mười nén, người năm nén, người một nén... nhưng tất cả đều giống nhau ở chỗ là phải cố gắng làm sinh lời tùy theo sức của mình. Chúa chỉ đòi chúng ta cố gắng chứ không đòi kết quả.
 
          Tóm lại, tất cả đều do Chúa ban. Ta đúng là một vườn nho được Chúa chăm sóc ân cần.
          Chúa chờ đợi gì nơi ta ?
          Chúa muốn ta nhận biết tất cả là bởi Chúa. Thế mà chúng ta vô tình coi những thứ đó là của riêng ta. Như thế, chúng ta cũng giống như những tá điền muốn chiếm đoạt vườn nho của chủ.  Nhiều khi chúng ta chỉ biết dùng những thứ ấy cho riêng mình mà không nghĩ tới tha nhân, Giáo hội và xã hội.
 
          Ngoài ra, trong việc làm sinh hoa kết quả trong đời sống, tâm lý thông thường con người ta là muốn làm việc lớn, được nhiều lợi nhuận, được nhiều người biết đến. Nhưng trước mặt Chúa, mọi việc dù lớn dù nhỏ không quan hệ, miễn là chúng ta làm việc cho Chúa, vì Chúa và làm hết khả năng của mình. Trong cuộc sống của chúng ta, chẳng mấy khi có việc lớn mà chỉ là những việc nhỏ, nhưng trung thành  chu toàn được những việc nhỏ lại là việc khó như ngạn ngữ La tinh có câu :”Communia, non communiter” : làm công việc tầm thường nhưng bằng một cách phi thường.  Thánh Têrêsa Hài đồng đã làm gương cho chúng ta về vấn đề này.
 
          Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết không làm những việc nhỏ cho Ngài. Nếu không trung thành trong những việc nhỏ thì không ai tin tưởng mà trao cho chúng ta việc lớn hơn.  Kinh thánh nói :”Ai trung thành trong việc nhỏ mọn cũng sẽ trung thành trong việc lớn”.
 
                                       Truyện : Vị thiên thần dễ tính.
          Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền năng của Thiên Chúa.  Vị thiên thần đồng ý.  Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện :”Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”.  Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng.  Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được.  Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khỏe cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khỏe ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
 
          Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tốt những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm :”Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành  những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thủy, một người cha hiền tận tụy với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
 
          Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
                   (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng CN, năm A, tr 212-213)
 
          b)  Lãnh nhận và cho đi.
 
          Ta nhắc lại một lần nữa lời thánh Phaolô :”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận”(1Cr 4,7). Phải, tất cả những gì ta đang có là do ta lãnh nhận từ tay Chúa, một cách trực tiếp hay gián tiếp. Nhưng không chỉ nhận, ta còn phải biết cho, bởi vì, trên căn bản, ta nhận không phải chỉ cho riêng mình mà còn cho người khác nữa.
 
          Con sông chỉ nhận nước vào mà không cho nước thoát ra thì không thể nhận thêm nước được, nó sẽ trở thành cái ao tù.  Nó phải phân phối nước đi thì nó mới trở nên trong sạch được bằng cách nhận thêm nước khác. Nước Biển Chết là một thứ nước mặn chát, hôi thối vì chỉ nhận nước tư øcác sông chảy vào mà không có lối thoát ra.
 
          Có một mối tương quan biện chứng giữa nhận và cho : đã nhận thì phải cho đi, cho đi thì mới nhận vào được,  nếu chỉ nhận mà không cho đi thì bị tắc nghẽn.  Con người cũng thế, nếu chỉ biết nhận lãnh cho mình mà không biết chia sẻ cho nguời khác thì người đó chỉ biết co cụm lại, thay vì làm giầu thì chỉ làm cho mình nghèo đi. Những người chỉ biết co cụm lại không thông ra cho người khác thì không bao giờ có niềm vui vì người ta chỉ có thể có niềm vui khi mở lòng ra với người khác.
 
                                      Truyện : không biết chia sẻ.
          Một người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn đó là điều mà con người may mắm này đã cảm nhận được.
          Tuy nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi hỏi, đòi hỏi thách thức nhất của người nghèo  bỗng nhiên trở thành giầu có là : hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc, bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ, trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó là thói thường của người đời.
          Kẻ trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy, lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi người. Nhưng dần dà con số người đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng, cho đến một lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên. Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn nữa.
          Một hôm, ông đề nghị với vợ :
          - Hay là ta dọn đi một nơi khác.
          Người vợ lắc đầu bảo :
          - Mình có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.
          Nhưng người chồng giải thích :
          - Mình sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết mình sẽ đi đâu, và sẽ cố gắng sống một cách đơn giản để không ai để ý đến mình nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho biết mình đã trúng số.
          Người vợ thắc mắc :
          - Còn tiền bạc thì mình để ở đâu?
          Chồng trả lời dứt khoát :
          - Mình sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể không hề trúng số, chỉ đem ra dùng  khi nào cần thiết mà thôi.
          Thế là cả gia đình đã dọn đến một nơi khác như dự kiến : họ lén lút ra đi nên không ai biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn quá nhỏ nên không biết việc gì đã xẩy ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột.  Ngày qua ngày, chính họ cũng quên rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết thì tất cả mọi tài sản đều mất hết. Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để trao lại tài sản cho chúng.
 
          Câu chuyện ngụ ngôn trên đây nhắc cho chúng ta lời khuyên của Chúa Giêsu  :”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không”.  Tất cả những gì Chúa ban cho ta, không phải chỉ dành cho riêng mình nhưng còn phải cho kẻ khác nữa.  Chúng ta chỉ có được niềm vui khi chúng ta biết mở lòng ra với người khác. Còn niềm vui nào lớn hơn khi niềm tin được sinh lợi bằng những hoa trái của yêu thương, của phục vụ. Còn niềm vui nào lớn hơn khi chúng ta cảm nhận được Chúa đang đến qua từng cố gắng sống niềm yêu thương chia sẻ của chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống.
 

CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN A
TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI
+++
 
A. DẪN NHẬP.
 
          Bài Tin mừng hôm nay nói về bàn tiệc Nước Trời. Qua dụ ngôn ấy, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết : Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài mở rộng cửa để đón tiếp mọi người vào dự bàn tiệc Nước Trời. Lời mời gọi có tính cách rộng rãi, Ngài mời gọi mọi người không trừ ai, dù tốt dù xấu ,  miễn là phòng tiệc phải đầy người.
 
          Tuy thế, lời mời gọi đó còn chờ sự đáp ứng của từng người , mỗi người có quyền tự do, họ có thể chấp nhận hay từ chối. Trong thực tế, nhiều người đã từ chối lời mời gọi thật tình đó. Nhiều người đã từ chối bằng cách viện ra những lý do không vào đâu như bận đi xem ruộng vườn, bận đi buôn bán hoặc làm bất kỳ một công việc nào khác.
 
          Trước sự từ chối của dân Chúa, Thiên Chúa quay sang dân ngoại, mời họ vào Nước Trời cho thật đông để họ được thưởng thức những cao lương mỹ vị mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ.  Tuy nhiên, muốn vào dự tiệc Nước Trời cũng phải có điều kiện : phải mặc áo cưới. Phải mặc y phục lễ cưới là phải có một sự hoán cải tâm hồn để xứng đáng là công dân Nước Trời.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc 1 : Is 25,6-9.
 
          Tiên tri Isaia đã mô tả cho chúng ta hạnh phúc viên mãn trong thời sau hết. Đó là tiệc cưới  mà Thiên Chúa dọn cho mọi người trên núi.  Tiệc cưới có những cao lương mỹ vị, có bê béo, rượu ngon. Đấy là hình ảnh của hạnh phúc tối cao mà những người bạn của Chúa sẽ được hưởng. Trong bữa tiệc đó, người dự không những được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu tủi hổ, tang chế.
 
          Hình ảnh mà Isaia mô tả là hạnh phúc Nước Trời được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người không phân biệt ai.
 
          + Bài đọc 2 : Pl 4,12-14.19-20
 
          Ở trong tù, thánh Phaolô viết thư gửi cho tín hữu Philipphê cho họ biết : những sự giúp đỡ vật chất của họ cũng không cần lắm vì một mặt Ngài đã quen  sống trong cảnh thiếu thốn về vật chất ; hơn nữa, có Chúa giúp đỡ để ngài thắng lướt được mọi nghịch cảnh.
 
          Ngoài ra, ngài vẫn trân trọng lòng hảo tâm của tín hữu đã giúp đỡ ngài. Tất cả những sự giúp đỡõ ấy đều đáng qúi và Ngài xin Chúa đền đáp xứng đáng tấm lòng thơm thảo của họ,
 
          + Bài Tin mừng : Mt 22,1-14.
 
          Chúa Giêsu dùng dụ ngôn tiệc cưới để cho biết : Thiên Chúa muốn ban hạnh phúc Nước Trời cho dân Do thái, dân ưu tuyển của Ngài, nhưng rất tiếc họ đã từ chối vì họ chuộng những giá trị trần gian hơn.  Trước sự từ chối đó, Thiên Chúa đã mời những người ngoại đạo vào Nước Trời thay cho dân Do thái, dân này đã từ chối không chịu vào Nước Trời vì họ đã bị các nhà lãnh đạo dẫn đường sai lạc.
 
          Tuy nhiên, muốn vào Nước Trời phải có điều kiện : phải mặc áo cưới.  Áo cưới đây ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Đến dự tiệc Nước Trời
I. TÌM HIỂU DỤ NGÔN.
 
          1. Phong tục tổ chức tiệc cưới.
 
          a) Mời thành hai giai đoạn.
 
          Những công việc diễn tiến trong dụ ngôn này hoàn toàn phù hợp với phong tục bình thường của dân Do thái.  Đối với những bữa tiệc cưới, khi thiệp mời được gửi đi thì thời giờ không được xác định rõ, và khi mọi việc đã xong đâu vào đấy thì những người giúp việc mới ra đi mời lần cuối cùng xin quan khách đến dự.  Như vậy, vị vua trong câu truyện này đã gửi thiệp mời dân lâu rồi, nhưng đến khi mọi việc sẵn sàng thì lời mời cuối cùng mới gửi đến và đã bị người ta từ chối.
 
                                      Truyện : tiệc cưới hoàng tử
          Mùa xuân năm 1947, cả thế giới chú ý tới hàng tin lớn trên báo chí cho biết : công chúa Elizabeth của nước Anh sẽ đẹp duyên với hoàng tử Philippe, người Hy lạp.  Cuộc tình duyên này quan trọng, bởi vì công chúa Elizabeth sẽ lên ngôi kế vị vua cha vì không những trên vương quốc Anh và Bắc Ái nhĩ lan, mà còn đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm trên 50 quốc gia lớn nhỏ như Ấn độ, Canada, Úc, Tân tây lan... Ai cũng tò mò theo dõi lễ cưới lịch sử này. Cuộc lễ được tổ chức ngày 20.11.1947 tại tu viện cổ kính Westminter, nơi chôn cất các bậc vương quân và những nhân vật lớn nước Anh.  Người ta không những theo dõi những nhân vật chính là cô dâu chú rể mà còn chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới. Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt, từ những vị nguyên thủ quốc gia đến các vị thủ tướng và các nhà chính trị, từ những nhà qúi tộc đến những nhà tỉ phú. Nói tắt, tất cả những nhân vật quan trọng hàng đầu của nước Anh và nhiều nước trên thế giới đều lấy làm vinh dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó.
                   (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng năm A, tr 215)
 
 
 
          b) Khách được mời tham dự.
 
          Theo phong tục của nhiều dân tộc xưa, tiệc cưới hoàng tử chẳng những các đại thần được ưu tiên mời, mà còn tất cả thần dân đều được hưởng lộc của nhà vua. Tiệc cưới hoàng tử Nước Trời chẳng những ưu tiên cho dân tộc Do thái, mà còn cho toàn thể muôn dân, vì toàn thể nhân loại  đều là thần dân của Ngài. Như tiên tri Isaia đã loan báo :”Chúa Tể trời đất sẽ thiết tiệc đãi muôn dân”.
 
          2. Ý nghĩa dụ ngôn.
 
          a) Đối với người Do thái.
 
          Đây là lời tố cáo người Do thái. Quan khách đã được mời nhưng đến giờ lại từ chối không đến. Họ tiêu biểu cho người Do thái. Từ xưa họ đã được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài, nhưng khi Con Chúa Trời xuống thế gian, và họ được mời gọi theo Ngài, tin nhận Ngài thì họ lại khinh dể, đã từ chối lời mời đó.  Rốt cuộc lời mời của Thiên Chúa đến trực tiếp với những tội nhân và người ngoại bang, là những kẻ không bao giờ kỳ vọng được mời vào Nước Trời.
 
          Còn một chi tiết nữa là vua thịnh nộ với kẻ từ chối, lại còn sỉ nhục và giết các đầy tớ của vua, sai quân đi diệt những kẻ không nhận lời mời và đốt thành của chúng.  Chi tiết này dường như không ăn nhập với việc mời dự tiệc cưới.  Nhưng chúng ta nhớ lại, khi Matthêu viết sách Phúc âm của ông vào giữa năm 80-90 SC, những gì đã xẩy ra trong thời gian giữa lúc Chúa Giêsu sống và lúc viết sách Phúc âm ? Câu trả lời là : kinh thành Giêsrusalem bị quân Rôma phá hủy khoảng năm 70 SC. Giêrusalem thực sự bị tàn phá, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, đền thờ bị cướp phá và bị đốt, tại hoạ này đã đến cho những kẻ không nhìn nhận Con Thiên Chúa khi Ngài đến trong thế gian.
 
          b) Đối với mọi thời đại.
 
          Lời mời gọi trong dụ ngôn này là lời mời gọi của Thiên Chúa đối với mọi người chúng ta. Được mời gọi vào dự tiệc cưới, tiệc cưới Con Thiên Chúa, là một vinh dự lớn lao, lại không phải mất tiền.  Khi Kitô hữu được mời là được mời đến để vui vẻ, và chúng ta sẽ mất niềm vui nếu chúng ta không nhận lời mời.
 
          Nhưng nhiều khi chúng ta lại từ chối lời mời gọi của Chúa vì những lý do chẳng ra cái gì như đi thăm ruộng, đi buôn bán... Người ta dễ bận rộn với điều tạm bợ và quên những điều liên quan tới đời đời.  Quá bận tâm với những điều mắt thấy được thì dễ quên với những điều mắt không thấy được.  Quá chăm chú nghe những lời mời gọi của thế gian, thì khó nghe được tiếng gọi êm dịu của Chúa Giêsu.
 
          Lời mời gọi của Chúa dành cho ta là lời mời gọi của ân sủng. Những kẻ được qui tụ là những nẻo đường không có quyền đòi hỏi gì nơi nhà vua cả. Họ không bao giờ có thể ngờ rằng mình sẽ được dự tiệc cưới và càng không xứng đáng để dự tiệc đó. Những việc xẩy đến với họ không bởi điều gì khác hơn là lòng quảng đại của nhà vua mở rộng đôi tay đón tiếp họ. Bởi ân sủng, lời mời được ban ra, và bởi ân sủng mà người ta được nhóm lại.
 
          3. Dụ ngôn chiếc áo cưới.
 
          Chúng ta có thể coi chiếc áo cưới là phần nối tiếp của dụ ngôn khách mời dự tiệc, hoặc coi như là một dụ ngôn riêng. Tuy coi như dụ ngôn riêng nhưng cũng là câu chuyện nối tiếp và giải rộng ý nghĩa câu truyện trước, trong câu truyện ở đây có một thực khách đến dự tiệc của nhà vua, nhưng không chịu mặc lễ phục.
 
          Thuần phong mỹ tục coi lễ cưới là ngày lễ trọng đại của gia đình, tất nhiên có nghi thức long trọng với những trang phục đẹp đẽ chỉnh tề.  Những hạng người bê bối thô lỗ tục tằn, vô lễ, vô kỷ luật đều bị loại bỏ vì nó bôi nhọ nếp sống văn hóa trong sáng và đạo đức.
 
          Nếu ai nhận  chiếc áo cưới gắn liền với dụ ngôn trên thì thắc mắc : ra đường mời vào, ở giữa ngã ba đường cái làm gì có áo cưới ? Trả lời cho thắc mắc đó, ta để ý : người đó không chữa tội gì cả, là dấu anh ta có lỗi, không cần biết nguyên do. Theo thói quen, thời xưa khách qua cửa đã có người trao áo cho, không biết người Do thái có thói quen nào ? Có áo mà không mặc là lỗi tại mình vì thế nên không mở miệng chữa tội được câu nào.
 
          Muốn vào dự tiệc cưới thì tối thiểu phải có y phục lễ cưới. Theo thánh Matthêu, muốn vào dự tiệc cưới trong nước Thiên Chúa thì mỗi người phải nhận thức rằng Giáo hội càng ngày càng đông, nhưng Giáo hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không có một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương kẻ có tội và Giáo hội của Ngài đầy tội nhân hơn là vị thánh, nhưng dù sao, muốn vào Giáo hội, Chúa cũng đòi hỏi có sự ước muốn trở lại chân thật, một “chiếc áo trắng rửa tội”, một sự ao ước “mặc lấy Chúa Kitô”.
 
          Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Thánh kinh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.
 
II. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.
 
          1. Dấn thân gia nhập vào Hội thánh.
 
          Thiên Chúa mời gọi ta : Ngài muốn có những người tham dự tiệc cưới đó. Ngài có sáng kiến trước. Lời mời gọi đó được chuyển đến ta qua các vị sứ giả của Chúa, nhất là Chúa Kitô.  Chúa Kitô đến trên trần gian để mời gọi ta và sửa soạn cho ta có bộ áo cưới, tức là cứu rỗi ta. Việc sửa soạn áo cưới được cụ thể hóa bằng việc mến Chúa yêu người, tức là đời sống đức tin nhờ ơn thánh.
 
          Nhân loại chúng ta đáp lại lời mời gọi qua trung gian là Chúa Kitô và Giáo hội.  Chúng ta đến dự tiệc cưới không phải với tính cách là “khách” mà thôi, nhưng còn với tư cách là con cái trong gia đình, nhờ đó sự vui vẻ thân mật càng tăng thêm.  Hiện thời bữa  tiệc đó đã bắt đầu nhờ Chúa Kitô vì ta đã có ơn thánh và hằng ngày tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể chờ ngày Chúa lại đến.
         
          Tuy chấp nhận lời mời gọi của Chúa đâu phải là sự dấn thân mang tính chất nhất thời. Đó là một tiến trình đòi hỏi phải liên tục dấn thân và thích ứng bởi vì cuộc sống thường nhật rất dễ khiến chúng ta sao lãng và bỏ quên mất sự sống đời đời, bởi vì thức ăn tầm thường của cuộc đời này dễ nhét đầy bụng chúng ta và làm cho chúng ta quên đi bữa tiệc vĩnh cửu.
 
          Chấp nhận lời mời của Chúa không chỉ là vấn đề gật đầu một lần rồi sau đó quên tuốt đi, và việc này giống như câu nói “Tôi đồng ý” trong hôn nhân. Câu “tôi đồng ý” này đâu phải là điểm kết cho một tiến trình mà chính là điểm khởi đầu. Nhận lời Chúa cũng giống như tốt nghiệp đại học bởi vì sự tốt nghiệp không phải là điểm kết thúc cho công cuộc học vấn mà chỉ là bệ phóng cho sự học hỏi tiến xa hơn mà thôi.
 
          2. Dự tiệc Thánh Thể hằng ngày.
 
          Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta tham dự bữa tiệc của Nước Trời. Trong Thánh kinh, nhiều bữa được nhắc đến : như bữa ăn tổ phụ Abraham khoản đãi ba người khách lạ dưới lều vải (St 18,1-8), như bữa tiệc người cha già mừng người con đi hoang trở về (Lc 15,22-32). Chúa Giêsu  đã đi dự đám cưới ở làng Cana (Ga 2,1-10), Ngài cũng dọn bữa ăn cho các môn đệ sau một đêm lao lực (Ga 21,1-14), cho dân chúng được ăn no tự 5 chiếc bánh và 2 con cá. Tất cả để báo hiệu bữa tiệc Thánh Thể.
 
          Thì, hôm nay, tiên tri Isaia ví Nước Trời như một bữa tiệc mà Chúa khoản đãi mọi dân tộc, nhất là những ai đói khát tự do, công chính. Chúng ta cũng hãy sốt sắng tham dự vào bữa tiệc thánh là Lời Chúa và Thánh Thể, hãy “hân hoan vì Chúa khoản đãi và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt”.
 
          3. Y phục xứng kỳ đức.
 
          Tục ngữ Pháp có câu :”La soutane ne fait pas un moine” : chiếc áo dòng không làm nên ông thầy tu.  Câu tục ngữ ấy có ý nói rằng  muốn trở thành một tu sĩ thực thụ  thì cần phải có đời sống xứng đáng với bậc tu của mình. Người  ta quí trọng tu sĩ là do đời sống thánh thiện của họ chứ không phải do cái áo của họ. Cho nên quần áo thì phải đi đôi với đức độ, nghĩa là phải có cả bề trong lẫn bề ngoài.
 
          Cung cách một người thể hiện tinh thần của người đó.  Khi đến thăm một người bạn, ta sẽ không mặc bộ đồ làm vườn mà đến. Chúng ta biết rõ rằng quần áo không thành vấn đề đối với bạn chúng ta, cũng không phải chúng ta muốn trình diễn, nhưng vì vấn đề phải tôn trọng nên chúng ta đến nhà bạn  một cách gọn gàng và chỉnh tề. Chuẩn bị trước như thế là chúng ta bầy tỏ cảm tình và sự tôn trọng của mình đối với bạn.
 
          Đối với nhà của Chúa cũng vậy, ví dụ này không quan hệ gì đến việc ăn mặc của chúng ta khi đến nhà thờ để trình diễn, nhưng cần có trang phục cho linh hồn, tấm lòng và tâm trí của chúng ta.  Đó là sự khao khát, trông đợi, lòng khiêm nhường và thống hối, đức tin và sự tôn kính. Đây là bộ áo lễ nếu không mặc vào thì sẽ không dám đến gần Chúa. Điều thường xẩy ra là chúng ta hay đến nhà Chúa mà không sửa soạn chút nào. Nếu mỗi người chúng ta đều sửa soạn trước khi đến nhà thờ bằng lời cầu nguyện ngắn, suy nghĩ và tự kiểm điểm bản thân thì sự thờ phượng mới đúng là sự thờ phượng thật.  Một sự thờ phượng đem lại nhiều tốt lành cho tâm hồn mỗi người, cho Hội thánh và cho thế giới.
 
          Chúng ta đã nhận lời mời của Chúa mà vào dự tiệc Nước Trời. Đây là một vinh dự lớn lao Chúa dành cho ta. Nhưng vinh dự ấy đòi chúng ta phải vươn lên bằng một đời sống lành thánh, một đời sống kết hợp với Chúa, để có thể nói như thánh Phaolô :”Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Trách nhiệm của chúng ta là phải giữ mình không để cho vật dục hay của cải trần gian lôi kéo xuống giống như con vật, ngược lại phải vươn lên làm con cái ánh sáng để xứng đáng là công dân Nước Trời.
 
                                      Truyện : đại bàng con
          Chuyện kể rằng : Có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại bàng. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.
          Một ngày kia, đang bưới móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bàng con bỗng thấy một con đại bàng lớn bay lượn trên không trung thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ :
          - Mẹ ơi, sao mình không bay như chim kia trên trời ?
          - Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được !
          - Thế chúng ta là ai ?
          - Chúng ta là gà rừng !
          Bỗng một ngày, đang khi bươi chải kiếm ăn trên đống rác cậu lại thấy đại bàng mẹ bay lượn trên đầu gọi :
          - Bay lên con ơi, bay lên đại bàng con của mẹ. Thế giới  của con là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này ! Bay lên đi con.
          Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo :
          - Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.
          Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng sao đại bàng kia cứ bảo ta là đại bàng con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có khó khăn gì, có lẽ chưa quen thôi. Nào hãy thử lần nữa xem.
          Thế là cậu đại bàng đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi.Cậu bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới từ trên cao, lòng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn.
                   (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm A, tr 145-146)
 
          Kitô hữu là người được Thiên Chúa tuyển chọn, làm con cái của Người. Họ là những con đại bàng, luôn ngước mắt nhìn cao, mong bay lên cùng Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Họ luôn sống trong tâm tình của thánh Augustinô :”Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa. Tâm hồn con luôn thao thức cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa”.
 
          Đừng bao giờ nghĩ mình là giống gà rừng, để cúi đầu bươi chải, an phận với những hạnh phúc nhỏ nhoi tầm thường. Tuy được những con sâu bọ là miếng mồi ngon đấy, nhưng chúng cũng nằm trên đống rác, đống phân.  Chúng ta hãy vươn mình lên, vươn lên mãi cho tới trời cao, nơi quê hương thật của chúng ta ở đó. Chúng ta hãy thực hiện lời thánh Phaolô đã dạy :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”(Pl 3,20-21).

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN A
PHẢI TRẢ VỀ CHO AI ?
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Thiên Chúa có thể dùng mọi phương tiện để thực hiện ý định của Ngài. Ngài dùng ngay cả vua ngoại đạo để giải thoát dân Ngài. Mọi sự đều ở trong tay Chúa. Chúa muốn thế nào thì được như vậy, không ai có thể phá bỏ được kế hoạch của Thiên Chúa.
 
          Người Kitô hữu sống trên trần thế có hai nhiệm vụ song song : nhiệm vụ đối với Thiên Chúa và đối với Tổ quốc. Trên nguyên tắc, hai nhiệm vụ này độc lập với nhau, nhưng trong thực tế, khi thi hành những nhiệm vụ này, đôi lúc chúng ta gặp không ít khó khăn, đôi lúc làm cho chúng ta lo lắng.  Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào vừa phụng sự Thiên Chúa vừa phụng sự Tổ quốc mà không xung đột nhau ? Làm sao có thể sống tốt đạo đẹp đời một cách hài hoà trong cuộc sống hằng ngày ?
 
          Chúa Giêsu cũng là một công dân của nước Do thái. Ngài cũng có lý lịch rõ ràng và một Tổ quốc để phụng sự. Ngài đã chu tòan nhiệm vụ của một người công dân của một nước bị trị (x. Mt 17,26; Lc 23,22) theo nguyên tắc “Của César thì trả cho César”. Chúng ta cũng phải theo cách sống của Chúa Giêsu : chu tòan nhiệm vụ đối với Thiên Chúa và Tổ quốc. Dĩ nhiên, trong những trường hợp có sự va chạm giữa chính quyền và tôn giáo thì chúng ta hãy theo nguyên tắc này : không luật lệ nào được chống lại luật của Thiên Chúa, vì như thế là cũng phạm đến con  người.
 
          Nhiệm vụ của Kitô hữu là phải cầu nguyện và khôn khéo thế nào để tạo ra sự hòa hợp giữa Giáo hội và quốc gia để cả hai cùng phục vụ con người một cách tốt đẹp.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc 1 : Is 45,1.46.6.
 
          Thiên Chúa có thể dùng bất cứ phương tiện nào để thực hiện ý định của Ngài : bằng chứng là Ngài đã dùng Cyrô, vua ngoại đạo, để giải thoát dân Ngài.
 
          Theo lịch sử, năm 587 trước công nguyên, đế quốc Babylon xâm chiếm Giêrusalem, dân chúng bị bắt đi đầy. Gần 50 năm sau, đế quốc Babylon sụp đổ và đế quốc Ba tư chiếm ngôi bá chủ. Năm 538, vua Ba tư là Cyrô, sau khi chiến thắng Babylon, đã ra sắc chỉ cho dân Do thái được hồi hương.
 
          Mặc dầu vua là người không biết Thiên Chúa nhưng Ngài đã dùng vua  để thực hiện chương trình của Ngài. Chính vua Cyrô cũng không ngờ rằng ông là khí cụ của Thiên Chúa : chính Thiên Chúa trao quyền cho ông. Thiên Chúa cho ông thống trị các dân, và Thiên Chúa xúi lòng ông cho dân Chúa được hồi hương.  Vì thế tiên tri Isaia đã không ngại gọi ông là “Đấng xức dầu của Thiên Chúa”.
 
          + Bài đọc 2 : Tx 1,1-5b.
 
          Thánh Phaolôâ đã thành lập giáo đoàn Thessalonica vào năm 50 trong chuyến truyền giáo lần thứ hai . Trong khi gặp rất nhiều khó khăn : người Do thái muốn ám hại, nên Ngài phải bỏ trốn trước khi hoàn thành việc đào tạo và tổ chức giáo đoàn. Khi được tin tốt về giáo đoàn non trẻ này, Ngài vô cùng sung sướng  vì họ có một đức tin vững vàng, một lòng cậy trông và một đức ái sống động.  Ngài viết thư này để khuyến khích họ và cảm tạ Chúa vì tất cả những thành quả mà giáo đoàn này đã thu lượm được :”Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi”.
 
          + Bài Tin mừng : Mt 22, 15-21.
 
          Bình thường nhóm biệt phái và nhóm Hêrôđê không thuận nhau vì, một đàng nhóm biệt phái là người ái quốc chống lại chính quyền Roma đang đặt ách đô hộ trên quê hương họ; đàng khác nhóm Hêrôđê thì ủng hộ chính quyền Roma để trục lợi.  Hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau nhưng hôm nay cùng liên minh với nhau để gài bẫy Chúa Giêsu.
 
          Họ chất vấn Chúa bằng một cầu rất hóc búa :”Có được phép nộp thuế cho César không”? Nếu trả lời “có” thì nhóm biệt phái cho Ngài là phản quốc vì tiếp tay với ngoại bang ; nếu trả lời “không” thì sẽ bị nhóm Hêrôđê tố cáo là Ngài phản động và chắc chắn Ngài sẽ bị chính quyền bắt giữ.
 
          Nhưng, Chúa Giêsu giội cho họ một gáo nước lạnh khi trả lời :”Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”.  Chúa Giêsu đã thoát khỏi cạm bẫy thâm độc của họ ; đồng thời dạy cho họ một bài học thực hành : có sự khác biệt giữa tôn giáo và chính trị. Tôn giáo không phải là để phục vụ cho chính trị, và chính trị cũng không để phục vụ cho tôn giáo.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                      Res clamat domino
                                                        Của đòi về chủ.
I. BỐI CẢNH CÂU CHUYỆN.
 
          Từ trước tới nay chúng ta thấy Chúa Giêsu ở thế công. Ngài đã dùng ba dụ ngôn để chỉ trích những nhà lãnh đạo truyền thống Do thái : dụ ngôn đứa con trai bất hiếu không chịu nghe lời cha, dụ ngôn người làm vườn  gian ác đã giết đầy tớ vua, dụ ngôn tiệc cưới của nhà vua vì họ không đến dự.
 
          Bây giờ chúng ta thấy họ đưa ra đòn phản công để đưa Chúa Giêsu vào thế gọng kìm bằng một câu hỏi hóc búa, nhằm hai mục đích : một là bị nhà cầm quyền bắt, hai là mất uy tín với dân chúng vì là người phản quốc.
          Cũng nên biết chúng ta đang ở vào năm 30 dưới thời hoàng đế César Tiberius, và quân đội ông đang chiếm xứ Do thái gây nhiều nhiễu nhương cho dân chúng, phong trào chống đối đang âm ỉ lan rộng.  Họ có hai tầng lớp người lãnh đạo chống đối nhau : nhóm biệt phái ái quốc chống nhà cầm quyền và nhóm Hêrôđê thân chính quyền đô hộ để trục lợi. Bình thường, hai nhóm này chống đối nhau, nhưng hôm nay cùng nhau tìm phương thế ám hại Chúa Giêsu với một câu hỏi hóc búa về vấn đề nộp thuế.
 
          Dân Do thái phải nộp thuế cho chính quyền Rôma. Có ba thứ thuế :
                   - thuế điền thổ.
                   - thuế lợi tức.
                   - thuế thân.
          Luật thuế thân qui định mọi người nam nữ từ 14 đến 65 tuổi đều phải đóng một denier, tương đương với lương công nhật của một người. Thuế ở trong câu hỏi đây là thuế thân.
 
          Người dân các nước bị trị bao giờ cũng phải nộp thuế cho chính quyền bảo hộ. Năm 1920, ông Gandhi hô hào dân chúng Ấn không đóng thuế cho đế quốc Anh để tranh đấu cho nước được độc lập.  Đóng thuế là nghĩa vụ của dân đối với chính quyền.  Dân Ấn không đóng thuế là không công nhận người Anh là chính quyền của mình, là chống lại đế quốc xâm lăng để giải phóng đất nước thoát cảnh thực dân.
 
          Vậy, Chúa Giêsu có theo đường lối của ông Gandhi không  hay phải theo một đường lối nào để giải quyết cho ổn thỏa ?  Câu trả lời xẩy ra như sau theo Tin mừng của Luca :
“Hôm ấy, nhóm biệt phái và nhóm Hêrôdê sai mấy môn đệ đến hỏi thử Chúa Giêsu :”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật cứ sựï thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến :”Có được phép nộp thuế cho César hay không” ?
 
          Hỏi như vậy là họ đã đưa Chúa Giêsu vào thế gọng kìm, mà triết học gọi la cái thế “luỡng đao luận”, nghĩa là con dao hai lưỡi, nói thế nào cũng chết : chối cũng chết mà nhận cũng chết. Nếu Chúa Giêsu bảo nên nộp thuế là lệ thuộc vào ngoại bang, là phản quốc, do đó mất uy tín với dân chúng. Nếu Chúa bảo là không thì bị liệt vào loại phản động, chống chính quyền, thế nào cũng bị bắt.
 
          Nhưng Chúa Giêsu lại có một cách xử lý rất khéo léo, rất tinh vi :”Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Ngài một quan tiền. Người hỏi họ :”Hình và danh hiệu này là của ai” ? Họ đáp :”Của César”. Bấy giờ, Người bảo họ :”Thế thì của César, trả về cho César ; của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa”.
 
II. BÀI HỌC CHÚA DẠY TA.
 
          1. Chúa Giêsu, một người công dân.
 
          Chúa Giêsu có một lý lịch rõ ràng. Ngài là một công dân Do thái nên Ngài phải thi hành mọi nhiệm vụ đối với một công dân Do thái đang bị người Roma đô hộ.  Bản thân Ngài sống như mọi người không có gì khác, cả gia đình Ngài cũng vậy.  Kinh thánh cũng cung cấp cho chúng ta một số chi tiết chứùng tỏ gia đình Thánh gia thất đã chu toàn nghĩa vụ công dân :
          - Cha mẹ Ngài đã vâng lệnh nhà vua để về Belem khai hộ khẩu  {Lc 2,4).
          - Chính Ngài đã sai Phêrô đi câu cá để lấy tiền nộp thuế cho mình và cho Phêrô nữa (Mt 17,26).
          - Chính quyền ra lệnh bắt và giết Chúa, Ngài vẫn vui lòng tuân lệnh dù Ngài biết lệnh ấy bất công, mà chính Philatô, người lên án giết Chúa cũng phải nhận là Ngài vô tội (Lc 23,22).
 
          Câu nói của Ngài :”Của César thì trả cho César” đã phản ảnh một cách hết sức trung thực những công việc Ngài đã làm, đúng như Thánh kinh đã viết về Ngài :”Chúa làm trước, rồi mới dạy người ta làm sau” (Cv 1,1).
 
          2. Kytô hữu, một người công dân.
 
          Một người công dân phải có giấy khai sinh và có một hộ khẩu thường trú. Không ai ở trên trời rơi xuống, không ai sống lơ lửng trên không trung.  Mỗi người phải có một quốc tịch, mặc dù có thể thay đổi được quốc tịch ấy.  Đã là công dân của một nước nào thì phải chấp hành những luật lệ của nước ấy. Mọi công dân phải góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tránh những hành vi làm tổn thương đến Tổ quốc ấy.
 
          Về điểm này, ta có bằng chứng về cách sống của những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Một tác giả vô danh hồi thế kỷ thứ ba đã viết trong tác phẩm “Thư gửi cho Diognetus” như sau
:  “Người Kitô hữu không khác với những người khác về cư trú, về ngôn ngữ hay về lối sống.  Bởi vì họ không cư ngụ một thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết.  Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người nọ.
Họ ở rải rác trong các thành phố Hy lạp lẫn trong các thành của người Man di, tùy theo số phận dun dủi. Họ sống theo tập tục của kẻ bản xứ trong cách phục sức, ăn uống và cách sống, nhưng bộc lộ một thái độ sống khiến nhiều người cho là lạ lùng. Họ sống trong quê hương của họ mà như những kẻ ở đâu. Họ tuân thủ mọi cái chung như các công dân khác và chịu gánh nặng dường như ngoại kiều.  Miền xa lạ cũng là quê hương của họ nhưng mọi quê hương chỉ là đất khách  cho họ mà thôi. Họ cũng dựng vợ gả chồng như ai và sinh đẻ con cái, nhưng chẳng hề bỏ con. Họ đồng bàn nhưng chẳng đồng sàng”.
                   (Cap.V.VI PG 21173 B.117 C , Các Bài đọc 2 Mùa PS, tr 84)
 
          Chúng ta phải khẳng định rằng trước khi là một Kitô hữu ta đã là người của một quốc gia nào đó, ví dụ, trước khi là người Công giáo, tôi đã là người Việt nam. Nhờ phép rửa tội, chúng ta trở thành người Việt nam công giáo.  Giữa người công dân Việt nam và người công dân Công giáo Việt nam không có gì khác nhau, không có gì mâu thuẫn nhau. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi người đều có bổn phận và quyền lợi như nhau đối với đất nước.
 
          3. Tương quan giữa tôn giáo và chính trị.
 
          Vấn đề tương quan giữa tôn giáo và chính trị, giữa Giáo hội và quốc gia là một vấn đề tế nhị và đôi khi, thật gai góc, nhiều khi có nhiều lấn cấn.  Chúng ta có thể đưa ra đây mấy nguyên tắc cho chúng ta hành xử trong đời sống thực tế không thể tránh được :
 
          a) Nguyên tắc thứ nhất :
 
          Xã hội dân sự và xã hội tôn giáo, quốc gia và Giáo hội là hai vấn đề độc lập với nhau.  Dù là cả hai phục vụ cho ơn gọi cá nhân và xã hội của con người ; nhưng quan điểm và cách hành động của họ vẫn khác nhau.
 
          b) Nguyên tắc thứ hai :
 
Với tư cách là công dân, thành viên của một đoàn thể thế gian, người Kitô hữu phải chấp nhận sống theo luật lệ của đoàn thể đó và làm trọn bổn phận như đóng thuế, vâng phục chính quyền hợp pháp  trong mọi việc mà chính quyền đòi hỏi.  Người Kitô hữu sẽ dùng mọi phương tiện hợp pháp : bỏ phiếu, báo chí, nghiệp đoàn để góp phần xây dựng một xã hội công bằng và nhân đạo hơn.
 
          c) Nguyên tắc thứ ba :
 
Người Kitô hữu cố giữ giá trị hướng thượng và tư cách tuyệt đối những quyền của Thiên Chúa, vì biết rằng khi những giá trị này bị xâm phạm thì con người cũng bị xâm phạm, nhất là kẻ hèn yếu.  Chúng ta không bao giờ chấp nhận một luật lệ nào chống lại luật của Thiên Chúa.  Người Kitô hữu cố gắng làm sao để tạo ra sự hoà hợp giữa Giáo hội và quốc gia, và như thế cả hai sẽ phục vụ tốt biết bao cho con người.
                             (Cf Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr 215)
 
III.  SỰ CHỌN LỰA CỦA CHÚNG TA.
 
          Người Kitô hữu chúng ta có hai quyên công dân đi đôi với nhau.  Chúng ta là công dân của thế giới, tức trần thế này và công dân thiên quốc.  Chúng ta phải phụng sự Thiên Chúa và Tổ quốc, hai nhiệm vụ này phải đi sánh đôi.  Như thế chúng ta kính trọng và tôn kính đối với  những đòi hỏi của hai bên.
 
          Thiên Chúa có thể dùng mọi phương tiện để giúp ích cho con người và cho dân Chúa. Trong bài đọc thứ nhất, ta thấy Thiên Chúa đã dùng vua Cyrô để giải phóng dân Chúa. Như thế, dân Chúa đã phải tùng phục chính quyền trong những công việc về chính trị, mà không thể làm khác vì đó là đường lối của Thiên Chúa.
 
          Thánh Phêrô trong thư thứ nhất đoạn 2 câu 17 đã bảo các Kitô hữu :”Hãy tôn kính Thiên Chúa và hãy kính trọng Hoàng đế”.  Và trong thư gửi tín hữu Rôma đoạn 13, câu 1 và 7, thánh Phaolô bảo các Kitô hữu :”Hãy vâng phục các vị cầm quyền. Hãy nộp cho họ những gì các ngươi mắc nợ họ, hãy nộp thuế thân, thuế tài sản và hãy tỏ lòng kính trọng họ”.
 
          Mong ước rằng hai loại quyền công dân này của chúng ta  không bao giờ xung đột nhau. Tuy nhiên, lỡ có xẩy ra xung đột, thì người Kitô hữu phải biết cách giải quyết. Các Kitô hữu đã từng phải giải quyết như thế ngay từ thời Chúa Giêsu.  Họ đã phải giải quyết như thế suốt thời kỳ đế quốc Rôma bách hại Giáo hội.  Họ đã phải giải quyết như thế suốt thời trung cổ. Họ đã phải giải quyết như thế trong thế kỷ 16 và 17 khi hàng chục ngàn Kitô hữu phải chạy trốn sang Mỹ châu để giữ đạo mà không bị nhà nước can thiệp.
 
          Có lẽ chúng ta có thể minh hoạ tất cả những điều trên bằng trường hợp của thánh Thomas More, vị thánh tử đạo người Anh.  Robert Bolt đã làm nổi bật cuộc xung đột của More – liên quan đế những gì thuộc César và những gì thuộc về Thiên Chúa – trong cuốn sách nhan đề “A man for all seasons”(Người của mọi mùa).
 
                                      Truyện : thánh Thomas More
 
          Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông nại đến  tòa thánh Rôma xin hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Toà thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận :  một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc.  Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa.
                             (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 305)
 
          Như thế, bài Tin mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến hai bổn phận đi đôi với nhau của chúng ta. Chúng ta là công dân trần thế, đồng thời cũng là công dân Nước Trời.  Chúng ta có bổn phận phải trung tín với cả hai Tổ quốc. Chúng ta hy vọng các bổn phận này không bao giờ xung đột nhau.  Nhưng nếu lỡ có xung đột thì chúng ta phải giải quyết chúng giống như thánh Thomas More đã làm, nghĩa là không gây thương tổn cho Thiên Chúa hoặc cho lương tâm ta.
 
          Cuộc sống của Kitô hữu tại thế là như vậy, chúng ta không thể làm khác được.  Nhiều lúc chúng ta hay than vãn là chúng ta phải mang hai gánh trên vai : vừa phải chu toàn bổn phận ở đời lại vừa lo tròn nghĩa vụ trong đạo.  Đối với những ai có tâm hồn đạo đức thánh thiện thì sự khó khăn đó không đến nỗi quá băn khoăn lo lắng ; trái lại, đối với những ai mang nặng ích kỷ trần tục nếu chẳng may đạo hay đời đòi hỏi phải chịu khó hy sinh làm một điều gì đó, tức khắc họ lên tiếng phàn nàn kêu trách và nại đủ lý do để từ chối.  Đây chính là vấn đề mà người biệt phái đã thắc mắc với Chúa và Chúa đã giãi bầy cho họ cũng như cho chúng ta hiểu để biết  mà sống cho tốt đạo đẹp đời.  Trong mọi trường hợp chúng ta phải đặt quyền lợi của Chúa trên hết, đôi lúc vì thế mà phải bị thiệt thòi. Lời Chúa vẫn còn yên ủi chúng ta khi chúng ta gặp phải những trường hợp éo le như thế :”Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì”.
 
                                      Truyện : Mọi sự thuộc về Chúa.
 
          Hoàng đế Frédéric đi tham quan một trường học nhỏ miền quê. Đúng lúc học trò đang học môn địa lý. Vua hỏi một em nhỏ tuổi :
          - Làng con ở đâu ?
          - Tâu hoàng thượng, làng con ở trong nuớc Phổ.
          - Nước Phổ ở đâu ?
          - Tâu hoàng thượng,  nước Phổ ở trong đế quốc Đức.
          - Đế quốc Đức ở đâu ?
          - Tâu hoàng thượng,  đế quốc Đức ở trong châu Âu.
          - Châu Âu ở đâu ?
          - Tâu hoàng thượng, châu Âu ở trong thế giới.
          - Thế giới ở đâu ?
          Suy nghĩ một lát em bé dõng dạc trả lời :
          - Tâu hoàng thượng,  thế giới ở trong tay Chúa.
 
          Chúng ta hãy cầu nguyện cho dân tộc mình theo lời của Thomas Jefferson :
 
          Lạy Thiên Chúa tối cao,
          Ngài ban cho chúng con mảnh đất tốt tươi này làm gia nghiệp. Xin hãy chúc lành cho mảnh đất chúng con, xin hãy cứu chúng con khỏi bạo lực, và mọi đường lối xấu xa, xin hãy bảo vệ sự tự do của chúng con...
 
          Xin ban thần trí khôn ngoan xuống trên những kẻ mà nhân danh Ngài, chúng con đã ủy thác quyền cai trị... Trong thời thịnh vượng, xin đổ tràn xuống lòng chúng con niềm tri ân, và trong ngày gian truân, xin đừng để niềm tin của chúng con vào Ngài bị suy giảm.
 
          Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
 


CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN A
GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Tình yêu ! Một từ rất quen thuộc, ai cũng biết nhưng người ta chưa hiểu hết  nội dung phong phú của nó, hoặc hiểu tình yêu một cách lệch lạc hoặc hiểu một cách phiến diện. Do đó, nhiều khi người ta  đã làm mất ý nghĩa cao qúi  của tình yêu,  đồng hóa tình yêu với tình dục.  Người ta chỉ biết dùng tình yêu để tìm đến những thú vui hạ đẳng mà không biết nâng cao tâm hồn lên.
 
          Tình yêu mà phụng vụ đề cập đến hôm nay là một tình yêu hòan hảo, tinh tuyền, cao thượng, phổ quát và phong phú nhất.  Tình yêu trong phụng vụ chính là Bác ái công giáo (Caritas).  Bác ái là yêu thương một cách rộng rãi như thánh Augustinô đã nói :”Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào”.  Đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân.  Hai tình yêu này khác nhau chăng ? Thưa không. Chẳng những hai tình yêu này không tách rời nhau mà còn quyện lấy nhau : chỉ là một. Chính tình yêu này giúp chúng ta yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.
         
Người đời chê những người chỉ biết yêu trên lỗ miệng mà không bao giờ đem ra thực hành bằng những việc làm cụ thể và coi đó chỉ là tình yêu giả dối :
 
                             Thương miệng thương môi
                             Thương miếng xôi miếng thịt.
 
          Theo Đức Cha Arthur  Tonne thì yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa” và yêu tha nhân là “làm điều thiện hảo cho họ”. Tình yêu đối với Chúa cũng như đối với tha nhân luôn phải kèm theo những đặc tính là hy sinh, phục vụ và dâng hiến. Bất cứ làm việc gì cũng phải được thực hiện trong tình yêu thì mới có giá trị :”Ama et fac quod agis”(Thánh Augustinô) : yêu mến đi rồi làm gì thì làm.         
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc 1 : Xh 22,21-27.
 
          So sánh Cựu ước và Tân ước, ta thấy Cựu  ước còn thô sơ, Tân ước mới hoàn chỉnh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói :”Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật và các tiên tri, nhưng để kiện toàn”.  Chính vì vậy mà Cựu ước có nhiều điều luật dạy người Do thái phải yêu thương đồng bào mình. Nhưng tình yêu này có tính cách cục bộ.
 
          Bài đọc 1 này trích từ sách Xuất hành nói rõ về đức bác ái và công bình đối với người Do thái với nhau,  nhất là đối với những người yếu và kém may mắn nhất : người góa bụa, mồ côi và nghèo khó.
          Điểm đặc biệt trong bài đọc hôm nay nói đến tình yêu  đối với những người ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa.  Họ là những người đáng thương thiếu sự nâng đỡ và bảo đảm. Chúa đứng ra bênh vực cho họ. Nếu họ là nạn nhân của bất công , họ cứ kêu Chúa và Chúa sẽ đến giúp họ, trừng trị những kẻ nào cư xử xấu đối với họ.
 
          + Bài đọc 2 : 1Tx 1,5c-10.
 
          Trong thư gửi cho tín hữu Thessalonica, thánh Phaolô tỏ ra hết sức vui mừng và khen ngợi giáo đoàn vì họ đã mau mắn đón nhận Tin mừng Ngài rao giảng, và đã cố gắng sống Tin mừng ấy  trong những hoàn cảnh thật khó khăn.
 
          Thật vậy, dân Thessalonica đã trở nên gương mẫu cho thế giới Hy lạp : đức tin của họ sống động và sáng chói, đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.
 
          + Bài Tin mừng : Mt 22,34-30.
 
          Trong bài Tin mừng tuần lễ trước, nhóm biệt phái và Hêrôđê đã thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho vua César. Họ chưa chịu thua, lần  này họ cử một tiến sĩ luật  để tranh luận với Chúa Giêsu về vấn đề : điều răn nào trọng nhất trong sách Luật.
 
          Câu hỏi này không phải là dễ trả lời.  Trong sách Luật Do thái có 613 điều luật, thật là một rừng luật vì còn nhiều điều luật phụ nữa. Mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Nếu Chúa Giêsu chọn một điều luật nào đó thì sẽ làm phật lòng các nhóm khác.
 
          Nhưng Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời rất xuất sắc làm cho vị tiến sĩ luật không hỏi gì thêm nữa.  Câu trả lời này vừa mới mẻ, lại vừa rộng rãi :
          - Một là mến Chúa và yêu người rút ra từ các điều luật trong  các sách Luật.
          - Hai là liên kết hai luật ấy : điều luật đã mến Chúa thì phải yêu người, yêu người là yêu Chúa.
          - Ba là có thể tóm gọn hai luật ấy  bằng một luật duy nhất là luật yêu thương.
          Như vậy, Yêu thương hay Bác ái là cốt lõi của mọi điều luật và nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm thì đó là yêu mến.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                       Mến Chúa yêu người
I. BỐI CẢNH CÂU TRUYỆN.
 
          Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một đòn khác : họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Chúa Giêsu :”Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất” ?
 
          Chữ “Lề luật” ở đây có ý chỉ toàn thể lề luật trong Cựu ước. Câu hỏi này không nhằm một trường hợp đặc biệt nào, nhưng muốn tìm biết điểm cốt yếu trong lề luật.  Luật Do thái gồm 613 điều luật, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm.  Các điều đó chia làm trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình.
 
          Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài,  vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Ngài cũng bị qui lỗi  là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Ngài thiên vị và không còn được kính nể nữa.
 
          Chúa Giêsu đã trả lời một cách rất rõ ràng, rất hợp và xác đáng :”Ngươi hãy yêu mến  Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất”.  Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí”. Song cốt yếu không có gì đổi.
 
          Chúa Giêsu còn thêm :”Nhưng điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.  Luật này trích ở sách Lêvi 19,18.  Chúa đem điều luật yêu người này đặt ngang hàng với điều luật mến Thiên Chúa là một điểm đặc sắc của Chúa, làm cho đạo của Chúa vô cùng cao qúi và vô cùng hấp dẫn.
          Tất cả mọi điểm khác trong luật  hoặc các điều luật khác chỉ là để chú giải cắt nghĩa hai điều luật đó thôi.
 
          Kẻ khác hay cũng gọi là tha nhân, theo quan niệm của người Do thái đương thời, thì tha nhân chỉ là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (Lv 19,18).  Nhưng ở đây chữ “kẻ khác” Chúa có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn  trong những người đồng hương với nhau (Mt 25,40 ; Lc 5,43), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5,43).  “Như chính mình” : Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương tha nhân cũng bằng chính tình yêu đối với bản thân mình.
 
II. NÓI VỄ CHỮ YÊU.
 
          1. Chưa có một định nghĩa thoả đáng.
 
          Người ta đã định nghĩa rất nhiều về tình yêu, nhưng chưa có một câu định nghĩa nào thoả đáng khiến cho mọi người chấp nhận.  Ví dụ Thần học định nghĩa yêu là “diffusivum sui boni” : yêu là thông ban ra sự tốt lành của mình. Còn rất trừu tượng.
 
          Thi sĩ Xuân Diệu cũng chịu, không định nghĩa nổi :
                             Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,
                             Nó đến với ta một buổi chiều.
                             Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
                             Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
 
          Theo thánh Phaolô thì “Yêu là cho tất cả, nhận tất cả và chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
 
          Thánh Gioan tông đồ thì nói :”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì : đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).
 
Giới trẻ thì đưa ra nhiều định nghĩa tùy theo cái nhìn của mình . Đại khái  :                         * * Yêu là chết trong lòng một ít (cf Xuân Diệu).
                   * Yêu là đau khổ.
                   * Yêu là hy sinh (x. Mt 16,24 ; Mc 10,52).
                   * Yêu là phục vụ (x. Ga 13,4-11).
                   * Yêu là dâng hiến (x. 1Cr 13,7).
 
          Từ ngữ YÊU ở đây không hẳn là AMOR, một thứ tình yêu còn mang tinh chất xác thịt mà người Hy lạp gọi là EROS (ái tình), mà đúng ra là CARITAS (Bác ái hay Đức Mến). Khi nói đến Tình yêu thì Giáo hội Kitô giáo dùng chữ CARITAS. Từ ngữ Caritas mang một âm thanh vô cùng khả ái đối với hết mọi người – bất kể sắc tộc, tôn giáo hay chính kiến – mỗi khi nghe đến, vì nó là biểu tượng cho tình yêu tha nhân phổ quát của Kitô giáo, một tình yêu bắt nguồn và luôn dựa trên nền tảng tình yêu Thiên Chúa (x. 1Ga 4,6).
 
          Thánh Phaolô, khi nói đến tình yêu thì ngài dùng chữ Caritas (Đức mến). Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, ngài nói :”Đức mến (caritas) thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được… Hiện nay đức tin, cậy, mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,1-13).
 
          2. Yêu trong thực hành.
 
          Chúng ta không muốn đưa ra những câu định nghĩa trừu tượng mà đi vào thực hành trong cuộc sống.
 Chúng ta có thể nhận câu định nghĩa của Đức cha Arthur Tonne :”Yêu mến Chúa là gì ? Yêu mến Chúa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là:”Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”.  Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài.  Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân.  Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân.  Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài.  Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tuân giữ điều răn Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
                             (GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng, năm A, tr 130).
 
III. ĐẶC TÍNH CỦA TÌNH YÊU.
 
          1. Tình yêu và hy sinh.
 
          Nhà đạo chúng ta sử dụng quen thuộc hai từ “hy tế” và “hy lễ”. Theo từ nguyên Hán thì HY là con trâu thui và SINH là con lợn luộc. Thời nhà Thang bên Trung quốc, người ta dùng hai lễ vật này để tế Trời ban cho mưa thuận gió hòa.  Nếu dùng chữ “hy lễ” và “hy tế” thì chỉ là tế con trâu thui. Nếu dùng từ HY SINH thì có nghĩa là “tế lễ hy sinh”.
 
          Vậy tình yêu và hy sinh phải đi đôi với nhau. Đã yêu thì phải hy sinh : yêu Chúa thì phải dâng lễ hy sinh cho Chúa. Cho nên, khi dùng từ “hy sinh” thì nó gồm cả : chết rong lòng một ít, đau khổ, phục vụ, dâng hiến...
 
          Trên đường đời không có con đường nào bằng phẳng cả, nhất là con đường tình yêu.  Tình yêu cũng có thử thách, gian nan, đau khổ. Nói chung nó đòi phải hy sinh.  Mối tương quan sâu xa giữa tình yêu và hy sinh đau khổ đã là đề tài muôn thuở của thi ca và tiểu thuyết, cũng như nghệ thuật thứ bảy.  Và người ta thường ví tình yêu và đau khổ cũng như hoa hồng với gai : không thể có hoa hồng mà không có gai.  Mối tương quan có thể nói là “biện chứng” này được diễn tả gọn chỉ trong hai từ ghép lại thành một, đó là “yêu thương” hay là thương yêu : yêu thương cùng với đau thương một vần là thế.
                             (cf Thiện Cẩm, Suối nguồn tình yêu, tr 62).
 
          2. Thánh giá là biểu tượng tình yêu.
 
          Theo Phúc âm chữ  “Yêu” liền với chữ “Thập” nhưng vẫn là yêu. Đó là tình yêu Thập giá.  Việc chịu đóng đinh thập giá là DẤU CHỈ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu vĩ đại Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúa Giêsu đã nói :”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).  Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu  đã ban cho chúng ta  dấu chỉ vĩ đại ấy, chúng ta cần biết rằng mình đáng yêu vì nếu chúng ta không thấy mình đáng yêu, chúng ta không thể yêu mến kẻ khác được. Tại sao chúng ta không thể yêu nếu không thấy mình đáng yêu ?  Lý do đơn giản Tình yêu là một món quà tự hiến.  Và nếu chúng ta không thấy mình là đáng yêu – và vì thế đáng giá – thì chúng ta sẽ không trao tặng chính mình cho kẻ khác được. Nói tóm lại, chẳng ai đem cho đồ rác rưởi cho kẻ mình khâm phục sâu xa. Vì thế điều đầu tiên mà sự đóng đinh thập giá đem lại chính là  dấu chỉ tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta đáng giá và đáng yêu mến đến mức Đức Giêsu tự hiến mạng vì chúng ta.
                             (M. Link,  Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 307)
 
          3. Tình yêu  trong phục vụ.
 
          Cây Thánh giá là biểu tượng của hai mối tình chí thiết : thanh dọc là bàn tay dâng lên Thiên Chúa, thanh ngang là vòng tay ôm lấy anh em.  Thiên Chúa và anh em chỉ là một mối tình duy nhất đi về hai hướng. Đây chính là cốt lõi của mạc khải vậy. Người hành khất ngồi bên vệ đường run lập cập vì lạnh giá, được thánh Martinô thành Tour chia cho một nửa chiếc áo choàng phủ thân, chính là Ngài :”Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta... Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt 25,36).
 
          Tình yêu phải được thực hiện trong tinh thần phục vụ.  Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong tinh thần ấy khi Ngài nói :”Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người”. Có rất nhiều gương sáng chói trong công cuộc phục vụ những người nghèo và nhất là những người bệnh nạn, đau khổ.
 
Truyện : Chị nữ tu phục vụ.
 
          Mẹ Têrêsa Calcutta kể :”Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ  nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói :”Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng.  Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới.  Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa  được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia.  Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
 
          Thật vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai điều răn quan trọng nhất là “Mến Chúa yêu người”. Chính tình yêu Chúa đã làm cho người ta bỏ tính vị kỷ mà biết xả kỷ, thay vì chỉ biết lo cho bản thân mình lại biết mở lòng ra để lo cho người khác.
 
          Chúa Giêsu là kiểu mẫu tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người. Ngài để lại chúc thư  :”Hãy yêu mến nhau như Thầy yêu mến các con” (Ga 15,34).  Và Ngài đã yêu mến chúng ta  đến mức chịu chết vì chúng ta.  Có thực hy sinh cho nhau mới chứng thực là đã yêu nhau thật. Hãy tập một vài điều trong “Bài ca đức ái” của thánh Phaolô (1Cr 13,4-7) : khoan dung, nhân hậu, không ghen tuông, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không  mừng trước sự bất công.
 
          Thánh Phaolô tông đồ nhắc nhở cho tín hữu Rôma về trách nhiệm phải thực hành đức ái đối với nhau, không yêu nhau là mắc nợ với nhau vì đây là lệnh truyền của Chúa, Ngài nói :”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại ; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).
 
          Thánh Augustinô khuyên :”Ama et fac quod agis” : yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
 
          Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện :
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu mến Ngài cho xứng đáng,
 Xin dạy chúng con yêu tha nhân như Ngài yêu chúng con.
Xin dạy chúng con yêu cho dù yêu là đau khổ,
Bởi vì qua tình yêu chúng con tôn vinh Chúa,
Qua tình yêu chúng con mang hạnh phúc đến cho tha nhân,
Và qua tình yêu chúng con tìm được ý nghĩa của cuộc sống mình.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

CHÚA  NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN A
TƯ CÁCH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Người ta thường nói :”Tốt danh hơn lành áo”(Tục ngữ) hay “Hổ tử lưu bì”(Hổ chết để da), tất cả đều nói lên chân lý này : trên đời ai cũng muốn có danh thơm tiếng tốt, ngay cả sau khi chết.  Danh thơm tiếng tốt phải phát xuất tự con người, cả trong lẫn ngoài, chứ không phải chỉ có cái mẽ bề ngoài, nhất là cái bề ngoài giả dối.
 
          Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy sống trung thực với lòng mình : có thì nói có, không thì nói không. Đừng đưa cái giả dối bề ngoài mà loè mắt thiên hạ.  Chúa dạy các môn đệ hãy nghe và thực hiện những lời dạy dỗ của luật sĩ và biệt phái dạy vì họ được trao ban quyền giáo huấn ; nhưng Chúa cảnh giác mọi người : đừng bắt chước việc họ làm vì những việc làm của họ chỉ có tính cách khoe khoang, muốn cho người ta biết tới để ca ngợi họ.
 
 Còn chúng ta hãy sống trung thực với lòng mình để lúc nào ngôn hành cũng đồng nhất, không cần sống kiểu cách như nhiều người chủ trương : “Đẹp đẽ khoe ra, xấu xa che lại”(Tục ngữ).  Tốt nhất trong mọi trường hợp hãy cố ở khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt người ta, vì Chúa đã phán :”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Mt 23,12).
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
+ Bài đọc 1 : Ml 1,14 – 2,2.8-10.
 
Sau khi dân  Do thái được vua Cyrô cho hồi hương, đền thờ được xây dựng lại, việc thờ phượng Chúa phát triển rầm rộ. Nhưng với thời gian, đà tiến của những ngày đầu tiên dừng lại . Từ đó, việc thờ phượng dần dần xuống cấp, các tệ nạn phát sinh  như dung túng cho việc ly dị, hôn nhân với người ngoại, trốn thuế thập phân ; các nhà lãnh đạo đối xử với dân chúng một cách quan liêu, chỉ nhằm tư lợi.
 
Tiên tri Malakia xuất hiện vào thế kỷ V trước công nguyên tuyên sấm lời Chúa.  Tiên tri qui trách nhiệm về các nhà lãnh đạo tôn giáo về sự xuống cấp trầm trọng ấy, đặc biệt là các tư tế : họ làm nhiệm vụ một cách chểnh mảng, chỉ lo tìm lợi riêng.  Thiên Chúa dùng tiên tri Malakia nhắc nhở về cung cách lãnh đạo : làm cho dân biết tôn vinh Thiên Chúa, trung thành với Giao ước, và đối xử với mọi người trong tình anh em cùng một Cha.
 
+ Bài đọc 2 : 1Tx 2,7-9 . 13.
 
Thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Thessalonica vềø cách hành xử của Ngài đối với họ :Yêu thương săn sóc họ như người vú nuôi sẵn sàng hy sinh tất cả cho tín hữu cả mạng sống của Ngài. Khỏi làm phiền lòng họ trong việc nuôi ăn, Ngài đã muốn tự túc  bằng một nghề lao động chân tay. Ngài vui mừng khi thấy họ đón nhận Tin mừng do Ngài giảng dạy như chính Lời Chúa.
+ Bài Tin mừng : Mt 23,1-12.
 
Các nhà lãnh đạo của dân Do thái, đặc biệt là luật sĩ và biệt phái là những “rabbi”, bậc thầy của dân, có nhiệm vụ dạy dỗ.  Nhưng lời nói và việc làm của họ không am hợp nhau, chức vụ và cách sống của họ không tương xứng. Vì thế, Chúa Giêsu nhắc nhở các tông đồ cũng là cho chúng ta. :
a) Phải tôn trọng chức vụ của họ vì họ ngồi “trên toà Maisen” mà giảng dạy. Hãy làm theo những gì họ dạy.
b) Nhưng đừng bắt chước việc họ làm vì họ là người kiêu căng, cứng cỏi, hám danh, thích chỉ tay năm ngón.
c) Ngược lại, Chúa đòi ở các môn đệ phải có thái độ khác : phải thành thực, thẳng thắn, khiêm nhường và phục vụ.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
   Ai tự nâng mình lên.
I. NHỮNG NGƯỜI LUẬT SĨ VÀ BIỆT PHÁI.
 
Bất kỳ ai cũng tỏ ra khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của một người nào đó. Chúa Giêsu cũng cảm thấy như vậy, đặc biệt đối với những luật sĩ và biệt phái.  Chúng ta thử xem họ sống như thế nào mà trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đã cảnh cáo chúng ta đừng theo gương họ.
 
1. Địa vị của họ trong xã hội.
 
Họ là những người được “ngồi tòa Maisen”, nghĩa là những người kế vị Maisen, có quyền chính thức giải thích luật Maisen.  Chúa Giêsu công nhận các luật sĩ và biệt phái  có quyền chính thức.  Vì thế, dân chúng và các môn đệ phải lắng nghe và tuân giữ những lời họ nói vì đây là tiếng nói của Thiên Chúa. Mọi người phải tôn trọng họ vì họ là những bậc thầy, những người được chính thức giảng dạy.
 
2. Những nết xấu của họ.
 
Nết xấu triền miên của luật sĩ và biệt phái là giả hình giả bộ, giả nhân giả nghĩa. Trong lòng và bộ điệu bên ngoài khác hẳn nhau. Họ chỉ là những người diễn kịch, cách sống của họ chỉ có bề  ngoài, chứ không có bề trong. Họ thuộc vào hạng người :
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
                (Truyện Kiều)
Dựa vào Tin mừng hôm nay, chúng ta có thể vạch ra  một số nết xấu nổi bật của họ :
 
a) Hám danh cầu lợi.
 
Mọi công việc họ làm đều có tính cách cầu lợi, muốn cho mọi người chú ý đến mình, ca ngợi mình , cho nên họ mới :
          * Nới rộng thẻ kinh :
 
 Thẻ kinh đây là tấm da mỏng, trên có viết 4  đoạn Kinh thánh quan trọng (Xh 13,1-10 ; 13,11-16 ; Đnl 6,4-9 ; 11,13-21) Thể kinh có mục đích rất tốt là nhắc nhở người ta  luôn nhớ đến luật Chúa.  Người Do thái thường đeo thẻ này mỗi khi đọc kinh cầu nguyện ; các luật sĩ và biệt phái đeo những thẻ này dài hơn, rộng hơn và nết chữ đậm  mầu hơn để người ta chú ý và cho mình là đạo đức.
 
* May dài tua áo :
 
 Áo khoác ngoài của người Do thái giống như tấm khăn mỏng, 4 đầu dính tua bằng len làm giải buộc, có mầu tím tượng trưng trời, mục đich nhắc nhở người ta  nhớ đến các giới răn (Ds 15,38-40 ; Đnl 22,12). Chính Chúa Giêsu cũng mang tua áo (Mt 14,36, Mc 6,56 ; Lc 8,44).
          Các người Do thái đều mang tua áo, nhưng các luật sĩ và biệt phái thì tăng kích thước quá đáng để có ý khoe mình sốt sắng đạo đức hơn người.
 
b) Ưa được tôn trọng và ưu đãi.
 
          Luật sĩ và biệt phái muốn được người ta tôn trọng và biệt đãi nơi công cộng, nhất là trong đám tiệc và nơi hội đường.
 
          * Nơi đám tiệc và hội đường :
 
Theo phong tục , người Do thái xếp chỗ theo tuổi tác và chức vụ hay tài trí, cũng giống như ở Việt nam chúng ta. Tuổi tác và chức vụ là cái dễ nhận ra, nhưng còn tài trí và khôn ngoan thì khó nhận ra. Các luật sĩ và biệt phái muốn tỏ ra là mình tài trí khôn ngoan, nên thường chọn những chỗ cao nhất.
 
          * Nơi phố xá :
 
 Người Do thái có thói quen chào người trên mình trước theo tuổi tác hay chức vụ của họ. Các luật sĩ và biệt phái ưa được bái chào nơi phố xá và còn thích được xưng hô là “Thầy”          (x. Trần hữu Thành, Suy niệm Tin mừng CN, A, tr 319-320).
 
          c) Họ nói mà không làm.
 
          Các luật sĩ và biệt phái phải dạy dỗ và đòi hỏi người ta giữ luật cách tỉ mỉ và nghiêm khắc. Họ chất những gánh nặng của lề luật trên vai người dân mà họ không động tay đến. Họ nói mà không làm. Họ là những người ngôn hành bất nhất, họ thuộc hạng người :”Mồm miệng đỡ chân tay”.
 
          3. Chúa Giêsu nhắc nhở.
 
          Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận những người luật sĩ và biệt phái có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó  nhiệm vụ dạy bảo dân chúng. Do đó, khi họ thi hành nhiệm vụ nhân danh Chúa thì phải nghe và thi hành những gì họ dạy bảo.  Nhưng tại sao Chúa lại bảo đừng bắt chước hay noi theo những việc họ làm ? Phải chăng họ đã làm những điều bất chính ? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng ra gì, vì thái độ giả hình, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bề ngoài.
 
II. TÂM LÝ CỦA NGƯỜI TỰ NÂNG MÌNH LÊN.
 
          Những người tự nâng mình lên là những người kiêu ngạo. Họ ham danh vọng, ham tiếng khen, thích được tỏ vinh quang ra cho người ta thấy, nhưng đấy chỉ là vinh quang ảo, không có thật. Tất cả là do trí tưởng tượng của họ bầy ra và tự gán cho mình vinh dự ấy.  Cái uy tín không phải mình tự tạo ra và gán cho mình nhưng phải do người khác tặng cho mình qua nhận xét của người ta.
 
          Những luật sĩ và biệt phái muốn cho người ta chào mình với danh hiệu “Thầy”. Tước hiệu Thầy để gọi các luật sĩ và biệt phái kể ra thì mới lắm, bắt đầu từ ông Simon con ông Hittel, ông giáo huấn đời Hêrôđê cựu nhân.
 
          Từ câu 8 -12 nói riêng với các tông đồ, Chúa Giêsu khuyên giữ đức khiêm nhường. Chúa không bài trừ khỏi Giáo hội tất cả những tước hiệu đáng kính. Trong một xã hột trật tự tất nhiên phải có. Song đòi hỏi cho được và giận hờn khi không được lại là một chuyện khác. Chính những luật sĩ và biệt phái đã muốn, đã ước ao được cái danh dự hão mình không đáng được ấy.
 
Truyện : Bé cái lầm.
 
          Có một thi sĩ kia sáng tác được một số bài thơ, bắt đầu nổi tiếng.  Một buổi chiều ra công viên thành phố đi dạo, rồi ngồi nghỉ trên ghế đá kê sát vào tường.  Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngả mũ cúi chào.  Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông không nghe rõ. Thế rồi bà cũng đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một cây thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
 
          Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian, Bởi vì, thật là dại dột và lố bịch  khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích được chiếm địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn gây nhiều tai họa cho người khác nữa.
                                (Báo Cg  và Dt, Giáng sinh 1995, tr 281)
 
III. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.
 
          1. Nội thánh ngoại vương.
 
          Suy nghĩ về bài Tin mừng hôm nay, chúng ta phải tự hỏi mình : đời sống chúng ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không ? Ngôn hành của chúng ta  đồng nhất hay bất nhất ? Chúng ta hãy nhớ : chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy, giấu giếm người này người nọ, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không ? Không. Có ngày mọi sự kín đáo sẽ bị phơi ra ánh sáng, lúc đó mới  “cháy nhà ra mặt chuột”. Phải cố sống sao cho trung thực trước mặt Thiên Chúa cũng như trước mặt mọi người.
 
                                      Truyện : Hai người bộ hành.
          Có hai người bộ hành đi đường xa.  Đêm đến họ phải vào một cái miếu để ngủ nhờ.  Đây là một ngôi miếu nổi tiếng là nhiều ma quái. Bầu không khí lạnh lẽo đến rợn người làm cho hai người khách bộ hành cảm thấy sợ khi đã vào trong miếu.
          Trong hoàn cảnh này, người không Kitô nói với bạn Kitô rằng :”Anh làm ơn cho tôi mượn cây thánh giá  anh đang đeo ở cổ đi. Tôi sợ quá. Hy vọng rằng cây thành giá của anh sẽ làm cho tôi bớt sợ”.
          Thế là người Kitô kia đã gỡ cây Thánh giá anh đang đeo ở cổ trao cho người bạn không Kitô. Hai người nằm nghỉ đêm.
          Trời về khuya, con yêu tinh xuất hiện, nó rờ vào cổ của người Kitô, tính sát hại người này, bỗng nó thốt lên :
          - Người này có trong mà không có ngoài.
          Con yêu tinh có ý nói rằng người này là người Kitô đích thực, tuy không mang trong mình một dấu hiệu Kitô nào.
          Qua người không Kitô, con yêu tinh chạm đến cây Thánh giá người này đeo ở cổ, nó thốt lên :
          - Người này có ngoài mà không có trong.
          Con yêu tinh có ý nói rằng, người này tuy mang Thánh giá ở cổ, nhưng không phải là người Kitô đích thực.
 
          Câu truyện trên đây cho chúng ta hiểu rằng bản chất của người Kitô không hệ tại những tô điểm bên ngoài. Chiếc áo dòng không làm nên ông thầy tu.  Cây Thánh giá mang vào cổ cũng chẳng thể biến ngay một người trở thành Kitô hữu  được.
 
          Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay đòi hỏi chúng ta  phải lo sao cho đời Kitô hữu của mình có được sự thống nhất trong ngoài… Nhất là giữa niềm tin và cuộc sống có sự ăn khớp với nhau.  Bởi vì nếu không như thế chúng ta sẽ chẳng khác nào mồ quét vôi và thành trò hề cho thiên hạ mà thôi.
 
          Ngày xưa, vua  Thành Thang và vua Thương được người đời gọi là “thánh vương” vì các vị đó có một đời sống tốt lành gương mẫu, trong ngoài ăn khớp với nhau. Chính vì thế, người Á đông lấy câu nói của Vương dương Minh làm châm ngôn cho cuộc sống của mình hằng ngày :”Nội thánh ngoại vương” : bên trong là một vị thánh, bên ngoài là một ông vua.
 
          2. Hãy hạ mình xuống.
 
          Người đời ai cũng có tham sân si, ai cũng muốn cho mình vượt trên các người khác, nhất là những người lãnh đạo. Có những người kiêu căng đã tự tôn mình lên làm chúa tể như bao nhiêu bạo chúa : Kiệt, Trụ, Tần thủy Hoàng bên phương Đông. Nabuchodonosor, César, Néron bên phương Tây. luật sĩ , biệt phái và tư tế Do thái cũng thuộc hạng tự cao tự đại như vậy, nên Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo họ ; họ như mồ mả quét vôi bên ngoài mà trong đầy xác chết thối tha. Thối tha vì họ dám ngạo mạn “ngồi trên tòa Maisen...” Họ làm như thế cốt làm cho người ta thấy.
 
          Chúa khuyên mọi người hãy biết tự hạ, nhất là các cấp lãnh đạo.  Trong bài đọc I hôm  nay Thiên Chúa đã dùng tiên tri Malakia mà khiển trách họ.  Ngoài ra, Chúa Giêsu còn đưa ra một mô hình người lãnh đạo gương mẫu theo Tin mừng : như Mt 20,24-28 ; Ga 13,1-20vv...
 
          * Tấm lòng của người lãnh đạo : yêu thương những kẻ được mình hướng dẫn.
 
          * Phương châm của người lãnh đạo : tự coi mình là đầy tớ, có bổn phận phục vụ những kẻ được mình hướng dẫn.
 
          * Cung cách của người lãnh đạo : hạ mình, hy sinh, gương mẫu.
 
                                      Truyện : Đức Giáo hòang Gioan 23
          Đức Gioan 23 đã kể lại kinh nghiệm của Ngài như sau :
          “Khi tôi mới được bầu làm Giáo hoàng để lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng, sợ hãi trước một trách vụ quá nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ, tôi nghe một tiếng bảo tôi :”Gioan đừng tự xem mình quá quan trọng”. Tôi đã áp dụng câu nói này, và từ dạo ấy, tôi ăn ngon, ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo hoàng”.
 
          Khiêm nhường là một đức tính được Thiên Chúa ưa thích, khác với tính tự cao tự đại, có thể so sánh với những ngọn đồi. Trái lại, đức khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp để đón nhận những hồng ân của Thiên Chúa, không thể dừng lại ở những ngọn đồi, nhưng chảy xuống và đọng lại ở những trũng thấp dưới chân đồi.
                             (Thiên Phúc, Tất cả là hồng ân, tr 12)
 
“Lạy Chúa, Chúa thương người khiêm nhường, vì người khiêm nhường nhận biết sự thật. Mà Chúa là sự thật, nên Chúa không chấp nhận sự lừa dối. Xin cho con luôn biết sự thật về con chính là lúc thụ tạo yếu hèn và bất toàn. Xin cho con luôn ý thức rằng tất cả những gì con có, từ tiền bạc của cải vật chất, cho đến những tài năng của trí tuệ, tất cả đều thuộc về Chúa. Và xin cho con luôn biết quảng đại để trao lại cho những ai cần đến con. Vì con biết rằng Chúa sẽ thương yêu con nhiều hơn”. Amen.


CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN A
HÃY TỈNH THỨC VÀ CHỜ ĐỢI
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Con người ai cũng phải nghĩ tới tương lai. một tương lai đầy hy vọng và tốt đẹp. Người khôn ngoan thật là người phải biết chuẩn bị cho tương lai tươi sáng đang đón chờ tức là phải nhắm đến cái cùng đích của mình.  Cùng đích của mình là phải chiếm hữu được Nước Trời.  Cuộc sống ở trần gian này là một thời  ước mong và chờ đợi.
 
          Những bài đọc trong Thánh lễ hôm nay nói về sự chờ đợi đó và sống trong sự chờ đợi này ngõ hầu không phải vỡ mộng vô phương cứu chữa sau khi chờ đợi.  Nhưng nhiều người đã vỡ mộng thật !  Nếu vào ngày chúng ta chết, vì thiếu khôn ngoan và lo xa, chúng ta lại nghe Chúa phán :”Ta không biết các ngươi”.
 
          Cuộc sống trần gian chỉ là cuộc hành trình về Quê Trời. Đã nói đến hành trình thì phải nói đến hành trang, mà hành trang của Kitô hữu là chiếc đèn đầy dầu, tức là một cuộc sống lành thánh và đầy công phúc. Cuộc sống ở đời này rất bấp bênh, kết thúc lúc nào không ai biết vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ” !
 
          Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Một khi đã chuẩn bị sẵn sàng thì chúng ta sẽ được bình yên, không còn lo sợ trước cái chết vì “Cẩn tắc vô ưu” mà !
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.   
      
          1.  Bài đọc 1 : Kn 6,13-17.
 
          Trong bài đọc một này Thánh Kinh thôi thúc chúng ta  tìm sự khôn ngoan, vì Khôn ngoan là món quà cao qúi mà Thiên Chúa ban cho con người. Hãy tìm kiếm khôn ngoan và Khôn ngoan sẽ đáp ứng, Khôn ngoan sẽ đến gặp chúng ta như một người bạn. Nhờ có khôn ngoan mà con người biết sống thế nào cho phải, tìm ra cái gì phải tìm.  Nhờ có đức tính này mà con người có thể định hướng được cuộc đời của mình mà không sợ lạc  hướng.
 
          Đối với người Kitô hữu, sự khôn ngoan ấy được thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nói :”Ta là đường, là sự thật và sự sống”. Ai theo Ngài sẽ tiến tới con đường cứu độ.
 
          2. Bài đọc 2 : 1Tx 4,13-18.
 
          Thánh Phaolô vui mừng vì thấy tín hữu Thessalonica đón nhận Tin mừng do Ngài rao giảng và sống đức tin vững vàng. Nhưng họ có một tâm trạng lo âu : họ đang mong chờ đến ngày tận thế để được gặp Chúa Giêsu, nếu họ chết trước thì họ sẽ không được gặp Ngài.
 
          Nhưng thánh Phaolô làm cho người Thessalonica yên tâm bằng cách cho họ tin chắc rằng : khi Chúa đến, tất cả mọi người dù còn sống hay đã chết đều được gặp Ngài và sau đó được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi. Vì thế, họ hãy tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến trong tinh thần tin tưởng.
 
          3. Bài Tin mừng : Mt 25,1-13.
 
          Dụ ngôn 10 cô trinh nữ nói lên sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa là biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa quang lâm.  Chúa sẽ đến nhưng chúng ta không biết ngày nào giờ nào.  Việc chúng ta phải làm là hãy dự trữ đầy đủ dầu đèn tức là phải tỉnh thức. “Tỉnh thức” ở đây, qua hình ảnh chiếc đèn đầy dầu, có nghĩa là lúc nào  cũng ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng.
 
          Chắc chúng ta thắc mắc về một chi tiết : 5 cô khôn ngoan  không cho 5 cô khờ dại vay mượn dầu.  Phải chăng chi tiết này nói lên tính ích kỷ của các cô khôn ngoan ?  Chắc không phải thế !  Chúa Giêsu muốn dùng chi tiết này để nói rằng  trước số phận đời đời không ai có thể giúp ai được , mỗi người phải tự lo lấy . Vậy mỗi người phải tự lo bằng cuộc sống lúc nào cũng sẵn sàng trả lẽ trước mặt Chúa.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                          Tỉnh thức và sẵn sàng.
I. BỐI CẢNH CỦA DỤ NGÔN.
 
          1. Phong tục cưới hỏi người Do thái.
 
          Khi đọc dụ ngôn này, chúng ta thắc mắc nhiều điều vì phong tục cưới hỏi của người Palestine  thời Chúa Giêsu khác hẳn với phong tục của chúng ta ngày hôm nay. Muốn hiểu dụ ngôn 10 cô trinh nữ đón chàng rể, ta nên xem qua phong tục của người Do thái.
 
          Tiến sĩ Alexander Findlay để lại những điều ông đã thấy ở xứ Palestine. Ông viết :”Khi chúng tôi đến gần cổng một thị xã Galilê, tôi thấy 10 cô gái vẫy tay và đánh đàn vui vẻ, nhảy múa dọc theo con đường phía trước xe chúng tôi.  Tôi hỏi họ đang làm gì vậy ?  Người hướng dẫn trả lời là  họ ra nhập bọn với cô dâu chờ chàng rể đến. Tôi hỏi anh ta xem  có dịp thấy đám cưới này không, anh lắc đầu đáp :”Có thể tối nay, tối mai hay có khi cả hai tuần lễ nữa, không ai biết chắc lúc nào đám cưới cử hành”.
 
          Đoạn anh tiếp tục giải thích rằng : một trong những niềm vui lớn nhất trong một đám cưới trung lưu ở Palestine là làm sao bắt gặp nhà gái đang ngủ, vì vậy, chàng rể thường đến bất ngờ, đôi khi vào lúc nửa đêm.  Theo ý của công chúng thì chàng rể phải cho một người đi trước để la lên rằng :”Kìa, chàng rể đang đến”.  Việc đó có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, nên nhà gái phải luôn luôn sẵn sàng đi ra đường để đón chàng rể khi chàng đến. Những điểm quan trọng khác  là không ai được phép ở ngoài đường sau khi trời tối nếu không có đèn.  Khi chàng rể đến và cửa đóng lại thì những người đến trễ không được phép vào. Đó là toàn thể quang cảnh dụ ngôn mà Chúa Giêsu nêu ra.
 
          Dụ ngôn có nhiều chi tiết nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn dựa vào phong tục rước dâu để nói lên sự tỉnh thức và sẵn sàng.
 
          2. Ý nghĩa dụ ngôn.
 
          Dụ ngôn này nhằm cảnh cáo những thính giả gần là người Do thái và những thỉnh giả xa là chúng ta ngày hôm nay là phải tỉnh thức và sẵn sàng.
          * Dụ ngôn nhằm trực tiếp vào người Do thái. Họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, cả lịch sử của họ đúng ra là một cuộc sửa soạn cho cuộc giáng sinh của Con Thiên Chúa, lẽ ra họ phải chuẩn bị cho Ngài tới. Nhưng họ đã không chuẩn bị đóp tiếp Ngài, vì thế họ đã bị loại ra như 5 cô trinh nữ khờ dại.
 
          * Dụ ngôn còn gián tiếp cảnh cáo chúng ta  khi chúng ta không chuẩn bị đón tiếp Chúa đến trong ngày tận thế và nhất là trong ngày sau hết của đời mình.  Chúng ta quá mải mê với đời sống ở trần gian,  chỉ biết tìm hạnh phúc chóng qua ở đời này mà quên đi hạnh phúc thật đời sau.  Chúng ta rất dễ lần nữa trễ nải đến nỗi  không còn thời giờ chuẩn bị mình đến gặp Chúa vì Chúa đến rất bất ngờ.
 
          *  Dụ ngôn này nhấn mạnh đến tính cách bất ngờ. Cl Tassin viết :” Dụ ngôn về lụt đại hồng thủy trình bầy cho thấy sự phán xét của Thiên Chúa ập xuống nghiệt ngã giữa dòng đời thường của con người.  Dụ ngôn kẻ trộm đêm kêu gọi phải tỉnh táo truớc mọi thứ bất ngờ không hẹn trước. Và dụ ngôn về người đầy tớ trung tín nêu rõ tinh thần vâng phục, Chuá phải là linh hồn của thời gian chờ đợi. Hội thánh sống với lòng mong đợi  ngày cánh chung ở cuối chân trời, nhưng cuộc phán xét đã bắt đầu hôm nay, trong những lựa chọn của đời sống hằng ngày”.
                             (Tassin, l’Évangile de Matthieu, Centurion, tr 260).
 
II. BÀI HỌC ĐƯỢC RÚT RA.
 
          Ngày xưa, Chúa Giêsu cảnh cáo những người Do thái không chịu chuẩn bị cho Ngài đến trong việc cứu chuộc loài người, nên họ đã bị loại ra ngoài và dành cho các dân tộc khác. Ngày nay, với dụ ngôn này, Chúa cũng cảnh cáo chúng ta đừng quá mê man sự thế gian mà quên đi giờ chết của mình. Chúa sẽ đến gọi chúng ta ra khỏi đời này một cách bất ngờ và ngày giờ nào chúng ta không biết. Chỉ có một điều chúng ta phải làm là tỉnh thức và sẵn sàng.
 
          1. Mọi người đều phải chết.
 
          Kinh nghiệm người đời cho hay : không ai có thể sống mãi. Từ xưa đến này, người ta đã nỗ lực đi kiếm tìm thuốc trường sinh, nhưng đã thất bại.  Bao nhiêu anh hùng cái thế, bao nhiêu vĩ nhân lừng danh thế giới đã qua đi, chỉ còn lưu lại trên sử sách.  Vì thế người ta mới đặt một dấu hỏi và tự trả lời :”Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: người ta xưa nay ai mà không chết ?  Theo Kinh thánh,  ông Adong sống thọ 930 tuổi, ông Noe 950 tuổi, ông Mathusalem 969 tuổi, tất cả đều đã chết.  Vì thế người ta mới nói :
 
                                      Người đời hữu tử hữu sinh
                             Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.
          Biết là mọi người sẽ phải chết đấy, nhưng mấy ai nghĩ đến sự chết để dọn mình ?
 
          Nhà nhiếp ảnh Mạnh  Đan có chụp một bức hình thần tình. Bức hình trình bầy hai nhân vật : một cụ già đang quay lưng đi, một thiếu niên đang quay mặt lại.  Và tác giả đã đặt cho bức hình ấy một tên không thể khéo đẹp hơn : QÚA KHỨ VÀ TƯƠNG LAI.
 
          Thật vậy, quá khứ và tương lai, hay là lớp người già và lớp người trẻ, là hai hạng người ngồi châu lưng lại cho nhau. Lớp người trẻ nhìn về phía trước mặt. Lớp người già nhìn về phía sau lưng.  Vì thế Thánh Kinh nói :”Trẻ thì mộng tới tương lai, già thì chiêm bao về quá khứ” (Joel 3,1). 
 
          Tâm lý trẻ già khác nhau đấy : người thì nhìn về quá khứ, người thì nhìn về tương lai. Nhưng cả hai ít khi nghĩ đến sự chết kể cả người già, vì chết là một cái gì bi quan làm mất đi niềm vui của cuộc sống. Do đó,  người ta tạm quên đi để hưởng trọn cuộc đời đầy bấp bênh này.
 
          Tuy niên, cũng có những người khôn ngoan biết lo xa để chuẩn bị cho ngày ra đi vĩnh viễn của mình.  Vua Ferdinand II của Pháp, ở trong phòng giấy và nơi ngủ, ngài dạy phải viết câu này :”Annos aetrenos in mente habui” (Tôi hằng nhớ những năm vô tận).
 
          2. Giờ chết đến bất ngờ.
 
          Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn bằng lời khuyên :”Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào” (Mt 25,13).  Lời khuyên dụ tỉnh thức ở đây giống như câu đầu của dụ ngôn chủ nhà (Mt 24,42) vì không biết ngày nào giờ nào ông chủ về, nên người đầy tớ phải tỉnh thức luôn.  Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng này  giữ con người ở tình trạng thường xuyên sống trong ơn nghĩa Chúa và gia tăng việc lành phúc đức mỗi ngày một hơn.
 
Truyện : núi lửa Vésuve.
 
          Cách đây  hơn 1900 năm, núi lửa Vésuve đã phun lên ở  Italia. Khi núi lửa ngưng phun lửa, thành phố Pompéi đã bị chôn dưới lớp phún thạch tới 18 bộ (gần 6 mét). Thành phố vẫn giữ nguyên dạng như thế mãi đến thời gian gần đây, khi các nhà khảo cổ khai quật nó lên.
 
          Mọi người cũng phải ngạc nhiên về những điều khám phá được... Phún thạch đã làm đông cứng mọi người ngay trong tư thế họ đang có khi cơn đại họa đổ xuống. Các thân xác người ta đều bị hư hoại. Trong khi hư hoại, chúng để lại những lỗ trống trong lớp tro cứng.  Bằng cách đổ dung dịch thạch cao vào những lỗ trống, các nhà khảo cổ học có thể khôi phục lại hình các nạn nhân.
 
          Một số nạn nhân này đã gây xúc động. Chẳng hạn có một thiếu phụ đang cuốn chặt đứa con trong tay mình, hoặc một lính gác Rôma đang đứng thẳng người tại trạm gác, trên người trang bị vũ khí đầy đủ. Anh ta vẫn trầm lặng trung tín với phận sự tới lúc cuối cùng... Nhưng cũng có người chết đang lúc nhậu nhẹt, có người đang đánh nhau để tranh dành một số tiền.
                             (Cf M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 322-323)
 
 
          3. Phải chuẩn bị sẵn sàng.
 
          Hai bài đọc hôm nay nhắc cho chúng ta phải sẵn sàng đón ngày cuối đời mình. Khi giờ chết đến, chúng ta có sẵn sàng như 5 trinh như khôn ngoan kia không hay lại chẳng chuẩn bị gì như  5 trinh nữ khờ dại ?
 
          a) Phải sống khôn ngoan.
 
          Người ta thường nói :”Khôn ba năm dại một giờ”(Tục ngữ). Sự khôn ngoan đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, phải cố gắng suốt cả đời vì “chỉ có ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”, chỉ thiếu khôn ngoan một chút là trở thành dại, đem đến sự tai hại khôn lường.  Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dạy chúng ta  đâu là sự khôn ngoan đích thực và phải hành động ra sao để có sự khôn ngoan đó.
 
          Như chúng ta đã biết có nhiều loại khôn ngoan : khôn ngoan chủ quan hay khách quan, khôn ngoan do kinh nghiệm hay do học hỏi, khôn ngoan xưa hay ngày nay. Và mọi sự khôn ngoan không luôn có tầm quan trọng như nhau vì có những thứ khôn ngoan chỉ hữu dụng tạm thời hay tùy cơ ứng biến, lại có những thứ khôn ngoan có giá trị bất  biến mà ai cũng phải công nhận. Một trong những thứ khôn ngoan quan trọng đó mà dụ ngôn đề cập tới :”Mọi người sống ở trần gian sẽ qua đi , chỉ cần một việc quan trọng là chiếm hữu cho được Nước Trời”. Đây là sự khôn ngoan mà Chúa muốn truyền dạy chúng ta như một chân lý căn bản hướng dẫn một cuộc đời và chi phối tận gốc rễ mọi sinh hoạt của con người mong đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã hứa ban.
 
Truyện : Diogène bán sự khôn ngon.
 
          Triết gia ngoại đạo Diogène dọn một chỗ ỡ giữa thành Athènes. Ở đó, ông treo một tấm bảng có đề chữ :”Đây có bán sự khôn ngoan”. Một người kia thấy câu đó,  liền sai đầy tớ đem tiền đến mua. Diogène bỏ tiền vào túi rồi trả lời :
          - Hãy về thưa lại với chủ câu này :”Trong mọi sự phải nhắm chắc cái cùng đích”.
          Người chủ cho đó là một câu đầy giá trị. Ông truyền khắc câu đó bằng chữ vàng và treo trước cửa nhà. Như vậy, ông muốn nhắc nhở kẻ khác năng nhớ đến mục đích của con người sống trên mặt đất này, vì đó là điều quan trọng nhất.
 
          b) Sẵn sàng đón Chúa đến.
 
          Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân liên quan đến mỗi người, không ai làm thay ai được.  Sự tỉnh thức và sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi  chứ không phải trong một thời gian nào thôi vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như 10 trinh nữ, sửa sọan có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và nhân đức nữa  Đúng như người ta nói :
                                      “Đèn không dầu như cầu  không nhịp”.
 
          Đèn không dầu thì đốt không cháy, cũng như cầu không nhịp thì người đi bộ cũng như người đi xe có ngày sẽ bị té xuống sông.  Con người khôn ngoan phải biết lo cho tương lai. Khôn ngoan của con người là phải cùng đích của mình, mà muốn tới cái cùng đích ấy thì phải chuẩn bị cách tỉnh thức và sẵn sàng vì “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”.
 
          c)  Phận ai người ấy lo.
 
          Có một điều làm cho chúng ta suy nghĩ : việc 5 cô trinh nữ khôn ngoan từ chối không cho 5 cô trinh nữ khờ dại vay mượn dầu. Chi tiết này xem ra có vẻ nói về cái tính ích kỷ của 5 cô khôn ngoan, nhưng dầu sao nó cũng có ý nghĩa.  Có thể đây là một chi tiết nói lên sự cô độc của con người khi chết. Mỗi người phải tự lo lấy cho mình, không ai giúp ai được. Con người sẽ một mình ra trước mặt Thiên Chúa, cùng với tất cả những gì mình có.
 
 Đây là tư tưởng làm cho triết gia và nhà thần học Đan mạch Kierkegaard (1813-1855) ông tổ của trào lưu tư tưởng triết học hiện sinh, suy nghĩ và gợi hứng cho ông viết cuốn “Le concept d’angoisse” và suy tư một hệ thống triết học bi quan về thân phận con người.
 
          Tuy nhiên đối với những người công giáo, chúng ta nhận định chân lý trên mà không sợ hãi lo lắng, bi quan. Trái lại, từ chân lý đó ta sẽ cố gắng  để sống, định liệu lấy chính đời sống đời đời của ta bằng đời sống hiện tại vì biết rằng một mình ta sẽ ra trước toà Chúa.
 
          Lúc đó, mỗi người sẽ lãnh nhận lấy hậu quả của mọi hành vi mình trong cuộc sống, hoặc được thưởng hoặc bị phạt.  Việc thưởng phạt này do chính lương tâm của ta  tự quyết định vì gieo thứ nào thì gặt thứ ấy như thánh Phaolô đã dạy :
                                     
                                      Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu.
                                        Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
                                                      (Ngạn ngữ)
 
          Qua tư tưởng các bài đọc của Thánh lễ hôm nay, chúng ta có thể rút ra được bài học thực hành : một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt. Giờ chết, giờ gặp Chúa của mỗi người chắc chắn sẽ xẩy ra, nhưng có một điều không chắc là không biết nó sẽ xẩy ra khi nào . Chúa không muốn ta biết giờ chết vì muốn để ta tập luyện tinh thần phó thác : tin vào Chúa quan phòng và tình thương của Chúa.  Đồng thời chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, phải lo cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách sống tốt lành, sống trong tình trạng ơn nghĩa với Chúa. Chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời như người ta nói :”Sống lành chết thiêng”.


CHÚA NHẬT 33 TN A

I. LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
 
          Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo Việt nam  long trọng mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt nam, một ngày lễ đem lại niềm vui và một hào khí thúc đẩy người tín hữu Việt nam theo gương các thánh mà làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
 
          Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm 1544. Từ đây Giáo hội Việt nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.
 
          Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó :
- Bá đao : bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.
          - Lăng trì : chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.
          - Thiêu sinh : bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.
          - Xử trảm : bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.
- Xử giảo : bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.
- Chết rũ tù : bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết  gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.
 
          Cũng nên biết qua về kế họach PHÂN SÁP của vua Tự Đức, một kế họach quá sâu độc !
Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi biến cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của lòai người chỉ là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa.
 
          Kế họach Phân Sáp được Vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856.
          Do sự thi hành kế họach Phân Sáp này mà gần 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 15 Linh mục Việt nam  và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.
 
          Kế họach phân sáp gồm bốn mặt :
-  Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.
-  Mặt thứ hai, mỗi người công giáo  phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.
-  Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương,  những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước.
-  Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công gíao thì phải để cho gia đình người lương nuôi.
 
          Đây là một kế họach rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo hội Việt nam tận gốc rễ. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng : các triều đại nhà Nguyễn không còn nữa, mà Giáo hội Việt nam, hiện nay, vẫn còn lớn mạnh và phát triển không ngừng (Theo Internet).
 
          Có nhiều lý do dẫn đến cảnh bách hại : vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những nguyên nhân chính trị.  Trong vòng 300 năm, Hội thánh Việt nam đã dâng cho Chúa một số chứng nhân anh dũng, đã nhận lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Con số thực sự của các tử đạo  tại Việt nam cũng không có được thống kê chính xác, chỉ biết rằng con số này rất đông, từ 100.000 đến 130.000 người. Các tử đạo tại Việt nam cũng rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần trong dân Chúa và ngành nghề xã hội : các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai Pháp và Tây ban nha, bên cạnh các Linh mục là chủng sinh, thầy giảng và giáo dân, có những cụ già và thanh niên, binh lính, thầy thuốc, quan chức....
 
          Giáo hội Việt nam tuy còn non nớt, còn đang trên đà truyền giáo, nhưng ngày 19.06.1988 Đức Giáo hoàng Gioan  Phaolô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 chứng nhân anh dũng và đưa vào niên lịch chung để mừng kính trong toàn thể Giáo hội vào ngày 24 tháng 11 hằng năm , cũng là ngày kỷ niệm thành lập hàng giáo phẩm  tại Việt nam vào năm 1960.
 
II. Ý NGHĨA VIỆC TỬ ĐẠO.
 
          Xưa nay có lẽ chúng ta  đã quen đi với cách thức phân biệt các thánh tử đạo với các thánh giáo phụ, hiển tu, đồng trinh vv... Nhưng chúng ta quên rằng thánh nào cũng là thánh, và thánh nhân Kitô giáo nào cũng trước tiên phải là chứng nhân của Tin mừng, hay nói cách khác, chứng nhân của Chúa Kitô, chỉ khác nhau cách thức làm chứng mà thôi.
 
          Sự thực là buổi sơ khai của Giáo hội công giáo trước tiên những tín hữu chết vì đạo được tôn vinh là thánh và Giáo hội dùng một từ Hy lạp là Martus, Marturos (rồi La tinh Martyr, Martyris và từ Pháp là Martyr) để chỉ những tín hữu được tôn vinh này. Martus, Martyr có nghĩa là người chứng, người làm chứng. Vì vậy, đối với Giáo hội công giáo, thì từ Martyr này nguyên thủy được áp dụng cho tất cả các thánh, do đó  mà sổ các thánh được gọi là  Martyrologie.        
 
          Vậy thì vị tử đạo, trước tiên phải là chứng nhân của Chúa Kitô, như mọi chứng nhân khác, trên bình diện đời sống. Cái chết “vì đạo” của người tử đạo chỉ là một cách thức làm chứng mà thôi,  chứ không phải làm thay đổi bản chất người chứng của Chúa Kitô.              
                    (Lm Thiện Cẩm, Cg và Dt, Giáng sinh 1997, tr 310-311)
 
          Nếu tử đạo do tiếng Martyr là nhân chứng thì ngay cộng đồng Do thái đã có những vị tử đạo, nhất là thời Maccabê. Sách Maccabê, đặc biệt bài đọc I hôm nay, đã kể lại nhiều vị anh hùng can trường làm chứng cho đức tin mặc dù phải chịu nhiều cực hình và có khi phải chết.  Còn cách xử dụng thông thường của Cựu truyền Công giáo thì danh từ Tử đạo áp dụng cho nhân chứng nào đã lấy máu mình, đã hiến mạng sống mình để trung thành làm chứng cho sứ mạng, cho chân lý.
 
          Theo nghĩa này thì Đức Kitô chính là một vị tử đạo đích thực. Và chỉ duy có Ngài mới xứng đáng danh hiệu đáng kính này.  Trong cuộc sống của Ngài tại trần thế  và nhất là trong cái chết đẫm máu của Ngài trên thập giá, Ngài đã làm chứng hùng hồn về lòng trung thành của Ngài đối với sứ mạng Cha Ngài giao phó.  Ngài không những đã biết trước cái chết mà Ngài còn tự ý chấp nhận như một tác động tôn kính hoàn hảo nhất mà Ngài đã thực hiện để tôn kính Cha Ngài. Và khi Ngài bị kết án, Ngài đã tuyên bố :”Ta đến trong trần gian này để làm chứng cho sự thật”.  Như thế chúng ta đủ hiểu cuộc sống Ngài tại thế và cái chết của Ngài chính là những tác động mang ý nghĩa tử đạo : đó là hiến mạng sống để trung thành làm chứng cho sứ mạng Cha Ngài trao phó và làm chứng cho sự thật.
 
          Kinh nghiệm cho biết Giáo hội của Chúa bao giờ cũng được khai sinh và phát triển bằng đau khổ và tử đạo. Thật vậy, chính Chúa Kitô là vị tử đạo đầu tiên, đã khai sinh Giáo hội bằng cái chết đau thương trên thập giá. Chúa phán :”Khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự về với Ta”(Ga 12,22).  Từ ngày đó,  Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô cũng phải đổ máu làm chứng về Chúa để mọi người được ơn cứu chuộc. Giáo hội sơ khai đã có cuộc tử đạo của thánh Stêphanô. Giáo hội Roma với bao thánh tử đạo dưới thời hoàng đế Néron nay vẫn còn di tích lưu truyền.
 
          Hoàng đế Julius, người ngược đãi Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4, đã phải thốt lên :”Các ngươi đắp xác của nhiều người mới chết lên một cái xác đã chết (Chúa Giêsu), các ngươi làm đầy thế giới này bằng quan tài và mồ mả”.
 
          Cuối cùng, nhiều Giáo hội đã được dựng lên trên mồ của các thánh Tử đạo, đền thờ thánh Phêrô ở Vatican là một thí dụ, và các nghĩa địa đã biến thành các thành phố  bởi vì “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertullianô).
 
          Tại sao người ta dám tử đạo, dám làm chứng cho Tin mừng, dám làm chứng cho Chúa ? Thưa vì người ta qúi sự sống đời đời. Người ta cho phần rỗi linh hồn là quí hoá và không gì có thể đổi lấy được vì :”Được lợi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì” (Mc 8,36).
 
                              Truyện : Xin mua được một linh hồn.
 
          Thế kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh hoá, một hôm, người ta dẫn đến trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên là MỚI – Thấy mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quan động lòng thương.
          - MỚI  - quan nói – con cứ đạp thánh giá đi, rồi ta sẽ ban thưởng một nén bạc.
          - Bẩm quan lớn, một nén bạc chưa là gì.
          - Được, ta sẽ ban một nén vàng. Con hãy đạp Thánh giá đi.
          - Ồ, bẩm quan lớn, một nén vàng cũng vẫn còn ít quá.
          - Sao ? quan sửng sốt, quát : Thế còn chưa đủ ư ? Vậy mày muốn bao nhiêu ?
          - Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp Thánh giá, thì xin quan lớn hãy cho tôi cái gì có thể     mua được một linh hồn khác đã...
          Và người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường, vẻ anh dũng tươi cười.
III. VIỆC TỬ ĐẠO NGÀY NAY.
 
          1. Theo công đồng Vatican II.
 
          Trong hiến chế Lumen gentium, công đồng chỉ dùng chữ Tử đạo 6 lần và theo một ý nghĩa riêng biệt, với chiều kích rộng lớn phổ quát, tuy vẫn qui chiếu vào ý niệm tử   đạo có từ trước. Theo công đồng, “Tử đạo là được đồng hoá với Thầy mình, sẵn sàng chết để cứu độ trần gian, và cũng như Thầy, đổ máu đào ra  để làm chứng cho việc đó. Hội thánh coi tử đạo là ơn cao cả, là bằng chứng tột đỉnh về đức tin. Chẳng mấy ai được phúc này, nhưng ai ai cũng phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt thế gian, và theo Người trên con đuờng thập giá, giữa những cơn bắt bớ thường xẩy ra cho Hột thánh” (LG. số 42).
 
          Một số nhà thần học ngày nay cũng có những suy nghĩ và gợi ý như cha Karl Rahner trong cuốn Excursus sur le martyr :
”Tử đạo đơn thuần là cái chết của người Kitô hữu. Tử đạo là một phần cốt yếu của Hội thánh. Thật ra, Hội thánh không nguyên làm chứng cho Đức Kitô bị đóng đinh mà còn làm chứng cho Lời mình sống thành hiện thực nữa. Hội thánh sống cái chết của Chúa Kitô trong hết mọi người, mang thập giá của Đức Kitô ở giữa bóng tối của thế gian và mang dấu thánh của Đức Kitô, những dấu ấn bí ẩn trong đời thường mỗi ngày. Hội thánh phải là dấu hiệu thiêng thánh về thực tại thầm kín này, trong thế giới ngày nay. Hội thánh ở trong tình trạng tử đạo. Ở đây, Hội thánh tự tạo cho mình một hình thức rõ ràng nhất, trong sáng nhất, một mạc khải tồn tại cho đến cùng”.
 
          Cha Urs von Balthasar, nhà thần học, cũng nói giống như vậy, khi nhấn mạnh rằng tình trạng bách hại là tình trạng thông thường của Hội thánh trong thế gian  và tử đạo là trạng thái bình thường của lời chứng Kiyô giáo.
 
          Etienne Barbarin cũng theo một dòng tư tưởng, khi trình bầy việc tử đạo là cách thế thực hiện  hoàn hảo nhất lời chứng, vì cái chết tuy được chuẩn bị bằng cả đời sống, nhưng đã bắt đầu và thực hiện trong mỗi lựa chọn hằng ngày.
 
          2. Tư tưởng chung thời nay.
 
          Nếu như các nhà thần học nói :”Hội thánh luôn ở trong tình trạng tử đạo”. Ta phải hiểu như thế nào? Phải chăng Hội thánh lúc nào cũng phải chịu bắt bớ, bị đoạ đầy ? Chắc không phải thế.  Cần phải hiểu chữ “Tử đạo” theo nghĩa rộng hơn.
 
          Ta đặt câu hỏi : bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạo không ?
          Ngay từ xưa, người ta đã tìm những cách thế biểu hiện việc tử đạo. Những cách thế này xoay quanh những việc đời có thể diễn tả sự hy sinh chính mình, và đức tin hoàn hảo, do đấy có thể được coi như một sự sửa soạn chịu tử đạo hay có liên quan đến tử đạo. Vì thế bậc đồng trinh và đời đan tu vẫn được coi là những con đường gần nhất với tử đạo. Các trinh nữ và các đan nữ xuất hiện vào thời cấm đạo hồi xưa, dưới mắt mọi người, vẫn là những vị kế thừa  các anh hùng tử đạo.
 
          Từ đó nảy sinh ra ba mẫu tử đạo :
          * Tử đạo đỏ : là đổ máu ra chịu chết vì Chúa.
          * Tử đạo trắng : sống đời hãm mình trinh tiết.
          * Tử đạo xanh : chịu đọa đầy, để làm chứng cho đạo ở một nơi không phải là quê hương
              xứ sở mình.
 
          Chính thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói thẳng thắn rằng:”Tôi cảm thấy tôi có ơn gọi  làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và tử đạo. Tử đạo là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành mãnh liệt, khi tôi ở trong bốn bức tường của Nhà Kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng giấc mơ đó là một sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu qui tụ mọi ơn gọi của tôi.  Vâng, cuối cùng tôi đã khám phá ra ơn gọi của tôi : ơn gọi của tôi là yêu mến” (Tự thuật).
 
          Mọi người đều qúi trọng sự sống, dù chỉ là cuộc sống vắn vỏi phù du. Các tử đạo không những coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, mà còn lấy cái chết như ngưỡng cửa phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh hằng. Các ngài cho ta cái cảm giác như là các ngài “chạm vào cõi vô hình”. Các ngài đã thể hiện và chứng minh câu nói của Chúa :”Ai bám vào sự sống đời này, sẽ mất cuộc sống mai sau ...”(x. Mc 8,35). Và như thánh Phaolô nói :”Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực luôn vui vẻ” (2Cr 6,9-10).
 
                                       Truyện : chết theo lệnh vua.
 
          Trên bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho quân  vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu Á. Thay vì cho quân tấn công hạ thành, đại đế Alexandre đã thúc ngựa đến ngay trước cổng thành và đòi gặp mặt vua đối phương.
          Nhà vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đòan quân đang vây hãm và hỏi Alexandre :
          - Nhà ngươi muốn gì ?
          - Ta muốn nhà vua đầu hàng.
          - Đầu hàng ? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông hơn, tại sao ta lại phải đầu hàng nhà ngươi ?
          - Nhà ngươi hãy xem cho rõ.
          Thế rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì tấn công hạ thành, ông ra lệnh cho họ tiến bước  về hướng vực thẳm ngòai thành.
          Tò mò,  quân sĩ trong thành cũng leo cả lên tường thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.
          Đòan quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khỏang không, rơi xuống vực thẳm, thịt nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp bước, rơi xuống vực sâu, chết theo. Từng người,  từng người theo nhau đi vào cái chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ thứ mười, Alexandre hạ lệnh dừng bước.
          Sững sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ Alexandre, lòng trung tín họ dành cho Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông hồng,  nhà vua và tòan quân trong thành mở cửa qui hàng.
 
          Chúng ta cũng đang thừa hưởng chiến công của những người lính anh hùng như thế của Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chính các thánh Tử đạo Việt nam đã góp phần xây dựng Giáo hội Việt nam  bằng lòng trung tín các Ngài đã dành cho Chúa Kitô, bằng gương anh dũng xem nhẹ cái chết dâng hiến mạng sống mình cho Chúa ? Và chúng ta sẽ phải sống thế nào để theo gương các ngài?
 
            Là con cháu các Thánh Tử đạo Việt nam, chúng ta hôm nay cũng phải đương đầu với những khó khăn thử thách, có lẽ không đồng loại với những khó khăn thử thách của các Ngài, bởi vì ngày nay hầu như chẳng còn ai cấm đạo theo lối vua chúa quan quyền nước ta thời trước. Trong thế giới chúng ta ngày nay, không chỉ có Kitô giáo, mà hầu hết các tôn giáo khác, kể cả những người không tín ngưỡng cũng đang phải đối diện với một thứ “Tôn giáo kinh tế”, trong đó người ta thờ thần Mammon, Thần Tài. Nhiều người chỉ biết cắm đầu chạy theo tiền tài, không còn biết ý nghĩa của cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vùi đầu trong những thú vui thấp hèn, chỉ biết sống để hưởng thụ, sống vội sống vàng để rồi ngày mai chết sẽ ra cõi tha ma.
 
          Lễ kính các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay khiến chúng ta kính phục các thánh vì các Ngài đã mởi trí mở lòng cho ta để chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả.
 
 Năm 1980 tại câu lạc bộ của những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một cuộc nói chuyện và người được mời nói chuyện là một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn.  Anh lại ngọng nên ăn nói cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác.
 
          Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giầu sang danh vọng trong xã hội ? Anh mở đầu như sau :”Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận :”Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”.
 
          Không biết cử toạ của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo : các  Ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các Ngài thì dám bỏ tất cả những gì qúi nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
 
          Giáo hội Việt nam là một gia sản quí báu mà cha ông đã để lại cho chúng ta bằng giá máu của các ngài, để ngày nay chúng ta có ba Giáo tỉnh  gồm 25 giáo phận , với hàng giáo phẩm được thiết lập chính thức vào năm 1960 để coi sóc gần 7 triệu tín hữu. Chúng ta phải bảo vệ và xây dựng di sản ấy như các em thiếu nhi thường hát khi sinh họat :
 
                              Cái nhà là nhà của ta,
                              Ông cố ông cha lập ra
                              Cháu con ta gìn giữ lấy
                              Muôn năm với nước non nhà.
 
          Nếu chúng ta biết bảo vệ và xây dựng Giáo hội Việt nam cho tốt thì chúng ta được các ngài khen là :”Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ”(Tục ngữ). Nếu chúng ta không cố gắng và làm phát huy ra vẻ đẹp mà cha ông chúng ta đã xây dựng bằng xương máu thì các ngài sẽ phải phàn nàn về thế hệ con cháu :”Đời cha vo tròn, đời con bóp méo”(Tục ngữ)  
          Ngày lễ các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày.  Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua “tử đạo đỏ” thì chúng ta có thể chấp nhận “tử đạo trắng hoặc xanh”.
 
 Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,23).  Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng:”Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.
 


CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN A
ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA
+++
A. DẪN NHẬP.
 
          Hôm nay là ngày Chúa nhật cuối năm phụng vụ, Giáo hội hướng lòng chúng ta về ngày chung thẩm, ngày mà mọi người sẽ qua đi và vũ trụ sẽ ra tro. Ngày đó không ai biết được nhưng chỉ biết một điều là ngày ấy Chúa Giêsu sẽ xuất hiện lần thứ hai với dáng vẻ uy nghi của một vị  Vua Thẩm phán, có các thiên thần hầu cận, để phán xét kẻ sống và kẻ chết như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính.
 
          Ngài sẽ phán  xét thế nào ? Ngài sẽ phán xét theo tiêu chuẩn Ngài đã đề ra trong bài Tin mừng hôm nay : Tình yêu đối với tha nhân. Ngài đã đồng hóa Ngài với tha nhân trong nhiều dụ ngôn.  Những ai thể hiện tình yêu ấy đối với Ngài qua tha nhân thì sẽ được thưởng, còn ai không yêu thương Ngài qua tha nhân thì sẽ bị phạt,  đúng như quan niệm của dân gian :”Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” : việc lành việc dữ sau cùng đều có thưởng phạt.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
                                               
          + Bài đọc 1 : Ez 34,11-12.15-17.
 
          Lịch sử đen tối của dân Israel đã cho thấy Thiên Chúa đã đặt một số người làm mục tử để chăm sóc Israel là đoàn chiên của Chúa. Nhưng những người này chểnh mảng với nhiệm vụ chăn dắt mà chỉ lo tìm lợi riêng, do đó, họ đã dẫn chiên đến một tai họa lớn : dân Israel bị bắt cầm tù rải rác khắp đế quốc Babylon. Họ đã bị xa cách nhau, phải tiếp xúc với dân ngoại đạo, họ đã thấy cô đơn và bị bỏ rơi.
 
          Vì thế, qua miệng tiên tri Ezéchiel, Thiên Chúa cho họ biết rằng chính Thiên Chúa sẽ đi tìm họ, tập họp họ lại và lấy lại đoàn chiên khỏi tay những mục tử xấu ấy và chính Ngài sẽ chăm sóc họ như mục tử chăm sóc đoàn chiên mình.
 
          + Bài đọc 2 : 1Cr 15,20.26a-28.
 
          Thánh Phaolô đưa ra cho tín hữu một so sánh : Adong cũ đã làm hỏng con người và làm cho con người phải chết. Chúa Kitô là Adong mới đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, giải thoát con người và ban cho con người sự sống mới. Do đó, Chúa Giêsu trở nên thủ lãnh nhân loại để  đưa con người vào Nước Trời.
 
          Và đến ngày cách chung, Chúa Giêsu Kitô Vua đã chiến thắng mọi kẻ thù và nắm quyền trên mọi loài mọi vật, sẽ trao lại cho Thiên Chúa Cha tất cả vương quyền và Ngài sẽ cho tất cả những ai tin Ngài được sống lại và cùng hưởng vinh quang với Ngài.
 
 
          + Bài Tin mừng : Mt 25,31-46.
 
          Dụ ngôn mà thánh Matthêu mô tả bằng hình ảnh có tính cách khải huyền về ngày phán xét sẽ diễn ra trong ngày sau cùng.  Khi đó, Đức Giêsu sẽ xuất hiện như một vị Vua thẩm phán đầy uy quyền, có các thiên thần hầu cận. Ngài sẽ tách biệt người lành kẻ dữ ra hai bên như người mục tử tách chiên ra khỏi dê để xét xử công minh.
 
          Tiêu chuẩn của cuộc xét xử là luật yêu thương. Ngài đã đồng hóa Ngài với tha nhân : những ai thể hiện tình yêu cụ thể với những người khốn khổ bé mọn tức là thể hiện tình yêu đối với Ngài và sẽ được trọng thưởng. Ngược lại,  những ai không thể hiện tình yêu đó đối với tha nhân tức là không yêu thương Ngài thì sẽ bị trừng phạt.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                                                Đức Kitô Vua Thẩm phán
I. BỐI CẢNH NGÀY LỄ.
 
          Hôm nay là Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lề Chúa Giêsu Vua để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và theo Ngài, đồng thời phải chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Chúa đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
 
          Đức Giáo hòang Piô  XI đã thiết lập lễ này vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan của Năm thánh 1925. Ngài thiết lập lễ này vì vào những thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết khác. Về phía Giáo hội, qua việc mừng kính tước hiệu là Vua của Chúa Kitô, Giáo hội khẳng định niềm tin trước sau như một của mình là tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô trên mọi con người, mọi gia đình, mọi xã hội và trật tự nhân loại.
 
          Ngoài ra, để điều chỉnh một số lệch lạc trong đời sống đạo nơi một số con cái, Giáo hội là Mẹ nhắc nhở cho mọi người rằng Chúa Kitô không chỉ là người Anh hay người Bạn đồng hành mà Ngài còn là “Vua trên các vua, Chúa trên các chúa. Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời”.
 
II. MỘT NƯỚC CẦN CÓ VUA.
 
          Người ta thường nói :”Kim chỉ phải có đầu”, trong một tập thể không thể có cảnh “cá mè một lứa” được, nhất là trong một nước.  Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con Trời mới là toàn năng công minh, thấu suốt mọi sự, mới giúp dân, ban ơn cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường gọi Vua là Thiên tử, Trời có mắt, đèn Trời soi sáng, xin Trời phù hộ.
 
          Bên phương Đông, Đức Khổng Tử đã thấy rõ vua Nghiêu, vua Thuấn, Vũ vương, Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các ngài thật lý tưởng.
 
          Kinh thư viết :”Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư” : Trời giúp dân, đặt vua cai trị, đặt thầy dạy dỗ (Thái hệ thượng 7). Nhận biết Trời đặt mình làm vua, các ông hết lòng hết sức vâng theo mệnh Trời để giúp dân. Vua Vũ Vương viết :”Duy kỳ khắc tướng Thượng Đế, sủng tuy tứ phuơng” : Chỉ vì phục vụ Thượng Đế, giúp nhân dân bốn phương.
 
          Bên Tây phương, Ba tư, Ai cập, Hy lạp hay La mã đều coi vua là con Thần Trời. Dân Do thái khi chưa có vua, họ đòi tiên tri Samuel :”Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi”(1Sm 8,19).  Và ai được chọn làm vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với tiên tri Nathanael :”Hãy đi nói với Đavít :Ta là cha nó, nó sẽ là con Ta”(2Sm 7,5.14 và Tv 2,7). Nếu vua trung thành thực hiện sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho toàn dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ vua khỏi tay quân thù” (Tv 20,21 và 45,4-8). (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A, tr 192).
 
Truyện : nữ hoàng Elizabeth lên ngôi
 
          Năm 1952, lễ đăng quang của nữ hoàng Anh Elizabeth là một nghi thức long trọng nhất của thế kỷ 20. Ba triệu người đứng chật các đường phố Luân đôn. Từ các thuộc địa Anh, các đoàn đại biểu trong sắc phục địa phương cũng có mặt. Nữ hoàng ngự giá trên chiếc xe ngựa bằng vàng. Hơn 10 sư đoàn trong quân đội hoàng gia diễn hành. Năm trăm chiếc khu trục cơ nhào lộn trên không.
 
          Vua chúa và các nhà lãnh đạo hầu hết đều có mặt mang theo tặng vật cho vị tân nữ hoàng.  Nhưng có lẽ quà tặng cao qúi nhất mà thế giới tặng cho nữ hoàng là ngọn cờ nước Anh lần đầu tiên được một người Tân tây lan cắm trên đỉnh Everest ở độ cao 8.846 mét vào chính ngày áp lễ đăng quang.
 
III. ĐỨC GIÊSU XƯNG MÌNH LÀ VUA.
 
          1. Nơi Đức Giêsu xưng vương.
 
          Sau phép lạ bánh ra nhiều, dân chúng hồ hởi muốn tôn Ngài làm vua, nhưng Ngài đã lẩn tránh vì Ngài không muốn cho dân chúng hiểu Ngài làm vua theo kiểu thế gian.  Ngài chỉ nhận mình là Vua khi đứng trước toà án Philatô, với dáng vẻ tang thương tiều tụy, Ngài khẳng định Ngài là Vua : “Ông nói phải, Tôi là Vua”.  Chính Philatô cho Ngài ngồi ở Gabata, ghế dành cho quan tòa.  Như vậy, vô tình Philatô công nhận Ngài là Vua và Ngài sẽ xét xử dân Do thái.
 
          Ngoài ra, ông còn truyền viết tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu với hàng chữ I.N.R.I.
(Jesus Nazareth Rex Judaeorum) có nghĩa là Giêsu Nazareth vua dân Do thái, tức là công nhận Đức Giêsu là Vua.  Ngai vàng của Ngài là cây thập giá. Từ trên cao, Chúa nhìn xuống thần dân, giang hai tay ra để ôm lấy dân Ngài. Và diễn từ nhận chức của Ngài là :”Xin tha cho họ”  và cao điểm là :”Mọi sự đã hoàn tất”.
 
          2. Vương quốc của Ngài.
 
          Vương quốc của Ngài không có tính cách chính trị . Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian như các vua chúa ở trần gian. Vương quốc mà Ngài lập ra không có lãnh thổ hay tài nguyên  vì vương quốc ngài là vương quốc thiêng liêng nên vô biên giới và vĩnh cửu, nước không thuộc thời gian nhưng thuộc thời cánh chung. :”Nuớc Người sẽ không bao giờ cùng”(Kinh Tin Kính).
         
IV. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA MỤC TỬ.
 
          Đức Giêsu là Vua không theo nghĩa như các vua trần gian, nhưng Ngài xưng mình là Vua Mục tử nhân lành. Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài đọc I).  Chính Đức Giêsu đã tuyên bố :”Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta”(Ga 10,10). Ngài còn nói thêm :”Ta đến để cho chiên Ta được sống và được sống dồi dào.  Chính Ta là mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên”.
 
          Ờ Nước Trời, Đức Giêsu là Vua đích thực muôn đời vì Ngài đã hạ mình xuống làm tôi trung vâng lời Chúa Cha hiến mình chịu chết trên thập giá để cứu chuộc muôn dân, đưa muôn dân về với Thiên Chúa Cha trong nước vĩnh phúc hằng sống.” Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài, ban cho cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu để trên trời dưới đất và hoả ngục phải bái quì khi nghe danh thánh Giêsu” (Pl 2,6).
 
          Nếu  Đức Kitô là Vua Mục tử thì vương quốc của Ngài là vương quốc tình thương. Đặc điểm của công dân trong nước này là những con người bất hạnh, khổ đau. Chính Đức Kitô, vị Vua Mục tử, đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn nghèo khổ :”Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc vương quốc của Ngài là chính những hành động của tình thương.
 
V. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA THẨM PHÁN.
 
          1. Ngài đã khẳng định vậy.
 
          Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng :”Và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Lòng tin của Hội thánh đã được xây dựng trên lời Chúa :”Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái”(Mt 25,31).
 
          Ngai uy linh có nghĩa là ngai vinh quang, người Do thái quan niệm ngai vinh quang chỉ dành cho Thiên Chúa, các ngai khác dành cho các tông đồ (Mt 19,28). Khi nói Chúa ngự lên ngai uy linh là một cách mạc khải Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
 
          2. Ngài phán xét như thế nào ?
 
          a)  Dựa trên tình thương.
 
          Sự phán xét của Ngài không tùy thuộc vào kiến thức của chúng ta có, sự may mắn hay tiếng tăm của chúng ta đạt được, nhưng tùy theo vào sự giúp đỡ mà chúng ta đã làm cho người khác.  Cha Mark Link nói :”Khi Chúa đến, Ngài không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Ngài sẽ cân đo trái tim của chúng ta yêu thương ra sao”.
 
          Những điều Chúa nêu ra là cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp đón khách lạ, an ủi người bệnh, thăm viếng kẻ bị tù... Đó là những việc mà ai cũng có thể làm, đó là những sự giúp đỡ đơn giản cho mọi người cần đến  mà chúng ta vẫn gặp hằng ngày. Không có ví dụ nào mở ra con đường đi tới vinh quang cho những người tầm thường nhất bằng ví dụ này.
 
          Người Á đông chúng ta tuy không biết Thiên Chúa, nhưng có một quan niệm rất chính xác và cao sâu về Ông Trời : Ông Trời là chủ tể của mọi loài, không ai sống ngoài tầm kiểm soát của Ông Trời, sống theo ý Trời thì có phúc, làm ngược ý Trời thì bị phạt.  Hai câu phản ảnh rõ nhất  quan niệm trên là “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” : Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt được.  Và còn một câu khác nữa cũng nói lên quan niệm ấy :”Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong : Người sống theo Trời thì còn, người nghịch với Trời thì mất.
 
          Dù là dân đen hay vua chúa, dù nghèo hay giầu, dù trẻ hay già... cuối cùng rồi thì ai cũng chết và trình diện trước mặt Chúa, Vua Trời.  Khi đó Vua Trời sẽ xét xử cuộc sống mỗi người dựa trên Luật Yêu thương.  Người nào sống yêu thương là “thuận thiên” và sẽõ được “tồn” trong hạnh phúc vĩnh hằng.  Kẻ sống mà không yêu thương là kẻ “nghịch thiên” và sẽ “vong” vĩnh viễn trong cõi trầm luâm.  (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 564)
 
          b)  Giúp đỡ không tính toán.
 
          Tất cả những người giúp đỡ không nghĩ rằng họ đã giúp đỡ Chúa Giêsu và tích trữ công đức đời đời cho mình. Họ giúp vì không thể không giúp, đó là bản chất tự nhiên không tính toán, phát xuất từ lòng yêu thương thật.  Trái lại những người không muốn giúp đỡ người khác thường tỏ ra :”Nếu chúng tôi biết là anh thì chúng tôi đã sẵn lòng giúp”.  Cũng có những người ra tay giúp đỡ nếu họ được người ta khen ngợi, cám ơn và công bố ra cho nhiều người biết, như thế không phải là họ giúp đỡ ai mà chỉ để chiều theo lòng tự ái tự tôn của họ.  Giúp đỡ như vậy không phải là rộng lượng nhưng là ích kỷ trá hình.  Sự giúp đỡ đẹp lòng Chúa phải là sự giúp đỡ không vì mục đích nào  ngoài sự giúp đỡ cả.
 
Truyện : thánh Martinô thành Tours.
 
          Ông là một quân nhân La mã và một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí , Martinô không có tiền, nhưng ông thấy người hành khất xanh xao và run rẩy vì lạnh, Martinô đã cho những gì ông có : ông cởi chiếc áo nhà binh đã sờn rách và xé một nửa cho người hành khất.  Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ đang bao quanh Chúa Giêsu và Ngài đang mặc nửa chiếc áo lạnh nhà binh của ông.  Một thiên sứ hỏi Ngài :”Tại sao Ngài mặc chiếc áo sờn rách đó ? Ai đã cho Ngài áo đó”? Chúa Giêsu trả lời :”Martinô, tôi tớ của Ta đã cho Ta”.
 
 
 
          c)  Cho đi thì sẽ được.
 
          Tất cả những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho Chúa mà những gì chúng ta làm cho Chúa thì không thể mất được. Những gì chúng ta làm cho tha nhân, dù nhỏ mọn như một chén nước lã thì cũng có phúc trước mặt Chúa. Trái lại, những gì chúng ta không làm cho tha nhân tức là không làm cho Chúa, mà đã không làm cho Chúa là một điều có lỗi. Do đó, Chúa sẽ xét xử chúng ta theo nguyên tắc :”Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng” : có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt.  Được thưởng hay bị phạt là do chúng ta định đoạt lấy, không ai có thể làm thay cho chúng ta được..
 
Truyện : cho đi thì sẽ được.
 
          Một ngày mùa đông lạnh giá, Lady Grey, một phụ nữ qúi tộc người Anh, rất giầu có, đã cải trang làm một người hành khất đi ăn xin từng nhà trong thành phố Luân đôn.  Đến một số nhà, bà bị xua đuổi một cách tàn nhẫn. Một vài nơi khác, bà chỉ được bố thí cho những thứ thừa thãi vất đi. Điều lạ là tất cả những người ấy là những gia đình giầu có. Thế rồi bà tìm đến một căn nhà lụp xụp nghèo nàn. Tại một túp lều xiêu vẹo, bà được một ông lão tàn tật ân cần mời vào sưởi ấm bên bếp lửa và cùng chia nhau một khúc bánh mì đen.
 
          Hôm sau chính người nữ qúi tộc ấy sai các gia nhân đến tận nhà mời những người mà bà đã đến ăn xin tối hôm trước tới dự một bữa tiệc tại dinh thự của bà. Tất cả khách được hướng dẫn vào một phòng chiêu đãi sang trọng và mỗi người được đặt chỗ ngồi riêng dọn sẵn. Bấy giờ ai nấy thấy trước mặt mình là những món ăn y như những thứ mà họ đã đem bố thí  cho “bà ăn mày” : chỗ thì củ khoai thối, chỗ thì miếng bánh mốc không ăn được, có nơi là một cốc nước lã bẩn thỉu, lại có nơi chỉ là chiếc đĩa trống không.  Duy chỉ có chiếc đĩa trước mặt ông lão tàn tật đầy ắp những món ăn ngon lành sang trọng.  Mọi người chưa hết ngạc nhiên thì bà qúi tộc xuất hiện và tuyên bố :”Hôm qua tôi đích thân đi ăn xin từng nhà để hiểu biết hơn về lòng nhân ái của qúi vị.  Hôm nay tôi chỉ đáp lễ  bằng cách dọn ra  mời qúi vị những thứ mà qúi vị đã cho tôi. Tôi tin rằng qúi vị cũng sẽ được tiếp đãi như vậy trong bữa tiệc mai sau truớc mặt Thiên Chúa là Đấng bây giờ đang đứng trước nhà qúi vị để trông chờ tấm lòng nhân ái của qúi vị”.
                             (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 139)
 
          Nghe xong câu truyện trên đây, nhất là qua bài Tin mừng của Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta thấy cả hai đều qui về một mục đích là nêu cao và làm sáng tỏ một vấn đề hết sức hệ trọng trong đời sống đạo đức : đó là yêu thương giúp đỡõ tha nhân, đặc biệt với những kẻ hẩm hiu cùng khốn là yêu thương chính Chúa và Chúa chỉ căn cứ vào đó mà đối đãi lại với chúng ta.
 
          Nếu Thiên Chúa là Tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo của Ngài hẳn phải là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài.
 
 Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết :”Ta  bảo thật, những gì các ngươi làm cho một trong những người bé nhỏ của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nhập thể nơi mỗi người Kitô hữu hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người.
                             Laudetur Christus Rex in saecula saeculorum.
Lm Giuse Đinh lập Liễm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn