1
16:31 +07 Chủ nhật, 28/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 188

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 187


Hôm nayHôm nay : 32008

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 375037

Tổng cộngTổng cộng : 27929321

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Bài giảng Chúa nhật 6 Phục sinh

Thứ sáu - 08/05/2015 20:29-Đã xem: 1489
Ai nói rằng mình kính mến Thiên Chúa mà lại ghét bỏ anh em thì người đó là một kẻ nói dối. Bởi vì anh em là những người sống bên cạnh mình mà chẳng yêu thương thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa là Đấng chẳng hề thấy bao giờ
Bài giảng Chúa nhật 6 Phục sinh

Bài giảng Chúa nhật 6 Phục sinh



DẤU CHỨNG TÌNH YÊU LỚN NHẤT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Như Cha đã yêu mến Ta, Ta cũng đã yêu mến các ngươi": Tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu đối với Cha Người, mà tương ứng là tình yêu tôn vinh Người của Chúa Cha, tạo nên nền tảng và mẫu mực cao cả cho đời Kitô hữu, một cuộc đời từ đây được phô diễn ra bằng đức ái.
"Hãy lưu lại trong tình yêu của Ta": Nguyên tự: "hãy ở trong tình yêu vốn thuộc về Ta" (xe lu Abel, Gl:ammaire du treo biblique 33r Rem.I) nghĩa là ‘trong tình yêu Ta dành cho các ngươi’. Cả bản văn toàn là thuộc cách chủ thể (génihfs Subectifs): tình yêu của Cha đối với Ta, tình yêu của Ta đối với các ngươi (trong đó các ngươi phải lưu lại), các lệnh truyền của Ta (c.10), các lệnh truyền của Cha Ta, và, lần nữa, tình yêu của Cha Ta đối với Ta.
"Để niềm vui của Ta ở trong các ngươi và niềm vui các ngươi được trọn vẹn": Là dấu hiệu của một đời sống triển nở, niềm vui được Cựu ước xem như là điểm đặc trưng của thời cứu độ và của bình an cánh chung (Is 9,2; 35,10; 55,12; 65,18; Xp 3,14; Tv 126,3-5) và chủ đề này xuất hiện lại trong các Tin mừng (Mt 25,21.23; Lc 1,14; 2,10). Nơi Gioan, niềm vui của Chúa Kitô phục sinh được chia sẻ ngay từ bây giờ cho các môn đồ sống sự sống mới; niềm vui này phải chiếm hữu tất cả con người và như vậy phải đạt được sự sung mãn nào đó (x. Ga 17,13; 1Ga 1,4; 2Ga 12). Hiện giờ, nó có thể cùng đồng hành với đau khổ (16,20-24;14,28).
“Không có tình yêu nào lớn hơn": Nếu cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là biểu thức cao cả nhất của tình yêu Người đối với Chúa Cha (14,30), thì nó cũng là chóp đinh của tình yêu Người đối với những kẻ Người đã chọn làm bằng hữu (13,1.4). Đó chính là nền tảng và quy phạm của tình anh em.
"Và đã cắt cử anh em để anh em ra đi": Động từ Hy lạp tithenai, như công thức Hy Bá tương ứng, diễn tả sự kiện đặt một người nào trong một chức vụ gì đó đồng thời bảo đảm cho kẻ ấy những phương thế để thực thi một cách kiến hiệu (x. Cv 13,47; 20,28; 1Cr 12,28; 2Tm 1,11). Như vậy là nhóm môn đồ, nhờ một hồng ân của Chúa, được trao ban trách nhiệm truyền giáo (x. Mc 3,14; 6,7; Mt 10,1; Lc 9,1).
KẾT LUẬN
Niềm vui hoàn hảo là hậu quả của lời mặc khải của Chúa Con và của việc tuân giữ các lệnh truyền mà lời đó bắt buộc. Bao giờ cũng vậy khi người ta tiếp xúc với những sự xếp đặt của chương trình Thiên Chúa: chương trình này thường đòi hỏi khổ chế hy sinh nhưng cũng bao hàm một sự tiền nếm niềm vui mà chúng ta sẽ được trên trời khi kết hiệp hoàn toàn với chiến thắng của Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu vừa cho chúng ta biết bí mật cuối cùng và quý giá nhất của tâm hồn Người. Trong một màn độc thoại dài "trước khi qua khỏi thế gian này mà về với Cha'', Người trút những tâm sự sau hết, nói lên những dặn dò cuối cùng; Người xem ra muốn để lại cho các sứ đồ một di chúc thiêng liêng. Thoạt nghe đoạn văn của diễn từ sau Tiệc ly này, điều đánh động chúng ta là việc Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tình yêu mà các sứ đồ cần có đối với nhau. Trong một đoạn rất ngắn như đây mà Người đã lặp lại chữ "lệnh truyền" bốn lần cả thảy. Như thế Người muốn nhắc nhở một điều tuyệt đối, không bao giờ được đặt lại vấn đề; như thể đó là thực tại chủ chốt, ưu tư thiết yếu, nỗi bận tâm duy nhất của những ai tự cho là thuộc về Người và đáng được vào số những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người.
2) Việc nhấn mạnh này của Chúa Giêsu làm chúng ta bối rối lắng lo. Phải chăng Người không muốn qua đó nói rằng: nguy hiểm chính yếu luôn rình rập nhóm sứ đồ rồi những người sẽ trở nên môn đồ quanh họ, rồi tất cả những ai trong các thế hệ kế tiếp sẽ được quy tụ trong cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa Giêsu Phục sinh, chính là sự thiếu tình yêu. Điều này cũng là cám dỗ thường xuyên nhất là có lẽ là sai lầm thường gặp nhất.
3) Có lẽ! Vì dù sao, xét lại thái độ hiện thời của chúng ta và những nứt rạn mà mỗi thế hệ không ngừng tạo ra trong sự duy nhất của thân thể Chúa Kitô, chúng ta có thể nghĩ rằng Chúa Kitô đã chẳng quá nhấn mạnh. Không cần phải nói đến gương xấu của việc các Giáo hội ly khai, những mối bất hòa lớn lao trong mỗi Giáo hội, hay biết bao tranh chấp của các phong trào ngay trong mỗi Giáo hội địa phương; không cần phải xét đến những gì xảy ra chung quanh chúng ta mà thực sự không tùy thuộc chúng ta, chỉ cần mỗi người hãy nhìn đến mình là đủ, vì mỗi người chỉ có trách nhiệm về chính mình, về phương cách: để tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu, chúng ta yêu mến thế nào? Dù trả lời ra sao đi nữa, thì mỗi một người, nếu thành thật, đều biết mình có thể tiến bộ hơn. Để được như vậy, phải nghe Chúa. Người vừa nói với chúng ta: "Hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu các ngươi". Mẫu gương của tình yêu chính là Người. Thành thử phải đọc lại Tin mừng, khám phá trong mỗi lời nói, mỗi hành vi của Chúa Giêsu, làm sao đã tỏ lộ cái tình yêu hằng có trong Người, để biết được chúng ta phải cư xử thế nào đến phiên chúng ta. Đừng mất công tìm đâu xa; trong diễn từ mới nghe lúc nãy, Chúa cho chúng ta thấy quá rõ Người yêu mến ra sao.
4) Ngay từ đầu cuộc đàm đạo; Người đã bảo chúng ta: "Hãy lưu lại trong tình yêu của Ta" sau khi quả quyết: "Ta đã yêu các ngươi". Người không đòi hỏi chúng ta đáp trả tình yêu của Người đối với chúng ta, không đòi hỏi chúng ta yêu mến Người. Người chỉ xin chúng ta hãy lưu lại, hãy để mình bị bao bọc, để mình chìm đắm trong tình yêu mà Người đang bao phủ chúng ta và đừng làm gì phá vỡ việc lưu lại ấy. Điều tùy thuộc chúng ta là đừng chối từ những gì Người ban cho chúng ta. Người bảo dấu hiệu cho biết ta lưu lại trong tình yêu Người là tuân giữ lệnh truyền Người, một điều thực ra không liên hệ tới Người. Lệnh truyền của Người, ấy là đến phiên chúng ta yêu thương kẻ khác; như thể Người không muốn tình yêu Người ban trở về lại với Người, nhưng đổ tràn trên kẻ khác; tình yêu Người biểu lộ như thế sánh được với một con sông luôn tuôn chảy, chẳng bao giờ trở lại về nguồn. Xa hơn Người sẽ nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì bạn hữu”. Tình yêu mà Chúa dành cho chúng ta không giống tình yêu của chúng ta, thứ tình yêu luôn thắc mắc về sự đáp trả nó nhận được: sự đáp trả này đã đủ chưa? Có thành thật và không giả hình chăng? Có bền vững chăng? tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu luôn tiến tới, không chờ đợi đáp trả tí nào. Đó là tình yêu của Chúa Giêsu, tình yêu không trở lại với chính nó. Nó phong phú luôn mãi; đấy là lý do giải thích mềm vui của Chúa Giêsu mà Người có đề cập chỗ khác: "Cho thì vui hơn nhận" (Cv 20,35).

 

Yêu thương anh em

Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
Ai trong chúng ta cũng đã biết: con người đầu đội trời, chân đạp đất. Vì thế, sống trong cuộc đời, chúng ta có hai loại bổn phận phải chu toàn. Bổn phận hàng dọc và bổn phận hàng ngang. Bổn phận đi lên và bổn phận đi xuống. Bổn phận đối với trời và bổn phận đối với đất. Hay nói một cách cụ thể hơn đó là bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với anh em.
Chính Chúa Giêsu đã xác quyết điều ấy:
- Giới răn thứ nhất, đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình. Hai giới răn này gồm tóm mọi điều Kinh Thánh truyền dạy.
Thế nhưng, chúng ta có cảm tưởng là dường như Chúa Giêsu đặt nặng vấn đề thương người, hơn cả mến Chúa, bởi vì như lời Ngài đã phán:
- Khi các ngươi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với các ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với người anh em mình trước đã, rồi hãy tới mà dâng của lễ sau.
Sở dĩ như thế cũng là điều dễ hiểu bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, tất cả mọi thứ tình yêu chân thật của chúng ta đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, để rồi cuối cùng sẽ lại qui hướng về Ngài. Hơn nữa, chính tình yêu đối với anh em là dấu chỉ chắc chắn nhất để xác quyết về lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa như Ngài bảo:
- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Hay như thánh Gioan cũng đã xác quyết:
- Ai nói rằng mình kính mến Thiên Chúa mà lại ghét bỏ anh em thì người đó là một kẻ nói dối. Bởi vì anh em là những người sống bên cạnh mình mà chẳng yêu thương thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa là Đấng chẳng hề thấy bao giờ.
Thế nhưng, chúng ta phải đối xử với anh em như thế nào? Đâu là cái tiêu chuẩn để hướng dẫn chúng ta trong phạm vi này?
Truyền thống của người Do Thái có một câu chuyện kể lại như sau:
Ngày kia một người tìm đến với thầy Samai, thuộc phái giải thích luật một cách nghiêm khắc và cho biết mình có ý định tìm kiếm chân lý. Ông hỏi:
- Thầy có thể dạy tôi tóm lược tất cả các lề luật trong thời gian tôi đứng trên một chân. Vì tôi không thể ở lại Giêrusalem lâu được.
Nghe nói thế, thầy Samai nổi giận và truyền đuổi ông ra khỏi nhà mình. Không mất niềm hy vọng, ông ta tìm đến với thầy Gillen, một người vừa thông thái, vừa cởi mở lại vừa phóng khoáng. Có kẻ cho rằng Gillen chính là người mà Chúa Giêsu khi lưu lại trong đền thờ ba ngày vào năm lên 12 tuổi, đã chất vấn ông về lề luật.
Trước cùng một câu hỏi được đưa ra, thầy Gillen đã trả lời ngay không cần phải suy nghĩ:
- Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Đó là cái cốt lõi của lề luật. Tất cả những thứ khác, chỉ là để giải thích cho giới luật này mà thôi. Anh hãy đi và suy nghĩ chín chắn về điều tôi vừa nói.
Phải chăng đó chính là bước đầu tiên để chu toàn giới luật:
- Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Tuy mang tính cách thụ động và tiêu cực, nhưng nếu tuân giữ cho trọn vẹn, thì chúng ta còn phải thực hành rất nhiều điều tích cực, chẳng hạn như không nói xấu, không ganh tỵ, không trộm cắp và hàng lô những cái không khác nữa, nhờ đó cuộc sống sẽ được an vui và bản thân sẽ được hạnh phúc. Nhất là nhờ đó chúng ta sẽ trở nên những môn đệ đích thực của Đức Kitô.

Yêu thương

Dọc theo triền núi Trường Sơn, có một ngôi mộ đã lâu đời, trên bia mộ có khắc dòng chữ: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”. Đây là câu nói của Hy Thanh, người nằm trong mộ. Tại sao lại khắc dòng chữ đó trên mộ của anh ta? Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh chịu khó đi học nghề tìm mạch nước. Bạn bè khinh chê: “Dưới đất lúc nào chẳng có nước, học chi cái nghề vô dụng ấy”, gia đình cũng rủa chàng: “Học cái nghề vô ích ấy làm gì, đi đâu thì đi” Hy Thanh ra đi, ngày kiếm ăn, đêm tìm đến chùa ngủ, cắn răng chịu đựng và vẫn tiếp tục theo đuổi cái nghề ấy. Hai mươi năm trôi qua, gặp thời đại hạn, giếng khô cạn, nhiều người chết vì khát. Lúc bấy giờ người ta chợt nhớ đến chàng, chạy tới cầu cứu. Hy Thanh tìm ra mạch nước, nước chảy lênh láng khắp nơi. Dân chúng từ bốn phương hay tin đến uống, họ vui mừng ca ngợi chàng. Tuy nhiên, có kẻ vì khát lâu ngày, nay uống quá độ nên ngã lăn ra chết. Người ta quay lại mạt sát chàng, đám người có thân nhân bị chết xông vào đánh đập chàng cho đến chết. Trước khi chết, chàng nói: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”.
Đó là câu chuyện ngày xưa, sau đây là chuyện ngày nay: Trên báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật số 18 năm 1989 có một câu chuyện tựa đề là “Máu Cá”, tức là máu lạnh, trích trong tập “Ngồi buồn viết mà chơi” của nhà văn Nguyễn Minh Châu như sau: Tại sân ga Hàng Cỏ vào lúc tờ mờ sáng, khách đứng xếp hàng chuẩn bị lên tàu, khách ngồi chờ đợi rất đông, cùng với số lượng hàng hóa chất cao từng đống. Giữa cảnh đông đúc chen chúc như vậy, có một người đàn bà còn trẻ, y như một người mất trí, cứ hét vang cả sân: “Các ông các bà, có ai thương tôi, cứu tôi với”. Chị ta kêu đến khản cả giọng mà chung quanh chẳng ai đoái hoài. Người ta chỉ quay nhìn chị một cách thờ ơ. Có chuyện gì xảy ra vậy? Thì ra thế này: chị ta xuống tàu trong đêm với hai đứa con: đứa ba tuổi, đứa nửa tuổi, ngồi chờ sáng. Lúc trời gần sáng, chị bảo đứa con lớn ngồi trông em để đi giặt đồ. Giặt xong, quay trở lại thì mẹ mìn đã dụ dỗ đem đứa lớn đi, chỉ còn đứa nhỏ nằm ngửa giữa sân ga một mình. Nghe xong câu chuyện, tôi (tác giả Nguyễn Minh Châu) chạy đến gặp một đồng chí công an đề nghị: “Các đồng chí nói loa đi, yêu cầu hành khách thấy ai khả nghi thì giữ lại, đứa dụ dỗ đứa trẻ, thế nào cũng có vẻ khả nghi, biết đâu nó còn quanh quẩn đâu đây, yêu cầu mọi người giúp chị ta”. Đồng chí công an chẳng nói chẳng rằng, chẳng trả lời tôi lấy một lời, còn hàng ngàn con người thì vẫn dửng dưng. Người đàn bà đau khổ vẫn kêu gào giữa hàng ngàn hành khách sân ga Hàng Cỏ như kêu gào giữa sa mạc.
Kể lại hai câu chuyện trên tôi muốn nói lên nhân tình thế thái, nói lên lòng người đối với nhau, như là gợi ý để mọi người suy nghĩ một chút về lệnh truyền và cũng là lời trăn trối, lời di chúc của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trước khi từ biệt các ông để đi chịu nạn chịu chết trong bài Tin Mừng: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em… Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”.
Yêu thương là một trạng thái tình cảm xưa như trái đất, tức là ngay từ khi có con người trên mặt đất đã có vấn đề yêu thương. Dân tộc nào cũng dậy yêu thương, tôn giáo nào cũng dậy yêu thương. Trong Cựu Ước, lề luật Do Thái cũng đã có luật yêu thương, chẳng hạn luật Môsê dạy: “Phải yêu thương tha nhân như chính mình”. Tới khi Chúa Giêsu xuống thế, Ngài đã giảng dạy yêu thương, thực hiện yêu thương trọn vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt mới mẻ trong luật yêu thương Chúa dạy là Ngài nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật mến Chúa, đồng thời coi những hành động yêu thương như dấu chỉ để mọi người nhận ra môn đệ Ngài và là tiêu chuẩn Ngài căn cứ vào đó để khen thưởng sau này.
Như vậy, luật yêu thương nhau không những là một lời khuyên mà còn là một lệnh truyền, một sứ mệnh của người Kitô hữu. Vậy chúng ta phải thực hành luật này thế nào? Nói khác đi, chúng ta phải yêu thương nhau thế nào? Xin đề nghị ba điều:
Thứ nhất, yêu thương là đối xử nhân hậu với nhau. Nhân hậu là biết chịu đựng và nhường nhịn: chín bỏ làm mười, một nhịn chín lành; nhân hậu là biết đón nhận những chướng tai gai mắt, những quê mùa nông cạn của người khác, không tranh chấp cãi cọ, tránh lời thóa mạ, cộc cằn, mỉa mai. Chúng ta hãy nhớ: khi chúng ta sống khó tính, nóng nảy, trịch thượng, bất mãn, bất đồng, thì bị mọi người xa lánh và mình làm khổ mình. Trái lại, nhân hậu là bùa mê, là nam châm thu hút lòng người.
Thứ hai, yêu thương là không nổi giận. Tức giận là một tình cảm thông thường của con người. Nói theo Á Đông, tức giận là một trong thất tình của con người. Con người có vui, có buồn, có ham muốn, có giận dữ. Vì vậy, vấn đề không phải là có giận hay không, nhưng là tại sao giận, giận ai, giận gì việc gì… Dù lý do nào đi nữa, chúng ta cũng hãy nhớ: người giận mất khôn, giận dữ chẳng được ích gì, nóng giận làm tan vỡ tất cả.
Thứ ba, yêu thương là không nói hành nói xấu. Người ta thường đổ tội nói hành nói xấu cho cái lưỡi để nói lên sự nguy hại của nó: lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, tay đã dài mà lưỡi còn dài hơn, không nọc độc nào nguy hại bằng cái lưỡi. Lời nói hành nói xấu được ví như một mũi tên tẩm thuốc độc, bắn một phát giết chết ít nhất ba người; giết kẻ bị nói xấu, giết kẻ nghe nói xấu và giết chính kẻ nói xấu. Chúng ta hãy nhớ lời cầu nguyện sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con rơi vào số phận của kẻ nói xấu nói hành, mà phần phạt của họ là ở trong hồ lửa diêm sinh cháy bừng bừng”.
Tóm lại, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương nhau, và chúng ta cũng đã biết có rất nhiều cách để thể hiện lòng yêu thương đối với nhau, hôm nay chúng ta hãy nhớ ba điều: hãy đối xử nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức giận nhau, và đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.


Trong tình yêu không thể thiếu lòng tin. Hầu như mọi sự đổ vỡ trong tình yêu đều ít nhiều bắt nguồn từ sự thiếu tôn trọng và không tin tưởng ở nhau.

Ngược lại nếu biết tin tưởng, tình yêu sẽ làm nên được những điều diệu kỳ. Đây là câu truyện do nhà văn Nguyễn Hiến Lê kể lại:

Hôm đó khi vừa mới ở trường về đứa bé hỏi mẹ nó: "Mẹ, thế nào là trật đường rầy hả mẹ?

Bà cụ phì cười trả lời:

- Một chuyến xe lửa trật đường rầy mà con không biết sao?

- Hiểu chứ mẹ, nhưng một đứa nhỏ trật đường rầy nghĩa là làm sao hả mẹ?

- Nghĩa là nó hơi khùng khùng chứ làm sao.

- Và thế nào là "không bình thường" hả mẹ?

- Không bình thường... Nghĩa là... Nhưng con nghe ai nói vậy?

- Chiều nay Ông Thanh tra tới thăm trường của con. Ông có vô thăm lớp con. Ông có hỏi thầy về tình hình học tập trong lớp. Thầy lấy tay chỉ vào con và nói với ông thanh tra là "nó là đứa bé trật đường rầy"- nó là đứa bé bất bình thường, có dạy dỗ nó cũng chỉ tốn công vô ích".

Tức quá bà cụ nhảy choi choi lên và la lớn lớn:

"A thầy giáo bảo con vậy hả? - Đi đi ngay với mẹ. Mẹ sẽ cho ông thầy ấy biết tay con mụ này."

Nói xong bà nắm tay con lôi đi - đôi mắt long lên, đôi môi mím lại, hùng dũng đi đến nhà ông giáo. Tới nơi bà lấy tay chỉ thẳng vào mặt ông giáo và nói dằn từng tiếng:

"Nè! Thầy nói gì với ông thanh tra về thằng Al của tôi?- Tôi biết hết. Thầy bảo nó là "trật đường rầy" là "bất bình thường" hả? Tôi nói thật cho cái mặt thầy biết: Có kẻ nào đó trật đường rầy thì kẻ đó chính là thầy chứ không phải là con của tôi. Tôi cầu cho thầy được thông mình bằng một nửa nó thì cũng là phúc lắm rồi.

Rồi bà nắm tay đập lên bàn nhà thầy giáo... vừa đập vừa hét lớn:

- Thầy nhớ kỹ nghe chưa? Một ngày kia người ta sẽ nhắc đến tên tuổi của nó - Còn cái mặt của thầy không ai thèm biết tới đâu.

Tội nghiệp cho ông giáo cứ nín thinh không dám hé môi nói một lời.

Nói xong bà bảo cậu con.

- Thôi từ nay con khỏi tới trường nữa. Ở nhà mẹ dạy cho con.

Rồi bà dắt con quay gót bước ra.

Rồi bằng một tình yêu với những hy sinh không biết mệt mỏi, bằng một lòng quí trọng không bờ không bến, và nhất là bằng một niềm tin rắn chắc và vững vàng như sắt đá bà thổi vào trong tâm hồn đứa con của bà sự tự trọng, ý chí muốn vươn lên và sự kiên trì không biết mệt mỏi. Cuối cùng bà đã biến một đứa bé bất bình thường, đứa bé trật đường rầy, đứa bé có lần ông thầy mắng là "dốt như bò" thành một nhà bác học đã đóng góp cho nhân loại một số bằng phát minh nhiều hơn bất cứ một nhà bác học nào ở trên thế giới này từ trước cho đến hôm nay: 2500 bằng phát minh, vâng 2500 bằng phát minh... trong đó có bằng phát minh rất quan trọng về điện mà chúng ta đang được thừa hưởng hôm nay. Đó là nhà bác học Thomas Alva Edison.

Sau này khi ông thành đạt thì mẹ đã chết, ông hay nói với mọi người: "Tôi được như thế này là nhờ mẹ của tôi.".

Vâng chúng ta hãy biết yêu như Chúa đã yêu để tình yêu làm nên những điều kỳ diệu cho cuộc sống của chúng ta 

Sưu tầm


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn