1
14:33 +07 Thứ ba, 30/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 284

Máy chủ tìm kiếm : 4

Khách viếng thăm : 280


Hôm nayHôm nay : 54623

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 538995

Tổng cộngTổng cộng : 28093279

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Suy niệm Chúa nhật II Mùa Chay

Thứ năm - 26/02/2015 21:24-Đã xem: 1140
Việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết, hay nói một cách khác, mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi mãi vẫn là một điều khó chấp nhận, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồi đối với dân ngoại. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Suy niệm Chúa nhật II Mùa Chay

Suy niệm Chúa nhật II Mùa Chay

 

PHÚC ÂM: Mc 9, 1-9 (Hl 2-10)

"Đây là Con Ta rất yêu dấu".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"  Đó là lời Chúa.

 

Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình

Maccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính “sáu ngày" trên. Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo cách thông thường. Đối với người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen với Kinh thánh, thì "sáu ngày" trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó là thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa: "Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi Môsê" (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ: "sáu ngày"... "Môsê"... "đám mây"... "núi "... Trình thuật của Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà “Lễ lều tạm" (Yom Sukkôt) tại Israel lại xảy ra sáu ngày sau "Lễ xá tội" (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một nhà trú, một lều tạm.
 
Phêrô, Giacôbê và Gioan
 
Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể không để ý đến. Chính ba" môn đệ này đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm bồi sinh bé gái 12 tuổi (Mc 5,37), và chính ba ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Người tại Ghét-sê-ma-ni (Mc 14,83).
 
Họ có phải là những con người được đặc ân không? Không phải vậy. Họ chỉ là ba con người sống những cảm nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều nhận được một ân riêng, độc nhất; ơn đó không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để thông truyền cho kẻ khác.
 
Chỉ có ba ông, đi riêng với Người, lên một ngọn núi cao...
 
Đó là những điều kiện theo truyền thống Kinh thánh, để "gặp gỡ Thiên Chúa". Một đầu óc hiện đại có thể phản ứng lại. Thiên Chúa ở khắp nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy! Nhưng chúng ta là loài có thân xác nên không thể tránh bỏ một số những biểu tượng. Riêng tôi; tôi thấy hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy tiến lên với "Thiên Chúa" (Xh 24,1-34,2; 1V 18,20-19,8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một núi trong i.âm hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa. Hãy biết tận dụng những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu không chấp nhận rời bỏ thung lũng, nương theo nhưng con đường mòn mà leo cao, nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thả dốc trên những đỉnh cao trước không khí loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu tách xa đám động dân chúng.
 
Và Người biến đồi hình dạng trrớc mắt các ông
 
Khi con người cố diễn tả những tương quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan niệm:
 
Một quan niệm "bi quan": Cần phải tiêu diệt thế gian để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là quan niệm của Thánh Au tinh, Luther và phái Tin lành phục hưng cách mạnh mẽ.
 
- Một quan niệm "lạc quan": Chính "thế gian này" là Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của con người và thế giới và làm giảm nhẹ ảnh hướng của Thiên Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người Công giáo, thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã đến.
 
- Nhưng cũng có một "quan niệm thứ ba biến dạng" Vâng, xác thịt là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo ra. Vâng, thế gian là tạo vật của Chúa, nhưng đó chỉ là "hình ảnh", là "họa ảnh" tương tự của Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian không cần bị "tiêu diệt", nhưng cần được "biến dạng". Trên núi, Đức Giêsu không để một ánh sáng từ ngoài rọi chiếu vào, nhưng chính Người, trong thân xác Người, đã là ánh sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh sáng, trong suốt, tinh thần. Bên Phương Đông thuộc Chính thống giáo, lễ Biến Hình là đại “Lễ", Lễ tôn kính Hình tượng, Con người được Thiên Chúa xuyên qua. Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một "kỹ thuật", người họa sĩ hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức Giêsu biến hình, để chứng tỏ anh ta có khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh - của Thiên Chúa hay không. Đó là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu. Nếu những cách nhìn này có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của Phép rửa, bí tích đã "dìm" ta trong Đức Kitô, đã làm cho ta được "tham dự vào bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1,4). Đúng ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác động của Chúa là Thần khí" (2 Cr 3,18).
 
Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu nhiệm phi thường đó - nghĩa là sự biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy đọc. Tuy nhiên, sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng tỏa ra: "Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang" (Cl 3,3-4).
 
Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.
 
Đừng coi thánh Phêrô và thánh Maccô, thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta. Đó là những con người rất thực tế những kẻ bình dân, không phải là các nhà trí thức. Các ông mới biết mở miệng, nhưng chưa biết phải nói thế nào về cảm nghiệm phi thường đã "xảy đến" cho mình. Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là "giặt sạch nhất", "trắng nhất". Vấn đề không nằm ở yếu tố đó.
 
Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh Thánh biểu tượng: Màu trắng là màu của thế giới trên trời và không gì ở trần thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là màu của những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20). Ao trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tín, áo trắng của cô dâu, áo trắng của linh mục lúc dâng lễ đều lấy lại hình ảnh biểu tượng này. "Anh em được mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3,27). "Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất tử" (l Cr 15,53). "Anh em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới" (Cl 3,10).
 
Ông Êlia cùng Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.
 
Môsê và Elia tượng trưng cho sự mong đợi của Israel được ghi trong "lề luật" và các "ngôn sứ". Chúng ta cũng! cần ghi nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra “làm vì". Đó là khuôn mặt tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời với Đức Giêsu và đang nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa. Đó là thứ ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa trên những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là một "cửa ngõ" dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?
 
Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc khái cho "trên núi". Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-24). Vả lại theo thánh Maccô, thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh trên (Mc 9,11-13).
 
Cùng với Đức Giêsu, thời cánh chung đã khởi sự.
 
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều”. Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông sợ quá.
 
Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước đó vài hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh cả nhóm 'tuyên xứng đức tin" (Mc 8,27-33). Chính ông đã đóng vai satan cám dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (Mc 8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một “người chứng" không vẽ vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông. Sau này, ông sẽ viết: Đó không phải là những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo; chính chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại đời ông: Phêrô không phải là con người chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh chàng làm nghề biển! Chúng ta có thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông phải chấp nhận. Ông không biết phải nói gì.
 
Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người".
 
Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là "Sự hiện diện của Thiên Chúa" (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds 14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (Mc 1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng phán này gửi cho các môn đệ.
 
Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi cơ bản này, ta không thể vận dụng "những suy luận" cá nhân, cũng không nhờ vào "những nghiên cứu Kinh Thánh", nhưng qua cách cầu nguyện "riêng một mình trên núi"; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính đích thực của Đức Giêsu mà ta biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều vượt khỏi khả năng nắm bắt của con người.
 
Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩ a là gì?
 
Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu.

 

KHÔNG AI NHÌN THẤY

Không ai nhìn thấy hoặc có thể chạm vào tình yêu, thế nhưng người ta vẫn tin tình yêu có thật và cảm nhận được. Tuy nhiên, không phải cứ nói yêu là thương, mà phải biết cách yêu thương. Có những cái xuôi mà ngược, thuận mà nghịch, và ngược lại. Ở đây muốn nói về tình yêu thương cốt lõi: Gia đình.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt, cho bùi”. Nghe chừng “ngược đời” lắm! Nghịch mà thuận, Thánh Phaolô đã xác định: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Dt 12:6).

Nhân vô thập toàn. Chẳng có ai hoàn hảo. Chỉ một mình Thiên Chúa hoàn hảo. Quả thật, ngay cả người công chính cũng phạm tội 7 lần mỗi ngày (Cn 24:16). Thế thì chúng ta không thể cầu toàn, nhưng cái khó là chúng ta phải biết chấp nhận nhau. Yêu thương không phải vì TÌM ĐƯỢC người hoàn hảo, mà vì HỌC ĐƯỢC cách nhìn người-không-hoàn-hảo một cách hoàn hảo. Khó lắm, nhưng không phải không làm được. Khó mà làm được mới hay, dễ thì ai cũng làm được, chẳng có gì đáng tâm phục và khẩu phục. Nếu không làm được thì chắc chắn Chúa Giêsu không bảo chúng ta “hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48). Đã có nhiều người làm được và họ đã nên thánh.

Mùa Chay gọi là “mùa thánh”, mùa “xé lòng”, mùa cố gắng sửa đổi, ăn năn, sám hối, mùa thuận tiện để hoàn thiện, hoàn thiện để nên thánh. Rất cần thiết, rất cấp bách, vì “không thánh thiện thì không được thấy Chúa” (Dt 12:14). Chắc chắn như vậy!

Sai lầm thì phải chịu sửa, có tội thì phải bị phạt. Đó là điều tất nhiên. Nhưng không sai lầm và vô tội mà vẫn phải chịu đau khổ, thế mới… “lạ”. Thánh Gióp là trường hợp điển hình nhất. Ông là người tốt lành, hiền lành, công chính, nhưng ông đã phải chịu đau khổ tới tột cùng. Thiên Chúa không “chơi ép” ông, nhưng Ngài muốn vậy để nêu gương cho chúng ta, muốn chúng ta tôn vinh Ngài cách đặc biệt – cách “khác người”. Chịu đau khổ là diễm phúc (Mt 5:11).

Sau nhiều chuyện xảy ra, Thiên Chúa còn thử lòng ông Ápraham. Ngài gọi ông và ông thưa:“Dạ, con đây!” (St 22:1). Ngài bảo ông đem đứa con một yêu dấu Ixaác đến xứ Môrigia để dâng làm lễ toàn thiêu ở trên một ngọn núi mà chính Ngài sẽ chỉ cho. Chúng ta gọi là “thử lòng”, nhưng thật ra Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, Ngài không cần thử thách ai, mà Ngài chỉ muốn lập công cho chính đương sự mà thôi.

Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Ápraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói con trai Ixaác, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Ápraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình. Ông có con trai yêu quý nhưng ông vẫn vâng lời Chúa mà sẵn sàng sát tế con mình, không thắc mắc, không so đo. Nếu là chúng ta, liệu chúng ta có dám? Chắc hẳn là “còn khuya”. Vì chúng ta sẽ lý luận: Thiên Chúa là Đấng tốt lành mà lại bảo mình làm điều ác sao? Ngài là Sự Sống (Ga 14:6) mà lại bảo mình giết người ư? Vậy là Thiên Chúa mâu thuẫn, mình không thể làm theo lệnh truyền như vậy. Thế mà ông Ápraham vẫn “vô tư” làm theo lệnh truyền “ngược đời” như vậy. Lạ quá! Tin tuyệt đối. Bài học Đức Tin lớn quá!

Và rồi ngay khi ông sắp hạ sát con mình, sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông và ông cũng thưa: “Dạ, con đây!” (St 22:11). Ngài nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” (St 22:12).13 Ông Ápraham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây, ô liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.

Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Ápraham một lần nữa và trao cho ông lời hứa: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đãkhông tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta” (St 22:16-18). Thiên Chúa coi trọng đức vâng lời: “Vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9). Tổ phụ Ápraham đã vâng lời vô điều kiện, do đó ông được Thiên Chúa hứa ban những điều tốt lành. Ai có công thì đáng được thưởng.

Hạnh phúc nào cũng có đau khổ. Hạnh phúc và đau khổ tỷ lệ thuận với nhau. Đau khổ càng nhiều thì hạnh phúc càng lớn. Tác giả Thánh Vịnh xác nhận: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: ‘Ôi nhục nhã ê chề!’” (Tv 116:10). Cay đắng lắm, thế mà vẫn tin, thật đáng khâm phục! Nhưng cái gì cũng có lý do, có cái giá của nó: “Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi. Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Chúa” (Tv 116:15-17).

Tác giả Thánh Vịnh bộc bạch: “Lời khấn nguyền với Chúa, tôi xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người, tại khuôn viên đền Chúa, giữa lòng ngươi, hỡi Giêrusalem! Allêluia” (Tv 116:18-19). Vâng lời và yêu thương có hệ lụy với nhau. Vâng lời vì yêu thương, yêu thương thì sẵn sàng vâng lời. Rất lô-gích! Vâng lời là chấp nhận thực hiện điều gì đó với sự vui vẻ và trong niềm tin tưởng. Không yêu thương thì không thể vâng lời như vậy.

Trong cuộc sống, chúng ta vẫn đinh ninh là tin Chúa nhưng đôi khi chúng ta lại “ngại” vâng lời. Thật không? Tại sao? Bởi vì chúng ta vẫn chưa dám thực hiện theo Ý Chúa, mà Ý Chúa có khi trái ngược với ý chúng ta. Chưa dám thực hiện thì có nghĩa là chưa thực sự tin tưởng hoặc tín thác.

Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8:31b). Và thánh nhân lý luận: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8:32-34). Vâng, theo nhân tính, Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Sao Cha nỡ bỏ con?” (Mt 27:45; Mc 15:34; x. Tv 22:2). Nhưng Chúa Cha vẫn… lặng im. Lạy Chúa tôi!

Thiên Chúa đã xác định rạch ròi với chúng ta: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy (Is 55:8-9). Thật vậy, khi ngăn cản Thầy Giêsu đi chịu chết, đệ tử Phêrô đã bị Thầy mắng nặng lời: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tưtưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8:3). Ngày nay chúng ta gọi kiểu “khôn” này là “trứng khôn hơn vịt” hoặc “cầm đèn chạy trước ô-tô”. Chúng ta cũng thường mắc “tật” này, không chỉ với tha nhân, mà với cả Chúa đấy. Gan chúng ta cũng “to” lắm!

Sau khi Chúa Giêsu tiến báo lần thứ nhất về cuộc thương khó và phục sinh (Mt 16:21-23; Mc 8:31-33; Lc 9:22) và đưa ra điều kiện để theo Ngài (Mt 16:24-28; Mc 8:34-38; Lc 9:23-27), Đức Giêsu còn nói với họ: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực” (Mc 9:1).

Và sáu ngày sau, Ngài đem ba “đệ tử ruột” (Phêrô, Giacôbê và Gioan) đi theo mình. Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Họ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Sư Phụ của mình. Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mc 9:5).

Thánh Mác-cô cho biết: “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (Mc 9:6). Thì phải kinh hoàng thôi, phần thì chưa thấy bao giờ, phần thì quá kỳ lạ. Lạ thì lạ nhưng sướng cũng sướng. Quá “đã”! Sướng đến nỗi ông Phêrô quên mình và hai anh bạn, chỉ xin làm lều cho Sư Phụ và hai nhân vật quan trọng (VIP, Very Important Person) mà thôi. Nếu người ta thực sự thấy “phép lạ” (chính hiệu chứ không là “sự lạ”), người ta sẽ quên hết mọi sự và thay đổi cuộc đời ngay!

Ba đệ tử đang “ngon trớn”, bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Từ đám mây phát ra tiếng nói: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Mèn ơi! Lại lạ lùng nữa! Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Tiếc hùi hụi! Và khi ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.

Thiên Chúa rất công bằng. Được nhiều sẽ bị đòi lại nhiều, được ít thì bị đòi ít. Đừng tưởng được nhiều mà kiêu ngạo, nhưng đừng thấy mình được ít mà buồn hoặc so đo kèn cựa với người được nhiều! Ba môn đệ được “ưu tiên” thấy Chúa Giêsu biến hình vì Ngài muốn củng cố đức tin cho họ, và tất nhiên được ưu tiên thì cũng phải “trả giá” cân xứng thôi.

Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, dù chúng ta chỉ là tội nhân và hoàn toàn bất xứng với Ngài, chúng ta không có quyền đòi hỏi. Thế nhưng Ngài đã bắt Con Yêu Dấu Giêsu chịu đau khổ tới tận cùng bảng số. Và Chúa Giêsu đã “cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình để chúng ta khỏi sờn lòng nản chí” (Dt 12:3) khi phải chịu gian khổ trong cuộc sống. Thật vậy, “ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai” (chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu).

Cuộc đời luôn có sự đấu tranh, luôn phải chiến đấu với mọi thứ, thậm chí chiến đấu với cả chính mình. Cuộc chiến nào cũng cam go, càng cam go hơn khi đó là cuộc chiến tâm linh. Thánh Phaolô so sánh: “Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu” (Dt 12:3-4). Cha mẹ yêu thương con cái, nhưng đâu phải chúng đòi hỏi gì cũng được. Có những thứ không cho hoặc cấm thì mới là yêu thương thật. Phàm nhân là kẻ xấu mà còn như vậy huống gì Thiên Chúa, Đấng chí thánh.

Vâng, Thiên Chúa yêu thương chúng ta rất đặc biệt, nên Ngài cũng muốn chúng ta sống “khác người” – tất cả phải NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài. Cách yêu thương của Ngài độc nhất vô nhị, độc đáo lắm!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chân nhận tình yêu Ngài dành cho chúng con ngay khi chúng con chịu đau khổ giữa cuộc đời này, để trong mọi hoàn cảnh, chúng con vẫn tin kính Ngài là Thiên Chúa duy nhất, biết yêu mến Ngài hết linh hồn và hết trí khôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
 

Sưu tầm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn