1
16:51 +07 Thứ bảy, 27/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 172


Hôm nayHôm nay : 22191

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 326313

Tổng cộngTổng cộng : 27880597

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Chúa Nhật Mùa Vọng và Giáng Sinh

Thứ sáu - 30/11/2018 17:00-Đã xem: 1045
Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì các con sắp được cứu rỗi.” Xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta luôn ý thức và tự hào về ơn gọi cùng sứ mạng của mình, không ngừng nỗ lực trở nên chứng tá cho tình yêu và sự hiện diện của Chúa ở giữa thế gian.

CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

KITÔ HỮU ĐÍCH THỰC

+++

A. DẪN NHẬP
 
          Trước khi bước vào đời sống công khai đi rao giảng Tin mừng cứu độ, Chúa Giêsu đến xin ông Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình tại sông Giorđan. Ngài hòa nhập với dòng người đến nhận phép rửa, không phải để xin ơn tha tội vì Ngài là Đấng trong sạch vô cùng, nhưng Ngài nêu gương khiêm hạ cho mọi người; đồng thời thánh hóa nước để thanh tẩy trong phép Rửa tội mà Ngài sẽ thiết lập.
 
          Sau khi được kéo ra khỏi nước và đang khi cầu nguyện, Chúa Giêsu thấy” trời mở ra và Thánh Thần hiện hình giống như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán rằng :”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”(Lc 3,21-22). Đấy là lời Chúa Cha tuyên phong Đức Giêsu là  Đấng Messia để ra đi rao giảng Tin mừng cứu độ.
 
          Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Rửa tội để tha tội cho chúng ta. Mọi người đã được chịu phép Rửa tội đều được gọi là Kitô hữu, một danh hiệu vô cùng cao quí. Vì thế, mỗi Kitô hữu phải sống cho xứng với  hồng ân được mang danh Chúa Kitô, được sát nhập vào Chúa Kitô. Mọi người phải lo chu toàn sứ vụ của mình đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo hội và đối với mọi người, để đời sống của chúng ta phải được ca ngợi là chứng nhân trung thành của Chúa, có một đời sống “nội thánh ngoại vương”.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          + Bài đọc 1 : Is 42,1-4.6-7.
 
          Khi ấy dân Do thái bị thử thách nặng nề, phải đi đầy ở Babylon. Để khích lệ họ,ïtiên tri Isaia loan báo : họ vinh dự được Thiên Chúa chọn làm đầy tớ lý tưởng của Ngài, có trách nhiệm giới thiệu Thiên Chúa cho dân ngoại.
 
          Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách đệ nhị Isaia. Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là   Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại, Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, “không lớn tiếng”, “không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét”.
 
          Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu.  Chính Đức Giêsu sẽ đảm nhận vai trò Người Tôi Tớ. Vai trò này, Ngài sẽ hoàn thành khi biến tôn giáo của đức tin thành một sự ưng thuận thắm tình con thảo mà mọi người đều có thể nói lên, dù người ấy thuộc bất cứ nền văn hoá hay quốc gia nào. Theo gương Đức Kitô, các Kitô hữu cũng phải thực hiện nhiệm vụ trên.
 
          + Bài đọc 2 : Cv 10,34-38.
 
          Đây là phần đầu bài giảng của thánh Phêrô ở Cêsarêa cho ông Corneliô, viên sĩ quan Rôma và gia đình của ông để giúp họ hoán cải và chịu phép rửa. Đây là một việc làm có tính cách cách mạng vì từ trước đến nay các tông đồ chưa nghĩ đến việc cho người ngoại gia nhập Giáo hội.
 
          Trong bài nói chuyện với người Do thái, Phêrô cho biết sở dĩ Ngài dám làm như vậy vì “Thiên Chúa không thiên tư tây vị ai, hễ ai thực hành sự công chính, đều được Ngài đón nhận”. Chính Đức Giêsu Nazareth đã được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng xức dầu tấn phong Ngài  và Ngài đã đi khắp nơi để ban phát ơn lành.
 
          + Bài Tin mừng : Lc 3,15-16.21-22.
 
          Cả 3 bài Tin mừng của lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa có rất nhiều điểm giống nhau. Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành 2 phần :
 
          * Phần một : Ông Gioan thanh minh là mình không phải là Đấng Kitô như người ta tưởng. Có Đấng sẽ đến sau ông và cao trọng hơn ông. Hiện nay ông chỉ rửa họ bằng nước, còn Đấng đến sau sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
 
          * Phần hai : Đức Giêsu nhận phép rửa của ông Gioan và trong nghi lễ này Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu thế. Đó chính là ý nghĩa việc Thánh Thần hiện xuống,”các tầng trời mở ra”, cách diễn tả lấy lại của Isaia 63,11-14.19 khi công bố tấn phong một vị giải phóng mới. Có tiếng nói từ trời vang trên Đức Giêsu, tiếng nói ấy cũng thuộc về nghi thức phong vương một vị vua mới :”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
                                                Kitô hữu đích thực
I. CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
 
1.    Phép rửa tại sông Giorđan
 
          Chúng ta đang ở bên bờ sông Giorđan, nơi Gioan Tẩy giả rao giảng, kêu gọi mọi người sám hối, nhận phép rửa để được ơn tha thứ. Thế nhưng, chúng ta thấy rằng điều quan trọng không phải chỉ nhằm ở việc ông Gioan rao giảng, mọi người tuốn đến lãnh nhận phép rửa,… mà đó còn xẩy ra một sự kiện hết sức trọng đại : Chúa Giêsu cùng với bao nhiêu người khác đi vào dòng sông Giorđan để lãnh nhận phép rửa từ tay ông Gioan.
 
          Sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa không chỉ là bước khởi đầu cho sứ vụ rao giảng Tin mừng mà Chúa sẽ thực hiện sau này; biến cố chịu phép rửa cũng không chỉ là việc Chúa Giêsu được Gioan Tẩy giả giới thiệu mà đó còn là một sự kiện xuất phát từ chính Thiên Chúa được minh chứng bằng những việc lạ lùng như việc trời mở ra và việc Thánh Thần dưới hình chim bồ câu ngự trên Người cùng với lời tuyên phong của Chúa Cha.
          Đời sống công khai của Chúa Giêsu bắt đầu bằng việc Người chịu phép rửa (Lc 3,21). Mặc dầu phép rửa mà Chúa lãnh nhận không phải là bí tích rửa tội, nghĩa là không để được tha tội vì Người không có tội, phép rửa đó cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Phép rửa đánh dấu cái sứ mệnh công khai của Người trong việc rao giảng và chữa lành.  Người chịu phép rửa để thánh hóa nước để trở thành chất thể trong bí tích rửa tội do Người thiết lập.
 
2.    Chúa Giêsu được tấn phong
 
          Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi lên ý tưởng một cuộc lễ phong vương.  Ngày xưa khi một vị hoàng vương được tôn lên làm vua thì họ phải trải qua một cuộc phong vương gồm ba sự việc :
                             - Phải tắm rửa sạch sẽ.
                             - Phải được xức dầu.
                             - Phải được tôn phong làm vua.
 
          Hôm nay khi sắp ra giảng đạo để thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Chúa Giêsu cũng được tấn phong làm vua qua ba nghi lễ như sau :
 
          + Trước tiên Người chịu phép rửa của Gioan dưới sống Giorđan như một dấu ăn năn sám hối, mặc dầu Người là con chiên trong sạch.
 
          + Sau đó, “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người”(Cv 10,38b; Is 61,1), để trở nên Đấng Thiên Sai :”Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”(Cv 10,38c).
 
          + Cuối cùng, Người đã được Chúa Cha công nhận là Vua Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, như Tin mừng Luca viết:”Khi Người cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng :”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”(Lc 3,22).
 
3.    Dấu chỉ Bí tích Rửa tội.
 
          Câu hỏi tại sao Chúa Giêsu lại chịu phép rửa ? Các thánh sử đưa ra nhiều khía cạnh như Matthêu (3,14-15), Luca (3,21) hay Gioan (1,31-34). Các thánh giáo phụ còn đưa ra nhiều lý do khác, ví dụ  Chúa chạm đến nước để thánh hóa nước  và làm cho nước được thần lực tẩy xóa tội lỗi trong Bí tích Rửa tội…
 
          Chúa Giêsu xin đến rửa, không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Người chịu phép rửa là có ý nói lên : từ nay, Người chung số phận với người tội lỗi và đó là tất cả ý nghĩa đời Người, và cuộc đời này chỉ hoàn tất với Phép Rửa cuối cùng, của sự chết (Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi, con người bị sa ngã và là số phận bi đát nhất, tệ hại nhất.
 
          Chúa Giêsu đến với ông Gioan để lãnh nhận phép rửa, nhưng chính ông Gioan đã khẳng định ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Chúa Giêsu là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.  Chúa Giêsu đã khai mở bí tích Rửa tội cho những kẻ theo Người bằng việc đích thân Người xin lãnh phép rửa từ Gioan. Chúa Giêsu muốn chúng ta có sự tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới, tiếp nối giữa lời rao giảng của vị tiên tri cuối cùng cao đẹp hơn tất cả các vị trước  với lời rao giảng của chính Người để thiết lập Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, lễ rửa này Người đã biến đổi để có thể thực sự khai mào cho Bí tích Rửa tội.
 
II. HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI.
 
          Khi Chúa Giêsu để cho Gioan dìm mình trong nước không phải là để thanh tẩy Người vì Người không vương tội lỗi, Người muốn nói lên một ý nghĩa khác, đó là loan báo cái chết và sự phục sinh của Người : dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại.
 
          Khi chúng ta nhận lãnh bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta  tham dự vào sự chết và sống lại của Người.  Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội.  Trong phép rửa tội chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, tội tổ tông và tội riêng.  Do đó, nó biến chúng ta thành “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), một nghĩa tử của Thiên Chúa (Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (2Pr 1,4), trở nên chi thể của Chúa Kitô (Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6,15).
 
          Đó chính là ơn siêu nhiên, “ơn thánh hóa”, “ơn sủng của sự công chính hóa” mang lại các nhân đức đối thần và luân lý, cùng các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Tóm lại, “toàn bộ cơ thể của sự sống siêu nhiên của người Kitô hữu bắt nguồn nơi bí tích Rửa tội (Giáo lý Công giáo, số 1266).
 
          Ngày được chịu phép rửa tội là một ngày trọng đại, ngày đáng ghi nhớ của chúng ta. Đức Giáo hoàng Piô XI đã nói với hàng ngàn thanh niên nhân ngày kỷ niệm rửa tội của Ngài :”Ngày chịu phép rửa tội  là ngày cao quí nhất của đời Cha. Cũng như ngày các con chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời các con”.
 
          Chúng ta đã được chịu  phép rửa tội, một hồng ân cao quí Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng nên có một vài cảm nghĩ về phép Rửa tội.
 
          Phép rửa không chỉ được ban một lần khi chúng ta được mang đến giếng Rửa tội trong nhà thờ.
          Chúng ta được rửa bởi tất cả các biến cố xẩy ra trong đời :
          - Chúng ta được rửa bởi những cực nhọc, khó khăn : đó là những dòng nước biến động thanh luyện chúng ta  khỏi những gì gian trá và vô dụng.
          - Chúng ta được rửa bởi những đau khổ, buồn rầu : đó là những dòng nước u ám nhưng chỉ có khả năng giúp ta lớn lên trong đức khiêm tốn và cảm thông.
          - Chúng ta được rửa bởi niềm vui : đó là dòng nước róc rách khiến ta cảm nghiệm được vị ngọt của cuộc đời.
          - Chúng ta được rửa bởi tình yêu : đó là dòng nước ấm áp làm cho đời ta tươi nở như hoa  dưới ánh nắng mặt trời.
          Phép rửa là một hạt giống, cần phải nảy mầm trong suốt cả đời sống.
             (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm C, tr 119)
 
III. KITÔ HỮU, NGƯỜI LÀ AI ?
 
          Tất cả những người chịu phép rửa tội đều được gọi là Kitô hữu, một danh hiệu cao quí mà chính thánh Phaolô đã gọi  lần đầu tiên ở Antiochia :”Barnabê và Saulê đến thành Antiochia. Hai người gặp dân chúng trong nguyện đường và dạy dỗ nhiều người. Chính ở Antiochia lần đầu tiên, những tín hữu được gọi là Kitô hữu”(Cv 11,26)
 
          Nhờ phép rửa tội, chúng ta được mang tước hiệu là Kitô hữu. Kitô hữu là người có Đức Kitô, được mang danh Chúa Kitô. Kitô hữu là một Kitô khác (Alter Christus). Mỗi Kitô hữu là một nối dài của chính Đức Kitô. Đó là tước hiệu cao cả của chúng ta. Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những  dịp lễ lạc, hội hè mà phải luôn chiếu tỏa từng giây phút của cuộc sống.
 
Truyện : Kitô là gì ?
 
          Sau đệ nhị thế chiến, tại một vùng mỏ than bên Anh, người ta hỏi tụi con nít :
          - Kitô là gì ?
          Chúng trả lời :
          - Là một tiếng chửi thề.
          Điều tra ra mới biết người lớn ở vùng này dùng từ Kitô để chửi thề.
 
          Ở Việt nam, trước giải phóng, có một hãng bột giặt lấy tên Kitô mà đặt cho một loại sản phẩm của họ, cũng như một hãng mì ăn liền lấy tên Phật Tổ để đặt tên cho  mì chay họ sản xuất
 
          Vậy mà người Công giáo lẫn Phật giáo chẳng  thấy ai phản đối. Trong khi đó, ở Pháp, hồi cuối thập niên 50, hãng phô-mai sản xuất loại “con bò cười”,  trước tiên gọi nó là “con bò cầu nguyện” (La vache qui prie), đã bị các Kitô hữu kiện, vì đã nhạo báng tôn giáo.
                   (Thiện Cẩm, Trái chín đầu mùa, tr 13)
 
          Kitô hữu phải là người mặc lấy Chúa Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài như thánh Phaolô đã khuyên nhủ tín hữu Rôma :”Anh em hãy mặc lấy Chúa Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”(Rm 13,14). Mặc lấy Chúa Kitô  là trở nên chính Chúa Kitô để có thể nói :”Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”(Gl 2,20).
 
          Một người đàn bà quan sát người ta  phân phát quần áo cũ cho người lang thang ngoài đướng phố. Thình lình một ý tưởng đến với bà : Nếu mang áo quần của người khác, gầy dép của người khác, thì mình sẽ như thế nào ? Và từ đó bà khám phá ra ý nghĩa của Kitô giáo.  Kitô hữu là người mang giầy của người khác : giầy của Chúa Kitô. Họ đi đến nơi mà Chúa Giêsu muốn đến và làm những gì Ngài muốn thực hiện.  Và đó cũng là ý nghĩa của việc muốn trở thành Chúa Giêsu trong thế giới ngày nay.
 
          Khi mang giầy của Chúa Giêsu, tôi cảm thấy dễ chịu đến mức độ nào ? Và đôi giầy làm tôi khó chịu ở chỗ nào ? Mỗi đặc tính  đều có một động lực bên trong. Xin hãy để cho Chúa Kitô là động lực đó. Mỗi hành động đều có một ý nghĩa chính. Xin hãy để cho Đức Kitô là ý nghĩa chính đó (Henry Drummond).
 
          Định nghĩa trên nghe cũng hay hay. Dùng những từ như : việc mặc lấy, mang lấy giầy của Chúa Kitô, để diễn tả phần nào thực thể  người Kitô là ai, việc dùng từ như vậy, không diễn đạt hết thực thể của người Kitô. Người Kitô không phải chỉ là  là kẻ mang giầy của Chúa mà phải là chính Chúa Kitô, Ngài như thế nào, chúng ta phải như thể ấy.
 
          Khi nói về Kitô hữu, sử gia Tertullianô viết :
“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa.
 
          Câu :”Kẻ muốn theo Ta thì phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cũng như bị cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng hiện hình. Hèn gì mà trên tín trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường” .
 
IV. SỨ VỤ NGƯỜI KITÔ HỮU.
 
          Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa là ngày Ngài được tôn phong để đi rao giảng Tin mừng cứu độ. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng Thiên Sai, mà dân tộc Israel hàng ngàn năm mong đợi.
 
          Đức Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo. Mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi :”Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo hội và đối với những anh em không cùng tín ngưỡng” ?
 
          Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu phép rửa không thể không nhắc nhở chúng ta  nhớ đến sứ vụ của người Kitô hữu. Nhờ Bí tích Rửa tội chúng ta được nhận làm con Thiên Chúa, được hưởng gia tài vĩnh cửu của Thiên Chúa và nhất là cùng được sai đi  đến với mọi người.  Không việc làm gì cụ thể khác hơn là chúng ta học theo mẫu gương của Đức Giêsu và thực thi sứ mạng rao giảng Tin mừng, để nối tiếp công việc của Ngài.
 
          Là con cái Thiên Chúa quả là một hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Nhưng chúng ta phải làm gì để Chúa Cha được hài lòng ? Nếu Bí tích Rửa tội được cử hành cần đến nước thì cuộc sống người Kitô hữu cũng cần được gội rửa trong nước để trở nên thanh sạch và bắt đầu cuộc sống mới, trở nên con người  mới thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa. Muốn được như vậy mọi suy nghĩ, lời nói, và hành động của chúng ta  phải phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, hơn là ý riêng của mình, và hãy để cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt như Đức Giêsu.
 
Truyện : Nội ngoại đồng nhất.
 
          Có hai người bộ hành đi đường xa mệt nhọc, đêm đến phải vào ngủ trong một cái miếu nổi tiếng  là có ma quái. Một người là Kitô hữu tin tưởng vào sự che chở của Chúa nên không chút sợ hãi.  Trái lại, người bộ hành không phải Kitô hữu lại cảm thấy lo sợ, nên đã đề nghị với người bạn cho mình mượn Thánh giá đeo cổ.
          Quả thực, đêm đó yêu tinh xuất hiện, nó lần mò đến từng người, sờ vào cổ người Kitô để sát hại. Con yêu tinh mới thốt lên :”Người này có trong mà không có ngoài”, nghĩa là người này là Kitô đích thực, dù không đeo một dấu hiệu nào.
          Sang người bộ hành kia, con yêu tinh chạm đến Thánh giá trên cổ người ấy mà nói :”Người này có ngoài mà không có trong”, nghĩa là người này tuy mang Thánh giá, nhưng không phải là Kitô hữu đích thực.
 
          Chúng ta là những Kitô hữu. Chúng ta thi hành các bổn phận đạo đức, chúng ta mang trên mình nhiều hình ảnh của Chúa và Đức Mẹ, nhưng liệu tâm hồn chúng ta  có đích thực là tâm hồn Kitô hữu không ? Hay có lẽ chúng ta  chỉ có cái bên ngoài hào nhoáng của thời trang, mà bên trong lại trống rỗng  (Mỗi ngày một tin vui, tr 119).
 
          Chúng ta thường gọi vua Đavít là thánh vương. Người Á đông cũng gọi các vua đạo đức thánh thiện là “thánh vương” như vua Văn, vua Vu thời xưa. Người ta lấy câu nói của Vương Dương Minh làm châm ngôn cuộc sống của các vị ấy :”Nội thánh, ngoại vương”, bên trong là vị thánh, bên ngoài là một ông vua.
 
          Người Kitô hữu được tham dự vào chức tư tế vương giả của Đức Kitô, và cung cách vương giả của Đức Kitô chính là lòng quảng đại, biểu hiệu một tâm hồn luôn liên kết với Thiên Chúa Tình yêu.
 
          Ước gì mọi tư tưởng, mọi hành động của chúng ta đều là một thể hiện của niễm tin sâu xa của đời sống đạo đích thực, chân thành và không giả dối.

 

LỄ HIỂN LINH
THIÊN CHÚA TỎ MÌNH RA CHO NHÂN LOẠI
+++

 
A. DẪN NHẬP
 
          Lễ hôm nay là lễ “Hiển linh” mà ngày xưa gọi là Lễ Ba Vua. “Hiển linh” là biểu lộ thần tính. Điều mà Giáo hội kính nhớ và vui mừng cử hành là việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến và tỏ mình ra cho nhân loại.
 
          Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia tiên báo là ánh sáng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên Israel và các dân tộc sẽ hướng về ánh sáng ấy mà cất bước. Lời sấm ấy đã được ứng nghiệm, vì Con Thiên Chúa đã giáng thế, sinh ra tại Bêlem, các đạo sĩ đã đại diện cho các dân ngoại mà tìm đến và thờ lạy Ngài.
 
          Bài Tin mừng kể lại cho chúng ta sự kiện các đạo sĩ Đông phương tới Bêlem để tìm kiếm và thờ lạy Chúa Cứu thế. Thánh Matthêu nêu ra cho chúng ta những thái độ khác nhau của từng hạng người trước việc Chúa Cứu thế tỏ mình ra : kẻ chấp nhận, người từ chối. Việc Chứa Cứu thế tỏ mình ra cho các đạo sĩ nói lên lòng thương yêu đặc biệt của Thiên Chúa đối với dân ngoại.
 
          Chúng ta cũng là dân ngoại đã được Thiên Chúa tỏ mình ra, nhưng vẫn còn phải tiếp tục tìm gặp Ngài qua Thánh Kinh, qua Giáo hội và qua các biến cố trong đời sống thường ngày. Để đáp lại tình thương ấy, chúng ta phải cố gắng trở thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời (bài đọc 2) để soi dẫn cho những ai chưa biết Chúa tìm đến gặp Ngài, qua cuộc sống tràn đầy tình thương và phục vụ của chúng ta trong thế giới hôm nay.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Is 60,1-6.
 
          Mặc dầu phải sống cơ cực trong cảnh lưu đầy, bị kẻ thù áp bức, tương lai đen tối mù mịt, niềm hy vọng được giải thoát đã mờ nhạt dần, tiên tri Isaia lại có một giấc mộng rất lạc quan, theo đó, dân Chúa sẽ được trở về quê hương trong tiếng ca vui, mọi người nô nức góp sức trùng tu lại đền thờ Giêrusalem. Lúc đó đền thờ lại được rạng rỡ, sẽ trở thành ánh sáng thu hút muôn dân vì được ánh hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên đó, và mọi người sẽ qui tụ về thành ánh sáng ấy cùng với vàng bạc, đá quí, đồng thời loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa.
 
          Trong thực tế, dân Chúa đã được giải thoát, trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ, nhưng giấc mơ của tiên tri Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn trong Đức Giêsu, là ánh sáng của trần gian. Giấc mơ của tiên tri Isaia còn hướng về thời cánh chung, khi mọi sự được hoàn tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền có lý khi mượn lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Giêrusalem trên trời (x. Kh 21,9-27).
 
          + Bài đọc 2 : Ep 3,2-3a.5-6.
 
          Dân Do thái luôn hãnh diện là dân riêng của Thiên Chúa, dân riêng của Lời hứa. Họ tin rằng ơn cứu thoát chỉ được dành riêng cho họ, còn dân ngoại thì bị đẩy ra ngoài. Nhưng thánh Phaolô, cũng là người Do thái, không nghĩ nghư vậy ! Theo ngài, Thiên Chúa đã mạc khải cho ngài biết : Ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ mọi người, không dành riêng cho ai. Ngày nay Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải cho các thánh Tông đồ và các tiên tri mầu nhiệm Đức Kitô, đó là : trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ lời Thiên Chúa hứa.
 
          + Bài Tin mừng : Mt 2,1-12.
 
          Các đạo sĩ Đông phương, là những nhà chiêm tinh, thấy một ngôi sao lạ xuất hiện và với sự soi sáng của ơn trên, các vị biết có Đấng Cứu thế đã ra đời, và các vị đã lên đường triều bái Chúa Hài nhi.
         
          Có người cho rằng đây không phải là ngôi sao lạ mà chỉ là ngôi sao chổi tình cờ xuất hiện và có sự trùng hợp thôi. Nhưng nếu không lạ thì làm sao, trước khi Giáng sinh, tiên tri Mikea đã viết trong Cựu ước :”Hỡi Belem Eprata, ngươi nhỏ nhất trong Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng cai trị trong Israel”(Mk 5,1). Các thầy tư tế được vua Hêrôđê triệu tập đến  sau khi các đạo sĩ tới, cũng xác nhận như thế (Mt 2,4-6) mà các đạo sĩ đã thấy NGÔI SAO của Chúa bên phương Đông, nên đến thờ lậy (Mt 2,2).
 
          Nếu tiên tri Mikea không được Thiên Chúa mạc khải làm sao ông ấy biết và nói trước đúng thời gian và địa điểm ? Nếu đó chỉ là “ngôi sao chổi” tự nhiên, thì tại sao nó lại hướng dẫn được các đạo sĩ từ phương Đông xa xăm đến tận nước Do thái. Tại sao khi nó hướng dẫn các đạo sĩ đến Giêrusalem thì nó lại “biến” mất ? Tại sao nó lại tái xuất hiện và “đi trước mặt cho đến ngay chỗ con trẻ sinh ra mới dừng lại” ? Nếu là sự trùng hợp thì tại sao sự trùng hợp ấy lại được các đạo sĩ phương Đông biết trước mà đi tìm Chúa Cứu thế ? Vì vậy, phải gọi là “Aùnh sao Belem”.
 
          Vì thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức Do thái ở Giêrusalem tuy thông thạo Thánh kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
                                                Lễ của ánh sáng và quà tặng
I. HIỂN LINH VÀ NGÔI SAO LẠ.
 
          1. Ý nghĩa ngôi sao lạ.
 
          Theo quan niệm của người Đông phương. Sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ đến một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn chiêm tinh học với các khoa tử vi.
          Hôm nay Giáo hội kể lại biến cố ba nhà thông thái đến triều bái Chúa Hài nhi . Magi có nghĩa là những nhà khoa học kinh nghiệm (Nature Scientist), họ là những chiêm tinh gia và những nhà thiên văn. Họ đến từ phương Đông, dĩ nhiên họ không phải là người Do thái. Và chỉ hỏi có hai câu : Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người.
 
          Có nhiều người cho rằng có lẽ các khoa học gia này đã nhìn thấy sao chổi và đi theo. Nhưng năm 1603, nhà toán kiêm thiên văn Johannes Képler giải thích theo tài liệu cho thấy vào năm Chúa Giáng sinh có một hiện tượng bất bình thường xẩy ra giữa các vì sao. Ôâng nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng : bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng quay sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
 
          Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ dẫn đường cho các đạo sĩ tìm ra Chúa Hài nhi ? Nhưng điểm muốn nhấn mạnh ở đây, là tại sao các nhà thông thái biết chắc chắn là vua Do thái đã sinh ra. (Chúng ta biết rằng các nhà khoa học không bao giờ hấp tấp kết luận một cách hồ đồ). Phải chăng các ngài đã được Thiên Chúa mạc khải ? Đúng thế ! Ngôi sao trên bầu trời Belem đã dẫn các đạo sĩ Đông phương trải qua một cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông đến nơi Con Trẻ mà các ông muốn tìm kiếm.  Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mạc khải cho. Cũng chính ngôi sao  đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là Vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
 
          2. Ý nghĩa ngày lễ.
 
          Như vậy, lễ Hiển linh là một ngày lễ cách mạng. Đức Kitô được mạc khải như là Đấng Cứu độ, không phải là của một nhóm người được chọn, nhưng của tất cả mọi dân tộc. Đức Giêsu đã bẻ gẫy rào cản lớn tồn tại giữa dân Do thái và dân ngoại. Trên thực tế, sứ điệp của Đức Giêsu, người Anh Cả của toàn thể vũ trụ, đã vượt qua tất cả những rào cản của bộ tộc, họ hàng. Lễ Hiển linh là một ngày lễ đẹp, bởi vì ngày lễ này đưa mọi người lại với nhau.”Bấy giờ, tất cả mọi người đều được chia sẻ cũng một quyền thừa kế, họ trở nên một phần của cùng một thân thể”.
 
II. HIỂN LINH VÀ ÁNH SÁNG.
 
          1. Đức Giêsu và ánh sáng.
 
          Trong bài khởi đầu sách Tin mừng thứ tư, thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là ánh sáng:”Ở nơi Người vẫn có sự sống và sự sống là sự sáng của nhân loại, sự sáng chiếu soi trong u tối và u tối đã không tiếp nhận sự sáng”(Ga 1,4). Và sau này chính Đức Giêsu cũng xác định điều đó. Cho nên, cần phải có sự hiện diện của Chúa ở trần gian  để trần gian biết đường đi và khỏi bị vấp ngã.
 
          Trong ấn bản trên mạng của tuần báo Newsweek vào ngày 5 tháng 12 năm 2004, sau một cuộc thăm dò các độc giả về niềm tin vào Chúa Giêsu. Khi được hỏi là liệu thế giới ngày nay sẽ trở nên tốt lành hay xấu xa hơn nếu như không hề có Chúa Giêsu, thì
- 61% trả lời rằng : thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa Giêsu.
          - 47% nói rằng :  sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không tồn tại nơi thế giới này. (16 % thì nói ngược lại, và 26% thì cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu).
          - 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn, và 58% thì cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu. 59% thì cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi và 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Chúa Giêsu.
                             (Báo Công giáo và dân tộc, số 1487-1488, tr 53).
 
          2. Chúng ta và ánh sáng thế gian.
 
          Những người theo Chúa thì được Chúa soi sáng, cho nên cũng phải là ánh sáng mặc dù chỉ là ánh sáng phản chiếu:”Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt 5,14) Và nếu đã là ánh sáng thì phải tỏa ra như Chúa dạy:”Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,1516).
 
          Aùnh sáng của ngọn đèn chúng ta chỉ leo lét, yếu ớt, nhưng cũng làm nên một đốm sáng trong đêm tối và nếu như đốm sáng chiếu soi thì có thể làm cho bầu trời tối tăm trở nên sáng rực. Cuộc sống gương mẫu của chúng ta chỉ rất nhỏ, rất mờ nhạt trong cộng đoàn, nhưng nó cũng làm cho cộng đoàn trở nên chứng tá lớn cho xã hội chưa nhận biết Chúa.
 
Truyện : Ánh sáng ở vận động trường.
 
          Một bữa nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước 100.000 người tại sân vận động Los Angeles bên Hoa kỳ. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và  ønói:”Bây giờ xin các bạn đừng sợ ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
          Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dầy đặc. Ôâng John Keller nói tiếp:”Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên : Đã thấy”. Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên : “Đã thấy”.
          Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích :”Aùnh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tối tăm của nhân loại y như vậy”.
          Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh :”Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.
          Ông Keller kết luận:”Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”(Lẽ sống, 143)
 
          Các đạo sĩ phương Đông đã nhờ ngôi sao lạ của “Vua dân Do thái sinh ra” tức Hài Nhi Giêsu, mà đến được Be lem và gặp được Hài nhi Giêsu cùng Mẹ Người là Bà Maria. Cũng thế, 86 triệu người Việât nam nói riêng và hàng trăm triệu người châu Á nói chung sẽ chỉ nhận ra Đức Giêsu là Cứu Chúa nếu mỗi người công giáo Việt nam là một SAO dẫn đường chỉ lối cho họ.
 
          Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta  là con người thời nay trông chờ (và tin tưởng) các chứng  nhân hơn là các thầy dạy, vì có nhiều thầy dạy lại dạy một đàng mà sống một nẻo, thậm chí sống ngược lại những điều họ giảng dạy, chẳng khác gì các Biệt phái và Pharisêu thời Chúa Giêsu. Trong cụ thể, chỉ khi người Kitô hữu sống tinh thần Bát phúc, sống yêu thương, trách nhiệm, công bình, thanh liêm, hy sinh, phục vụ tha nhân và ích chung thì mới thành SAO trên bầu trời và trong cộng đồng con người được.
 
          3. Mỗi người là một ánh sao.
 
          Thánh Gioan tông đồ nói:”Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Aùnh sáng chiếu soi trong bóng tối nhưng bóng tối không chấp nhận ánh sáng”(Ga 1,4-5). Nếu thế gian không chấp nhận Chúa Giêsu là ánh sáng thì thế gian vẫn ở trong bóng tối. Chúng ta phải làm sao cho thế gian nhận được Chúa Giêsu thì chúng ta phải soi sáng cho họ. Vì thế, trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô tông đồ đã khuyên:”Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).
 
          Tại sao chúng ta, các Kitô hữu là những ngôi sao ? Thánh Phaolô tông đồ giải thích:”Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác hơn, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,8). Cho nên cách sống yêu thương của chúng ta  làm cho người khác nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời đêm tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy (Carolô).
 
          Trong đời sống xã hội hôm nay có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực, ví dụ ngôi sao nhạc rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá, thôi thì loạn cào cào với các vì sao ! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao” !
 
          Trong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng, chỉ làm theo nhiệm vụ của mình. Thời nay, chân phước Têrêsa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la cũng là vì sao chiếu sáng trên vòm trời thế kỷ 20.
 
          Là Kitô hữu, chúng ta phải là những vì sao lấp lánh trên vòm trời. Chúng ta có thể trở thành SAO MAI được chăng ? Sao mai chính là Kim tinh ở cách xa mặt trời 108 triệu cây số. Kim tinh tương đối gần mặt trời (nó xoay quanh mặt trời trong vòng 224,7 ngày) vì thế nó sáng hơn. Ta thấy nó mọc trước khi mặt trời mọc và lặn sau khi mặt trời lặn. Người xưa đã có thời lầm, cho đó là hai ngôi sao khác biệt : sao mai và sao hôm.
 
          Aùnh sáng của SAO NAI (Kim tinh) thật là rực rỡ, làm cho người ta liên tưởng đến những gì đẹp đẽ mỹ miều nhất:”Đẹp như ánh sao mai”. Đó là câu chúng ta vẫn thường nói. Và đặc biệt, Kim tinh, Ngôi sao mai đã được dùng để chỉ Đức trinh nữ Maria : Stella matutina (Đức Bà như Ngôi Sao mai sáng vậy). Nhiều bài ca kính Đức Mẹ đã hoan hô Ngài bằng danh từ ấy : Bà là ai như hào quang Thiên Chúa, như mùa xuân không úa, như vì SAO MAI rạng, như chính cửa thiên đàng (Hoàng Diệp).
 
Sang thế kỷ 21 này, Thiên Chúa vẫn còn muốn Hiển linh, nghĩa là muốn tỏ mình ra cho nhân loại thế kỷ này. Chúa vẫn cần những ngôi sao lạ chiếu sáng trên vòm trời thế hệ này. Những ngôi sao ấy là chính chúng ta.
 
III. HIỂN LINH VÀ QUÀ TẶNG.
 
          Những nỗ lực của các đạo sĩ không bị từ chối. Thánh Matthêu cho biết sau khi rời khỏi Giêrusalem thì bấy giờ “ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại”. Và sau khi đã gặp thấy Hài Nhi và thân mẫu là Maria, “họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”(Mt 2,11).
 
          Các Giáo phụ thường giải thích các lễ vật dâng Chúa Hài nhi theo nghĩa tượng trưng : Vàng chỉ Hài nhi là Vua; nhũ hương chỉ thần tính, và mộc dược chỉ nhân tính. Có người lại giải thích ý nghĩa ba lễ vật đó như sau : Vàng ám chỉ đức tin, thể hiện qua thái độ phục bái suy tôn, nhũ hương ám chỉ đức cậy, thể hiện qua tâm tình cầu nguyện sốt sắng; mộc dược ám chỉ đức mến, thể hiện qua những hy sinh khiêm nhường phục vụ tha nhân.
 
Truyện : Món quà của Artaban.
 
          Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện, nhan đề The Other Wise Man (còn một nhà đạo sĩ khác nữa), kề về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị vua vừa sinh ra. Nhân vật này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban mang theo một túi đựng đá quí để dâng tặng Aáu Vương. Thế nhưng trên đường đến gặp ba vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ và thế là ông ta bỏ mất cơ hội theo kịp các vị kia. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục kiên trì dừng lại giúp đỡ những ai gặp khốn khó. Cuối cùng ông cho đi tất cả số đá quí của mình. Kết cuộc Artaban đã trở nên già nua và nghèo khổ. Và ông chẳng bao giờ thực hiện được giấc mơ gặp được vị vua các vua để đặt túi đá quí của ông dưới chân Ngài.
 
          Câu chuyện The Other Wise Man có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây quả là một câu chuyện đáng buồn vì nó kể chuyện một người chưa thực hiện được giấc mộng lớn của đời mình. Nhưng may thay, câu chuyện đã không kết thúc ở đây. Một ngày kia Artaban đang ở trong thành Giêrusalem, cả thành phố đầy xôn xao, náo nhiệt vì nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Khi Artaban nhìn thấy tội nhân, trái tim ông đập lên thình thịch. Linh tính cho ông biết đây chính là Vua các vì vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Nhìn cảnh tượng trước mắt , Artaban cảm thấy trái tim như tan vỡ ra, nhất là vì ông chẳng có thể làm được gì để giúp đỡ vị vua ấy. Thế nhưng thật kỳ diệu thay khi Artaban nghe tiếng vị vua ấy nói cùng ông:”Này Artaban, đừng buồn khổ nữa. Suốt đời ông đã từng giúp đỡ ta. Khi ta đói ông đã cho ta ăn, ta khát, ông đã cho ta uống, ta trần trụi ông đã mặc áo cho, ta là khách lạ, ông đã đón ta vào nhà” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 50-51).
 
          Như thế, lễ Hiển linh nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều có một món quà để dâng tặng cho vị Vua trên các Vua. Và câu chuyện “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” nhắc chúng ta nhớ rằng món quà của chúng ta còn quí giá hơn những món quà của các đạo sĩ, bởi vì món quà của chúng ta dâng không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần như vàng, nhũ hương và mộc dược, mà chính là món quà liên lỉ của tình yêu và tinh thần phục vụ tha nhân.  Nhiều người sẽ cho rằng chúng ta điên rồ khi tặng dâng những món quà này, nhưng chẳng qua là vì họ  không biết được màn cuối của câu chuyện khi mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với Artaban:”Hãy đến đây, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa, vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…(x. Mt 25,34-35).
 
          Lễ Hiển linh thách thức tâm hồn chúng ta cởi mở tâm hồn của mình ra. Khi biết cởi mở tâm hồn, là bắt đầu biết sống. Đức Giêsu không cần đến những quà tặng của chúng ta, nhưng người khác có thể cần đến. Người mong muốn chúng ta  chia sẻ chính bản thân chúng ta cho người khác. Và nếu nhờ được biết Đức Giêsu, mà chúng ta có khả năng mở kho tàng của tâm hồn mình ra, và chia sẻ cho người khác, thì chính chúng ta cũng sẽ cảm thấy mình được trở nên phong phú hơn.
 
IV. HIỂN LINH VÀ TÌM KIẾM.
 
          Đối với các nhà bác học Đông phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh thánh:”Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel”(Ds 24,17). Vì vậy, khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy “vì sao xuất hiện từ Giacóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình, cho thế giới u minh.
 
          Ba nhà bác học đã đến từ quốc gia xa xôi, để thần phục Hài nhi Giêsu trong khi các đại giáo trưởng, các luật sĩ Do thái (Mt 2,4) họ có không phải chỉ một ngôi sao đêm lấp lánh trên nền trời, mà họ có cả một thư viện, đầy sách vở. Họ có Thánh kinh mà họ mang trên ngực, chít trên đầu. Họ am hiểu các tiên tri về Chúa Cứu thế. Họ biết nhưng họ không thấy, hay không muốn thấy. Chúa sinh ra cách đó có 8 cây số, các thiên thần ca hát trên không trung, các mục đồng lao nhao rủ nhau đi thờ lạy. Nói chung, cả dân tộc Do thái và nhân loại không nhìn thấy ngôi sao và cũng không để tâm nghiên cứu tìm hiểu.
 
          Ngày nay cũng như cách nay hơn 2000 năm, mọi người phải cố gắng tìm ra Chúa. Phải cố gắng tìm gặp Chúa qua các biến cố của đời sống hôm nay. Hơn nữa, suốt đời sống đạo của chúng ta là một cuộc tìm kiếm Chúa không ngừng. Do đó, những ai tự mãn cho rằng mình đã gặp được Chúa qua cái nhãn hiệu công giáo bên ngoài, qua việc lãnh nhận các phép bí tích như một cái máy không hồn, qua việc học hỏi giáo lý sơ sài, để rồi không chịu khó nhờ vào các biến cố thực tế của đời sống để gặp Chúa, yêu Chúa qua anh em thì mãi mãi họ chẳng những không tìm thấy Ngài mà còn mất Ngài nữa.
 
          Chúng ta vừa là người tìm kiếm vừa là ánh sao soi cho người khác đi tìm kiếm Chúa. Cuộc đời của chúng ta  bên kẻ khác chỉ có nghĩa khi nào sự hiện diện của chúng ta  là một lời mời gọi, dẫn đưa người khác cùng với chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta chỉ sống trọn vẹn ý nghĩa đời con Chúa khi cuộc sống của chúng ta là một ánh sao dẫn lối cho anh chị em chúng ta đến với Chúa.
 
          Sách Tin mừng nói:”Ba nhà đạo sĩ sau khi thờ lạy Chúa, dâng lễ vật, họ nhận được mộâng báo đừng trở lại với Hêrođê, họ đi qua đường khác, trở về xứ sở mình”(Mt 2,12). Ba nhà đạo sĩ sau khi thờ lạy Chúa, đã được soi sáng, đã không trở về với Hêrôđê, tượng trưng cho dục vọng, tham ô, tội lỗi, mà đã qua đường khác, nghĩa là đã thay đổi nếp sống và trở về làm tông đồ. Làm chứng tá, rao giảng Tin mừng khắp nơi, không phải ở Đông phương mà ở cả Tây phương. Tục truyền rằng Ba vua đã qua giảng đạo tận Tây Đức và hiện nay có mộ ba vị ấy ở thành Cologne, trên bờ sông Rhin ở Tây Đức.
 
          Đó cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta cũng là dân ngoại, nhưng được Chúa hiển linh, được ngôi sao của Chúa hướng dẫn thì nay chúng ta cũng phải trở nên ngôi sao hướng dẫn kẻ khác đến với Chúa, bằng lời nói, bằng việc làm, và cả cuộc sống chúng ta.
 
          Trong công đồng Vatican II, có một vị Hồng y da đen Phi châu đã nói với các nghị phụ khi bàn đến lòng đạo đức sa sút ở các nước Tây phương rằng, một ngày nào đó, Chúa sẽ dùng chúng tôi để rao giảng Tin mừng lại cho các nước Tây phương. Đó không phải là sự kiêu hãnh, mà là một bổn phận sau khi đã được ơn hiển linh, như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2:”Nhờ Tin mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một bản thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô”(Ep 3,6) (Hồng Phúc).
 
          Người ta nói : có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt. Không, không có ai là ngôi sao xấu. Tất cả đều là ngôi sao tốt. Trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng, một vai trò nào đó. Vì thế, không ai được tự ti mặc cảm, chán nản thất vọng. Cũng không ai được tự tôn tự phụ, huênh hoang…Chúng ta hãy sống thực sự là một con người, hơn nữa, thực sự là một người con Chúa.
 
          Trong ngày lễ Hiển linh, chúng ta cảm đội ơn Chúa đã tỏ mình ra cho dân ngoại vì chúng ta một thời cũng là dân ngoại. Cái thái độ và mục đích của các đạo sĩ trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa khiến ta cần tìm hiểu và học hỏi. Họ chân thành tìm Chúa để thờ lạy Người chứ không giả hình như vua Hêrôđê. Hêrôđê khi nghe Đấng Cứu thế mới sinh thì bối rối sợ hãi vì sợ mất ngai vàng. Còn các nhà thông thái thì nhửng nhưng vì họ cậy họ có sẵn kho tàng Kinh thánh. Họ cho rằng nếu Chúa Cứu thế xuất hiện  thì tự nhiên họ phải biết chứ không cần đi tìm kiếm. Cái thái độ tự mãn đó làm họ mù quáng không nhận ra ngôi sao lạ để đi tìm Chúa.
 
          Ba Vua đã được hân hạnh đến triều bái Chúa Hài nhi, dâng lễ vật cho Ngài. Chúng ta cũng lưu ý rằng lúc Ba vua đang thờ lạy và dâng lễ vật thì có Mẹ Maria ở đó. Chắc Mẹ Maria đã nhận lấy những lễ vật ấy và nói vài lời cảm ơn các ông thay cho Chúa Giêsu. Chúng ta hãy dâng lên Mẹ những tâm tình của chúng ta trong ngày lễ hôm nay :
 
“Lạy Mẹ, cuộc đời của con cũng là cuộc hành trình đi tìm Chúa. Aùnh sáng Chúa vẫn luôn dẫn lối chỉ đường cho con. Đó chính là những lời của Chúa trong Thánh Kinh. Chúa đang dẫn con từng bước qua lời dạy của Giáo hội như một ánh sao đặc biệt. Các đạo sĩ đã nhận ra Chúa, vì họ đã nỗ lực tìm kiếm. Con cũng muốn noi gương các vị đạo sĩ, luôn quên mình bất chấp mọi khó khăn đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Con quyết tâm mỗi ngày nhận ra Chúa nơi anh em con, nhất là nơi những người nghèo khó bệnh tật. Đây không phải là chuyện dễ làm ! Xin Mẹ thương giúp con. Con sợ lòng kiêu căng và sự tự mãn làm con ra mù tối đến nỗi không gặp được Chúa như Hêrôđê và các luật sĩ xưa. Nhưng con chân thành chạy đến với Mẹ. Xin Mẹ thương giúp đỡ con”(Đan Vinh).
 

LỄ THÁNH GIA
MẪU GƯƠNG SÁNG NGỜI
+++

A. DẪN NHẬP
 
          Hằng năm, lễ Thánh gia được tổ chức vào Chúa nhật sau lễ Giáng sinh để nêu lên một tấm gương sáng chói cho các gia đình noi theo. Sách Tin mừng thuật lại rất ít sự kiện có liên quan đến lễ này. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp thấy những gương nhân đức của từng thành phần trong gia đình thánh gia như : các nhân đức âm thầm của Đức Maria, đức tin phó thác của thánh Giuse và sự vâng phục của Đức Giêsu.
 
          Đấy là những mẫu gương sán lạn, những bài học quí giá cho chúng ta. Nếu mỗi thành phần trong gia đình thực hành được những nhân đức ấy thì gia đình sẽ trở nên một cộng đoàn yêu thương, sống đùm bọc lẫn nhau, trong cảnh trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm.
 
          Ngày nay các gia đình trên thế giới nói chung, và gia đình Công giáo nói riêng, đang trên đã xuống dốc : ly dị lan tràn khắp nơi, gia đình tan vỡ ly tán, gây ra cho xã hội biết bao cảnh thương tâm. Nếu mỗi thành phần trong gia đình biết noi gương Thánh gia mà xây dựng gia đình, cố gắng trung thành thi hành nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo thì gia đình sẽ thành một cộng đoàn hạnh phúc, một “Giáo hội tại gia” đúng nghĩa.
 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
 
          +  Bài đọc 1 : Hc 3,3-7.14-17a.
 
          Sách Huấn ca hôm nay dạy con cái phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ không phải chỉ là một tình cảm tự nhiên mà còn là ý muốn của Thiên Chúa :”Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.  Việc thảo kính cha mẹ sẽ đem lại nhiều ơn ích :
          - Đền bù các tội lỗi đã phạm.
          - Khi cầu xin, sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
          - Nếu ai hiếu thảo với cha mẹ thì sau này sẽ dược con cháu thảo hiếu lại vì như người ta nói :” sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy”.
 
          +  Bài đọc 2 : Cl 3,12-21.
 
          Trong thư mục vụ gửi cho tín hữu Colossê và Eâphêsô, thánh Phaolô rất chú trọng đến đời sống gia đình. Theo đó, trong đời sống gia đình phải có những đức tính như : từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.
 
              Trong các đức tính ấy, thánh Phaolô đặc biệt chú trọng đến việc tha thứ. Ngài khuyên :”Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em hãy tha thứ cho nhau”. Nhưng muốn thực hiện được các đức tính trên, cần phải có một nhân đức nền tảng : đó là đức bác ái yêu thương.
          + Bài Tin mừng .
 
          Năm A : Mt 2,13-15.19-23.
 
          Thánh Matthêu làm nổi bật vai trò của thánh Giuse trong gia đình Nazareth, với tư cách là gia trưởng, Thiên Chúa hướng dẫn và điều khiển gia đình Thánh gia qua vai trò của thánh Giuse. Vì thế, thiên thần Chúa báo mộng cho thánh Giuse phải đem hài nhi Giêsu và mẹ Người trốn sang Ai cập vì vua Hêrôđê đang tìm giết con trẻ Giêsu. Khi vua Hêrôđê băng hà, thiên thần Chúa lại báo mộng cho Giuse phải đem con trẻ và Mẹ Người trở về quê hương. Giuse đã mau mắn đem gia đình trở về và định cư tại Nazareth. Trong mọi bước đường gian nay buổi ban đầu, thánh Giuse hoàn toàn theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, còn Đức Maria và Đức Giêsu hoàn toàn sống theo sự hướng dẫn của thánh Giuse. Do đó, đây là một gia đình trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm.
 
          Năm B :  Lc 2,22-40.
 
          Thánh Luca tường thuật cho chúng ta việc Đức Maria và thánh Giuse lên đền thờ dâng con trẻ Giêsu cho Thiên Chúa theo Lề Luật. Và trong dịp này có hai người là ông già Simêon và cụ bà Anna nói tiên tri về tương lai của con trẻ. Qua sự kiện này, chúng ta cần lưu ý đến mấy điểm :
          a) Thánh gia là những người giữ Luật rất chín chắn. Thi hành đầy đủ mọi luật : như luật thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con, luật cắt bì cho con trẻ, luật dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa, mặc dầu các Ngài không bị buộc phải giữ những luật này.
 
          b) Gia đình Thánh gia rất hiệp thông : lúc nào mọi thành phần trong gia đình cũng cùng chung nhau thi hành Luật. Lúc nào cũng có sự hiện diện của nhau.
 
          c) Cha mẹ rất kinh ngạc về tương lai của con trẻ Giêsu khi ông già Simêon và bà Anna  tiên báo vận mệnh vừa bi thương vừa vinh quang của con. Tuy Đức Maria và thánh Giuse chưa hiểu hết mầu nhiệm con mình, nhưng các Ngài vẫn sẵn sàng tuân theo sự  chỉ dẫn và sắp xếp của Thiên Chúa .
 
          Năm C : Lc 2,41-52.
 
          Theo lối giải thích của các thầy rabbi thì dường như luật buộc phải đi hành hương Giêrusalem mừng lễ Vượt qua hằng năm chỉ bắt đầu áp dụng lúc 13 tuổi và chỉ bắt buộc các nam nhân.  Lễ Vượt qua kéo dài 7 ngày, nhưng luật buộc chỉ phải dự 3 ngày đầu thôi. Tuy thế, Đức Maria và thánh Giuse tham dự cho đến cuối :”Khi lễ đã chấm dứt…”. Như vậy, Thánh gia đã giữ luật rất chín chắn hơn cả mức đòi hỏi của luật.
 
          Sau kỳ lễ chấm dứt, các Ngài ra về nhưng Đức Giêsu còn ở lại Giêrusalem. Sau ba ngày đi tìm Đức Giêsu thì cha mẹ Ngài mới tìm thấy Con và các ngài hết sức bỡ ngỡ khi thấy Con mình đàng ngồi đàm đạo với các tiến sĩ luật. Được hỏi lý do thì Đức Giêsu chỉ trả lời với cha mẹ :”Con có bổn phận ở nhà của Cha Con”.  Câu trả lời như thế khiến hai ông bà chưa hiểu hết ý nghĩa của nó.
 
          Dù là người con ngoan, vào lúc 12 tuổi, Đức Giêsu đã làm một cuộc “thoát ly gia đình” để ưu tiên sống cho một Đấng mà Ngài gọi là “Cha” bằng một giọng thân thương nhất. Qua thái độ và lời nói này, Đức Giêsu muốn chuẩn bị cho cha mẹ Ngài biết và chấp nhận rằng Ngài còn có bổn phận đối với Chúa Cha. Tuy thế, Ngài luôn là người con có hiếu với cha mẹ :”Sau đó, Ngài cùng cha mẹ trở về Nazareth và hằng vâng phục các Ngài”(Lc 2,52).
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
 
                                      Xây dựng gia đình hạnh phúc.
 
I. LÝ DO CỦA NGÀY LỄ THÁNH GIA.
 
          Phong trào “gia đình Công giáo” đã có từ thế kỷ 16, nhưng đến cuối thế kỷ 19, Đức Giáo hoàng Lêô XIII cổ vũ mạnh và đặt ra “Lễ Thánh Gia” nhằm thúc giục mọi người theo gương thánh gia thất mà sống trên thuận dưới hòa để tạo lập những gia đình hạnh phúc.
 
          Năm 1994 Liên hiệp quốc cũng như Giáo hội chọn làm năm quốc tế về gia đình. Gia đình đang gặp cơn khủng hoảng, đang trên đà xuống dốc một cách trầm trọng. Gia đình là nền tảng của xã hội, mà nền tảng hư hỏng thì xã hội cũng sụp đổ.
 
          Do đó, Giáo hội muốn cho ta tổ chức lễ kính Thánh gia là để đề cao vai trò của gia đình và đưa ra mật mẫu gương tuyệt vời cho mọi người bắt chước, hầu củng cố lại gia đình và giúp cho xã hội thêm vững chắc.
 
II. SỰ QUAN TRỌNG CỦA GIA ĐÌNH
 
          Chúng ta thấy mối liên hệ giữa gia đình và Hội thánh rất sâu sắc và nhiều đến nỗi có thể gọi gia đình công giáo là “Giáo hội tại gia” (Lumen gentium, số 11). Vì thế, công đồng Vatican II nói :”Sự lành mạnh của con người cũng như của xã hội tự nhiên và Kitô giáo liên kết chặt chẽ
với tình trạng tốt đẹp của cộng đoàn hôn nhân và gia đình” (MV số 47).
 
          Trong tông huấn về gia đình “Familiaris Consortio”, Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã khẳng định:”Gia đình là “trường học đầu tiên” dạy các đức tính xã hội mà không đoàn thể nào khác có thể vượt qua”(Gđ số 3).
 
III. PHÂN NHIỆM TRONG GIA ĐÌNH.
 
          1. Gia đình Thánh gia.
 
          Nhìn vào gia đình Thánh gia, theo bài Tin mừng hôm nay, ta thấy Đức Maria và Đức Giêsu không làm gì cả. Nói đúng ra, hai Đấng không làm gì khác ngoài việc làm theo sự chỉ đạo của thánh Giuse; còn thánh Giuse thì không làm gì khác ngoài việc làm theo sứ thần Thiên Chúa. Đúng như người ta nói :”Kim chỉ phải có đầu” (Tục ngữ).
 
          Có sự thuận ý từ trên xuống : Thiên Chúa điều khiển thánh Giuse, thánh Giuse lại điều khiển Đức Maria và Đức Giêsu mà không có điều gì trục trặc, các ngài đã thực hiện chữ “thuận” vì người ta thường nói :
                             “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” (Tục ngữ).
 
          Theo đó, các Ngài đã thuận vợ, thuận chồng và cả con cũng thuận nữa. Tất cả đều hài hòa để qui hướng về một mối là “Thuận Thiên”như người ta nói :”Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, nhờ đó, gia đình có thể vượt qua được mọi sự khó khăn chủ quan cũng như khách quan.
 
2. Gia đình chúng ta.
 
          Gia đìønh Thánh gia là một mô hình tuyệt vời trong sự phân công các thành viên trong gia đình cho có lớp lang thứ tự, hợp tình hợp lý để tạo nên sự hài hòa trong các thành phần.
 
          Trong việc giáo dục gia đình, Đức Khổng Tử đã đưa ra một công thức giáo dục rất hay, đó là : quân, thần, phụ, tử, nghĩa là vua phải sống cho ra vua, tôi phải sống ra tôi, cha phải sống xứng với vai trò của cha, và con phải sống theo bậc làm con;  bậc nào phải sống theo bậc ấy, đừng bao giờ đảo lộn. Trong gia đình có ba cấp thành viên : cha, mẹ và con cái. Chúng ta sẽ phân tích từng thành viên.
 
          a)  Người cha trong gia đình.
 
          Người ta nói : Kim chỉ phải có đầu”. Vậy ai nên làm chủ gia đình ? Đương nhiên là người cha và người mẹ là hai vai trò quan trọng nhất. Còn nếu so sánh người cha với người mẹ thì có lẽ vai trò người cha quan trọng hơn vì người cha đồng thời cũng là người chồng; và theo thánh Phaolô thì “Người chồng là đầu của người vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội thánh”(Ep 5,23). Tại sao vậy ? Vì người cha có khả năng tốt hơn, có cái nhìn bao quát hơn, cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội, có uy tín hơn để hướng dẫn các con. Gia đình nào có người cha tốt thì hầu như mọi sự trong nhà đều dễ trở nên tốt, vì người cha là cột trụ cho cả nhà dựa vào, là vị chỉ huy điều khiển mọi người, là người cầm lái đưa cả gia đình theo một hướng. Nếu ngược lại,  thì người ta bảo :”nhà dột từ nóc”, gia đình bị hư hỏng từ đầu :”cá thối từ đầu”(Piscis a capite vivit et a capite faetet”. Hậu quả sẽ xẩy ra như người ta nói :
 
                                      Người trên ở chẳng chính ngôi,
                                    Làm cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào.
                                                (Ca dao)
         
          Nói thế không phải là một mình người cha điều khiển gia đình, vẫn có sự tham gia của người mẹ một cách rất nhẹ nhàng mà người ta không ngờ. Đôi lúc vì người cha thiếu khả năng nên người mẹ đã lấn át vai trò của người cha.
 
Truyện vui : Hư danh.
 
          Con chạy về hỏi cha :
          - Ba ơi, Ba giảng cho con thế nào là “hư danh”.
          Người cha trả lời :
          - Hư danh hả ? Ví dụ như má con giới thiệu Ba là chủ gia đình !!!
 
          Hoặc truyện khác :
 
          Đôi tân hôn chưa sống với nhau được bao lâu, người chồng hiền lành, điệu bộ có vẻ cù lần, nhưng vợ tinh anh sắc xảo, cần phải có tác phong bảo vệ quyền bính, nhất là con nhà có đạo phải dựa vào Kinh Bổn mới có nền tảng vững chắc, kẻo người nội trợ lấn át quyền gia trưởng.
          - Thứ nhất dựa vào Kinh :
          Một hôm gặp cơ hội bị chị vợ lấn át, anh ta mới dõng dạc tuyên bố : Mày phải biết ngày chịu phép Hôn phối, cha giảng : chồng là gia trưởng, là chủ , chồng giữ địa vị thánh Giuse trong nhà Nazareth. Mày không nhớ trong kinh cầu ông thánh Giuse : thánh Giuse làm đầu thánh gia.  Thế tao là đầu trong nhà, thay địa vị thánh Giuse, mày phải nhận điều đó mới được.
 
          - Thứ hai, sách Bổn dạy làm sao ?
          Sách bổn dạy :”Cha mẹ phải săn sóc con cái, chồng phải coi sóc vợ, chúa nhà phải coi sóc đầy tớ : bấy nhiêu “Đấng ấy” phải coi sóc kẻ thuộc về mình, hầu bằng cha mẹ phải săn sóc con cái vậy, chả gì tao cũng vào số “các đấng”. Đừng có mà khinh tao”.
                   (Nguyễn duy Phượng, Thực chuộng vâng phục, 1969, tr 241-242)
 
          b)  Người mẹ trong gia đình.
 
          Thiên Chúa đã dựng nên người nam nữ có bản chất riêng, khác nhau mà không dẫm chân lên nhau. Dường như trong gia đình đã vốn sẵn có một sự phân nhiệm tự nhiên cho hai người :
          - Nếu người chồng là rường cột chống đỡ gia đình, thì người vợ là sợi dây thân ái ràng buộc mọi người trong yêu thương hạnh phúc.
 
          - Nếu người chồng là người đứng mũi chịu sào, đặt kế hoạch, tạo điều kiện kinh tế cho gia đình, thì người vợ lại là người quản lý tốt, quán xuyến sắp xếp mọi công việc trong nhà và bảo vệ tổ ấm gia đình hơn mọi người khác.
 
          - Nếu người chồng là lý trí, là khối óc sáng suốt để chỉ huy, hướng dẫn gia đình như một ông thuyền trưởng chỉ huy con tầu, thì người vợ chính là người tài công khéo léo điều động con tầu  đến mục tiêu đã định.
 
          - Nếu người chồng là biểu tượng của quyền uy, nghiêm nghị và cứng cỏi, là khuôn mẫu, là kỷ luật, thì người vợ là sự dịu dàng, mềm mỏng cởi mở để con cái được thoải mái, dễ chịu trong khuôn khổ gia đình.
 
          - Và sau cùng, nếu cần phải đối phó với một xã hội, một cuộc sống đa đoan, phức tạp, muôn mặt, khi sự cứng rắn và sức mạnh của người chồng không đủ đáp ứng, thì đã có sự khôn ngoan, tế nhị, mềm mỏng của người vợ bổ sung vào để đạt được kết quả.
 
          Quan niệm “Phu xướng phụ tùy” của xã hội ta ngày xưa không còn phù hợp nữa. Nếu chồng là giám đốc thì vợ phải là quản lý hay phụ tá giám đốc chứ không phải là tôi tớ :”Cha đã đặt người nữ làm trợ tá bất khả phân ly của người nam… Xin cho anh biết trọn niềm tin tưởng ở chị, nhìn nhận chị là người bình đẳûng và cùng được thừa hưởng sự sống là hồng ân Chúa ban”(Lời cầu lễ Hôn phối).
 
Truyện : Tài tử Galicopter và người vợ.
 
          Một trong những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng nhất trong thập niên 50 là nam tài tử Galicopter. Ôâng nổi tiếng không những vì tài nghệ diễn xuất mà còn vì cuộc sống hôn nhân mẫu mực của ông. Vào khoảng cuối đời, quằn quại trong thể xác, ông đã nói về Rochi người vợ đã chung sống với ông trong gần 30 năm như sau :
          “Rochi là một người đàn bà tuyệt vời. Nàng là một người vợ đã biết thích nghi với tính
          khí và công việc của tôi. Nàng cũng biết cảm thông với những lỗi lầm của tôi. Nhất là
          nàng đã biết ở cạnh tôi khi nàng có thể, mỗi khi tôi cần đến  n àng. Nàng là người vợ đích
          thực”.
         
Những lời khen tặng trên đây của tài tử Galicopter là một khẳng định rằng : người nắm giữ hạnh phúc gia đình, người nắm vai chủ động trong việc xây dựng hạnh phúc hôn nhân chính là người vợ. Dĩ nhiên sự thành công của hôn nhân là do sự hợp tác của hai vợ chồng. Nhưng người vợ vẫn giữ vai trò chủ yếu : “Đàn ông dựng nhà, đàn bà xây tổ ấm”(Tục ngữ).
 
c) Con cái trong gia đình.
 
          Còn Đức Giêsu trong gia đình Nazareth đã được thánh Luca mô tả vài nét trong Tin mừng:”Và Ngài đã xuống với ông bà về Nazareth. Và Ngài hằng tùng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ hết các điều trong lòng bà. Và Đức Giêsu cứ tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dáng và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta”(Lc 2,51-52).
 
          Đức Giêsu tuy là Thiên Chúa, nhưng với cương vị làm con, Ngài vẫn phải vâng phục thánh Giuse và Đức Maria với tâm tình con thảo. Sách Huấn ca hôm nay dạy ta :”Ai kính sợ Thiên Chúa thì hiếu thảo với cha mẹ, ai thờ cha kính mẹ thì sẽ bù đắp lỗi lầm và sẽ được đền bù tội lỗi”.
          Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải là một tình cảm tự nhiên mà còn là một điều luật của Chúa:”Ngươi phải hiếu thảo với cha mẹ, như Thiên Chúa ngươi đã truyền dạy, để được sống lâu và được hạnh phúc trên phần đất Thiên Chúa dành cho ngươi”(Đnl 5,16).
 
          Ngày xưa khi cắp sách đi học, các em nhỏ đã được đọc trong sách Quốc văn giáo khoa thư một bài học căn bản về đạo làm con :
 
                                      Công cha như núi Thái sơn,
                             Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
                                      Một lòng thờ mẹ kính cha,
                             Cho trọn chữ hiếu mới là ĐẠO CON.
 
Không thiếu gì những bậc danh nhân trên thế giới đã làm gương cho chúng ta về lòng thảo hiếu đối với cha mẹ, ngay khi các ngài còn ở bậc cao trong danh vọng.
 
Truyện : Nhà bác học Louis Pasteur.
 
          Ngày 14.07.1883, hội đồng thành phố Dole quyết định đặt tấm đồng ghi danh trên cửa nhà mà Pasteur đã sinh ra. Hôm ấy, trong bài đáp từ cao thượng, nhà bác học trứ danh đã để lòng trào ra trên nỗi biết ơn cha mẹ :
 
‘Ôi !  hỡi cha con, mẹ con ! Ôâi, hỡi những người thân yêu đã chết ! Các ngài đã sống bình dị quá trong căn nhà nhỏ bé này, con đã chịu ơn tất cả bởi các ngài. Những nhiệt tình của người, hỡi mẹ can đảm của con, mẹ đã chuyển nó cho con. Nếu con bao giờ cũng đã nối kết vinh quang khoa học vào vinh quang tổ quốc, chính là vì con  đã thấm nhuầãn những cảm tình mà mẹ phấn khích ở trong con. Và còn người, hỡi cha thân yêu, mà đời sống cũng nặng nhọc như nghề nghiệp, cha đã tỏ cho con biết đức kiên nhẫn trong cố gắng lâu dài có thể làm được những gì… Con chúc tụng cả hai, hỡi cha mẹ thân yêu, cho cuộc sống con người, và xin để cho con hướng về các ngài cái vinh hạnh  mà người ta hiến lên căn nhà này ngày hôm nay”( Bùi Đức, Vinh quang bà mẹ, 1959, tr 59-60).
 
IV. TRUNG THÀNH TRONG HÔN NHÂN.
 
          Còn một vấn đề rất quan trọng trong hạnh phúc hôn nhân mà ngày nay người ta đã coi thường, đó là         trung thành trong đời sống hôn nhân. Ngày xưa người ta chỉ chú trọng vào sự chung thủy của người phụ nữ màø không đề cập đến đàn ông. Người ta đã có một cái nhìn thiên lệch về phụ nữ với quan niệm “chồng chúa vợ tôi”.  Người đàn bà trong lễ giáo Khổng Mạnh phải tuyệt đối chung thủy với chồng mình. Họ phải giữ cái đạo “Tam tòng” :
 
                                      Tại gia tòng phụ
                                      Xuất giá tòng phu.
                                      Phu tử tòng tử
Nghĩa là : người con gái ở nhà thì theo cha, đi lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con.
 
          Chữ “chung thủy” của người xưa thật đáng ca tụng, nhưng tôi thấy nó rất thiên lệch và không công bằng. Lễ giáo của Khổng Mạnh đã áp đặt chặt chẽ trên người đàn bà, trong khi đó thì người đàn ông được thả lỏng :
                                      Trai thì năm thê bảy thiếp.
                   Trong khi đó thì :
                                      Gái chính chuyên chỉ có một chồng.
                   Và nếu có một vợ một chồng thì theo sự diễn tả một cách châm biếm, đó là :
                                      Nhất phu nhất phụ
                                      Mỗi mụ mỗi nơi.
 
          Còn thời nay thì sao ?  Đối với xã hội Tây phương thì chữ “chung thủy” thời nay đã biến mất. Người ta thay vợ đổi chồng như thay áo theo phương châm “Hay thì ở, dở thì đi”. Có nơi số đôi hôn phối ly dị lên tới 50% hay hơn nữa. Các hôn ước không còn giá trị nữa. Chính vì thế mà gia đình bị lung lay tận nền tảng, tận gốc rễ để rồi đi đến chỗ đổ vỡ vì những lý do không đâu.
 
Truyện : Trên chuyến xe đò.
 
          Có một lần trên chuyến xe đò đi Sàigòn, tôi được nghe mẩu tâm sự vụn giữa mấy bà mấy cô với nhau. Bà thì than rằng chồng của mình bê bối. Bà thì bực tức thấy ông nhà đèo bòng mà chẳng làm gì được. Nói ra thì xấu thiếp hổ chàng, còn để vậy thì ấm ức trong lòng. Sau cùng, có một bà kết luận : chỉ có mấy bà công giáo là sướng. Đạo của họ cấm chỉ việc lang bang. Dù sao chăng nữa, thì họ cũng vẫn một lòng một dạ với nhau.
 
          Nghe mẩu tâm sự ấy, tôi cũng thấy mừng vì từ xưa và cho đến nay, sự chung thủy, một vợ một chồng vốn dĩ đã là nét son của hôn nhân công giáo. Vì ai cũng biết hôn nhân công giáo là một khế ước song phương được ký kết giữa hai người nam và nữ. Do đó, hôn nhân của công giáo có hai đặc tính là “đơn nhất và vĩnh viễn”. Không ai có thể hủy bỏ hôn ước khi cả hai người còn sống vì “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,9).
 
          Nếu chúng ta đòi buộc người bạn đời phải tuyệt đối trung thành với mình, thì chúng ta cũng phải có bổn phận phải tuyệt đối trung thành với  người bạn đời như thế. Chúng ta không thể nào chấp nhận những chia sẻ trộm vụng của người bạn đời thì chúng ta cũng không được chia sẻ tình yêu một cách thầm lén cho kẻ khác không phải là bạn đời của mình. Nếu như hành vi thầm lén vụng trộm của chúng ta bị đổ bể, bởi vì “đi đêm lắm có ngày gặp ma”… thì lúc bấy giờ chắc chắn dư luận sẽ không buông tha chúng ta và gia đình ta chắc chắn sẽ gặp nhiều sóng gió.
 
          Để kết luận, chúng ta hãy dâng lên Thánh Gia lời cầu xin cho các gia đình :
 
          Lạy Chúa Giêsu,/ chúng con xác tín rằng: / Hôn nhân và gia đình là công trình sáng tạo của Thiên Chúa,/ công trình của yêu thương,/ khôn ngoan và thanh thiện./ Chúng con tin rằng,/ Chúa muốn và Chúa luôn ban ơn,/ để hôn nhân được hạnh phúc,/ trong sự duy nhất và bền bỉ,/ trong việc truyền sinh và phát huy sự sống.
Lạy Chúa,/ Chúa đã yêu thương mà nâng hôn nhân lên hàng Bí tích./ Xin Chúa cho các đôi vợ chồng sống trung thành với nhau,/ cho cha mẹ biết ý thức trách nhiệm giáo dục con cái,/ cho con cái biết vâng phục và yêu mến cha mẹ./ Xin Chúa  làm cho các thế hệ trẻ,/ tìm được nơi gia đình sự nâng đỡ chắc chắn cho giá trị làm người của ho,ï/ và được trưởng thành trong Chân lý và Tình thương.
          Lạy Thánh gia Nazareth,/ là gương mẫu của đời sống thánh thiện,/ công bình và yêu thương./ Xin cho gia đình chúng con,/ trở nên nơi đào tạo nhân đức,/ trong hiền hòa,/ phục vụ và cầu nguyện./ Xin cho chúng con xây dựng gia đình thành mối an ủi cho cuộc đời đầy thử thách./ Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình,/ đều được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội,/ và cộng tác trong việc xây dựng Giáo hội.
 


 

LỄ GIÁNG SINH

GIÁNG SINH, LỄ CỦA TÌNH THƯƠNG
+++
A. DẪN NHẬP
 
          Chúng ta có thể gọi Giáng sinh là lễ của Tình thương. Sở dĩ chúng ta có thể nói được như vậy là vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Thiên Chúa là Chúa Cả muôn loài lại hạ mình xuống mặc lấy thân xác yếu hèn của con người, bởi vì Nhập thể là một trong ba mầu nhiệm lớn nhất trong Đạo.  Chúng ta có thể đưa ra nhiều lý do nhưng không có lý do nào thuyết phục hơn là Thiên Chúa yêu thương con người. Thánh Gioan Tông đồ đã nói lên lý do ấy :”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3,16).
 
          Như vậy, vì yêu thương Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho nhân loại như một quà tặng. Tặng quà là một nghĩa cử cao đẹp của người tặng cho người được trao tặng, nó nói lên tình yêu của người trao tặng đối với người được trao tặng. Đức Giêsu là quà tặng vô cùng quí giá nói lên tình Chúa thương yêu nhân loại đến mức nào ! Chúng ta hãy tỏ lòng tri ân đối với Thiên Chúa trong dịp Giáng sinh này, vì Ngài đã không tiếc gì đối với thế gian đến nỗi đã hy sinh Con Một của Ngài để cứu chuộc nhận loại.
 
          Đáp lại tình yêu bao la của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải trở nên quà tặng cho tha nhân vì “đã lành nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không”(Mt 10,8).  Cuộc sống sẽ luôn thi vị nếu còn mãi những nghĩa cử tặng quà.  Không ai nghèo nàn đến nỗi không có gì để trao ban, trái lại, ai cũng có gì để trao tặng trong đời sống vật chất cũng như tinh thần. Lễ Giáng sinh là dịp để chúng ta thể hiện tinh thần hy sinh và dâng hiến :”Mình vì mọi người”.
 
II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
 
          + Bài đọc 1 : Is 9,1-6.
 
          Dân Do thái đã bị quân Assyri đến xâm chiếm và đặt ách thống trị bạo tàn trên họ. Với tư thế là một dân tộc bị trị, dân chúng chỉ còn biết rên siết dưới gông cùm của ngọai bang :”Dân tộc bước đi trong u tối”.
 
          Nhưng giữa đau khổ, hãi hùng và thất vọng của dân chúng, Isaia tiên báo một thời tươi sáng sẽ tới. Hãy tin tưởng  vì Chúa sẽ đến đập tan gông cùm của kẻ thù, sẽ giải thóat cho dân : Bởi vì một Hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi và một người con sẽ được ban tặng cho chúng tôi”.
 
          Lời tiên báo đầy phấn khởi ấy đã được ứng nghiệm khi Israel được thóat khỏi ách thống trị của Assyria. Nhưng ơn cứu độ mà Isaia loan báo đó không phải chỉ hạn hẹp trong dân tộc Israel mà nó còn có một chiều kích rộng rãi hơn, nghĩa là ơn cứu thóat ấy chỉ được thực hiện một cách trọn vẹn với Đấng Messia.
 
 
          + Bài đọc 2 : Tt 2,11-14.
 
          Thánh Phaolô nói cho Titô và cho chúng ta biết : Đức Giêsu là ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ và ban cho ta trong ngày giáng sinh, và ân sủng ấy vẫn còn khi Đức Giêsu lại xuất hiện trong vinh quang ngày Ngài trở lại trần gian. Chúng ta hãy sống xứng đáng  với ân sủng bằng cách :”Từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức”.
 
          + Bài Tin mừng : Lc 2,1-14.
 
          Sau bao ngàn năm trông đợi, giây phút quan trọng đã đến. Thánh Luca đã giới thiệu cho chúng ta : Đấng Cứu Thế đã đến  trong thân phận một bé thơ nơi hang đá Be lem. Bà Maria đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa nên đã sinh ra con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. Tuy Chúa Cứu Thế sinh ra trong cảnh cô đơn lạnh lẽo ấy, không ai biết tới nhưng trên không trung các thiên thần vẫn ca hát :
                                      Vinh danh Chúa Cả trên trời
                                  Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
 
          Các thiên thần cho biết đây là Tin mừng cho cả nhân lọai, nhưng Tin mừng này trước tiên được loan báo cho những người chăn chiên nghèo khổ. Chính những người nghèo khổ này đã được hân hạnh  thay cho loài người đến triều bái Chúa Hài Nhi.
 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
                                                Giáng sinh, Lễ của Tình thương
          Lễ Giáng sinh với cái tên phổ biến là Noel, ngày nay đã trở thành một ngày lễ của nhân loại, vì hầu như mọi người : tín hữu hay không, bằng cách này hay cách khác, đều có thể mừng lễ Noel, nhưng có một điều quan trọng rất cần được chú ý, đó là không phải bất cứ ai mừng lễ Noel đều đạt được mục đích chân chính của nó là gặp được Chúa Kitô, “Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi”(Lc 2,11).
 
          Nhìn lại lịch sử đã hơn 2000 năm từ ngày Chúa giáng sinh có biết bao người  đã từng mừng lễ Noel, nhưng họ đã không một lần gặp được Chúa Hài Đồng, dường như họ coi lễ Noel là dịp để được nghỉ ngơi, vui chơi, mua sắm… còn mầu nhiệm Giáng sinh  không liên quan gì đến họ cả. Hôm nay chúng ta hãy dừng lại để chiêm ngắm Chúa Hài Đồng và tìm ra ý nghĩa của ngày lễ : Giáng sinh là lễ của Tình thương, Chúa giáng trần không có lý do nào khác ngoài việc Chúa thương yêu nhân loại.
 
I. NGÔI HAI GIÁNG TRẦN VÌ YÊU THƯƠNG
 
          1. Tội nguyên tổ và lời hứa
 
          Nhìn ngược dòng lịch sử của con người, Thiên Chúa đã dựng nên những con người đầu tiên là Adong và Evà. Thiên Chúa đã ban cho ông bà được làm con Thiên Chúa, sống trong vườn địa đàng, được hưởng một hạnh phúc tràn đầy cả hồn lẫn xác. Tuy con người được Chúa thương như thế, nhưng cũng phải chịu thử thách để biết lòng trung thành.
 
           Thiên Chúa cho ông bà được thoải mái hưởng dùng tất cả những gì Ngài đã dựng nên, chỉ trừ quả cây biết lành biết dữ, nếu ăn vào sẽ phải chết.  Nhưng ông bà đã nghe theo lười khuyên nhủ đường mật của con rắn là ma quỉ đã cố tình ăn quả cấm đó.  Ôâng bà đã bị phạt : mất quyền làm con Chúa, mất mọi đặc ân và sau cùng phải chết.
 
          Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã  tuyên án ông bà phải chết trong tội, nhưng đồng thời Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến để cứu họ, khi lên án Satan :”Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15).
 
          Trước Thiên Chúa Giáng sinh 700 năm, tiên tri Isaia đã loan báo Tin mừng :”Nghe đây hỡi nhà Đavít : các người làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa ? Vì vậy,  chính Chúa thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu lạ, này đây, người trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel”(Is 7,13-14).
 
          Lời hứa của Thiên Chúa được lặp đi lặp lại và sau mỗi lần lặp lại lời hứa, hình ảnh Đấng Cứu Thế lại rõ nét hơn.
 
          Trong lời hứa với vua Đavít, khi vua muốn xây đền thờ cho Chúa, Chúa cho biết Đấng Cứu Thế thuộc dòng họ Đavít :”Khi ngày đời ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi lên kế vị ngươi, một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Đối với nó, Ta sẽ là Cha, đối với Ta nó sẽ là con”(2Sm 7,12-14).
 
          Và trong lời hứa với vua Akhaz, Chúa đã cho biết Đấng Cứu Thế, con vua Đavít được gọi là Emmanuel, nghĩa là :”Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Thật vậy,  vào năm 735 trước công nguyên, khi thấy đất nước Giuđa bị lân bang đe dọa, vua Akhaz đã  cầu viện đế quốc Assyri chứ không tin vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Trong hoàn cảnh này, Thiên Chúa vẫn tỏ ra là Đấng trung tín, luôn giữ lời hứa, khi cho vua Akhaz một dấu chỉ :”Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
 
          2. Thiên Chúa thực hiện lời hứa.
 
          Sau 4000 năm dân Do thái sống trong đau khổ, trong khóc lóc than van, kêu xin Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân Ngài :”Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây  hãy mưa đấng cứu đời”. Dân chúng vẫn sống trong hy vọng và chờ đợi Thiên Chúa thực hiện lời hứa.
 
          Dấu chỉ Thiên Chúa ban cho vua Akhaz vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên được thực hiện khi thời gian tới hồi viên mãn. Hy vọng mấy ngàn năm của người Do thái đã trở thành hiện thực qua sắc lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô : theo sắc lệnh  ấy, toàn dân phải về quê mình khai hộ khẩu. Ôâng Giuse và bà Maria đang mang thai  vội vàng về Be lem thi hành sắc lệnh.  Vì về muộn lại không có tiền, nên hai ông bà phải qua đêm ngoài thành trong một hang chứa súc vật, và tại nơi đây “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”(Lc 2,7).
 
          Như vậy, Hài nhi bé bỏng do Đức trinh nữ Maria sinh hạ, được cuốn tã, đặt nằêm trong máng cỏ, được gọi là Emmanuel (Mt 1,23), là Con Thiên Chúa (Gl 1,4) mà hôm nay chúng ta tôn thờ, chính là Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã có từ đời đời, luôn ở với Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành và ở giữa chúng ta, để làm cho ta nên con Thiên Chúa.
 
          Như thế, Đức Giêsu không phải là tiên tri nhân danh Thiên Chúa mà đến với chúng ta, nhưng chính là Thiên Chúa đích thân  nói và cứu độ chúng ta. Nhìn vào cuộc đời Đức Giêsu, chúng  nhận thấy Thiên Chúa ở rất gần con người để gặp gỡ, thiết lập quan hệ ngay tại nơi con người đang sinh sống. Thiên Chúa tạo quan hệ để con người có thể trao đổi với Người. Thiên Chúa tự liên đới với con người, tự ràng buộc vào số phận con người, nhờ đó Thiên Chúa cứu được con người.
 
          3. Lý do việc Thiên Chúa giang trần : Tình thương.
 
          Chúng ta thắc mắc đặt câu hỏi : Tại sao Thiên Chúa lại giáng trần trong hoàn cảnh bi đát như vậy ? Chắc chúng ta cũng kiếm ra được một số lý do, nhưng lý do có sức thuết phục nhất là vì Chúa yêu thương nhân loại.
 
          Công đồng Vatican II, trong Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng”  đã cho chúng ta biết :”Thiên Chúa nhập thể và nhập thế là vì Ngài muốn sống cuộc sống nhân loại, để hành động với bàn tay nhân loại, để suy tư với một trí óc nhân loại, để yêu thương với một trái tim nhân loại”(Gaudium et Spes, số 22). Như vậy, Chúa nhập thể và nhập thế chỉ vì Chúa yêu thương con người
 
          Nói đến tình yêu là nói đến gặp gỡ và chia sẻ. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã xuống thế để gặp gỡ con người hầu cho đất trời gặp nhau, để Thiên Chúa làm người và con người trở nên Thiên Chúa !  Ngài đến để cùng chia sẻ  kiếp sống với con người để Ngài cùng vui cùng buồn, cùng sướng cùng khổ với chúng ta để đem lại cho cuộc sống chúng ta một ý nghĩa.
 
          Chúng ta hãy nghe thánh Augustinô nói về mầu nhiệm tình yêu này :”Vì các bạn mà Thiên Chúa đã làm người. Các bạn sẽ phải chết muôn đời, nếu Ngài đã không sinh ra trong thời gian. Các bạn sẽ chẳng bao giờ được giải thoát khỏi xác thịt tội lỗi, nếu Ngài không chấp nhận mang xác thịt tội lỗi của các bạn. Các bạn sẽ chẳng tìm được sự sống, nếu Ngài đã chẳng chết như các bạn. Các bạn sẽ phải tiêu vong, nếu như Ngài không đến”.
 
          Nói tóm lại, Thiên Chúa yêu thương con người nên đã làm người. Đấng làm người ấy mang tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài đã đến để gặp gỡ, để chung sống, để đồng hành, để chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với nhân loại, không những để cùng suy tư, hành động với con người, nhưng còn để hướng dẫn những suy tư và hành động của con người tới sự hoàn thiện của Thiên Chúa.
 
II. ĐỨC GIÊSU, QUÀ TẶNG CHO NHÂN LOẠI
 
          Lễ Giáng sinh là ngày mừng biến cố Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Nhưng Giáng sinh cũng là ngày lễ của quà tặng.  Đây là dịp cuối năm người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, những món quà. Kèm theo những món quà người ta còn gửi đến cho nhau những thông điệp chúc mừng. Quà tặng chuyên chở tấm lòng yêu thương của người tặng.  Có những món quà đơn sơ nhỏ bé. Có những món quà mà người ta phải tốn một số tiền lớn để mua nó.  Một quà tặng được chuyển đi là dấu hiệu người ta còn nhớ đến nhau. Bạn bè tặng quà cho nhau, những người yêu tặng quà cho nhau, cha mẹ tặng quà cho con cái, món quà sẽ vô nghĩa  nếu không có người tặng.
 
          Trong lễ Giáng sinh hôm nay, chúng ta nói đến một món quà tặng khác giá trị hơn.  Quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Thật vậy, Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại :”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3,16).  Ngài đem đến cho chúng ta một thông điệp vàng  từ Thiên Chúa, là Thiên Chúa mãi trung thành yêu thương con người, cho dù con người có từ khước Ngài.
 
          Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa đến cho mọi người  để Ngài trở nên Emmanuel, để Ngài luôn hiện diện mà chia sẻ thân phận con người với chúng ta.  Từ ngữ Present tiếng Anh có nghĩa là “quà tặng”, lại có nghĩa là “sự hiện diện”. Mỗi người bằng sự có mặt của mình ở nơi cần đến, đã là món quà giản dị dành tặng cho nhau.
 
          Nhân vật trung tâm của lễ Giáng sinh hôm nay là một trẻ thơ vừa mớùi sinh. Một trẻ thơ như bao trẻ thơ khác trên trần thế. Một trẻ thơ bình thường sinh trong một gia đình êm ấm hạnh phúc, có cha mẹ, bà con gia tộc và quê hương đất nước.  Phần lớn trong số họ chỉ là nghững người nghèo nhất trong xã hội. Thế mà họ được đón nhận một Tin mừng lớn lao của toàn thể nhân loại.  Họ vinh dự đón nhận quà tặng của Thiên Chúa :”Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em, trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô là Đức Chúa”(Lc 2,11).
 
          Nhân loại hãy nhìn vào Tình yêu trong mầu nhiệm Nhập thể để học lấy cho mình bài học quí giá : Thiên Chúa đã phó mình cho trần gian. Vì nơi Thiên Chúa, yêu là tự hiến, là hủy mình. Có hiểu hết sự tự hiến và hủy mình vì yêu thương trong mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta mới có thể hiểu được làm sao một vì Thiên Chúa cao sang là thế, uy quyền là thế, mạnh mẽ và lớn lao khôn cùng, lại có thể hóa nên một con người bé nhỏ, yếu ớt, mong manh như vậy.  Có hiểu được một tình yêu tự hiến đến mức hủy mình, ta mới hiểu được làm sao  Thiên Chúa lại trở nên trần trụi và nghèo nàn đến thế.  Và Hài nhi Giêsu này sẽ tiếp tục hy sinh trên thập giá để cứu rỗi nhân loại.
 
Truyện : Xin vì đứa trẻ vô tội nay.
 
          Lịch sử truyền giáo viễn đông có kể rằng : Khi đề đốc Magellan dẫn một đạo thuyền đi về viễn đông thì gặp nạn. Một trận cuồng phong đánh chìm  tất cả đạo thuyền, chỉ còn lại con thuyền của đềâ đốc đang bồng bềnh chống chọi với ba đào sóng gió. Trên thuyền mọi người thủy thủ và hành khách đã họp lại tất cả trên cầu tầu để chờ chết.
 
          Đứng giữa đoàn người thất vọng, đề đốc Magellan  như có một ơn soi sáng, ông nhìn thấy bên cạnh có một bà mẹ ẵm một đứa con  thơ ấp ủ trên lòng.  Đề đốc xin bà mẹ cho mình đứa con. Rồi ông cầm đứa bé trong tay giơ lên, mắt ngước về trời và nói :”Lạy Chúa, con và đoàn người đây đều là kẻ tội lỗi đang chết chìm trong vực thẳm này. Nhưng xin Chúa vì đứa trẻ vô tội này mà tha thứ cho chúng con”.  Lịch sử kể lại rằng, khi cầu nguyện xong câu đó thì gió yên và biển lặng.
 
III. CHÚNG TA LÀ QUÀ TẶNG CHO THA NHÂN
 
          Mầu nhiệm nhập thể chỉ có thể hiểu được qua Tình yêu. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã làm người. Ngài thấu hiểu nỗi khao khát một Đấng Cúu thế của dân tộc Israel. Bao nhiêu năm trời mong đợi, hôm nay Đấng Cứu thế đã giáng sinh.  Đức Giêsu là quà tặng vô giá của tình yêu Thiên Chúa gửi đến cho con người.  Quà tặng mang tên Giêsu trải qua hơn 2000 năm đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đức Giêsu đang đến với con người hằng ngày từng giây từng phút của đời sống vượt qua không gian và thời gian.
 
          Đón nhận quà tặng vô giá là chính Chúa Giêsu, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa đích thực của quà tặng. Theo gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải là quà tặng cho anh em mình.
 
          Trong dịp lễ Giáng sinh chúng ta thường mua những món quà đắt tiền để tặng nhau, tuy nhiên giá trị của quà tặng lại tùy thuộc vào tấm lòng của người tặng quà.  Người ta thường nói :”Vật khinh nhưng hình trọng” hoặc “Của một đồng công một nén”(Tục ngữ).  Chân phước Têrêsa Calcutta nói :”Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.
 
          Trong kho tàng văn chương Việt nam, người ta đã nói lên ý tưởng trao ban trong Ca dao :
 
                                      Yêu nhau cởi áo cho nhau
                                      Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.
 
          Tình yêu không phải là một cuộc trao đổi có tính toán sòng phẳng, sao cho đôi bên cùng có lợi, mà là một sự chia sẻ vô vị lợi; hay nói đúng hơn, là một sự trao tặng, dâng hiến.
 
          Ôâng Lézard nói :”Yêu… Bạn có biết từ ấy có nghĩa gì không ? Có bao nhiêu cách yêu, nhưng duy chỉ có một là tốt. Đó là trao ban, và trao mãi, mà không lấy lại gì, không chờ đợi gì, không xin xỏ gì.  Đó là cách phải yêu”.
          Ôâng Roger Godel cũng nói :”Tình yêu đích thực sở dĩ nhận được là nhờ nơi dấu hiệu không bao giờ sai lầm này : nó dâng tặng mà không hề mong nhận được cái gì cả”.
          Cuộc sống sẽ luôn thi vị nếu còn mãi những nghĩa cử tặng quà. Cũng như cuộc sống không thể vắng bóng tinh thần trao ban. Đó có thể là chúng ta biết dành thời giờ để thăm hỏi, gặp gỡ bà con thân thuộc, người cùng khu xóm và bạn bè.  Khi chúng ta biết rộng lòng giúp đỡ vật chất cho những người nghèo, những nạn nhân của thiên tai lũ lụt. Khi chúng ta biết tặng cho những người mình yêu như cha mẹ, anh em, bạn bè, người yêu những món quà bất ngờ thắm thiết tình người.
 
Truyện : Món quà giáng sinh
 
          Một đôi vợ chồng trẻ, Gim và Đêla, tuy nghèo tiền của nhưng giầu tình thương đối với nhau.
          Giáng sinh sắp tới, Đêla tự hỏi phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng chàng  sợi dây cho chiếc đồng hồ của chàng, nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nảy sinh một sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp, nàng rất quí nó và rất hãnh diện về nó. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc và đem bán để mua cho Gim sợi dây đồng hồ.
          Hôm áp lễ Giáng sinh, từ phố về nàng cầm trong tay một chiếc hộp rất đẹp  đựng sợi dây đồng hồ mạ vàng mà nàng vừa sắm được bằng mái tóc của mình.  Bỗng nhiên Đêla cảm thấy lo lắng. Nàng biết Gim rất quí bộ tóc dài của nàng. Nàng tự hỏi không biết Gim có buồn vì nàng cắt  và bán nó đi không ?
          Về tới nhà, Đêla mở cửa và thấy Gim đang đợi nàng. Tay chàng cầm một cái hộp thật đẹp  đựng món quà chàng mới mua cho nàng.  Khi nhìn thấy mái tóc ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không nói gì cả. Cố trấn tĩnh, chàng trao tặng nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra, Đêla rất đỗi bàng hoàng. Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp. Còn chàng, khi mở món quà vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không kém.
          Chính lúc đó, Đêla mới nhận ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ quí nhất của anh,  để mua lược chải tóc cho nàng.  Phút chốc cả hai đều hiểu rằng họ đã tặng nhau những gì quí giá nhất, họ đã hy sinh tất cả cho nhau (Wahrreit, Món quà Giáng sinh, tr 9-10).
 
          Chúng ta có thể nói : Giáng sinh là lễ của tình thương. Thánh Anphonsô cũng nói :”Lễ Giáng sinh là lễ của Tình thương”. Và thánh nhân cả tuần  ngồi ăn cơm dưới đất. Còn thánh Phanxicô Khó khăn thì trong một lễ Giáng sinh đã quì trước hang đá cầu nguyện. Ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập tình yêu mến. Không chịu được, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên :”Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng”.
 
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng ! Đêm nay Chúa sinh ra làm người là một tin mừng trọng đại cho toàn nhân loại. Đứng trước  Mầu nhiệm Nhập thể chúng con chỉ biết cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Chúa.  Vì tình Chúa yêu thương nhân loại là vô bờ bến thì làm sao chúng con có thể  diễn tả bằng lời. Xin Chúa dạy chúng con biết trao ban cuộc sống cho tha nhân theo gương Chúa, để suốt cuộc đời chúng con biết sống mình vì mọi người và vì ích chung, ngõ hầu xứng đáng  là những người được Chúa cứu chuộc.. Amen.


 



CHÚA NHẬT 4 VÀ LỄ GIÁNG SINH


Suy niệm lễ Giáng sinh


1. Con người - Lc 2,1-20

Ngày nay, con người là một vấn đề được chú ý nhiều nhất. Càng ngày những công trình bác ái càng được phát huy sâu rộng. Càng ngày người ta càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con người là một yếu tố cần thiết làm nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước mạnh. Lý tưởng mà con người mơ ước và theo đuổi mỗi ngày một cao đẹp và phong phú hơn. Từ đó, chúng ta đi vào mầu nhiệm giáng sinh.

Thực vậy, với mầu hiệm giáng sinh, thì yếu tố con người cũng là yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà Thiên Chúa đã trả để giải quyết vấn đề con người chứng tỏ con người thực là quan trọng. Đúng thế, trong kinh Tin Kính chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế.

Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.

Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con người.

Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.

Mỗi khi chúng ta giúp đỡ người khác, nhất là những người ngheo túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã cộng tác với Chúa, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy.

Cái nhìn lạc quan trên đây giúp chúng ta phấn khởi để cùng nhau tích cực góp phần giải quyết vấn đề con người hôm nay, nhất là những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn đề con người là quan trọng đến nỗi chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải nhập cuộc để giải quyết, thì bất cứ ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể là cộng tác với Thiên Chúa, dù người đó không cùng một quan điểm, không cùng một niềm tin với chúng ta.

 

2. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta - Lc 2,1-14

(Suy niệm của Camille Gagnon)

Đây là thời gian hoan lạc.

Từ vài tuần lễ nếu không phải là vài tháng chúng ta đã dự tính và tổ chức lễ Giáng Sinh: Chúng ta sẽ đi đến nhà ai, ai sẽ đến nhà chúng ta. Điều này đối với nhiều người là một mối bận tâm lớn, để sắp xếp mọi cuộc gặp gỡ và mọi lời mời. Thậm chí thời tiết cũng ảnh hưởng đến những lo toan của chúng ta: Có bão là các cha mẹ trẻ tuổi sẽ không lên đường được vì sẽ quá nguy hiểm cho trẻ thơ. Rồi những tuần sau, khi nhà sẽ đầy người, niềm vui sẽ lớn lên: "Ôi, tôi rất vui được gặp bạn!" – "Ôi, cuối cùng bạn đã đến rồi!" – "Thật mừng là bạn có thể đến được!".

Ở đây, trong nhà thờ chúng ta có thể lập lại một lời gì giống như vậy trong suốt mùa Vọng: "Vì Ngài ở với chúng ta! Vì Chúa Giêsu ở với chúng ta". Lời này đã trở thành khẩu hiệu cho việc chuẩn bị lễ Giáng Sinh. Nhưng tối nay, những lời ngắn gọn này thốt ra như một tiếng kêu của con tim: "Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa ở với chúng con, chúng con cũng ở với Chúa. Nơi nhà Chúa, tối nay người ta đi viếng thăm nhau. Chúa đến nơi nhà chúng con và chúng con đi đến nhà Chúa! Con ở đây, vì Chúa cũng ở đây nữa!".

Tiếp khách.

Thường lệ khi khách đến, người ta tiếp đón, hỏi han một chút. Người ta hỏi thăm có điều gì mới không và khi có một em bé cùng đi người ta quan tâm kỹ hơn, vuốt ve ân cần hơn. Tại sao chúng ta hết thảy không đón tiếp Chúa Giêsu như vậy?

Quả thật, chính với tư cách một hài nhi mà Ngài đến viếng thăm: "Đức Maria hạ sinh một con trai đầu lòng, quấn tã và đặt nằm trong máng cỏ". Nhưng hài nhi này đến viếng thăm chúng ta với những nét đặc biệt, mang một niềm hy vọng rất đặc biệt, như bài đọc thứ nhất đã nói: Ngài sẽ là "cố vấn tuyệt vời", Ngài sẽ là "quyền năng của Thiên Chúa", "Nguồn sự sống đời đời". Ngài sẽ là "một mầm mống bình an". Một hài nhi như vậy thật là quí báu. Trong một gia đình, đây là một phúc lành thật sự làm cho mọi người vui mừng.

Không có Ngài, chẳng có gì như vậy được.

Chăm sóc một em bé vài tiếng đồng hồ, thời gian một cuộc viếng thăm ngắn ngủi, không đòi hỏi nhiều lắm. Nhưng khi người ta đến ở lâu, ở mãi, làm cho gia đình tăng số, lúc đó sự việc trở nên nghiêm túc hơn. Mỗi lần một người nào khác đến ở bên cạnh chúng ta, điều này sẽ mang lại bao nhiêu sự thay đổi! Phải thay đổi bao nhiêu thói quen.

Đêm nay, Chúa Giêsu đến ở luôn nơi chúng ta. Ngài tự mời để trở nên thành phần cuộc sống của tôi và Ngài chờ mong nhận được những sự chăm sóc, quan tâm, tình thương. Ngài cũng chờ mong ta để Ngài lớn lên, phát triển. Các bạn thấy không, xúc động khi tiếp đón "bé Giêsu" có ích gì nếu ta không để chỗ cho Ngài lớn lên, phát triển đến nỗi chiếm cả cuộc đời của chúng ta, tới độ Ngài trở thành Chủ của chúng ta như một bài ca cổ xưa đã nói: "Thầy chí thánh của chúng ta vừa mới sinh ra cho chúng ta". Vì ta phải ý thức: chấp nhận Thiên Chúa đến viếng thăm tức là chúng ta phải dấn thân vào những nẻo đường đầy yêu sách. Ngay đêm nay, điều đó muốn nói rằng đối với người này hay người khác trong chúng ta phải quên đi một cuộc tranh chấp và tăng thêm thiện chí. Phải đi một hay hai bước thêm nữa. Việc Thiên Chúa đến viếng thăm cũng mang lại cho chúng ta một sự ngạc nhiên rất lớn nữa. Quả thật, Ngài không đến một mình, Ngài kéo theo một đám người không mấy danh giá. Một câu hỏi vang lên đặc biệt mạnh trong đem Giáng Sinh này: "Nhưng lạy Ngài có khi nào chúng tôi đã nuôi nấng, đón tiếp, viếng thăm Ngài đâu? Có khi nào chúng tôi đã không làm điều đó?". Anh chị em đã biết rõ câu trả lời rồi. Khi ta để Chúa Giêsu lớn lên, Ngài thực sự mang gương mặt của những người đàn ông đàn bà của ngày hôm nay, và rất thường là những gương mặt của những người nghèo nhất và xấu số nhất.

Đây là thời hoan lạc.

Nhưng đêm nay, chỉ với một con tim tươi trẻ mà chúng ta mới có thể nhận ra những lần Thiên Chúa đến viếng thăm trong cuộc đời chúng ta và để cho niềm hoan lạc bùng lên. Phải, ta có thể nói: Không có Ngài cuộc đời của chúng ta không thể như vậy được. Vì bao nhiêu niềm vui đã nhận được và cho đi, bao nhiêu tình nhân ái đã trổ hoa trong lòng con người vì Hài Nhi này. Hài Nhi mà người ta để cho lớn lên trong nội tâm mình.

Chính nhờ thế mà chúng ta có thể kêu lên: "Vì Ngài ở với chúng con, nên đây là thời gian hoan lạc!".

 

3. Đừng thờ lầm - Ga 1, 1-18

(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')

Phần tự ngôn Phúc âm theo thánh Gioan khuyên nhủ chúng ta nhận thức rõ tầm mức siêu phàm của lễ Giáng Sinh, cũng như sự uy nghi của mầu nhiệm Giáng Sinh. Con trẻ Giêsu là Ngôi Lời nhập thể đến cư ngụ giữa chúng ta. Đứng trước Hài nhi bé mọn ở Bêlem, chúng ta được mời tiến sâu vào chính mầu nhiêm Thiên Chúa, tới chỗ của Ngôi Lời – tức là Lời hằng sống và thân mật của Thiên Chúa đã có trước toàn thể vũ trụ. Như vậy chúng ta được mời hãy đến thờ lạy. Kẻ thờ phụng là kẻ khi được tới gần bên Thiên Chúa liền nhận thức sâu sắc rằng mình là kẻ tuỳ thuộc, vô giá trị, tội lỗi nữa. Kính thờ và thinh lặng, cảm tạ và vui sướng, đó là cách tuyên xưng Chúa là sự Thiện tuyệt đối và nguồn mọi ơn lành. Lễ Giáng Sinh mời chúng ta đến thờ lạy Con trẻ Giêsu. Trong Hài Nhi, Thiên Chúa rất gần gũi – trong Hài nhi có sự sung mãn của Thiên Chúa – và nhờ Hài nhi, chúng ta được có mặt trên thế gian để sống, hiểu biết và yêu thương. Sự suy niệm về một vài từ ngữ trong tự ngôn của thánh Gioan có thể cung cấp cho chúng ta một phong cách thờ phụng.

1) Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng tạo hóa. Não trạng nhân lạo thời nay dễ loại bỏ ý niệm về Đấng tạo hoá, con người chỉ muốn những gì mình có là do sức mình. Một số tiến bộ nào đó để tìm hiểu những diễn biến vật chất của sự sống, đã đem lại chước cám dỗ xui con người muốn quyết định ai sẽ có quyền được sinh ra và cuộc đời mình sẽ diễn tiến thế nào. Con người quên mất nguồn gốc mình, quên hẳn sự thể bởi đâu mà mình có được thân xác, có được sự sống. Con người suy tư và hành động như thể không bị hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng tạo hoá đã tạo thành y. Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng đang có, trước đây vốn có, và đến trong thế gian (Mạc khải 4, 8), nghĩa là Đấng hiện hữu ngoài thời gian, đã có trước hết mọi khởi đầu, do Người mà muôn vật được tạo thành. Lễ Giáng Sinh tức lễ Nhập Thể cho thấy một sự tự ý hạ mình nào đó của Thiên Chúa. Để làm nổi bật sự tương phản giữa tất cả và hư vô. Chúng ta được mời hãy ý thức lại về thân phận thụ tạo của mình hãy thờ phụng Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta. Thiên Chúa là Đấng tự hữu, Người không được tạo thành- phần chúng ta, chúng ta đã được tạo thành. Vì thế, chúng ta phải suy tư và hành động theo chiều nghĩ: nhờ Thiên Chúa mà chúng ta có được mọi sự.

2) Nhờ Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy trong tâm trí và trong sự thật. Một trong những diện chủ yếu và bi kịch nhân loại là con người thường nhiều phen lầm lạc trong khi thờ phụng. Luôn luôn con người bị cám dỗ thờ ngẫu tượng. Tại sao? Vì lẽ, nếu không có Đức Kitô thì nhân lại chỉ còn biết dò đường trong đêm tối – trí tuệ bị u ám, trái tim chán nản hết sinh động. Thế mà Đức Kitô là Ánh sáng. Người là Sự Sống, và sự sống là Ánh sáng nhân loại. Thờ phụng cách linh hoạt giống như tâm hồn tiến bước trên đường tới đích là Thiên Chúa. Phải được soi sáng mới khỏi lạc đường. Đức Kitô- Anh sáng soi sáng trí tuệ con người và chỉ con người thấy đường đi của số mệnh y.

Ánh sáng và sự sống liên kết với nhau. Kẻ thờ các ngẫu tượng (khoái lạc, danh vọng, tiền của, thế gian) thì dò dẫm trong bóng tối linh hồn, và hiến mình cho những vật chết. Cách vô hình, và nhiều phen thật bất hạnh cho y, kẻ ấy liên kết trong tâm hồn bóng tối và sự chết. Trái lại, người nào tiếp nhận ánh sáng, tức quy tắc về Chân Lý, do niềm tin vào Đức Kitô phát ra, người ấy liên kết trong tâm hồn Ánh sáng và sự sống.

Lễ Giáng Sinh mừng ánh sáng. Trong khi vui ngắm những giây đèn giăng mắc ngoài đường phố và trong tư gia, chúng ta hãy nhớ đến sự cần thiết hàng đầu là làm thế nào để Ánh sáng Đức Kitô soi sáng lòng và trí chúng ta.

 

4. Ngôi Lời là ánh sáng thật

(Trích trong 'Manna')

Suy Niệm

Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát. Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.

Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.

Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.

Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp. không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.

Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).

Hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi.

Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).

Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.

Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay, trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000.

Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới.

Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.

Gợi Ý Chia Sẻ

Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?

Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang sống?

Cầu Nguyện

Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.

Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa.

Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.

Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hàng ngày.

Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý.

Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con.

 

5. Vinh danh Thiên Chúa trên trời - Lc 2,1-14

(Suy niệm của ĐTGM. Ngô quang Kiệt)

Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:

"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho người Chúa thương"

Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.

Tại sao ""Vinh danh Thiên Chúa trên trời" phải đi liền với "Bình an dưới thế cho người Chúa thương"? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.

Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.

Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.

Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.

Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.

Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).

Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.

Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế", ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.

Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.

Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:

"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho người Chúa thương"

Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?

2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?

3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?

 

6. Đêm Ánh Sáng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

ĐÊM ÁNH SÁNG

Đêm Giáng Sinh chìm trong lớp lớp bóng tối dày đặc.

Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm. Bóng tối cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại bang. Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ. Bóng tối âm u trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh. Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.

Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một làn ánh sáng rực rỡ.

Đó là ánh sáng tình yêu.

Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm. Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên chúa dành cho nhân loại. Tình yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên chúa đi tìm con người. Thiên chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người. Thiên chúa đã tìm thấy con người trong những khốn cùng tột độ của nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương. Anh sáng Thiên chúa soi sáng kiếp người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.

Đó là ánh sáng niềm tin.

Anh sáng Giáng Sinh chiếu toả trên những tâm hồn thiện chí. Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm. Nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh thức. Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn. Đó là những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm trong bóng tối. Đó là những người nghèo của Thiên chúa. Đó là thánh Giuse, Đức Maria. Đó là Ba Vua. Đó là các mục đồng. Khiêm nhường nên các ngài sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên chúa. Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón nhận những dấu chỉ Thiên chúa gửi đến. Thiện chí nên các ngài hăng hái lên đường ngay khi nhận được tín hiệu. Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng. Hê rô đê và Giêrusalem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt. Trái lại "vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng". Và ngôi sao xuất hiện dẫn đường cho Ba Vua. Anh sáng đã bao phủ các ngài. Anh sáng đã dẫn đưa các ngài đến bên máng cỏ. Anh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy "một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ" và các ngài đã tin.

Đó là ánh sáng hy vọng.

Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới. Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu. Những người nghèo của Thiên chúa âm thầm kiên trì chờ đợi. Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua ngước mắt lên trời tìm kiếm. Niềm khao khát đã được đáp ứng. Đã đến mùa Thiên chúa gieo hạt. Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại. Hạt giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Mặt trời bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian. Anh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng. Với Hài nhi Giêsu, một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn được kính trọng. Giêsu chính là hạt mầm hy vọng Thiên chúa gieo vào thế giới.

Đó là ánh sáng Tin Mừng.

Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành những ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn chia sẻ ánh sáng với những người chung quanh. "Họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này". Tin Mừng được loan đi. Niềm vui lan tới mọi tâm hồn. Ánh sáng bừng lên phá tan đêm tối.

Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú. Mầm cây cần bàn tay ân cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê. Hài nhi Giêsu như ngọn nến đem ánh sáng vào đêm tối. Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới chuyền nhau cho ánh sáng lan rộng.

Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở lòng ra đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.

 

7. Lời ngỏ của Tình Yêu - Ga 1,1-18

(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)

Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: "Thiên Chúa là tình yêu". Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.

Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.

Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.

Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.

Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.

Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.

Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?

2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?

3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?

4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?

 

8. Noel: Lễ nhập cuộc – ĐGM. Vũ Duy Thống

(Trích trong 'NÚT VÒNG XOAY' – Trg. 35)

Đi qua trường Kinh Tế Tài Chính 4 bên cạnh Đại Chủng Viện hôm qua, tình cờ nghe được mẩu đối thoại giữa mấy cô gái. Có tiếng hỏi: "Noel, bồ có đi đâu không?". Có tiếng đáp: "Không, mình ở nhà". Và khi tiếng đáp vừa mới dứt đã có tiếng ai đó xen vào: "Noel mà lại ở nhà à? Người ta phải ra đường chứ!".

Vâng! Noel người ta ra đường thật. Từ Đại Chủng Viện tới đây mặc dù đường đi chỉ có mấy bước, nhưng tôi vẫn bị kẹt xe bởi những con đường lớn đều chật ních những người là người. Dường như cả thành phố đều ở trên đường. Kẻ đi người lại, đông ơi là đông. Vì thế, tiếp cận với Tin Mừng Giáng Sinh đêm nay, tôi bỗng thấy thánh Giuse và Đức Maria cũng đang ở trên đường, đường dong duổi cho cuộc đăng ký hộ khẩu kiểm tra dân số. Những điều tai nghe mắt thấy ấy đã tự nhiên gợi lên hình ảnh Noel là một lễ nhập cuộc.

1) Noel là lễ của sự nhập cuộc.

Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông mong đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh nghiệm thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm tình chuẩn bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.

Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là "Đấng khôn tả", nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối phủ định nghĩa là thêm chữ "vô cùng" vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là "Đấng đáng sợ", nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.

Người nhập cuộc trong lịch sử chung của toàn thể nhân loại cũng như trong lịch sử riêng của đời Người. Sự nhập cuộc ấy đã được lịch sử cắm mốc thời gian rõ ràng là "thời Hoàng đế Cêsarê Augustô" và được cấp sổ đỏ không thể chối cãi là "thành Bêlem xứ Giuđêa" như Phúc Âm ghi lại. Sự nhập cuộc ấy đã làm nên lý lịch trích ngang của Đấng Cứu Thế. Người có một gia đình, đã được cưu mang chín tháng như bất cứ ai để cuối cùng mở lòng mẹ bước ra chào đời và sống đời như bao người khác.

Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc "Thiên Chúa viếng thăm Dân mình", nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra trong chốc lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.

2) Và nhập cuộc là chấp nhận vòng quay nghiệt ngã của cuộc sống.

Trong bài đọc thứ nhất, qua lăng kính của Isaia, Thiên Chúa được xưng tụng là "Chúa hùng dũng", thế mà Người đã hóa nên con người yếu đuối trong hình hài một thơ nhi bé bỏng.

Dẫu được gọi là "Thủ Lĩnh bình an", nhưng chính Người khi xuống thế đã nhập cuộc vào những xáo trộn của cuộc đời, để chẳng được an thân sinh ra trong nhà của mình. Hoàng đế Rôma chỉ là thụ tạo, nhưng lại nắm quyền ra lệnh khai sổ nhân danh khiến Thủ Lĩnh đích thực là Người lại phải chịu sinh ra trên đường đăng cai hộ khẩu. Hộ khẩu dẫn tới "hậu khổ"! Người ta dòng dõi vua chúa sinh ra được bọc vải điều nơi lầu vàng gác tía giữa đông đảo kẻ hầu người hạ, còn Người lại tự nguyện sinh ra nghèo khó nơi hang đá trong máng cỏ bò lừa. Người là "Cha vạn thuở", bản thân Người là căn nguyên vạn vật, thân thế Người là cội nguồn nhân sinh, muôn vật muôn loài đều phải nhờ Người mới có, thế mà hôm nay Người lại chịu sinh ra trong thời gian bởi một người phụ nữ với tiến trình trưởng thành tuần tự bình thường. Người là "Cố Vấn kỳ diệu", nhưng khi sinh ra làm người hôm nay chẳng thấy Người cố vấn cho ai, mà ngược lại xem ra Người đã "cố mà vấn vào đời mình" những gì là bình thường nhất nếu không muốn nói là hèn mạt nhất của kiếp phận nghèo khổ.

Rõ ràng là Người đã nhập cuộc trong quỹ đạo của một đời người giữa những người đời. Nhập cuộc như thế cũng có nghĩa là ăn đời ở kiếp giữa đời với những hệ quả muôn thuở của cuộc đời. Nếu cuộc đời luôn bằng phẳng có lẽ đã không có kiểu nói diễn tả "bụi trần", và nếu cuộc đời luôn hạnh phúc có lẽ cũng chẳng phải lắm điều đặt chuyện "đời là bể khổ" làm chi. Chẳng bi quan cũng thấy cuộc đời không luôn ổn định. Thế mà Chúa đã yêu thương đón lấy cuộc đời ấy, để chính khi hóa thân làm người là cùng lúc Người dấn thân vào trong những bấp bênh bồng bềnh bó buộc của cuộc sống.

3) Để cứu độ trần thế và con người.

Nếu nhập cuộc chỉ có nghĩa là hòa vào dòng chảy cuộc đời thì có lẽ chẳng có lễ Noel. Nhưng sở dĩ có lễ Noel là bởi vì Chúa nhập cuộc để cứu độ trần thế và con người.

Người nhập thế để làm gì? Thưa để đem trần thế vào lại "trật tự nguyên thủy" như nét đẹp ban sơ của trần thế ngày sáng tạo mà tội lỗi đã làm hư đi. Nên Noel còn gọi là "Ngày sáng thế mới". Đêm Noel là đêm đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của ơn cứu độ.

Người nhập thể để làm gì? Thưa để đem con người về với ơn cứu độ. Người là Emmanuel của một Thiên Chúa không đến rồi đi, không ở rồi về mà là một "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", một Thiên Chúa đến ăn đời ở kiếp với nhân loại để nâng nhân loại lên ngang tầm với vinh quang của Người. Thảo nào, các thiên thần đã hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm". Và cũng chính vì thế các Giáo phụ Đông phương đã bảo: "Thiên Chúa làm người cho người được làm con Thiên Chúa". Như vậy, Noel chính là lễ của một sự nhập cuộc tuyệt vời cũng như chữ Noel đến từ danh xưng Emmanuel đã làm nên Thánh lễ đêm nay.

Thiên Chúa nhập cuộc để đem ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng trọng đại cho toàn dân, nên sứ điệp của đêm nay là hãy nhập cuộc cùng với Noel.

Nhập cuộc tức thời là hãy mở lòng mình ra mà đón Chúa sinh vào, và nhập cuộc dài hơi là biết sinh Chúa ra bằng một đời sống tín hữu gương mẫu. Đừng để Noel trở thành dịp phô trương đời sống hoặc phô bày đam mê như trong báo Công An tuần qua đăng tải về một Việt kiều tổ chức sinh nhật của mình một cách trụy lạc. Đừng để Noel qua đi mà lòng mình vẫn còn trĩu nặng ước muốn quyền hành hoặc tình cảm ghét ghen. Và nhập cuộc lớn hơn cả chính là biết cùng với Chúa mà cưu mang xây dựng, cảm thông nâng đỡ những anh chị em túng quẫn hoặc đau khổ vốn không thiếu trong đời, cho dẫu chính khi nhập cuộc như thế mình phải hy sinh đi theo quỹ đạo của nhập cuộc.

Noel nhập cuộc là thế, là Tin Mừng sống động, là chan hòa sự sống. Nhưng Noel bao giờ cũng là lễ của niềm vui, của bàn tay nắm lấy bàn tay, của bước chân tiếp nối bước chân dấn thân vào đời phục vụ cho hạnh phúc con người. Niềm vui và hạnh phúc là điều người ta thường cầu chúc trong đêm Noel. Chân thành kính chúc cộng đoàn một Noel tràn đầy niềm vui: thứ niềm vui cứu độ, quên mình, nhập cuộc; và hạnh phúc dẫy đầy: thứ hạnh phúc không phải chờ đến xa xôi mai hậu, nhưng đã bắt đầu đêm nay bằng cách biết tiếp nhận Chúa sinh vào và biết sinh Chúa ra trong quyết tâm nhập cuộc của mình.

 

9. Ngôi Lời đã trở nên người phàm - Ga 1,1-8

(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')

Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến "Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố" một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết như sau:

"Thưa Ông "dà" Noen, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn...

Con muốn được lên "chời" để ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên "chời" nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con "xung xướng". Xin Ông mang cho bố con một chỗ làm và ít thức ăn...

Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy tuần lộc... Con gởi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.

Ký tên: Thad.

Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều người Do Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời lành, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy sẽ phải khóc vì không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.

Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên Chúa không phải chỉ làm người giả hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để nhận ra điều đó, chúng ta hãy bước đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng. Nhưng là một biểu tượng nhắc nhớ một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu tất cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm, nơi một góc trời không tên không tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh trong một cuộc hành trình bất đắc dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu thương chúng ta từ trời cao. Ngài đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa liên đới trọn vẹn với số phận mạt kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, như là một người nghèo nhất tại Bêlem trước khi trở thành người rốt hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai đó giữa Thiên Chúa và con người như một huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.

Và như vậy, thưa anh chị em, chúng ta thấy Thiên Chúa "người" hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới đất. Đừng đi tìm Ngài trên khung trời cao! Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu quá lớn, nghĩa là quá khiêm tốn thì chúng ta lại không dám nhận ra, không dám chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp chúng ta trong huyền nhiệm Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng ta có muốn hay không, thì từ nay Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp, của chuồng chiên bò, của hang đá, máng cỏ.

Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ gần gũi như vậy, tầm thường như vậy, thì không có gì xảy ra trong đời thường của chúng ta lại ở ngoài ánh sáng thần linh của Thiên Chúa, "ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và ánh sáng ấy là sự sống". Khi đất này đã được sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao trùm, thì đất này đã là túp lều của Con Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho đất này đã trở thành nơi ở, chẳng những ở được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và cho con cái loài người của Ngài, là một điều không ai được khước từ nếu không muốn phủ nhận niềm tin của mình và mầu nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào là con người bị loại ra ngoài tình yêu của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho đức ái chỉ là chữ viết trên giấy. Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta phải chạy trốn, nếu chúng ta thật sự muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng ta thường đi gặp Chúa ở ngoài cuộc sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong cuộc sống cụ thể hằng ngày đó.

Chính vì thế mà những người Mỹ, những người Canađa, những cảnh sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa tìm ra được em Thad khi họ nhận được bức thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em Thad là hiện thân của bao nhiêu em bé và gia đình nghèo đói trên trái đất này, nơi Thiên Chúa đã làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta trong những gia đình, những em bé khốn khổ đó.

Anh chị em thân mến, tôi không tin là chúng ta có thể gặp được Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua một khuôn mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những ông già bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật, của những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, thiếu vắng tình thương... Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà nói, quê hương này là nơi Thiên Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta không phân biệt giai cấp, được làm con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự sống.

 

10. Suy niệm của R. Gutzwiller – Lc 2, 1-20

NGÀY CHÚA GIÁNG SINH

Việc truyền tin Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì tính cách trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với sự cao cả bên trong. Tính cách trái ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi việc Người sinh ra.

1) Chúa Giáng Sinh.

Việc Giáng Sinh không xảy ra tại Nagiarét như thường tình, nhưng là tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính thức của thiên thần mà bằng mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của Hoàng Đế Rôma. Như vậy Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra phục luỵ quyền hành thế trần, như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là công việc của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng ở đây hành động của con người không ai ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra nhân số trong đế quốc lớn lao của ông để gom thế giới lại thành một, biết rõ quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà ông cần dùng tới với những chương trình vĩ đại của ông. nhưng thực tế, quyền năng thế tục đó bên ngoài hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa và qua đó, chương trình Cứu độ được hoàn thành.

Như vậy Chúa Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu Đavít, như Tin Mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây, Đavít khi còn là mục đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở đây, người con đích thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn dẫn bầy chiên Thiên Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm sâu của Ngài và như Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức dầu.

Sắc lệnh của Hoàng đế Augustô còn kéo theo một hậu quả khác, đó là việc giáng sinh của Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch sử thế giới. Người ta xác định được nơi chốn và thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là một biến cố lịch sử đích thực (chứ không phải là chuyện hoang đường hay thần thoại) có chỗ đứng trong không gian và thời gian. Bên cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang lại cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ 'hoà bình của Rôma', thì Chúa Giêsu đúng là vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì đã mang đến 'bình an của Thiên Chúa'.

Tuy thế, ở Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh trong chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó có thể hiểu là, thực sự thì những người lang thang, không còn chỗ ở trong quán đó. Nhưng cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là nơi những người khách lạ tạm trú, thì không phải là nơi xứng hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa sẽ đến thế trần, không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò lừa. Nôi của Ngài là cái máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn. Tin Mừng đặc biệt nhấn mạnh tới việc Hài nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối của tính con người.

Con đầu lòng của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con Một Thiên Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ nhỏ. Khung cảnh thật đơn giản, thanh bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh được; tuy vậy, lại chẳng có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú túc sẽ được trao cho Đấng vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng bên ngoài với tất cả những gì liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui đi thì mới càng thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả tạo, khoa trương, chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ giờ đầu tiên của ngày Giáng Sinh của Ngài cho tới lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn và trần trụi trên cây thập tự.

2) Loan báo tin Chúa Giáng Sinh.

Các mục đồng là những người đầu tiên nhận được sứ điệp. Israel là dân của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng chăn giữ nhân loại mới. Những hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng này, người giàu thì chạy theo của cải, còn người thông thái thì lại hiểu sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế những người được gọi đầu phải là những người chăn chiên khiêm hạ, nghèo nàn, và là ít học chốn quê mùa.

Nội dung của sứ điệp là một lời loan tin vui tóm trong ba danh hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu thế, vì Ngài đến giải phóng những người không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau thương. Ngài là Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của Ngài đã được thánh hiến bằng dầu Thánh của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài.

Thật là một dấu chỉ lạ lùng: 'Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ'. Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền năng và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn những cái chúng ta đã biết cho tới khi đó, và làm biến đổi các thực tại thần thiêng nhờ các phạm trù khác và ứng dụng chúng vào các quy luật khác.

Sứ điệp kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm hai phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy có 'trời, vinh danh và Thiên Chúa'. Phần hai có 'thế trần, hoà bình và con người'.

Thiên Chúa ở trên trời sẽ đón nhận danh dự và vinh quang, vì vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa Giêsu, mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ có thể thực sự tôn vinh Thiên Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế, bình an sẽ ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn thánh. Và tất cả những điều ấy có được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Thiên Chúa Nhập Thể.

Như vậy bài ca của các Thiên Thần là điệp ca trang trọng của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca mang nặng ý nghĩa của một biến cố vĩ đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời cầu chúc hay lời nguyện xin. 'Chúc tụng Thiên Chúa' đó là một lời loan báo và cũng là một lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên Chúa và an bình ban xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn vũ đã sinh ra.

Và đây là kết quả đầu tiên, các mục đồng quyết định đón nhận lời loan báo trong niềm tin và đi theo lời đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm tìm đã không bõ công; họ đã ngạc nhiên, đầy thán phục.

Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.

Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:

Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.

Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.

Đánh mất cơ hội ngàn vàng
Có một vị thái tử vào rừng săn bắn, tình cờ gặp một cô gái quê đang kiếm củi một mình. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà hai con người có địa vị cách biệt quá xa lại tỏ ra tâm đầu ý hợp và hai bên lại yêu nhau tha thiết ngay từ giây phút gặp mặt đầu tiên.
Sau đó, hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản nài xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha truyền dạy hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.
Thế là vị hoàng tử quyền quý, hoá trang thật khéo, y hệt người nông dân quê mùa chất phác, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong hình hài người nông dân nghèo khổ nên đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất một người yêu lý tưởng, mất luôn cả vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.

Như vị hoàng tử rời khỏi hoàng cung, hoá thân thành nông dân đến cắm lều ở bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta. Ngài là Em-ma-nu-en, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài tự đồng hoá mình với những người láng giềng đang sống quanh ta.

Chúa Giê-su khẳng định rằng mỗi người đang sống chung quanh ta cũng chính là Ngài. Những ai cho người đói khát cơm ăn áo mặc thì Ngài nói là họ đang cho Ngài ăn, mặc. Những ai chăm sóc người đau bệnh là đang chăm sóc Chúa. Tóm lại, bất cứ điều gì chúng ta làm cho người chung quanh là làm cho chính Chúa… Vì những người đó là phần thân thể của Chúa Giê-su (Matthêu 25, 34 - 40). 
Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II cũng dựa vào giáo huấn nầy để nhắn nhủ các gia đình: "Thiên Chúa đã tự đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình." (trích “Tâm thư gửi các gia đình của thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II”)
 
Thật trớ trêu, đang khi chúng ta vẫn yêu mến, suy tôn chúc tụng Thiên Chúa ngự trên cõi trời cao hoặc cung kính bái lạy tượng ảnh Ngài trên bàn thờ, thì chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững và thậm chí còn đối xử tồi tệ với tha nhân là những chi thể sống động của Ngài, là hiện thân của Ngài đang hiện diện chung quanh.
 
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta không nhận ra Chúa nơi những người đó, nên chúng ta thường đối xử tệ bạc với họ. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày, từng giờ từng phút. Thế là "Ngài đã đến nhà của Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài" (Gioan 1, 11).
 
Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên đây vì đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: Cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý!
Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.

Lạy Chúa Giê-su,
Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.
Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giê-su nên mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ.
Xin soi sáng cho chúng con biết rằng Chúa và những con người mà chúng con  gặp gỡ hằng ngày chỉ là một, để rồi chúng con biết tôn trọng, yêu thương và phục vụ Chúa nơi những anh chị em đó.



CHÚA NHẬT 4 MVC
1. Gặp gỡ Chúa
Trong đêm khuya, người đàn ông đứng một mình trên đỉnh đồi heo hút. Đó là một đêm tuyệt đẹp. Bầu trời đầy sao. Tâm hồn ông thật thanh thản và bình an. Ông cảm nhận được rằng cuộc đời là một ơn huệ. Và ông đã cho biết: Chính trong đêm hôm ấy trên đỉnh đồi cao, ông đã bắt đầu tin vào Thiên Chúa. Các nhà tâm lý học thường gọi cảm nghiệm trên đây là “khoảng khắc cao điểm”. Đó là lúc mà chỉ trong thoáng chốc, chúng ta nhận ra một thế giới mới vô cùng to lớn và xinh đẹp. Từ đó, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay.
Thực vậy, Phúc Âm đã ghi lại: Vừa nghe lời Maria chào, thì hài nhi trong bụng bà Isave liền nhảy mừng. Một đứa bé đạp trong bụng mẹ là điều rất bình thường. Thế nhưng, khi kẻ lại chi tiết này, hẳn thánh Luca muốn coi đó như là một cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu, cũng như một chào đón mà Gioan muốn dành cho Ngài.
Trong Phúc Âm, chúng ta cũng ghi nhận được những khoảng khắc cao điểm như thế. Chẳng hạn như sau mẻ lưới lạ lùng, Phêrô đã quỳ xuống và thưa lên cùng Chúa: Lạy thầy xin hãy tránh xa con, vì con chỉ là một kẻ tội lỗi. Nói cách khác, Phêrô đã cảm nghiệm được sự tốt lành thánh thiện của Chúa. Lần khác, sau khi Chúa Giêsu biến hình trên đỉnh Tabôrê, thì từ đám mây có tiếng phán: Này là Con ta yêu dấu, đẹp long Ta mọi đàng. Các con hãy vâng theo lời Ngài. Khi nghe thế, ba môn đệ thân tín liền sấp mặt xuống đất, lòng vô cùng sợ hãi. Hay nói cách khác, trong phút giây ngắn ngủi ấy, các ông đã cảm nghiệm được chiều kích thẳm sâu của Chúa Giêsu.
Ngày nay, nhiều người vẫn được Chúa ban cho những khoảng khắc cao điểm như thế. Chẳng hạn như Paul Nagai. Ông đã cảm nghiệm được sự sống vĩnh cửu qua cái nhìn của người mẹ trong cơn hấp hối. Chẳng hạn như Paul Claudel đã cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa qua tiếng hát trong buổi kinh chiều của ngày lễ Giáng sinh. Chẳng hạn như Phanxicô Xaviê đã cảm nghiệm được giá trị của linh hồn qua lời nhắc bảo của Ignatio: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn, thì nào có ích lợi chi?
Cảm nghiệm về Đức Kitô thì không máy móc nào có thể chế tạo được. Không chiếc vi tính nào có thể lập trình, cũng không thể cứ muốn là được. Vì đây là một quà tặng Ngài trao ban. Chúng ta cần phải mở rộng cõi lòng để lãnh nhận.
Và Mùa Vọng chính là thời gian thuận tiện để chúng ta thự hiện việc làm này. Đây là lúc chúng ta phải tự chấn chỉnh lấy mình, để chào đón Đức Kitô trong cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta biết mở rộng cõi lòng cho Ngài, thì ngày diễm phúc ấy sẽ đến và lúc đó chúng ta sẽ thực sự cảm nghiệm được niềm hạnh phúc, sự bình an và tình yêu thương mà Ngài sẽ đem đến khi viếng thăm chúng ta.

 

2. Maria dám tin - Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Ðại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Ðúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giờ trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11 giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến... Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến. Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
***
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Ðức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1,4 5).
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời "Xin Vâng", Ðức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse (Lc 1,27). Và qua lời "Xin Vâng" Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphanaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.
Mẹ đã "Suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19) vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Ðấng Cứu thế vì mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: "Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói" (Lc 1,38).
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Ðền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước vào cuộc đời.
Chính vì Mẹ là Ðền Thánh nên đấng Thánh trong lòng Mẹ đã thánh hoá Gioan trong cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Ðấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu xa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ oà trên bờ môi hạnh phúc trong lời kinh Magnificat (x. Lc 1,46-54).
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang toả hương thơm cửa thiên đàng.
***
Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương tuyển chọn Ðức Ma ria và bà Êlisabét, đã cho các ngài mang thai cách diệu kỳ, để hạ sinh Ðấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Người.
Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ: Tin vào lời Chúa và chương trình cứu độ của Người. Xin cho chúng con biết ngoan ngoãn để Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng con với trọn niềm tin tưởng mến yêu. Amen.

 

3. Con lòng Bà

Trong một buổi chia sẻ Lời Chúa giữa các bà mẹ, sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng chiều hôm nay, thì một bà đã đặt câu hỏi: Khi mang thai, có chị nào biết rõ con mình sẽ ra sao hay không? Dĩ nhiên không phải chỉ biết nó là trai hay gái, mà còn phải biết khi khôn lớn, nó sẽ như thế nào? Tất cả đều mỉm cười và lắc đầu không thể nào biết rõ được tương lai của đứa bé. Họ chỉ cầu mong cho nó được khoẻ mạnh và nên người.
Thực vậy, không một bà mẹ nào lại biết chắc con mình ngày mai sẽ ra sao ngoại trừ Đức Maria. Chỉ còn một vài ngày nữa là Người Con của Mẹ sẽ được sinh ra và cùng với Mẹ chúng ta đi thăm người chị họ là bà Elisabeth. Chính bà chị họ này cũng biết người con ấy như thế nào, khi bà nói cùng Mẹ: Bởi đâu tôi được diễm phúc là Mẹ cua Chúa tôi đến viếng thăm. Và ngày cả Gioan trong lòng bà Elisabeth cũng hay biết vì Gioan đã nhảy mừng hớn hở.
Chúng ta hẳn còn nhớ câu chuyện truyền tin được đọc trong ngày lễ Vô Nhiễm. Thiên thần nói với Đức Maria rằng Ngài sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Và Con của Mẹ là Đấng cao trọng. Người sẽ là Con Thiên Chúa, sẽ là một vị vua và nước của Ngài sẽ trường tồn. Và như thế, hẳn Mẹ đã biết được Người Con của Mẹ sẽ như thế nào? Vậy tại sao Giáo Hội lại đặt bài Tin Mừng này vào Chúa nhật thứ IV, Chúa nhật cuối cùng của mùa Vọng, gần kề với lễ Giáng Sinh?
Lý do thật tự nhiên và đơn giản. Bởi vì đã gần tới giờ của Mẹ và chúng ta, những người con của Mẹ, cùng chia sẻ niềm vui mừng và hy vọng với Mẹ. Mẹ đã biết Người Con của Mẹ sẽ ra sao.
Chúng ta cũng thế, nhờ đức tin, chúng ta cũng biết Ngài là ai và Ngài sẽ đến viếng thăm chúng ta một cách đặc biệt trong đêm giáng sinh. Chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa, mặc dầu Ngài chỉ là một hài nhi bé nhỏ và yếu đuối. Chúng ta biết Ngài là Đấng thánh thiện tuyệt vời, mặc dầu bên ngoài Ngài giống như chúng ta mọi đàng. Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật. Cùng với Mẹ Maria chúng ta biết Ngài là Đấng cao trọng. Cao trọng trong tình yêu, cao trọng trong hành động cũng như trong lời nói. Ngài như một bông sen trổi vượt trên đám bùn nhơ. Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộccứu chuộc của chúng ta. Mẹ Maria biết Người Con của Mẹ là ai và chúng ta cũng biết như thế.
Sự hiểu biết này sẽ giúp chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui mừng và hy vọng với Mẹ. Bởi vì ngày sinh nhật của Đức Kitô sẽ đem lại cho chúng ta sự an bình và hạnh phúc.

 

4. Tâm tình thăm viếng - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Vừa được tin bà chị họ Êlisabét, hiếm hoi già cả sắp được Chúa ban cho một cậu ấm, Đức Maria sẵn có đức thương người, đã không quản ngại đường xa dặm thẳm, vội vã lên đường đi thăm giúp đỡ gia đình bà chị neo đơn ở một thành phố trên miền núi Giuda. Suốt cuộc hành trình lội bộ hơn 150 cây số, gian nan, nguy hiểm, vất vả, cực nhọc, Đức Maria vẫn không ngớt ca tụng, cảm tạ Chúa đã thương đoái đến mình và bà chị son sẻ. Đức Maria vừa thăm viếng, vừa giúp đỡ,vừa đem niềm vui ơn phúc vô cùng của Đấng Cứu thế đến cho gia đình.
Thoạt nghe lời Đức Maria chào, bà Êlisabét đã nhận ra ngay những ơn lạ lùng đổ xuống trên bà và con bà. Bà đã được đầy ơn Thánh thần nhận ra Maria là mẹ Thiên Chúa. Bà đã lớn tiếng ca ngợi Maria: “Em là người có phúc nhất trong giới phụ nữ và người con em cưu mang cũng thật có phúc. Bởi đâu tôi được mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi… Em thật diễm phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói cho em biết”.
Mẹ được đầy Thánh thần, con được nhảy mừng trong lòng Mẹ vì được phúc gặp Đấng Cứu thế trong lòng Maria. Bởi đâu gia đình bà Êlisabét được đầy ơn phúc? Thưa bởi đức tin mạnh mẽ và đức ái nhiệt thành của Đức Maria như lời bà Êlisabét nói: “Vì em đã tin lời Chúa”.
Đức Maria là gương mẫu đức tin mạnh mẽ: Không bao giờ Maria dám mơ tưởng mình là Mẹ Đấng Cứu thế vì Ngài thấy rõ thân phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn, đã đính hôn với một bác thợ mộc lao động cực khổ ở một làng quê mùa vô danh. Thế mà: “Phận nữ tỳ hèn mọn lại được Thiên Chúa đoái thương tới” (Lc. 1,48). Khi biết đó là ý Thiên Chúa, Đức Maria đã tin và dám xin: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời sứ thần nói”. Lời xin vâng thật khiêm tốn, luôn luôn chỉ coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, không dám nhận là Mẹ Đấng cao cả. Vâng ý Chúa không dễ dàng gì làm Mẹ Thiên Chúa, không như các thanh nữ Do Thái mơ tưởng được địa vị cao sang làm hoàng thái hậu muôn nước. Maria biết rõ Đấng Cứu thế, mà các tiên tri đã loan báo, là người tôi tớ đau khổ, là con chiên bị sát tế, như Bài đọc II nói: Đức Giêsu Kitô đã dâng mình làm lễ tế. Một lễ tế hy sinh vô cùng đau đớn. Với đức tin mạnh mẽ, Đức Maria đã sẵn sàng hiệp thông sát tế đó và sẵn sàng chờ đợi những lưỡi gươm sắc đâm thâu qua trái tim Mẹ như đâm thâu qua Trái tim Con để tỏ lòng thương yêu nhân loại vô bờ.
Đức Maria là gương mẫu đức ái nhiệt thành:
“Maria vội vã lên đường” nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria đi thăm viếng, chia vui sẻ buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ bốn, năm ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Đức Mẹ. Thánh Luca còn viết: “Maria đã lưu lại ba tháng rồi trở về nhà mình”, chứng tỏ Maria giúp đỡ gia đình như một tôi tớ, không quản ngại bất cứ một công việc nặng nhọc hèn hạ nào. Mẹ của Đấng Cứu Thế đã thi hành phận sự một tôi tớ của Thiên Chúa và loài người trong mọi nơi mọi lúc, một tôi tớ đem nguồn vui vô biên của Thánh Thần đến cho gia đình ; một tôi tớ mang Đấng Cứu Thế xuống cho con trẻ được khỏi tội và nhảy mừng trong lòng mẹ, để cậu sinh ra “càng lớn lên, tinh thần càng vững mạnh … để chuẩn bị đến ngày ra mắt dân Israel” (Lc. 1, 80).
Thánh Luca nói lên lòng bác ái nhiệt thành và đức tin mạnh mẽ của Đức Mẹ để làm gương cho các tín hữu thời Giáo hội sơ khai mà lo truyền giáo: Họ phải sống đức tin mạnh mẽ và thi hành bác ái nhiệt thành để đem Đấng Cứu thế đến cho muôn dân được đầy niềm vui của Thánh Thần và được nhảy mừng trong ơn cứu độ. Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ tiên báo cuộc thăm viếng của Ngôi Hai xuống thế làm người để viếng thăm nhân loại, vừa là gương mẫu cho mọi cuộc thăm viếng của những người con Đức Mẹ.
Noi gương Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Gioan 23, lần đầu tiên, một vị Giáo Hoàng rời khỏi Rôma, đến thăm Giáo Chủ Anathagoras của Giáo hội Đông phương, một Giáo hội đã ly khai Giáo hội Công giáo từ lâu đời. Cuộc thăm viếng của Đức Giáo Hoàng đã biểu lộ tình bạn chí thiết với Đức Giáo Chủ và nhìn nhận Giáo hội Đông phương cùng một chi thể của Đức Kitô, hợp nhất trong Chúa Thánh Thần. Từ hai ngàn năm nay, noi gương cuộc viếng thăm của Đức Mẹ và Chúa Giáng sinh, bao nhiêu cuộc viếng thăm hồng phúc như thế đã loan truyền Tin mừng đi khắp năm châu bốn bể.
Lạy Mẹ Maria, xin cho mỗi người chúng con biết nối tiếp những cuộc viếng thăm hồng phúc chan chứa ơn cứu độ đó, để đem nguồn vui Thánh Thần và ơn bình an của Chúa Giáng Sinh đến cho mọi gia đình trên quê hương thân yêu của chúng con. Amen.

 

5. Sống đức tin như Mẹ Maria

Trong cuộc sống, ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần thăm viếng người khác. Và cũng được người khác viếng thăm. Mỗi lần thăm viếng là một dịp để chúng ta chia sẻ với nhau về niềm vui hay nỗi buồn của cuộc sống. Như thế, trong từng cuộc thăm viếng, chúng ta muốn thể hiện tình yêu và sự quan tâm dành cho nhau.
Phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elisabeth. Thật vậy, nhận được tin người chị họ là Elizabeth, tuy đã già và mang tiếng là son sẻ, nhưng đã cưu mang được 6 tháng, Mẹ quyết định đi thăm gia đình người chị họ. Mẹ Maria đã vội vã lên đường. Mẹ sẵn sàng cho cuộc thăm viếng. Mẹ đã lên đường để chia sẻ niềm vui với gia đình bà chị họ, Mẹ chia sẻ niềm vui vì có Chúa ngự trong lòng mình. Đồng thời Mẹ cũng muốn san sẻ sự vất vả của người lớn tuổi đang cưu mang. Vì thế, sau khi được truyền tin, Mẹ vội vã lên đường thực hiện một cuộc hành trình dài theo các chuyên gia chú giải nói nó có thể lên đến 150 cây số. Một đoạn đường không mấy ít ỏi và đây không là chuyến đi dễ dàng! Làm sao tránh khỏi những nguy hiểm, vất vả và mệt nhọc. Nhưng chính tình yêu đã thúc bách Mẹ lên đường. Tình yêu làm cho Mẹ quên mình, quên những hiểm nguy vất vả để chỉ quan tâm đến người khác. Sau đó, Mẹ đã ở lại nhà bà Elizabeth trong một thời gian ba tháng. Như thế, Mẹ Maria đã thể hiện một tình yêu cao độ: dâng hiến chính mình để Thiên Chúa tự do thực hiện chương trình cứu chuộc của Ngài: "Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần truyền" (Lc 1, 38) và Mẹ đã viếng thăm gia đình người chị họ bằng trái tim đầy tình yêu thương bác ái, ra đi cách vội vã, nhanh chóng, không do dự, không tính toán so đo, cứ ra đi trong phó thác. Do đó, Mẹ Maria luôn sẵn sàng đối với Chúa, Mẹ cũng luôn sẵn sàng đối với tha nhân. Mẹ đã ra đi để phục vụ bà chị họ của mình vì Mẹ thấy ý Chúa trong đó. Hơn nữa, Mẹ thấy đó là nhiệm vụ của mình. Là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ có nhiệm vụ phải đem Chúa cho kẻ khác. Lại nữa, Mẹ cảm nghiệm rằng, lòng mình khi được mang Chúa thì hạnh phúc biết bao, bình an biết mấy và phấn khởi dường nào. Mẹ đến, Mẹ đã làm cho cả gia đình Bà Elizabeth sung sướng. Bà Elizabeth phải thốt lên: "Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi. Vì này, tai tôi vừa nhge lời em chào, Hài Nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi" (Lc 1, 43 - 44). Đó chính là niềm vui và sự bình an đích thực mà Mẹ đã đem đến.
Tình yêu thể hiện qua cuộc thăm viếng bất ngờ hôm nay không chỉ dành riêng cho Đức Mẹ mà dành cho hết thảy mọi người. Qua Đức Maria, Thiên Chúa Tình Yêu đi vào trần gian, đem ơn cứu độ cho con người mà cuộc viếng thăm của Đức Maria dành cho bà Elizabeth là bước khởi đầu. Mẹ Maria thăm gia đình bà chị để chia sẻ niềm vui mà Thiên Chúa dành cho bà Elizabeth và gia đình Dacaria. Mẹ đến với bà chị họ cũng để chia sẻ ân huệ tình yêu lớn lao mà mình vừa nhận được và để thể hiện tình yêu của Mẹ dành cho gia đình bà chị họ.
Tình yêu đích thực đòi hỏi cần được biểu lộ ra bên ngoài chứ không giữ kín cho riêng mình. Cách thể hiện tình yêu đẹp nhất làm cho tình yêu sinh động là: quan tâm, chăm sóc, tìm cách gặp gỡ để tạo nên niềm vui, góp phần xây dựng hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ, bắt chước tâm tình này của Mẹ, không đợi người khác yêu cầu mà hãy biết khiêm nhường quên mình để nhận ra nhu cầu và sẵn sàng đến với tha nhân.
Bên cạnh đó, thăm viếng không chỉ là cách biểu lộ tình người, tình thương, nói lên sự quan tâm mà còn là dịp chúng ta đem Chúa đến với tha nhân. Mang Chúa đến cho tha nhân không có nghĩa chúng ta nói thật nhiều, nói thật hay về Chúa cho họ nghe. Chính sự hiện diện của Mẹ là một lời chứng hoàn hảo về sự hiện diện của Chúa vì chính Mẹ mang chúa trong lòng mình. Tương tự như vậy, để có thể đem Chúa đến với người khác chúng ta cần có Chúa trong mình. Muốn Chúa luôn hiện diện trong ta đòi hỏi chúng ta phải có một đời sống thân tình với Chúa. Qua kinh nguyện, Thánh lễ, hiệp lễ và qua cuộc sống thì sự hiện diện của chúng ta mới có thể giúp người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa. Nên khi nhận ra Chúa, gặp được Chúa, tha nhân sẽ dễ dàng mở lòng để Chúa Thánh Thần thánh hoá và biến đổi họ nên tốt lành thánh thiện hơn.
Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria. Trước hết chúng ta hãy thể hiện tình người với nhau bằng việc thăm viếng, quan tâm đến nhu cầu của tha nhân nhất là những người đang cần đến chúng ta. Hãy bắt chước Mẹ Maria quên mình và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Hy sinh thời gian, đôi khi là vật chất để làm cho cuộc sống này thêm niềm vui, niềm hạnh phúc.
Hãy cưu mang Đức Giêsu trong tâm hồn để như Mẹ ta có thể mang một tâm hồn tràn ngập Chúa đến với tha nhân. Hơn nữa, chúng ta hãy cố gắng dàn xếp tất cả những gì làm mình phiền muộn, khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Ngoài ra chúng ta sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn, chúng ta cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.
Lạy Mẹ Maria, cám ơn Mẹ đã để lại cho chúng con một mẫu gương tuyệt vời về sự vâng phục thánh ý Chúa và một tinh thần bác ái quên mình vì tha nhân. Chính tình yêu đã thúc đẩy Mẹ làm được những việc cao cả đó, Xin Mẹ đoái thương giúp chúng con bắt chước Mẹ, sống đức tin là vâng theo thánh ý Chúa và sống đượm tình bác ái với tha nhân, quan tâm giúp đỡ họ, giúp họ thêm niềm vui, tìm gặp sự bình an và nhất là gặp gỡ được chính Chúa tình thương. Amen.

 

6. Trở nên những Em-ma-nu-en mới

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi đang lâm bệnh ngặt nghèo, thập tử nhất sinh hay đang cơn hấp hối mà có người thân yêu ở kề bên chia sẻ cảm thông thì đó là niềm an ủi lớn lao không gì sánh được. Khi gặp cô đơn sầu não không kẻ đoái hoài mà có một người bạn chân tình hiện diện bên cạnh thì không gì quý báu hơn. Trong những trường hợp đó, người ta mới cảm nhận được nhu cầu có người thân sống-với mình hay hiện-diện-bên-cạnh mình cần thiết xiết bao!
Vì thế, Đức Cha Gaillot, một giám mục Pháp, đã nhận định rất xác đáng rằng:
"Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn;
việc từ thiện là cần thiết, nhưng hiện-diện-bên-cạnh cần thiết hơn."
Như thế, chấp nhận sống-với tha nhân, hiện-diện-bên-cạnh tha nhân thì tốt hơn mọi hình thức trao ban giúp đỡ khác.
Thiên Chúa là Người Cha nhân lành rất yêu thương nhân loại nên Người muốn sống với, muốn hiện diện bên cạnh nhân loại mãi mãi không cùng. Chính vì thế, Thiên Chúa tự xưng mình là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa hằng ở cùng chúng ta. (Is 7, 14. Mt 1, 23)
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua khoảng cách vô tận giữa trời và đất để đến ở với loài người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên Chúa Giêsu đã sống kiếp phàm nhân suốt ba mươi ba năm để chia sẻ mọi vui, buồn, sướng, khổ của phận người.
Vì muốn ở cùng nhân loại nên dù đã sống lại và lên trời vinh hiển, Chúa Giêsu vẫn không rời xa các môn đệ. Người nói với họ:
"Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20).
"Thầy đi để dọn chỗ cho các con... Thầy sẽ trở lại để đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó." (Mt 14,3)
Vì mong muốn ở lại mãi với các môn đệ, nên Chúa Giêsu khấn nguyện với Chúa Cha: "Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con" (Mt 17,24)
Thế rồi Chúa Giêsu lập nên Bí Tích Thánh Thể để không những ở với, ở cùng, hiện diện bên cạnh mà còn ở trong chúng ta và nên một với chúng ta.
Vì biết rằng nhu cầu được thăm viếng, được sống với, được hiện diện bên cạnh là rất cần thiết nên khi hay tin người chị họ cao niên của mình được Chúa đoái thương cho cưu mang quý tử, Đức Maria đã không quản ngại thân gái dặm trường, sẵn sàng băng rừng vượt núi tiến lên miền sơn cước để chúc mừng, để phục vụ và nhất là để sống với, để hiện diện bên cạnh người chị họ cao niên suốt cả ba tháng trời.
Về sau nầy, khi tâm hồn các môn đệ hoang mang xao xuyến sau biến cố Chúa Giêsu về trời, Mẹ Maria tiếp tục hiện diện bên các môn đệ, củng cố niềm tin đang chao đảo của các ngài.
Và rồi trong suốt dòng lịch sử Hội Thánh, Giáo Hội phải nhiều phen trải qua gian lao sóng gió, Mẹ Maria luôn có mặt trong những thời điểm khó khăn đen tối, để hiện diện và đồng hành với đoàn con cái trong lúc gian nan, để ủi an khích lệ họ trong cảnh u sầu.
"Sống quảng đại thì tốt, nhưng sống-với tốt hơn.
Việc từ thiện là cần thiết, hiện-diện-bên-cạnh, cần thiết hơn."
Hôm nay, noi gương Chúa Giêsu là Emmanuen, Đấng luôn ở với loài người để cùng chia sẻ ngọt bùi, noi gương Mẹ Maria là Đấng luôn ở cùng nhân loại để che chở ủi an họ trong những lúc gian truân khốn khó, chúng ta hãy trở nên những Emmanuen khác, để viếng thăm, an ủi, để sống-với, để hiện-diện-bên-cạnh những người đang gặp hoàn cảnh đau thương.

 

7. Chúa Nhật 4 Mùa Vọng

"Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này" (Lc 1,43)
Đức Maria được Phúc Âm Chúa nhật IV Mùa vọng là một người đầy ơn phúc, Mẹ được chúc phúc và mang hạnh phúc đến cho người khác. Có phúc vì cưu mang Đấng Cưú Thế, có Chúa Kitô ngự trị trong tâm hồn của mình. Mẹ Maria thật sự được diễm phúc như lời chào của sứ thần Gapriel trong ngày truyền tin và hôm nay là lời khẳng định của bà Elisabeth. Cái phúc của Mẹ đã có ngay từ đầu công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã gìn giữ và bao bọc Mẹ trong ân phúc của Ngài. Từ nguồn ân phúc đó Mẹ đã mang đến cho người khác. Trước tiên là cho người chị họ của mình, bà Elisabeth và đặc biệt là Gioan còn đang ở trong lòng bà Elisabeth, người mà Thiên Chúa đã chọn để dọn dường, Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Elisabeth và Gioan là những người hạnh phúc khi được đón nhận chính Đấng Cứu Thế qua Mẹ Maria.
Mọi người chúng ta trong ngày hôm thì sao? Chúng ta có như bà Elisabeth nhận ra và cảm nghiệm được ân phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta? Đấng Cứu Thế mà mọi người đợi trông ở gần kề bên chúng ta, Đức Giêsu Kitô đang hiện trong mỗi tâm hồn chúng ta, ở xung quanh và hoạt động trong thế giới này. Những con người sống động đã được ân phúc của Chúa như Mẹ Maria, Gioan và cụ thể là bà Elisabeth, họ thật sự hạnh phúc và niềm vui trong cuộc đời của mình, khi họ nhận Đức Giêsu Kitô đang đến và ở với họ.
Chúng ta có thể hiểu được niềm vui sướng của bà Elisabeth, niềm vui của bà liên tục và lớn lao. Từ một phụ nữ son sẻ nay lại được cưu mang vị Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Bà không thể ngờ mình có được niềm vui như vậy sao bao năm chờ đợi gần như tuyệt vọng nay lại được toại nguyện nhưng đây cũng chỉ là niềm vui cá nhân của bà. Niềm vui lớn lao hơn là bà được chính Mẹ Đấng Cứu Thế và Đấng Cứu Thế lại viếng thăm mình. Có lẻ suốt một đời cậy trông, tin tưởng và thờ phượng Thiên Chúa hôm nay hạnh phúc và niềm vui như vậy đã đủ cho bà.
Đời sống đạo của mỗi người chúng ta cũng vậy Chúa và Mẹ luôn đến với chúng ta từng giờ từng phút, chúng ta phải biết nhận ra điều đó, có như vậy hạnh phúc và niềm vui luôn có trong đời sống đạo của chúng ta.

 

8. Làm gương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Có một câu chuyện kể rằng: tại Na Uy, một chiều đông, tuyết rơi nặng từng hạt. Một người đàn ông say rượu lảo đảo bước đi trên tuyết. Cậu con trai 10 tuổi của ông sau khi ngồi chờ cha mình ngoài quán rượu cũng lẽo đẽo theo cha về nhà. Cậu đặt bàn chân nhỏ bé của mình lên những dấu chân hằn sâu trên tuyết mà cha cậu để lại, những bước chân ngả nghiêng, chao đảo. Bất chợt người đàn ông quay lại, nhìn thấy con mình bước thấp bước cao, dáng vẻ như một người say rượu, ông gắt gỏng hỏi nó với giọng lè nhè:
- Mày đi kiểu gì vậy?
Cậu bé trả lời:
- Dạ, con đang đi theo bước chân của cha!
Quả thực. sự gương mẫu thật hệ trọng trong việc giáo dục. Có những bước chân vô tình tưởng chừng như chẳng liên hệ gì đến ai, nhưng vẫn để lại cho đời những dấu vết chẳng phai mờ. Có những bậc làm cha, làm mẹ đã thật ngạc nhiên qua cách ứng xử của con cái sao giống hệt như mình: giận dữ, hống hách, lười biếng giống như là bản sao của chính mình. Có những người đã từng quát lên trong cay đắng "sao con lại hành xử như vậy?". Và dường như nó cũng đang thầm nói lại rằng:"con đang bước theo bước chân của cha mẹ!"
Giống như con suối tưởng như vô tình, cứ uốn mình theo dòng chảy của thời gian. Vậy mà nó vẫn còn để lại dấu vết chẳng phai mờ trên mặt địa cầu bao la rộng lớn. Đời người cho dẫu chỉ là phù hoa, kiếp nhân sinh cho dẫu có vắn vỏi hay lặng lẽ trôi qua vẫn để lại những dấu vết chẳng phai mờ nơi trần gian. Vì vậy mà Nguyễn công Trữ mới bảo rằng:
"Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây phúc để đời về sau"
Hôm nay, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm một bước chân thật đẹp của tình người. Một bước chân của yêu thương không phai mờ qua mọi thời gian. Một bước chân tràn ngập tình yêu thương để có thể băng đồi, lội suối, vượt qua mọi thác gềnh, chẳng sợ gian nan của Mẹ Maria. Một bước chân vồn vã bước đi trong bác ái yêu thương, trong dấn thân phục vụ. Một bước chân có sức mạnh phá tan mọi băng giá của con tim để sưởi ấm tình người. Một bước chân thăm viếng thắm đượm tình Chúa, tình người đến nỗi bà Elisebeth đã nghẹn lời thốt lên: "Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi viếng thăm". Một bước chân nở hoa bác ái, yêu thương trên hành trình Mẹ đã đi qua.
Mẹ Maria đã chẳng để lại cho đời những giáo thuyết cao siêu, những lời hay ý đẹp. Mẹ chỉ để lại cho đời một tấm gương sáng ngời của bác ái, vị tha, của xin vâng và phó thác. Cuộc sống của Mẹ là trang sử thật đẹp để lại cho trần gian. Một cuộc sống tử bỏ ý riêng để phục vụ cho chương trình Thiên Chúa. Một cuộc sống chỉ lo chu toàn thánh ý Chúa. Cho dẫu lời xin vâng là chén đắng, là khổ đau nhưng Mẹ đã làm tất cả vì chỉ mong cho ý Chúa được thực hiên, cho nhân trần được hưởng nguồn ơn cứu độ.
Ước mong mỗi người chúng ta hãy sống một đời yêu thương để mang lại cho đời những dấu tích của hiệp nhất và bình an. Tình yêu sẽ giúp con người vượt qua những nhỏ nhen, ích kỷ để chiến thắng bản thân, để mang lại an bình, tươi vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Không có tình yêu, cuộc sống giống như giòng suối khô cạn. Không sự sống. Không sinh khí và hiển nhiên cũng không còn nguồn sống cho nhau. Cuộc đời cần có tính yêu thì sự sống mới được chăm sóc, được bảo vệ. Cuộc đời cần có tình yêu thì sự sống mới sung mãn và ngập tràn niềm vui.
Ở đâu đó vẫn còn nạn phá thai, nạn bạo hành gia đình là vì thiếu tình yêu. Ở đâu đó vẫn còn tranh chấp, còn chiến tranh, còn hận thù là vì thiếu tình yêu giữa con người với nhau. Ở đâu đó vẫn còn nghi kỵ, kết án, hiểu lầm, ghen tương là vì giòng chảy tình yêu đã khô cạn.
Ước mong mùa giáng sinh cùng với những đèn sao lấp lánh nơi hang đá, mỗi người chúng ta hãy thắp lên cho giòng đời những cây nến sáng của yêu thương, của lòng trắc ẩn trước nỗi khổ của tha nhân, của dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau cho anh em. Nguyện xin Mẹ Maria cùng đồng hành với chúng ta trên những bước chân của yêu thương đang đi tới với anh em trong yêu thương và phục vụ. Amen.

 

9. Sống tình xót thương

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Một lần ngồi chờ xe bên lề đường. Chợt nhìn thấy một bà cụ mù lòa ăn xin đi đến. Tôi nghe rõ nỗi cô đơn của tiếng gậy khua lóc cóc của sáng sớm tinh sương. Tôi nghe rõ sự mệt nhọc của tiếng hát ê a khi bà cụ mù lòa ăn xin đi ngang. Động lòng trắc ẩn tôi đặt tờ giấy bạc vào bàn tay run rẩy của bà, lòng tôi nhẹ bớt đi nỗi cảm thông thương mến. Nhưng điều lạ thường là tôi vẫn cứ nghe hoài tiếng gậy khua lóc cóc… như đòi hỏi tôi điều khó khăn hơn lòng thương hại bình thường, là phải sống nhiệt tình hơn, quảng đại hơn…
Xem ra cho người đói ăn chưa đủ mà con phải dấn thân để xóa đi cái đói, cái nghèo nơi tha nhân. Xem ra an ủi người thất vọng chưa đủ mà còn phải giúp họ đứng lên tự tin xây dựng lại cuộc đời. Xem ra nói lời yêu thương chưa đủ mà còn phải sống công bằng, bác ái, sẻ chia với nhau.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu con người biết động lòng trắc ẩn với nhau. Cuộc đời sẽ không còn người thất vọng bị bỏ rơi, bị loại ra khỏi xã hội nếu con người biết bao bọc và chia sẻ cho nhau. Đáng tiếc, cuộc sống quá tất bật bởi cơm áo gạo tiền khiến con người dễ lãng quên nhau, đôi khi cố tình bỏ rơi nhau. Cuộc đời vẫn còn đó tiếng khóc của tủi hờn cô đơn vì thiếu sự quan tâm nâng đỡ của anh em.
Thiên Chúa luôn động lòng trắc ẩn với con người. Lòng trắc ẩn đã thôi thúc Ngài tìm muôn ngàn cách để thể hiện tình yêu với con người. Lòng trắc ẩn của Chúa thể hiện qua cái nhìn xót xa khi Adam – Eva phạm tội. Lòng trắc ẩn ấy đã khiến Ngài hứa ban Đấng cứu độ để chuộc lại lỗi lầm của Adam. Lòng trắc ẩn ấy được tỏ bày một cách trọn vẹn khi Ngôi Hai xuống thế làm người và ở cùng chúng ta. Chính Con Thiên Chúa khi làm người đã sống hết mình vì con người. Ngài đã tận hiến chính mình để cho nhân loại được sống dồi dào ơn phúc.
Ky-tô giáo là đạo yêu thương. Tình yêu thương không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu ấy luôn đòi hỏi phải làm điều gì đó cho tha nhân. Thấy anh em đói thì đâu cần chờ van xin! Thấy anh em té thì đâu cần chờ van nài! Thấy cảnh cùng khổ thì đâu có thể đứng nhìn một cách thương hại mà phải làm điều gì đó xoa dịu nỗi đau cho anh em.
Điều này Mẹ Maria đã sống và làm gương cho chúng ta. Mẹ đã vất vả vượt dặm đường xa để đến phục vụ chị họ mang thai trong lúc tuổi già. Mẹ còn lưu lại đó suốt 3 tháng âm thầm phục vụ. Mẹ đã sống tin mừng một cách cụ thể qua lòng thương xót với anh em. Chính lòng thương xót ấy mà Mẹ còn nài xin Chúa làm phép lạ hóa nước thành rượu cho tiệc cưới Cana trọn vẹn niềm vui.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vội vã lên đường đến giúp bà Êlidabét trong những ngày bà mang thai và chuẩn bị sinh nở. Xin giúp con mở rộng vòng tay và tấm lòng cho những người đang cần con giúp đỡ. Xin giúp con đừng bàng quan đứng nhìn sự khổ đau của tha nhân mà luôn hăng hái dấn thân để làm sáng danh Chúa qua việc phục vụ của chúng con. Amen.

 

10. Mẹ Maria, một trái tim yêu thương

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một gia đình nọ: Chưa đến ngày sinh nhật, còn đến khoảng hai, ba tháng, vợ đã lo nghĩ đến sinh nhật của chồng, con. Rồi chồng lo sinh nhật của vợ con, và con lo ngày mừng tuổi cho ba mẹ. Duy chỉ một người, không ai lo đến - ông nội già yếu. Và cho đến một ngày - ngày ông nội mất.
Chồng hỏi vợ: Sinh nhật ông ngày nào?
Vợ hỏi lại chồng: Ngày nào là ngày sinh của ông?
Con cái hỏi cha mẹ: Ông sinh ngày tháng nào?
Vậy là cả con, dâu, cháu, chắt phải đi tìm ngày sinh cha ông trong chứng minh nhân dân đề làm bia mộ cho ông.
Đó là ngày sinh nhật đầu tiên và cuối cùng của ông.
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta vẫn vô tình lãng quên nhau. Quên nhau không phải là không có dịp gần nhau, nhìn thấy nhau, nhưng là thiếu sự quan tâm chia sẻ với nhau. Sống bên nhau nhưng vẫn thờ ơ, dửng dưng. Sống bên nhau nhưng vẫn như người xa lạ. Không quan tâm, không chia sẻ, không hỏi han nhau.
Có những đôi vợ chồng sống bên nhau mà vợ mang thai, chồng đau yếu mà cũng chẳng hề hay biết.
Có những người cha, người mẹ chẳng bao giờ quan tâm hỏi han sự học hành, quan hệ bạn bè của con cái chỉ tới khi con phạm pháp lúc đó mới hay thì đã quá muộn.
Có những người con chỉ biết xài tiền cha mẹ nhưng đâu hiểu được những giọt mồ hôi, những cay đắng của đồng tiền vẫn gắn liền với chữ “bạc”.
Chính vì thế, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn, thất vọng vì thiếu sự quan tâm, chăm sóc của anh em. Dòng đời vẫn còn đó những con người đang sống trong tủi nhục ngay giữa những người thân của mình. Dòng đời vẫn còn đó những phận người bị loại bỏ ngay trong mái nhà của mình.
Cuộc sống cần tình yêu, cần sự chia sẻ của tha nhân như cơ thể cần không khí để thở, để sống khoẻ mạnh hơn. Cuộc sống không có tình yêu là hoả ngục, là đoạ đầy của kiếp người chúng ta.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta chiêm ngắm một tấm lòng đầy nhân ái nơi Mẹ Maria. Mẹ đã yêu, đã sống vì tình yêu. Một tình yêu không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi mà thể hiện qua tấm lòng luôn nhạy cảm trước nhu cầu tha thân. Không cần họ van xin. Không cần họ lên tiếng. Tấm lòng nhân ái nơi Mẹ đã hiểu được việc gì cần làm và nên làm. Mẹ Maria khi nghe tin chị họ mình là bà Elizabet mang thai khi tuổi đã già. Mẹ hiểu vợ chồng già cần sự giúp đỡ. Mẹ cảm thông trước những khó khăn của gia đình Giacaria. Mẹ đã đi bước trước để đến đồng hành và giúp đỡ họ.
Vâng, Mẹ đã mang niềm vui đến cho gia đình Giacaria bằng tình yêu nhạy cảm của Mẹ. Mẹ còn mang đến cho gia đình Giacaria tròn đầy niềm vui khi mang Đấng Cứu Thế viếng thăm gia đình họ. Chính vì thế, gia đình Giacaria đã tràn đầy niềm vui. Bà Elizabet đã bộc lộ niềm vui khi thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi”.
Là người ky-tô hữu chúng ta cũng luôn có Chúa ở cùng. Ngài cũng cần đôi chân của chúng ta để mang Ngài đến viếng thăm những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài cũng cần đôi tay của chúng ta để xoa dịu những thương đau cho nhân thế. Ngài cũng cần môi miệng của chúng ta để nói những lời cảm thông chia sẻ đến với tha nhân. Và Ngài cũng rất cần trái tim đầy yêu thương của chúng ta để chạnh lòng thương xót anh em.
Ước gì niềm vui giáng sinh của chúng ta là niềm vui “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” sẽ mang lại cho cuộc đời chúng ta trọn vẹn niềm vui khi mang Chúa đến cho tha nhân qua đời sống yêu thương và phục vụ của chúng ta. Nguyện xin cho mỗi bước chân của chúng ta luôn nở hoa bác ái và yêu thương trên mọi nẻo đường. Amen.
 

CN 4 Mùa Vọng C "Người Thiện Tâm"

Thánh Phaolô đã xác quyết: “Tôi biết tôi tin vào ai”. Niềm tin đó dựa trên nền tảng căn bản là “Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi ban Con Một của mình, để ai tin vào Ngài sẽ được cứu độ”. Tình yêu đó được biểu lộ ra bên ngoài chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được thể hiện bằng hành động cụ thể, đúng đắn thì không phải là tình yêu đích thực. Tương tự như lời của thánh Giacôbê: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”. Chỉ còn hơn một ngày nữa chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm tình yêu, mầu nhiệm giáng thế. Phụng vụ lời Chúa ngày giới thiệu cho chúng ta về nhân vật chính của mầu nhiệm này là Đức Giêsu Kitô. Tình yêu của Ngài được thể hiện cụ thể ngay khi nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria.

  1. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
  2. Bài Đọc I: Mk 5, 1-4a

Tiên tri Mikha cho chúng ta biết một số nét về Đấng cứu thế. Ngài không xuất hiện ở Giêrusalem hay một thành phố lớn, mà ở một thị trấn nhỏ bé, khiêm nhường là Bêlem. Mặc dù một nơi quê mùa như vậy nhưng Đấng Cứu Thế lại có sứ mạng thống lãnh Israel. Chính Ngài sẽ đem đến hòa bình cho muôn dân. Nhờ sự xuất hiện của Ngài mà người ta được “vinh dự lây”, “vinh dự ké”, chứ không còn mặc cảm vì xứ sở quê mùa của mình nữa.

  1. Bài Đọc II: Dt 10, 5-10

Tác giả thư Do Thái thì hình dung Đấng cứu thế đó là một vị Thượng Tế, và chức Thượng Tế của Ngài trổi vượt hơn chức Thượng Tế trong cựu ước nhờ những việc sau đây: Lễ tế Ngài dâng không phải là chiên, bò để xá tội như trong cựu ước, mà là chính thân thể Ngài và việc thực thi thánh ý Thiên Chúa. Lễ tế ấy không cần dâng lên nhiều lần, mà chỉ dâng một lần là đủ.

  1. Tin Mừng: Lc 1, 39-45

Thánh Luca cố ý viết câu chuyện Đức Maria đi viếng bà Isave giống với câu chuyện Đavit mang Hòm Bia về Giêrusalem trong cựu ước, để muốn nói lên rằng Đức Maria là Hòm Bia của Tân ước. Trong cựu ước, Hòm Bia trên đường tiến về Giêrusalem đã ghé ngang nhà ông Ôbed 3 tháng. Còn hôm nay, Đức Maria cũng từ Nagiaret theo hướng Giêrusalem, ghé ngang nhà bà Isave 3 tháng. Đavit đã kêu lên rằng: “Làm sao Hòm Bia của Chúa ghé nhà tôi được?”. Isave cũng kêu lên rằng: “Làm sao mà Mẹ Chúa lại đến thăm tôi?”. Nhờ Hòm Bia ghé thăm mà ông Ôbed mà cả nhà của ông được Thiên Chúa chúc phúc. Đức Maria ghé thăm bà Isave làm cho bà và cả gia đình bà (kể cả hài nhi trong bụng) cũng được chúc phúc. Qua đó chúng ta thấy “Đức Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người”. Thiên Chúa đã hành động một cách cụ thể qua Đức Maria để đem đến tình thương cho nhân loại. Vì vậy chúng ta hãy hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.

Phúc lành của Thiên chúa làm cho Đức Trinh Nữ Maria vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Phúc lành đó làm cho bà Isave hân hoan vui mừng vì được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Phúc lành đó lan tỏa cả đến hài nhi trong bụng bà Isave cũng phải nhảy mừng. Nguồn gốc của những niềm vui ấy chính là sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế.

  1. DẤU HIỆU TÂM HỒN THIỆN TÂM

Tuy nhiên, niềm vui ấy chỉ đến với những ai có “tâm hồn thiện tâm”, những ai đã tích cực dọn đường cho Đấng Cứu Thế.

  1. Tâm hồn khiêm nhường:

Thiện tâm trước hết ở sự khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận của mình hèn yếu, nhỏ bé, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tự sức mình không thể làm gì được, mà tất cả những gì mình có đều do lòng thương xót của Chúa. Vì thế khi nhận được tin làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã nhìn nhận mình chỉ là nữ tì của Chúa. Bà Isave mặc dù vai vế lớn hơn Đức Maria nhưng đã tự hỏi: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi thế này?”. Và Đức Maria cũng đáp lại bằng một bài ca khiêm nhường, Magnificat.

Đức nguyên giáo hoàng Bênêđictô XVI đã từng nhắc nhở các Kitô hữu : “trở lại lịch sử đức tin của chúng ta được đánh dấu bằng mầu nhiệm đan xen giữa sự thánh thiện và tội lỗi”. Nghĩa là nhìn nhận một thực tại nơi bản thân con người là điệp khúc thánh thiện và tội lỗi đan xen với nhau và cột trụ của thực tại đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó con người không kiêu ngạo khi thánh thiện và không chán nản khi tội lỗi vì có Chúa sẽ phán xét và thương xót họ. Thái độ khiêm nhường đó dẫn chúng ta đến việc hoán cải mỗi ngày để trở nên tốt đẹp hơn. Kết quả bên ngoài là việc chúng ta thường xuyên đến với tòa giải tội, còn kết quả bên trong là chúng ta được đổi mới.

  1. Tâm hồn Bác ái

Dấu chỉ thứ hai là việc bác ái. Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có Thiên Chúa thì lửa yêu mến của Ngài khơi dậy nơi đó. Khi Thánh Thần rợp bóng trên Đức Maria, đồng thời với việc mang thai Đấng Cứu Thế, Mẹ cũng được đầy tràn lòng bác ái, đã nghĩ ngay đến bà chị họ của mình. Mẹ đã đi thăm bà chị họ để chia sẻ hai điều. Thứ nhất là giúp đỡ bà chị của mình mang thai trong lúc tuổi già ; nhưng quan trọng nhất là đến để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ mà chỉ hai người đàn bà này hiểu nhau mà thôi. Chắc chắn không thể có người thứ ba hiểu được niềm vui của họ.

Một trong những việc làm trong Năm Gia Đình 2019, “đồng hành cùng những gia đình gặp khó khăn” là một tấm lòng bác ái bằng nhiều hình thức khác nhau dành cho những gia đình đó. Tất cả những điều đó là sự thúc bách của niềm vui ơn cứu độ, muốn san sẻ mọi thứ với mọi người bằng mọi hình thức.

  1. Phục vụ

Lòng bác ái, sự khiêm nhường được kết tinh ở cao điểm là việc phục vụ. Đức Maria không nghĩ đến việc mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, mà đã lặn lội đường xá xa xôi cách trở để viếng thăm và giúp đỡ bà chị họ của mình. Việc phục vụ chỉ có kết quả khi người ta biết khiêm nhường và có một lòng bác ái thực sự. Cha mẹ đã quên mình và vì yêu thương nên đã làm mọi cách để lo lắng cho con cái. Mọi thành phần trong Giáo xứ đã quên mình và vì yêu mến Giáo hội nên đã cộng tác với nhau để dọn lễ Giáng Sinh… và sẽ còn những việc phục vụ khác khi người ta biết yêu thương và quên mình thực sự.

Tóm lại, phụng vụ lời Chúa của Chúa Nhật cuối cùng trong Mùa Vọng giới thiệu cho chúng ta rõ hơn về Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế đó xuất hiện sẽ đem đến niềm vui và hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên Đấng Cứu Thế đó chỉ ở nơi những tâm hồn thiện tâm, tức là những người khiêm nhường, bác ái và phục vụ theo gương của Đức Trinh Nữ Maria. Xin Chúa qua lời cầu bầu của Mẹ cho chúng ta học được guơng khiêm nhường, bác ái và phục vụ như Mẹ, để chúng ta cũng được niềm vui ơn cứu độ trong ngày Chúa Giáng Sinh sắp tới và trong suốt cuộc đời chúng ta.       




CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG C
1. Gioan Tiền Hô

Bên bờ sông Giocđan, Gioan đã chu toàn sứ mạng của mình. Ông đã rao giảng sự sám hối ăn năn, đó chính là điều kiện để được đón nhận vào Nước Trời. Nước Trời hiện giờ là đời sống ân sủng, là trở nên phần tử của Giáo Hội. Còn Nước Trời mai sau chính là niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

Gioan đã rao giảng bằng những lời nói đơn sơ, không văn hoa bóng bảy: Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần đến. Hãy dọn đường cho Chúa: quanh co uốn chon gay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho nay và nơi cao phải bạt xuống. Ông không phải chỉ rao giảng bằng lời nói suông, mà còn bằng chính đời sống của mình. Và như vậy, lời nói của ông luôn đi đôi với việc làm. Ông sống, ông làm trước đã, rồi sau đó ông mới giảng, mới dạy, nên lời giảng dạy của ông luôn có một sức lôi cuốn và hấp dẫn.

Thực vậy. Đời sống của ông là một đời sống khắc khổ: Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng. Thái độ và cung cách của ông là thái độ và cung cách của một kẻ khiêm nhường: Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài. Ông chỉ biết một việc, đó là tìm mọi cách để làm vinh danh Chúa: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi. Ông đã sai các môn đệ đến với Chúa Giêsu, có ý cho các ông nhận biết Chúa. Dù các môn đệ có từ bỏ mình mà đi theo Chúa, thì ông cũng không buồn. Chính ông đã giới thiệu Chúa Giêsu cho đám đông: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Và dù dân chúng có tin theo Chúa, thì ông cũng không bao giờ tỏ ra hậm hực và tức tối. Ông sẵn sàng rút vào bóng tối, để Chúa được nhận biết, và ông đã chết một cách đau thương trong ngục tù của vua Hêrôđê.

Sau cùng, đời sống của ông là một đời sống cầu nguyện. Thực vậy, ông đã ở trong hoang địa ngay từ thời còn niên thiếu, để được lắng nghe tiếng Chúa và để được kết hiệp mật thiết với Ngài. Ông đã chu toàn sứ mạng của một vị tiền hô, như lời tiên tri Isaia đã loan báo: Đây ta sai sứ thần của Ta đi trước mặt ngươi, để dọn đường cho ngươi.

Chúng ta cũng vậy. Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên một vị tông đồ nhiệt thành, một vị tiền hô hăng hái của Chúa. Cái nguyên tắc hướng dẫn cho mọi hành động của chúng ta, đó là ở mọi nơi và trong mọi lúc, với bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng hãy tìm vinh danh Chúa và lợi ích của các linh hồn. Vì thế, hãy thực thi tinh thần của Gioan: Ngài can phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi. Hãy làm mọi việc, miễn sao Đức Kitô được rao giảng và được nhận biết.

Muốn chu toàn sứ mạng ấy, thì lời nói mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống niềm tin của chúng ta. Hay nói cách khác: Hãy làm rồi mới giảng, như Chúa Giêsu. Ngài đã khởi sự thi hành trước đã, rồi sau đó mới loan truyền, chứ không như bọn biệt phái, đã bị Chúa kết án: Họ nói mà không làm.

Mỗi người chúng ta phải là một Gioan tiền hô của Chúa, thế nhưng chúng ta đã nói gì và nhất là đã làm gì để chuẩn bị cho những người chung quanh đón nhận Chúa? Hay chỉ vì những gương mù gương xấu của chúng ta với một đời sống khô khan và nguội lạnh, đã làm thui chột hạt giống Tin Mừng đã nảy mầm trong cõi long những người anh em.

 

2. Hãy dọn đường Chúa đến - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Phần đông thế giới đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, các cửa tiệm tràn ngập những thiếp mừng Giáng Sinh, cây thông Giáng sinh bao nhiêu quà Giáng sinh, món ăn, quần áo, đồ chơi Giáng sinh. Ở Việt Nam chúng ta nghèo khó, nhỏ bé, chỉ có hơn 6 triệu dân người Công giáo, thế mà đâu đâu cũng chuẩn bị Giáng sinh, nhiều cửa tiệm đã trình bày đầy dẫy những bông hoa và cây thông tuyệt đẹp, những cây thông giả lấp lánh ánh điện màu, những cành lá xanh tươi, mềm dịu hơn những cây thông thật rất nhiều. Tôi nghĩ những cây thông đó rất đắt tiền, tôi không dám hỏi chỉ đứng ngẩn người chiêm ngắm hồi lâu, rồi đành bỏ đi, lòng trí thầm khao khát có một cây về trưng hang đá.

Các thương gia vì lợi lộc tiền của đã dọn đồ mừng lễ Giáng sinh từ lâu và rất công phu, khó nhọc, còn các con Chúa mang tiếng đạo dòng thì sao?

Tôi tới một số nhà thờ vẫn im lìm, chưa thấy có gì là chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Một hai nhà thờ thông báo chương trình Tĩnh tâm Giới trẻ từ ngày 12-15 tiếp theo là gia trưởng, hiền mẫu, bô lão, nghĩa là chỉ chuẩn bị sơ sơ dọn mình mừng lễ Giáng sinh trước một hai tuần.

Nhưng phải dọn mừng lễ Giáng sinh thế nào cho xứng đáng, đúng theo Tin Mừng của Chúa hôm nay mà thánh Gioan đã hô hào: “Hãy dọn đường Chúa đến”.

Khung cảnh đế quốc Rôma và đất nước Do thái đã biểu hiện cả thế giới. Thánh Gioan tiền hô đã dấn thân vào đó để hô hào dọn đường cho Chúa Cứu thế đến với nhân loại. Sứ mệnh của ông thật lớn lao, nhưng đầy chông gai khó khăn. Ông đã thấy từ Hoàng đế Tibêriô đến Tổng trấn Philatô, các vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria và cả các Thượng tế Hanna, Caipha, đạo cũng như đời, quan cũng như dân, lòng người như những con đường trong hoang địa, đầy những thung lũng hố sâu, những núi đồi hiểm trở, những khúc quanh co, gồ ghề, lồi lõm. Làm sao có thể sửa cho thẳng, lấp cho đầy, bạt cho thấp, uốn cho ngay, san cho phẳng, những con đường đó làm ách tắc giao thông với Thiên Chúa mà còn gây nhiều tai nạn kinh khủng cho con người.

Chúng giống như con đường 13 từ Pleiku về Nha Trang không ai quên được cả một Quân đoàn II thời Cộng hòa đầu năm 1975 đã chạy tháo lui theo con đường đá xuyên qua núi đồi, thung lũng, hố sâu, gồ ghề, quẹo khúc quanh co giữa rừng rậm mịt mù, hàng trăm ngàn người, hàng ngàn xe cộ bít nghẽn kẹt cứng lối đi, hàng chục ngàn người chạy loạn, hỗn độn, xô đẩy, bơ vơ, chết mất xác trên con đường kinh hoàng đó. Con đường chỉ dài gần 200 cây số nếu nó được sửa cho ngay thẳng, lấp cho đầy, bạt cho thấp, uốn cho ngay, san cho phẳng thì đoàn xe, đoàn người đó chỉ mất độ 2-3 giờ là thoát chết mà còn an bình vô sự nữa.

Hình ảnh con đường kinh hoàng ngoài mặt đất phản ảnh con đường bên trong tâm hồn, nó còn kinh hoàng tai hại hơn nhiều như Đức Giêsu đã nói rõ: “Từ lòng con người, phát xuất những ý định xấu như tà đâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mc.7,21-22). Cho nên thánh Gioan đã khẩn thiết kêu gọi những núi đồi kiêu ngạo phải bạt xuống lòng tham không đáy phải lấp đầy, những gian dối quanh co, phải uốn cho ngay, những chia rẽ hận thù phải san cho an hòa, những bất công gồ ghề phải cho sòng phẳng. “Rồi hết mọi người sẽ được thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”. “Những nòi rắn độc hại không thể trốn được cơn thịnh nộ Thiên Chúa sắp giáng xuống, đừng tự phụ mình là con cháu Abraham, cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt, đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Lc. 3, 7-9).

Lời kêu gọi của Thánh Gioan rất cấp bách: Nếu không mau mau dọn đường Chúa đến thì cơn thịnh nộ Thiên Chúa sắp giáng xuống, cái rìu đã đặt sẵn vào gốc cây rồi, nếu biết mau mau dọn đường cho Đấng Cứu thế đến thì mọi người sẽ được ơn cứu độ, “sẽ được cởi bỏ áo tang khổ nhục và muôn đời được mặc lấy ánh huy hoàng của vinh quang Thiên Chúa, sẽ được đội lên đầu vinh quang của Đấng vĩnh cửu..” (Bài đọc I). Đấng mà bao nhiêu tiên tri đã dọn đường cho Ngài đến, Đấng mà dân chúng đã trông chờ hàng ngàn năm rồi và tiên tri Isaia đã hô hào đón rước từ hơn 500 năm trước. Nay Ngài đang đến rồi: thật là một công việc rất vĩ đại sắp xảy ra, thật vinh phúc cho mọi người đang sống mà các tổ phụ, các tiên tri, các ông cha họ khát mong mà không được đón rước. Ngài đã đến rồi, chỉ còn chốc lát nữa Gioan sẽ chỉ cho họ được thấy: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng cứu độ trần gian”. Ngài sẽ đến giải phóng cho họ khỏi cảnh đui mù, câm điếc, tàng tật, tê liệt, quỷ ám, khỏi cảnh tối tăm sự chết. “Ngài sẽ dẫn họ đi trong niềm hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng thương xót và sự công chính của Ngài” (Bài I)

Lạy Chúa, xin cho tâm hồn con trở nên chính lộ “rộng rãi bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục nhân hậu, từ tâm trung tín, hiền hòa tiết độ” (Gal.5,22-23) mới mong được đón rước Chúa đến.

 

3. Sám hối canh tân – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy đã yêu’)

Ðời chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang Nước sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.

Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.

Vua Sở bảo:

- Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?

Tô Tần thưa:

- Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao?

Vua Sở khẩn khoản nói:

- Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.

Một đất nước mà vật giá đắt đỏ: "Củi quế gạo châu", vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.

*****

Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Ðó chính là Gioan Tẩy Giả: "Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa sửa lối cho thẳng để Người đi" (Lc 3,4).

Nếu Tô Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là ngôn sứ của dân tộc Do Thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời: Từ hoàng đế Tibêriô đến quan tổng trấn Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các vị thượng tế Hanna và Cai pha; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng hố sâu, núi đồi hiểm trở.

Gioan nhắc lại lời ngôn sứ Isaia: "Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, p hải san cho phẳng (Lc 3,5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường vào cõi lòng:

Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.

Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.

Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn tự kiêu.

Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.

Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.

Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em.

Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn Cứu Ðộ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận.

*****

Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ dàng khi phải sửa chữa lỗi lầm.

Xin ban cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành động cụ thể, và can đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón rước Chúa đến mang nguồn vui ơn Cứu Ðộ. Amen.

 

4. Dọn đường cho Chúa - Huệ Minh

Vọng là chờ và chờ thì phải có tinh thần sẵn sàng, chuẩn bị, đón...

Là người, ai trong chúng ta cũng có tâm thức, cũng có cảm thức về sự chờ đợi. Có thể là chờ đợi một chuyến xe, có thể là chờ đợi một con đò hay có thể chờ người mẹ thân thương đi chợ về. Mỗi sự chờ đợi đều có kết quả nhất định của nó. Chờ xe để ta được đến nơi ta đến, chờ đò để được sang bờ bên kia và chợ mẹ đi chợ về chắc chắn không ít thì nhiều ta cũng có bịch chè táo xọn hay túi chè bà ba.

Ngoài sự chờ đợi thường ngày, chờ đợi mang tính con người, mang tính vật chất như chờ mẹ về có quà chợ thì người Kitô hữu lại có sự chờ đợi lớn hơn những chờ đợi thường ngày đó. Chờ đợi này của con người mang tính cách thiêng liêng, mang tính cách quyết liệt và quyết định cho đời của con người.

Chính vì vậy với Mùa Vọng, Hội Thánh kêu mời chúng ta sẵn sàng cho cuộc chờ đợi thiêng liêng, chờ đợi ơn cứu độ, chờ đợi, chuẩn bị, dọn đường cho Đức Kitô ngự đến.

Sự chờ đợi này hẳn nhiên là quan trọng hơn đợi đò, đợi xe, đợi mẹ bởi lẽ đợi xe không có thì đợi chuyến sau, đợi đò không được thì đợi thêm chuyến nữa và có thể hôm nay mẹ đi chợ về không có gì và mẹ hẹn ngày mai bởi lẽ mẹ... hết tiền. Sự chờ đợi này hẳn nhiên căn cốt cũng không phải là dọn dẹp làm hang đá cho đẹp, hoành tráng, mà là dọn con đường tâm hồn mình.

Trang Tin Mừng rất ngắn hôm nay thánh Luca gợi lên cho ta thấy cách thức đón Chúa trở lại theo lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả là “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,4-6).

Chúa Giêsu Kitô đang ngự đến. Chúa đã đến rồi đó nhưng rồi có rất nhiều ‘núi cao, hố sâu’ ngăn cản giữa ta và Chúa và giữa Chúa với ta để Chúa khó đến hay thậm chí với chúng ta.

Đơn giản một con đường đang đi thênh thang bỗng dưng có hố sâu và có những đồi cao thì không tài nào qua được dù con người có cố gắng cách mấy. Với hố sâu, qua thì lọt tỏm xuống hố ngay và với đồi cao thì không tài nào đi qua được dù có đổ mồ hôi sôi con mắt.

Hố sâu ngăn cách làm cho con người khó và không gặp được Chúa đó chính là hố sâu tội lỗi và núi đồi kiêu căng, tự phụ. Và hẳn nhiên, dễ hiểu đó là để Chúa đến được với ta và ta đến được với Chúa chỉ có một cách thế duy nhất là phải bạt mọi núi đồi, san phẳng mọi hố sâu để Chúa ngự đến chiếm lĩnh tâm hồn ta.

Khởi đi bằng hành động sám hối. Sám hối là dọn con đường của lòng mình để Chúa ngự đến như có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5,14).

Rất khó để con người biết mình sai lỗi đó là căn bệnh thời đại của con người ngày hôm nay. Chính vì thế, khởi đầu là mình biết mình sai lỗi, rồi chấp nhận lỗi của mình để mình hoán cải bằng một hành động thiết thực.

Hành động thiết thực nhất ta có thể làm đó là ta quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi, ăn năn dốc lòng chừa vì lòng mến Chúa và lãnh nhận Bí tích Hòa Giải để ta hòa giải với Chúa.

Tâm tình hòa giải đó là tâm tình mà Thiên Chúa mong muốn, Thiên Chúa mời gọi nơi mọi người chúng ta. Ta, một khi được giải thoát khỏi tội lỗi, ta được trở nên thánh thiện và được sống đời đời (x. Rm 6,22-23).

Trở lại với những trang đầu của Thánh Kinh và lịch sử cứu độ, ta không thể nào quên được cái biến cố định mệnh tách lìa ta với tình yêu Thiên Chúa đó là do con người kiêu ngạo. Chỉ vì tưởng chừng ta bằng với Thiên Chúa để rồi kiêu căng huênh hoang như ông bà nguyên tổ giơ tay hái trái cấm.

Khởi đi sự kiêu căng của ta từ trong suy nghĩ đến việc làm. Sự kiêu căng ấy thể hiện ở chỗ tự cho mình là ‘cái rốn của vũ trụ’, không coi ai ra gì, dần dần dẫn đến một tình trạng nguy hiểm hơn cả là cũng chẳng còn kính sợ Thiên Chúa. Sống tự phụ, cứ nghĩ rằng mình có thể làm được tất cả mà chẳng cần ơn Chúa, và đây là một thái độ hết sức nguy hiểm, vì người đó loại Chúa ra khỏi cuộc sống của mình.

Khi ta kiêu căng, chắc chắn Chúa không đến được với ta và ngược lại tha nhân cũng chẳng đến với ta được.

Khi ta kiêu căng, ta sẽ cô độc trong sự tự phụ của mình. Kết quả là ta đi đến chỗ bất mãn với tất cả và tự diệt vong (x. 2Tx 1,7-9). Cho nên phải bạt những núi đồi kiêu căng này.

Và chính khi ta biết khiêm nhường, ta mới thấy được rằng nếu không có Chúa thì tất cả những gì mình có, mình làm ra được chỉ là con số không. Chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm được điều này khi ngài nói: “Tôi rất vui mừng và tự hào về những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2Cr 12,9).

Chúa Giêsu đến với ta hàng ngày không phải dưới hình ảnh Hài nhi Giêsu hay hình ảnh vị Thẩm phán cánh chung trong ngày Quang Lâm, nhưng dưới hình ảnh những người anh em thân cận, những người Chúa gởi đến với ta trong cuộc sống.

Có vô vàn ngăn trở khiến chúng ta không thể gặp Chúa nơi tha nhân. Đức Giêsu đã nói rõ: “Từ lòng con người, phát xuất những ý định xấu như tà đâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mc 7,21-22).

Vì những ngăn trở như thế này đã khiến cho hai người láng giềng cách nhau một bức vách không thể đến với nhau được, khiến cho hai người bạn cùng chung sở làm không nhìn mặt nhau; thậm chí cha mẹ, con cái, anh em ruột thịt... chung sống dưới một mái nhà, ngồi quanh một mâm cơm, nhưng tâm hồn xa nhau vạn dặm.

Dặt mình trước mặt Chúa trong mùa Vọng này, ta nhớ lại chính Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Ngài hiện diện trong các anh chị em chung quanh nên những gì chúng ta làm cho những người chung quanh là làm cho chính Ngài (Mt 25,40).

Khi cảm nhận được điều đó, dọn đường Chúa đến với ta không gì khác hơn là dọn đường cho anh chị em chung quanh có thể đến được với mình, là xoá bỏ đi những ngăn cách giữa ta với tha nhân mà ta giáp mặt hằng ngày. Chỉ khi nào giữa chúng ta và mọi người chung quanh không còn phân ly ngăn cách, thì lúc con đường mới dọn xong và Chúa mới có thể đến được với ta.

“Hãy dọn đường Chúa đến” bằng những hành động cụ thể: sửa đường cong queo của tinh thần vô trách nhiệm, của lòng ích kỷ, của tính hay mánh mung lừa đảo bằng những con đường ngay thẳng của tinh thần liên đới, chia sẻ, thật thà, biết tôn trọng sự thật; lấp mọi hố sâu của ganh ghét, chia rẽ, hận thù, thiên kiến, nghi kỵ bằng sự khoan dung tha thứ, bằng sự tin tưởng thiện chí vào nhau; bạt mọi núi đồi của lòng kiêu hãnh, thói kiêu căng tự mãn bằng tinh thần khiêm nhu; lấp đi những hố sâu lòng tham lam, vơ vét, bất hoà bằng cách đặt lợi ích chung lên trên quyền lợi của cá nhân; san bằng những lượn sóng gồ ghề nói hành, nói xấu nhau bằng nói tốt, nghĩ tốt về nhau; san bằng những con đường bi quan yếm thế của những thất vọng, của những ngày đen tối, của những lỗi lầm trong quá khứ bằng những cái nhìn tích cực, lạc quan tràn đầy hy vọng nơi chính mình, nơi kẻ khác và nơi cuộc sống... Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể đón Chúa đến nơi tha nhân giữa lòng xã hội của ngày hôm nay.

Trong sâu lắng của tâm hồn, ta hãy xin Chúa hãy cất khỏi chúng ta tất cả những gì làm cho chúng ta xa lìa Chúa, và xin ban cho chúng ta tâm tình thống hối ăn năn để hoán cải theo tinh thần Tin mừng, để ngày Chúa đến chúng ta hân hoan đón tiếp Ngài.

 

5. Sa mạc.

Sa mạc vốn là một chủ đề quen thuộc trong Kinh Thánh. Thực vậy, những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Maisen phải lẩn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và lãnh nhận sứ mạng giải phóng dân tộc. Dân Do Thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm trời, đây là thời gian thanh luyện cần thiết trước khi được đặt chân vào miền đất hứa. Và điển hình hơn cả đó là 40 đêm ngày trong sa mạc của Chúa Giêsu. Tại đây, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.

Qua phim ảnh, chúng ta thấy sa mạc đồng nghĩa với nắng cháy, nghèo nàn và trơ trụi. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bỏ bớt đi những cái không cần thiết, chúng ta mới lắng nghe được tiếng Chúa và thanh luyện được niềm tin?

Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi, Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết va làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.

Từ trong sa mạc, Gioan đã nghe được tiếng Chúa, đã lãnh nhận sứ mạng của ngài và đã loan truyền cho mọi người: Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống. Lời kêu gọi này, Chúa chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị nữa.

Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố cáo hành vi tội ác của Hêrôđê. Số phận của Gioan cho chúng ta thấy ông đã đi đến tận cùng sứ mạng đã lãnh nhận. Ông đã dám nói thẳng và nói thật bởi vì ông không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy, không có gì để mất mát.

Còn chúng ta thì khác. Chén cơm manh áo hay một ít vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thoả hiệp và sống dối trá. Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của mỗi người chúng ta trong thời buổi hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi và dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến nhiều người nếu không bán đứng lương tâm, nếu không uốn cong miệng lưỡi, thì cũng chấp nhận thoả hiệp bằng một thái độ yên lặng.

Mùa Vọng là mùa của sa mạc. Có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới dễ dàng nhận ra tiếng Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ nghị lực để gióng lên tiếng của Chúa: Hãy dọn đường Chúa đến.

 

6. Chết.

Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng của năm phụng vụ cũng như mùa vọng của cuộc đời chúng ta. Chúng ta không phải chỉ đón nhận việc Chúa đến như một biến cố lịch sử trong đêm Giáng sinh, cũng không phải chỉ đón nhận việc Ngài đến mỗi lần chúng ta lên rước lễ, mà đặc biệt là còn đón nhận việc Ngài đến vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta, cũng như vào ngày sau hết của vũ trụ vật chất này. Vậy để đón mừng Chúa đến, chúng ta đã chuẩn bị như thế nào?

Chúng ta nên thực thi sứ điệp Gioan Tiền Hô đã gởi đến cho người Do Thái bên bờ sông Giócđan, đó là hãy ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi để quay trở về cùng Chúa. Ông đã thẳng thắn cảnh cáo họ: Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ cõi lòng sám hối của các ngươi, bằng không thì này đây cái rìu đã được đặt dưới gốc cây. Và cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị chặt và ném vào lửa.

Chúng ta hãy nghiêm chỉnh tự vấn lương tâm xem: nếu như lúc này Chúa đến với tôi, thì liệu tôi có sẵn sàng để trình diện, để tính sổ cuộc đời với Ngài hay không?

Có một cậu bé 17 tuổi, người Hoà Lan, đã từng trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc Xã hồi thế chiến lần thứ II, nhưng rồi cậu bị bắt trở lại và bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành quyết, cậu đã gởi cho bố cậu lá thư như thế này:

“Thưa bố quý yêu!

Thật là khó khăn lắm con mới viết được những hàng chữ này cho bố, để báo tin rằng con đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, điều đó sẽ xảy đến với con. Và chỉ trong thoáng chốc, thế là con sẽ về với Chúa. Nói cho cùng đấy có phải là một cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi hay không? Con cảm thấy rõ ràng mình đang ở gần bên Chúa. Con đã chuẩn bị mọi sự cần thiết để đón chờ cái chết. Con nghĩ rằng con sẽ đỡ đau khổ hơn bố nhiều vì con biết rằng mình đã xưng thú hết mọi tội lỗi và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản.

Con của bố”.

Ước chi vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, chúng ta cũng nói lên được như vậy. Mùa Vọng là thời gian thuận tiện để chúng ta chuẩn bị những hành trang cần thiết cho cuộc gặp gỡ định mệnh với Chúa. Thế nhưng cho đến lúc này, chúng ta đã làm được những gì để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mạng ấy.

 



CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG - C

(Gr 33,14-16; 1 Tx 3,12 - 4,2; Lc 21,25-28.34-36)

--------------------------------

ĐỨNG VỮNG TRƯỚC MẶT CON NGƯỜI

“Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”
(Lc 21,36).

I. CÁC BÀI ĐỌC:

Giữa những bộn bề của cuộc sống, con người dễ bị cuốn vào vòng xoáy của những lo lắng, tranh đấu đến độ nhiều khi thấy mình kiệt sức. Lời Chúa lại nhắc nhớ con người về những mong manh của vũ trụ, đất trời và con người trong cuộc sống trần thế này; đồng thời, hướng con người về “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2 Pr 3,13).

1. Bài đọc 1:

Giữa những nhiễu nhương của thời cuộc, đất nước bị đế quốc Babylon đe doạ xâm chiếm, ngôn sứ Giêrêmia loan báo về một ngày Thiên Chúa sẽ thực hiện điều tốt lành khi cho xuất hiện một Đấng Công Chính, Đấng cai trị theo lẽ công bình chính trực và đem lại nền hoà bình cho dân Israel.

Đứng trước những cuộc xâm lăng của các đế quốc mà trước mắt là đế quốc Babylon, các vua Giuđa, theo cái nhìn của ngôn sứ Giêrêmia, không cai trị đất nước theo đường lối của Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa an ủi dân bằng lời sấm ngôn về một vị vua tương lai phát xuất từ dòng dõi Đavít. Đặc điểm của vị vua này là “sẽ trị nước theo lẽ công minh chính trực”, nghĩa là đi theo đường lối công minh và ngay thẳng của Thiên Chúa vì danh hiệu của Người là “Đấng Công Chính”.

Thật vậy, nhờ đường lối cai trị trong công minh chính trực của vua tương lai mà đất nước Giuđa sẽ được cứu thoát và dân thành Giêrusalem sẽ được an cư lạc nghiệp. Rồi người ta sẽ nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng trung tín với lời hứa của Người, bởi vì Người là Đấng Công Chính; đồng thời họ đặt tên cho thành là: “Thiên Chúa là sự công chính của chúng ta”. Tên tượng trưng của thành Giêrusalem cũng là tên của Thiên Chúa, của vị vua tương lai, ngụ ý nói đến một thời đại hoàn toàn tốt đẹp trong đó dân Chúa được thống nhất dưới vương quyền của Vua Công Chính.

“Sẽ đến những ngày” (33,14), tất cả những lời hứa của Thiên Chúa sẽ được thực hiện. “Trong những ngày ấy”, “vào thời đó” (x. 33,15.16), đất nước sẽ được thái bình dưới sự cai trị của Vua Công Chính. Ngày đó là ngày nào? Thời đó ra sao? Vua đó là vua nào? Sự xuất hiện của Vua Giêsu trong thời Tân Ước sẽ hoàn tất cách đầy đủ và viên mãn những sấm ngôn của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Giêrêmia.

2. Bài đọc 2:

Thánh Phaolô phái ông Timôthê đi thăm cộng đoàn Thêxalônica; và khi trở về, ông đã báo lại cho thánh nhân tình hình của cộng đoàn. Trước những tin tức tốt lành về đời sống đức tin của các tín hữu tại Thêxalônica, thánh Phaolô dâng lời tạ ơn Chúa và viết thư khích lệ họ tiếp tục sống trong trong đức tin, tình bác ái và sự thánh thiện.

Thật vậy, trong khi chờ ngày Đức Kitô quang lâm, thánh Phaolô xin Chúa chúc lành cho tình thương giữa ngài với các tín hữu Thêxalônica, giữa các thành viên trong cộng đoàn đối với nhau và đối với mọi người “ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”. Đồng thời, thánh nhân xin Chúa cho họ được kiên vững trong đức tin và ngày càng trở nên thánh thiện.

Như thế, đối với thánh Phaolô, cách thức xứng hợp để đợi chờ ngày Chúa Giêsu trở lại, để không có gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa, là nuôi dưỡng đời sống đức tin, sống tình bác ái huynh đệ và ngày càng trở nên thánh thiện. Đó là những điều mà ngài đã dạy cho các tín hữu Thêxalônica và họ cũng đang sống như vậy, nên ngài khích lệ họ hãy tiếp tục và tấn tới nhiều hơn nữa.

3. Bài Tin Mừng:

Đoạn Tin Mừng Luca tiên báo về ngày quang lâm qua những dấu chỉ của trời đất. Những biến đổi của vũ trụ gây ra sự sợ hãi cho muôn dân, nhưng lại là niềm hy vọng về ơn cứu chuộc cho những ai trung tín, tỉnh thức và cầu nguyện chờ mong Chúa lại đến.

Trước hết, bằng lối văn khải huyền, tác giả Luca mô tả sự biến động lớn lao của các tinh tú, các quyền lực trên trời và của thời tiết dưới đất; những biến động gây nên sự hoang mang, sợ hãi, khiếp đảm của muôn dân trên mặt đất vì họ không hiểu chuyện gì sắp giáng xuống địa cầu. Nhưng đối với những người tin thì đó là những dấu chỉ của ngày Con Người đến trong quyền lực và vinh quang. Ngày đó, những ai tin vào Đức Kitô có thể đứng thẳng và ngẩng đầu chờ Đấng Cứu Độ đến ân thưởng.

Sau nữa, ngày ấy sẽ đến bất ngờ như “một chiếc lưới bất thần chụp xuống trên đầu”, sẽ “ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất” (x. Lc 21,34-35), nên chỉ những ai sống tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện, mới đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người (x Lc 21,36). Ngày Thiên Chúa quang lâm sẽ là ngày ân thưởng cho những ai sẵn sàng chờ đón Người và không để lòng ra nặng nề vì những toan tính sự đời.

Chúa Kitô sẽ trở lại vào một ngày không ai ngờ. Những dấu chỉ nơi trời đất, thiên nhiên làm cho muôn dân hoang mang, sợ hãi, nhưng đối với những ai tin tưởng, luôn tỉnh thức và cầu nguyện, không để cho lòng trí bị ngủ mê trong thế sự, thì đó là ngày ân thưởng, ngày họ có thể đứng thẳng và ngẩng đầu để nghênh đón Chúa.

II. GỢI Ý ÁP DỤNG:

1/ Giữa những biến động của thời cuộc đất nước trước sự xâm lăng của các đế quốc, dân Chúa lo lắng, hoang mang, thì ngôn sứ Giêrêmia tiên báo về sự xuất hiện của một Đấng Công Chính phát xuất từ dòng dõi vua Đavít, Đấng sẽ trị nước theo lẽ công minh chính trực, mang lại sự thịnh vượng và an bình cho dân cư Giêrusalem. Thiên Chúa đã hiện thực hoá lời hứa này nơi Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng đến mang “bình an cho loài người Chúa thương” (x. Lc 2,14). Những ai đi trong đường lối công minh chính trực sẽ gặp được Đấng Công Chính và sẽ được hưởng sự thịnh vượng và an bình mà Vua Công Chính mang đến cho tâm hồn họ.

2/ Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Thêxalônica rằng cách thức xứng hợp để đợi chờ ngày Chúa Giêsu trở lại, để không có gì đáng chê trách trước nhan Thiên Chúa, là nuôi dưỡng đời sống đức tin, sống tình bác ái huynh đệ và ngày càng trở nên thánh thiện. Lời của thánh nhân xưa vẫn mang tính thời sự cho các kitô hữu thời nay. Củng cố đời sống đức tin, nuôi dưỡng tình bác ái huynh đệ và hướng đến đời sống thánh thiện là con đường mà các kitô hữu được mời gọi bước vào trong khi đón chờ Đức Kitô quang lâm.

3/ Bằng lối văn khải huyền, tác giả Luca tiên báo ngày Chúa quang lâm qua các dấu chỉ của vũ trụ, trời đất, thiên nhiên. Đối với những ai chưa sẵn sàng, thì đó sẽ là ngày hoang mang, sợ hãi; còn đối với những ai đang tỉnh thức, sẵn sàng, thì đó là ngày của niềm vui hội ngộ, ngày hân hoan đứng thẳng và ngẩng cao đầu nghênh đón Chúa trở lại. Cuộc sống với nhiều áp lực và bận rộn để lo cho cuộc sống đời này dễ làm cho các kitô hữu không thiết tha, thậm chí quên lãng ngày Chúa trở lại. Sự mong manh của phận người trước chiến tranh, hận thù, bệnh tật, nghèo đói, thiên tai… là những dấu chỉ nhắc nhớ các kitô hữu về sự tỉnh thức và sẵn sàng cho ngày cuối cùng, ngày Chúa trở lại trong vinh quang.

III. LỜI NGUYỆN CHUNG:

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ và tất cả chúng ta cần phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Với niềm khao khát mong đợi và sẵn sàng cho ngày Đức Kitô trở lại vào thời sau hết, cộng đoàn chúng ta cùng tha thiết cầu nguyện:

1. Hội Thánh có sứ mạng thức tỉnh nhân loại và loan báo Tin Mừng cứu độ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh, cách riêng cho các vị chủ chăn luôn hăng hái nhiệt tình và biết dùng những phương thế Chúa ban để chu toàn sứ mạng ấy.

2. Kỳ thị, hận thù và bạo lực đang gây ra biết bao đau thương cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi dân tộc được gia tăng ý thức tôn trọng và liên đới, luôn đối xử với nhau bằng tình bác ái yêu thương như lời thánh Phaolô khuyên nhủ.

3. Chúa nói: “Các con phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu biết giữ tâm hồn thanh sạch, quyết tâm xa lánh tội lỗi, và tích cực làm việc lành thánh, hầu mỗi ngày trở nên xứng đáng hơn trước mặt Chúa.

4. “Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì các con sắp được cứu rỗi.” Xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta luôn ý thức và tự hào về ơn gọi cùng sứ mạng của mình, không ngừng nỗ lực trở nên chứng tá cho tình yêu và sự hiện diện của Chúa ở giữa thế gian.

Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đang khao khát đợi chờ ngày Con Chúa quang lâm; xin nhận lời nài xin của chúng con và giúp chúng con luôn tỉnh thức cầu nguyện, giữ vững đức tin cùng niềm hy vọng cho tới ngày Đức Kitô ngự đến. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn