1
21:38 +07 Thứ hai, 29/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 396


Hôm nayHôm nay : 82306

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 472393

Tổng cộngTổng cộng : 28026677

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Suy niệm Chúa nhật III Phục sinh

Thứ sáu - 17/04/2015 20:57-Đã xem: 1045
Đức tin của các tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Đức Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh. Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Đức Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.
Suy niệm Chúa nhật III Phục sinh

Suy niệm Chúa nhật III Phục sinh

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH
Phụng Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh dâng hiến cho chúng ta những lời chứng mới về biến cố Phục Sinh; nhưng mầu nhiệm vinh quang này
được bày tỏ ở đây trong mối liên hệ với mầu nhiệm Thương Khó của Đấng Mê-si-a chịu đau khổ.

 

Cv 3: 13-15, 17-19
Trong diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giê-ru-sa-lem, thánh Phê-rô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mê-si-a. Lời công bố này vang dội trực tiếp trong đoạn trích Tin Mừng Lu-ca hôm nay.


1Ga 2: 1-5a
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan suy gẫm về những đau khổ mà Đức Ki-tô phải chịu vì tội lỗi của chúng ta, nhờ đó chúng ta đạt được ơn tha thứ.


Lc 24: 35-48
Thánh Lu-ca thuật lại cho chúng ta chuyện Đức Giê-su hiện ra cho các môn đệ của Ngài vào buổi chiều Phục Sinh. Trong câu chuyện này, Chúa Giê-su giải thích cuộc sống và cái chết của Ngài và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo rồi cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài, cũng như ơn tha thứ tội lỗi.

 

BÀI ĐỌC I (Cv 3: 13-15, 17-19)

Đây là bài diễn từ thứ hai trong số các bài diễn từ mà thánh Phê-rô ngỏ lời với dân chúng Giê-ru-sa-lem, được sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại. Bài diễn từ thứ nhất được công bố vào ngày lễ Ngũ Tuần.

Bối cảnh của câu chuyện thật ngoạn mục. Thánh Phê-rô và thánh Gioan lên Đền Thờ để tham dự “buổi cầu nguyện lúc giờ thứ chín” (tức ba giờ chiều: Cv 3: 1). Niềm tin của họ tháp nhập rất tự nhiên vào khuôn mẫu phụng vụ Do thái giáo. Hai Tông Đồ chú ý đến một người ăn xin ngồi bên cửa Đền Thờ. Thánh Phê-rô nhìn thẳng vào anh, nắm chặc lấy tay anh và kéo anh đứng lên. Anh đứng dậy được, vừa đi vừa nhảy nhót theo chân hai Tông Đồ. Mọi người nhận ra anh, kinh ngạc và chạy ùa đến. Khi thấy đám đông, thánh Phê-rô cất tiếng ngỏ lời với họ.

Đề tài thánh Tông Đồ khai triển tóm gọn điều cốt yếu của bài giảng Tông Đồ tiên khởi, như sách Công Vụ nhắc lại cho chúng ta qua năm bài diễn từ của thánh Phê-rô (Cv 2: 14-39; 3: 12-26; 4: 9-12; 5: 29-32; 10: 34-43) và một bài diễn từ của thánh Phao-lô (Cv 13: 16-41).

Trong bài diễn từ thứ hai này, thánh Phê-rô vẫn còn nhắm đến người Do thái. Sự khó khăn lớn nhất là làm sao cho người ta chấp nhận rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là Đấng Mê-si-a.

 

1.Anh em là Dân Giao Ước:

Thánh Tông Đồ bắt đầu gây hứng phấn nơi thính giả của mình khi nhắc lại cho họ rằng họ là dân Giao Ước, Giao Ước này Thiên Chúa đã ký kết với các tổ phụ: Ảp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp.

Ấy vậy, chính “Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su”. Thánh Phê-rô gọi Đức Giê-su bằng tước hiệu “Tôi Trung” để hướng lòng trí của người nghe đến hình ảnh người tôi trung chịu đau khổ của I-sai-a. Vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị này đã tiên báo rằng Người Tôi Trung của Đức Chúa sẽ bị khinh bĩ và chịu đau khổ.

Tước hiệu “Tôi Trung” dành cho Đức Giê-su sẽ được lập lại một lần nữa trong các bài diễn từ Tông Đồ; tước hiệu này đem đến một lập luận quan trọng khi đối mặt với thái độ ngập ngừng của những người chờ đợi một Đấng Mê-si-a vinh quang và quyền năng.

 

2.Anh em đã nộp Người:

Đoạn thánh Phê-rô đưa ra lời buộc tội trực tiếp khi dẫn chứng những tương phản:

-Quan Phi-la-tô, người ngoại giáo, đã nhận ra sự vô tội của Đức Giê-su và muốn thả Ngài; nhưng trái lại, chính anh em, dân Chúa chọn, đã chối bỏ Ngài.

-Chính Ngài là Đấng Thánh và Đấng Công Chính, nhưng anh em lại chuộng một tên sát nhân hơn là Ngài.

-Chính Ngài là Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng anh em đã ra tay giết Ngài. 

 Ở đoạn văn này, chúng ta gặp lại một dấu ấn mà thánh Lu-ca đã nhấn rất mạnh trong bài trình thuật của mình về cuộc Thương Khó của Đức Giê-su Ki-tô: trách nhiệm của quan Phi-la-tô về cái chết của Đức Giê-su thì ít hơn dân chúng, những kẻ, bị các thượng tế khích động, kêu gào đóng đinh Ngài. Thật thế, quan tổng trấn Rô-ma đã công bố đến ba lần: “Ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả”.

Còn đối với hai phẩm tính “Đấng Thánh và Đấng Công Chính”, đây là hai tước hiệu Kinh Thánh thường đi kèm theo tên của những tôi trung vĩ đại, ví dụ như ông Mô-sê (thánh Phê-rô sẽ nêu đích danh Mô-sê trong bài diễn từ này). Hai tước hiệu này vẫn sẽ là những tước hiệu Ki-tô học rất cổ xưa, nhưng căn cứ trên lời minh chứng của thánh Phê-rô: Đức Giê-su đã thực hiện ở nơi bản thân Ngài những lời Kinh Thánh: Ngài là Đấng Thánh và Đấng Công Chính mà các ngôn sứ đã tiên báo.

 

 

3.Thiên Chúa đã phục sinh Ngài:

 

Đây là Mặc Khải cốt yếu, lời quả quyết không thể tin được. Vị Tông Đồ còn nhấn mạnh: “Về điều này, chúng tôi xin làm chứng”.

Đoạn, bằng một lý lẽ rất thấm thía, thánh Phê-rô làm yên lòng những người mà thánh Tông Đồ buộc tội: tội ác mà họ đã phạm vì không hiểu biết, thì Thiên Chúa đã sử dụng để  thực hiện kế hoạch của Ngài; họ có thể được thụ hưởng ơn cứu độ và đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nếu họ sám hối mà trở lại cùng Thiên Chúa.

Chắc chắn lời kêu gọi sám hối này sẽ được lập đi lập lại như một điệp khúc trong các bài diễn từ các Tông Đồ, nhưng lời kêu gọi này được đặt ngay sau việc gợi lên những đau khổ tất yếu mà Đấng Mê-si-a phải chịu, mặc lấy một sức mạnh đặc biệt.

 

BÀI ĐỌC II (1Ga 2: 1-5)

Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan, được viết vào cuối thê kỷ thứ nhất gởi cho cộng đồng Ki-tô hữu miền Tiểu Á.

Thánh Tông Đồ ngỏ lời với các tín hữu này với cung giọng trìu mến của người cha; thánh nhân biết những khó khăn và cuộc chiến đấu của họ chống lại những lạc thuyết đang dấy lên trong cộng đoàn. Thánh nhân muốn soi sáng cho họ và củng cố niềm tin của họ.

“Hỡi anh em là những người con bé thơ của tôi”, lối xưng hô này được lập đi lập lại thường hằng trong thư tạo nên nét đặc trưng của bức thư này. Đây là cách nói biểu lộ tấm lòng ưu ái. Trong đoạn trích thư hôm nay, thánh Tông Đồ đưa ra hai lời khuyên bảo: một liên quan đến cuộc chiến đấu chống lại tội lỗi và một khác về sự hiểu biết Thiên Chúa.

1.Cuộc chiến đấu chống lại tội lỗi (2: 1-2):

Trong thư này, thần học Gioan được khai triển chung quanh ba trục: Thiên Chúa là ánh sáng, Thiên Chúa là Công Chính và Thiên Chúa là Tình Yêu.

 

A.Nhận ra mình là tội nhân:

Đề tài: “Thiên Chúa là Công Chính” được liên kết với đề tài tội lỗi. Chính vì sự công chính mà Thiên Chúa cứu độ chúng ta; và sự công chính cứu độ này có tên gọi là “Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính”.

Người Ki-tô hữu đích thật biết nhận ra rằng mình là tội nhân, trái với những tiến sĩ giả tự cho mình là hoàn hảo. Hậu cảnh của những lời kêu gọi đạo lý này mang sắc thái của cuộc bút chiến: những nhà phổ biến lạc thuyết Ki-tô giáo tự cho mình là tinh tuyền này xuất thân từ những cộng đoàn này và đã gây xáo trộn ở giữa lòng các cộng đoàn. Thánh Gioan đồng hoá họ với những kẻ dối trá khi nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1: 8). Khi phát biểu bằng đại từ: “chúng ta”, thánh Tông Đồ khiêm tốn tự đặt mình vào hàng các người Ki-tô hữu có thể phạm tội.

 

B.Đức Giê-su là Đấng Bảo Trợ của chúng ta:

“Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính”. Danh xưng “Đấng Bảo Trợ” là ngôn từ pháp lý xuất phát từ động từ Hy-lạp có nghĩa “gọi đến bên cạnh để cứu giúp”. Chúng ta không gặp thấy danh xưng này trong các bản văn Tin Mừng Nhất Lãm cũng như trong các thư của thánh Phao-lô, nhưng chỉ trong các bản văn thuộc truyền thống Gioan. Trong Tin Mừng Gioan, danh xưng “Đấng Bảo Trợ” được dùng để chỉ vai trò của Chúa Thánh Thần (x. Ga 14: 16-20); tuy nhiên, trong thư thứ nhất này, danh xưng này được dùng để chỉ Đức Giê-su Ki-tô, Ngài là Đấng Bảo Trợ của chúng ta, mà thánh Gioan xác định phẩm tính là “Đấng Công Chính”.

Phẩm tính này ám chỉ đến sự vô tội của Đức Giê-su, vì thế, không nhắm đến tính chất Công Chính hoàn hảo của Ngài cho bằng đến chức năng thẩm phán của Ngài. Đức Giê-su Ki-tô là Đấng công chính hóa chúng ta, bởi vì Ngài trở nên một người như chúng ta và hiến dâng mạng sống mình làm “của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta”.

Thánh Gioan dùng từ “của lễ đền tội” gợi lên tức thời hy lễ xóa tội của dân Ít-ra-en; nhưng trái với hy lễ này chỉ có hiệu lực xoá tội của vị thượng tế và cộng đoàn Ít-ra-en, còn của lễ đền tội của Đức Giê-su Ki-tô có tầm mức hoàn vũ.

Ở đây cũng thế, ngoài nỗi bận lòng mục vụ của mình, thánh Gioan nhắm đến việc lên án những kẻ lạc giáo, họ tách biệt ở nơi Chúa Giê-su, một Đức Giê-su phàm nhân với một Đức Ki-tô thiên giới, Đấng trở nên một với Đức Giê-su phàm nhân vào lúc chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, nhưng rồi sẽ rời bỏ Đức Giê-su phàm nhân này vào lúc Khổ Nạn. Vì thế, chính Đức Giê-su phàm nhân, chứ không phải là Con Thiên Chúa, chịu chết trên thập giá. Theo thánh Gioan, những ai phủ nhận mầu nhiệm Nhập Thể, hệ luận tất yếu cũng phủ nhận luôn mầu nhiệm Cứu Chuộc.

 

2.Sự hiểu biết về Thiên Chúa:

Một vấn đề có tính thời sự đặt ra cho các cộng đoàn miền Tiểu Á đang bị các nhà rao giảng ngộ đạo làm chao đảo đức tin của mình là làm thế nào biết được là chúng ta biết Thiên Chúa đích thật. Mục đích cốt yếu của thánh Gioan là làm yên lòng các tín hữu, đem lại cho họ niềm xác tín rằng họ đang ở trên chính lộ. Tiêu chuẩn để nhận biết Thiên Chúa đích thật không cốt ở nơi những suy luận trừu tượng, hay ở nơi thần khải nội tâm, nhưng ở nơi sự hiểu biết thực nghiệm này, tức là thực thi các điều răn mà Chúa Giê-su dạy.

 

A. Tuân giữ các điều răn của Chúa:

Vậy thì, đây là những điều răn nào? Ở đây, thánh Gioan xem ra vẫn ở trong tính tổng quát của các giáo huấn Tin Mừng; tuy nhiên, xuống dưới một chút, thánh nhân xác định: “Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta” (1Ga 3: 23). Những đòi hỏi này chính xác là những lời nhắc nhở xuyên suốt bức thư này; chính là những đòi hỏi mà các nhà ngụy rao giảng không tuân giữ. Ví dụ, các nhà rao giảng ngộ đạo thuyết tự cho mình đạt được một tình trạng hiểu biết về những mầu nhiệm thiên giới, điều này khiến họ khinh thường những người dốt nát không thể đạt đến những phạm vi cao siêu này.

Chính vì thế thánh Gioan nhấn mạnh rằng người Ki-tô hữu phải tin vào Đức Giê-su Ki-tô và tuân giữ điều răn đức ái, có như thế họ mới có thể vào trong cõi tâm giao với Thiên Chúa, trong mối liên hệ cá nhân với Chúa Cha và Chúa Con. Chúng ta gặp lại ở đây đề tài hiệp thông với Thiên Chúa, đây là đề tài trung tâm của bức thư và là nền tảng của sự hiểu biết chân thật về Thiên Chúa. Như vậy, thánh Gioan định nghĩa “ngộ đạo Ki-tô giáo”.

 

B.Hiệp thông với Thiên Chúa:

“Còn hể ai giữ lời Người truyền dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo”. Trong lời phát biểu này, “Tình yêu Thiên Chúa” muốn nói lên điều gì? Phải chăng “tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta” thực sự nên hoàn hảo nơi người Ki-tô hữu trung tín; hay là “tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa” trở nên hoàn hảo qua việc tuân giữ điều răn đức ái?

Chúng ta gặp thấy câu trả lời nhờ một đoạn văn song song ở đó lập lại cùng một kiểu nói: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo” (1Ga 4: 12). Như vậy, chính “tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta” mới làm cho chúng ta nên hoàn hảo. Tuy nhiên, xuyên suốt bức thư này, thánh Gioan xem việc tuân giữ các điều răn là bản trắc nghiệm tình yêu của người Ki-tô hữu đối với Thiên Chúa. Lời nhắc nhở này của thánh Tông Đồ được lập đi lập lại nhiều lần trong Diễn Từ Từ Biệt của Chúa Giê-su: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14: 21).

Quả thật, hai viễn cảnh được trộn lẫn mật thiết với nhau. Vả lại, hai mệnh để phụ: “Còn hể ai…” và “Nếu chúng ta…”  đều dẫn đến cùng một câu kết luận: “Tình yêu Thiên Chúa thực sự nên hoàn hảo”. Mục đích thật sự ở đây là làm cho người Ki-tô hữu dự phần vào cuộc sống thần linh. Đây là ý nghĩa của động từ “ở lại” mà thánh Gioan thường hằng lập đi lập lại.

 

TIN MỪNG (Lc 24: 35-48)

Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh mời gọi chúng ta lắng nghe và suy gẫm những lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ Ngài. Vào Chúa Nhật trước, chúng ta đã đọc bài trình thuật của thánh Gioan, vào Chúa Nhật này, chính là bài trình thuật của thánh Lu-ca.

Trước đoạn trích Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca trình thuật cho chúng ta sự kiện Chúa Giê-su Phục Sinh đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau. Như vậy, ngày Phục Sinh này là ngày dài nhất: khởi đầu với việc các thánh nữ đến viếng mộ lúc trời vẫn còn tối cho đến tận đêm khuya khi Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ. Quả thật, Chúa Giê-su chấp nhận đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau suốt ngày hôm ấy cho đến lúc trời đã xế chiều: trong khi đồng bàn với hai ông, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ thì họ nhận ra Ngài, nhưng Ngài biến mất (x. Lc 24: 29-31). Ngay lúc đó, hai môn đệ này quay trở lại Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ đang tụ họp tại đó.

 

1.Kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Em-mau:

Chẳng quan trọng nếu thánh Lu-ca đã cô động những biến cố vào cùng một ngày. Điều đáng chú ý chính là thánh ký luôn luôn nêu bật chiều kích Giáo Hội ở nơi cử chỉ của hai môn đệ trên đường Em-mau. Chính ở nơi các Tông Đồ mà hai người môn đệ quy chiếu về. Nhóm Mười Một vẫn là những chứng nhân cốt yếu của sự kiện Phục Sinh. Tuy vậy, kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Em-mau không bị giảm thiểu, nhưng đã được củng cố và được thu tóm một cách nào đó vào trong kinh nghiệm cộng đoàn. Vả lại, hai môn đệ này chắc chắn rất thân cận với các Tông Đồ, vì họ biết ở nơi các Tông Đồ bí mật tụ họp cùng nhau.

Như trong các bài trình thuật biến cố Phục Sinh của Tin Mừng Gioan, ở đây Đức Giê-su cũng bất ngờ xuất hiện giữa các môn đệ Ngài. Thân thể bằng xương bằng thịt của Ngài, như Ngài sắp chứng tỏ điều đó, vẫn như trước kia khi Ngài còn sống giữa họ, nhưng cũng hoàn toàn khác. Đức Giê-su, Đấng trở về bên cạnh Chúa Cha trong vinh quang, đã không rũ bỏ nhân tính của Ngài. Sau khi sống lại, Đức Giê-su vẫn mãi mãi là Thiên Chúa và con người.

 

2.Bình an cho anh em:

Lời cầu chúc này, chúng ta đã thấy rồi, còn hơn cả lời chào hỏi thông thường theo tập quán của người Do thái, đây là bình an thời Mê-si-a, bình an mà Chúa Giê-su đã hứa ban vào lúc Ngài tham dự Tiệc Ly với các môn đệ vào ngày thứ năm tuần trước đó: “Thầy để lại cho anh em bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14: 27). Bình an mà Đấng Phục Sinh trao ban cho các môn đệ là bình an của Nước Trời, bình an của một đời sống trong Thánh Thần sự thật (Ga 16: 13), nhiều lần được gợi lên trong Tin Mừng Lu-ca (Lc 2: 14; 2: 29; 7: 50; 8: 48; 10: 5-6; 11: 21; 19: 38; 19: 42; 24: 36).

 

3.Tầm quan trọng của bằng chứng thể lý:

Thánh Lu-ca nhấn mạnh hơn thánh Gioan về nỗi khiếp sợ của các môn đệ, về sự cứng tin của các ông và về những vết thương khổ nạn mà Chúa Giê-su đưa ra để làm bằng chứng rằng Ngài đã thực sự sống lại. Thánh ký ngỏ lời với những người Hy-lạp và những người Rô-ma, những người này đã không biết đến Kinh Thánh. Chính vì thế thánh ký không trích dẫn Kinh Thánh, nhưng kể ra việc Chúa Giê-su ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông.

Cử chỉ này không xem ra là bằng chứng riêng lẽ. Để chứng nhận Đức Giê-su thật sự đã sống lại, thánh Phê-rô sẽ công bố, giữa những bằng chứng khác: “Chúng tôi đã cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10: 41). Trong chương 21 Tin Mừng Gioan, vì các môn đệ chưa nhận ra Ngài, Chúa Giê-su đã dọn sẵn một bữa ăn cho các môn đệ Ngài, vì các ông đã vất vả đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì cả. Sau mẻ lưới cá lạ lùng, Ngài nói với họ: “Anh em đến mà ăn!”. Xem ra Chúa cùng ăn với họ những thức ăn mà Ngài đã nướng sẵn trên than hồng.

 

4.Tầm quan trọng của bằng chứng Kinh Thánh:

Bằng chứng Kinh Thánh cũng quan trọng không kém gì bằng chứng thể lý. Chúa Giê-su đã nhấn rất mạnh bằng chứng Kinh Thánh này khi Ngài giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24: 44).

Cũng như hai môn đệ trên đường Em-mau, Chúa Giê-su cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem để các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài cũng như những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước.

Việc “ôn cố tri tân” này (nhắc lại Cựu Ước để hiểu Tân Ước) được Đấng Phục Sinh ban cho các môn đệ hai lần trong cùng một ngày này (trước hết, hai môn đệ trên đường Em-mau; sau đó, các môn đệ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem) chắc chắn không thể thiếu được. Không phải trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca cho chúng ta biết rằng các môn đệ quy tụ chung quanh Đấng Phục Sinh đã hỏi Ngài: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không ?” (Cv 1: 6) đấy sao? Với những tâm trí tăm tối ngu muội này phải nhắc đi nhắc lại mới mong các ông ngộ ra rằng vương quốc mà Kinh Thánh loan báo không là vương quốc Ít-ra-en trần thế, nhưng là vương quốc Thiên Chúa hoàn vũ. Biến cố Phục Sinh không là điểm kết thúc của một cuộc mạo hiểm thần linh, nhưng là khởi điểm của một công trình bao la mà bây giờ được trao gởi cho các môn đệ thực hiện bằng cách công bố cho muôn dân nước lòng sám hối và ơn tha thứ tội lỗi.

 

 5. Bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem:

Thành thánh Giê-ru-sa-lem là nơi Chúa Giê-su hoàn tất sứ mạng của mình và cũng là nơi Giáo Hội khởi sự thi hành sứ mạng của mình, đó là tất cả quan điểm của sách Tin Mừng Lu-ca.
 

Chia Sẻ Lời Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc

Chúng ta có thể gồm tóm các bài Phụng vụ hôm nay vào trong hai chữ: BẺ BÁNH. Bẻ bánh là gì? Là cầm bánh bẻ ra và chia cho người khác. Bẻ bánh là chia sẻ.

Trong một cuộc du ngoạn dưới nắng hè, chúng ta tìm một chỗ bóng mát, ngồi lại với nhau, cùng chia sẻ lương thực, thức ăn nước uống, để bồi bổ thể xác. Trong Giáo hội tiên khởi cũng như trong Giáo hội ngày nay, ngày Chúa nhật, ngày của Chúa, chúng ta họp lại với nhau để làm lại việc quan trọng là chia sẻ hay bẻ bánh Lời Chúa. Vì chia sẻ hay bẻ bánh Mình và Máu Thánh Chúa trong phép Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn.

Các bài đọc Phụng vụ hôm nay minh chứng cho chúng ta hai điều đó. Trong bài đọc thứ nhất chúng ta nghe Thánh Phêrô bẻ bánh Lời Chúa cho dân chúng. Bài giảng thật súc tích, ngắn gọn dựa trên các điểm sau đây: Chúa Giêsu Nagiarét chính là Con Thiên Chúa, nhưng anh em đã chối bỏ Đấng Công Chính, Đấng ban sự sống và giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài từ cõi chết sống lại. Điều đó chúng tôi xin làm chứng. Vậy anh em hãy trở lại để được ơn tha thứ. Đó là bài giảng đầu tiên và là khuôn mẫu cho các bài giảng thuyết.

Trọng tâm các bài giảng là mầu nhiệm Chúa đã chết, “Chính Ngài là của lễ đền tội không những cho chúng ta mà thôi, nhưng còn cho cả thế giới” (Gio 2-5… ) và Ngài đã Phục sinh sống lại. Giáo hội, theo Luca cho biết, đã ý thức ngay từ đầu việc Chúa Phục sinh, bằng ba lối dẫn nhập này: một là lời cung chứng của các Tông đồ. Các ông không bao giờ nghĩ tới sự việc sẽ xảy ra như vậy. Họ tỏ ra ngờ vực là khác. Luca nhấn mạnh đến thái độ của họ khi nhìn thấy Chúa hiển linh: “họ ngạc nhiên, bối rối lo sợ, nghi ngờ tưởng là bóng ma”. Nhưng rồi họ mới nhận thức đó là sự thật; hai là nhờ sự suy niệm Kinh Thánh, mà Chúa đã dạy cho họ trên đường Emmaus (24, 25-27) cũng như cho tất cả (24, 44-47); ba là nhờ thực hành nghi thức Thánh Thể. Hai môn đệ đã nhận ra Ngài khi bẻ bánh (24,35) và cộng đoàn tiên khởi ân cần tham dự vào mầu nhiệm Thánh Thể (Cv. 2,42 và Icor. 10,46). Ba lối dẫn nhập nhưng cùng đi về một hướng.

Giáo hội có bổn phận “bẻ bánh Lời Chúa” thì chúng ta người tín hữu có bổn phận nhận lãnh Lời Chúa, lắng nghe và thực hành. Mỗi Chúa nhật có một bài giảng, mỗi năm có 54 tuần lễ, tức là có 54 bài chia sẻ Lời Chúa. Nhưng chúng ta đã lãnh nhận như thế nào? Đành rằng có nhiều thứ bài giảng cũng như bánh chia có nhiều loại, bánh mặn, bánh lạt, bánh khô, bánh ướt, thì Lời Chúa, qua thừa tác viên, đến với ta cũng vậy, có bài dài, hoặc giảng buồn ngủ. Thánh Vinh Sơn Ferrier giảng 20.000 ngàn bài và mỗi bài không dưới 3 tiếng đồng hồ. Thánh Phaolô xưa cũng giảng dài, vì Ngài tự cho là lỗi bổn phận: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Lời Chúa”. Tại Troy, Ngài giảng từ chiều tối đến nửa đêm. Có anh chàng ngồi trên cửa thành lầu cao, ngủ gật té chết, Ngài làm cho sống lại và tiếp tục giảng cho đến sáng. Anh em cũng hãy thông cảm với người rao giảng Lời Chúa. Thánh Phanxicô Balesiô sau bài giảng đầu tiên đã phải nằm liệt giường vì lo sợ. Nhưng rồi Ngài trông cậy Chúa và Ngài giảng với tất cả tâm hồn; Ngài định nghĩa “nhà giảng thuyết là người lấy tâm hồn mình và ném vào tâm hồn thính giả”. Giáo luật dạy Linh mục phải dọn kỹ càng, trình bày thích hợp với điều kiện thính giả và nhu cầu thời đại (GL 769) và buộc phải giảng lễ trong ngày Chúa nhật (GL. 767-2) thì Giáo dân có trách nhiệm phải lắng nghe và tuân giữ các điều mà chủ chiên tuyên giảng với tư cách là thày dạy đức tin (GL. 212-1).

Việc quan trọng thứ hai mà Phụng vụ gợi ý hôm nay là việc bẻ bánh Thánh và chia sẻ Mình và Máu Thánh Chúa trong Thánh lễ. Ngày Chúa nhật là ngày mà Giáo hội dạy chúng ta đi tham dự Thánh lễ và kêu gọi chúng ta chia sẻ Mình và Máu Thánh Chúa, của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Hai phần ba thế giới đang đói vì thiếu của ăn thì có bao nhiêu người cũng đang đói Chúa. Thánh Lucianô, Giám Mục Nocomedia, bị bắt giam trong tù. Giáo dân lo lót lính canh và mang lễ vật vào thăm. Ngài khuyên họ can đảm giữ vững Đức Tin. giáo dân quây quần xung quanh Ngài và nói: Chúng con đói Chúa. Không có nơi thuận tiện làm lễ, Ngài liền nằm ngửa dưới đất, đặt của lễ trên ngực và làm lễ để cho giáo dân được rước Chúa.

 

“Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con lời Thánh Kinh, xin làm cho tâm hồn con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con” (Đáp ca)
 

Niềm tin thắng vượt sợ hãi

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Khi thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niềm tin giống như một người yếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có thể làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.

Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngưạ. Cậu con thường với vẻ do dự:

- Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình. Nghe con nói như thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:

- Với đèn sáng này, thấy rõ đến đâu?

Cậu trả lời: con thấy rõ tới nửa đường ra cổng.

Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: từ đó con nhìn tới đâu nữa?

- Con nhìn tới cổng, cậu đáp.

Ông giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:

- Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.

Thế là từ đấy cậu không còn sợ nữa.

Thưa anh chị em,

Chính các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng là bóng ma. Tin Mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối Phục Sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước đó, đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một “bóng ma” đi trên mặt nước. Các ông kêu rú lên “ma kìa!”, nhưng đã được trấn an ngay: “Thầy đây, đừng sợ!” (Mc 6,47-50)

Chúng ta có thể đặt hai câu truyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự Phục Sinh và thiên tính của Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác Phục Sinh, Ngài muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.

Chúa đã quở trách các tông đồ: “Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ?” lời quở trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạn thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy, vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: “Tại sao lại hoảng hốt và nghi ngờ” (Có Thầy đây mà còn sợ gì?). rồi Ngài ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã “thức dậy”rồi: Ngài đã sống lại rồi. Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã Phục Sinh và đang sống với anh em.

Tuy nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và mới an táng trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn và thân xác mang thương tích của Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: “Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy Thầy đây?”. Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt để các ông thấy: đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những chứng nhân tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.

Chúa Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập gía, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu Phục Sinh luôn được bình an và phấn khởi vui mừng.

Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, cho dù chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày xưa, có khi còn gần gũi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.

Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân loại. Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là sứ giả của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Có hai điều Chúa Giêsu thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. “Đừng sợ, hãy tin!” “Vì sao sợ, hỡi những kẻ yếu tin?” “Thầy đây, đừng sợ!” “Maria, tại sao bà khóc, bà tìm ai?” “Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế? Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin?”… Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay buồn, dù tin rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: chúng ta tin Chúa Phục Sinh mà chẳng khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!

Người Kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thật xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Đức Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt được sợ hãi trước bóng tối của cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết: “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”.
 

Sưu tầm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn