1
11:34 +07 Chủ nhật, 28/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 156

Máy chủ tìm kiếm : 2

Khách viếng thăm : 154


Hôm nayHôm nay : 21869

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 364898

Tổng cộngTổng cộng : 27919182

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Các bài suy niệm Lễ sinh nhật thánh Gio-an Tẩy Giả

Thứ năm - 21/06/2012 07:53-Đã xem: 1359
GXTNO-Trong Giáo hội, ngày lễ kính một vị thánh là ngày tử trần của vị ấy, quen gọi là "ngày sinh nhật trên trời” của người, ngày người sinh ra trên trời. Duy chỉ có thánh Gioan Tẩy Giả là được kính mừng cả trong ngày Người sinh ra lẫn trong ngày Người tạ thế. Tưởng không có gì lạ. Tất cả cuộc đời của thánh nhân từ lúc sinh ra, và ngay cả trước lúc sinh ra, chỉ là một lời chứng duy nhất cho Chúa Giêsu.
Các bài suy niệm Lễ sinh nhật thánh Gio-an Tẩy Giả

Các bài suy niệm Lễ sinh nhật thánh Gio-an Tẩy Giả

THÁNH GIOAN TẨY GIẢ

(Lm. Nguyễn Hồng Giáo)

Trong Giáo hội, ngày lễ kính một vị thánh là ngày tử trần của vị ấy, quen gọi là "ngày sinh nhật trên trời” của người, ngày người sinh ra trên trời. Duy chỉ có thánh Gioan Tẩy Giả là được kính mừng cả trong ngày Người sinh ra lẫn trong ngày Người tạ thế. Tưởng không có gì lạ. Tất cả cuộc đời của thánh nhân từ lúc sinh ra, và ngay cả trước lúc sinh ra, chỉ là một lời chứng duy nhất cho Chúa Giêsu.

Con người của một sứ mạng

Có những người cho rằng người ta sinh ra ở đời là "bị vất vào đó”, một cách tình cờ, vu vơ, vô nghĩa. Thông thường hơn, người ta nói mỗi người có một định mệnh. Trước định mệnh ấy con người đành bó tay chịu đựng, không cách nào thoát ra được. Người Công giáo thì tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa, rằng không phải một sức mạnh mù quáng hay khắc nghiệt nào đó đã ném họ vào đời, nhưng chính Tình Yêu của Chúa "gọi” họ vào cuộc sống và khi cho một con người sinh ra, Thiên Chúa có một ý định, một dự tính về người ấy, không phải như một kế hoạch áp đặt nhưng như một sứ mạng để hoàn thành trong tự do và trách nhiệm hầu cho con người được hạnh phúc và cuộc đời họ được thành tựu đích thực. Ta gọi sứ mạng đớ là một "ơn gọi". Về mặt này, trường hợp của ông Gioan Tấy Giả là tiêu biểu vả rõ ràng.

Qua tưởng thuật của Kinh Thánh, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa về Gioan đã được biểu lộ hiển nhiên ngay từ giây phút ông được thụ thai, rồi trong việc ông sinh ra, việc đặt tên cho ông, việc mẹ ông và mẹ Chúa Cứu Thế gặp nhau vv.. Trong các biến cố đó, ta thấy có sự can thiệp lạ lùng của Chúa vào trong cuộc đời của Gioan để định hướng cho nó. Điều đáng nói hơn là về phần ông, một khi đã khôn lớn và nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, Gioan Tẩy Giả không còn biết gì khác hơn là sống trọn vẹn cho sứ mạng đó một cách lô-gic, kiên quyết, trọn vẹn, cho tới cùng. Ông rút lui sớm vào hoang địa, sống khắc khổ xa lánh mọi mời mọc, níu kéo của trần gian là để được sống trọn vẹn hướng về Đấng Cứu thế mà ông phải làm kẻ "dọn đường". Ông rao giảng bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc, mạnh mẽ để lôi kéo người ta sám hối đổi đời vì thời gian không còn nhiều, Nước Thiên Chúa sắp tới. Sau khi thiên hạ đã rời ông để quay sang Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, ông âm thầm rút lui vào bóng tối vì đã hoàn thành nhiệm vụ "Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi", ông tuyên bố như thế (Ga 3,30). Rồi cả cái chết của ông cũng là một phần không thể tách lìa của sứ mạng của một kẻ "dọn đường” và "làm chứng cho ánh sáng và sự thật”.

Gioan và Hêrôđê

Tôi thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai khuôn mặt hoàn toàn tương phản. Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là người yếu đuối, do dự. Một đàng thì sống khắc khổ, giản án dị, còn đàng kia lại thích xa hoa, hưởng thụ. Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà vua đã lấy vợ của anh mình. Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết ông là người công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan. Nhưng ông là người thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng. Và tuy là người cai trị khôn khéo nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình. Thế nên ông đã bắt Gioan tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị dâu mà ông ta đoạt làm vợ. Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa của cô con gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin. Một lời hứa bốc đồng. Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của cảm tính, của bản năng. Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi. Bà bảo con gái hãy xin cái đầu của Gioan. Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành phải giữ lời, mặc dù trong thâm tâm không muốn giết con người công chính này.

Vua Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao lên, nhưng không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong những sự thấp hèn. Đối diện với Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống nhất quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến đấu cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của những đỉnh cao.

Thánh Gioan Tẩy Giả và chúng ta

Như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta. Nhưng làm sao biết được? Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên "theo hình ảnh của Thiên Chúa", "có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa” và "chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa". Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người. Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: "Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy? Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó. Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu, (sđd, số 6).

Đó là ý định chung của Thiên Chúa là ơn gọi chung của chúng ta. Mỗi người sẽ phải thế hiện ơn gọi đó cho nên mình tùy theo diễn tiến cụ thể đời mình, theo những điều kiện và hoàn cảnh sống thực tế, khi ra sức tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong lề luật của Người và lời dạy của Giáo hội, trong việc bổn phận của bậc sống mình, trong lương tâm ngay thăng, trong luật lệ chính đáng của xã hội, trong các biến cố...

Không phải tự nhiên và dễ dàng mà chúng ta có thể thực hiện ý định của Chúa đối với chúng ta. Trong mỗi người đều có hai khuynh hướng: một nâng ta lên cao, một kéo ta đi xuống. Chúng ta thường xuyên kinh nghiệm rằng hai khuynh hướng thiện ác đó đấu tranh kịch liệt với nhau ngay trong ta. Muốn chiến thắng, phải tỉnh thức và cầu nguyện, phải tập nghe theo tiếng nói của lý trí, của lẽ phải và lương tâm, trong việc lớn cũng như việc nhỏ; đồng thời cũng phải tập sống khổ chế, nghĩa là sông có kỷ luật, biết hy sinh và từ bỏ. Làm sao có thể có một đời sống tinh thần phong phú nếu lúc nào cũng tìm kiếm và chiều theo những sự dễ dãi, thoái mái, nêu lúc nào cũng chạy theo vui thú vật chất và xác thịt?

Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên Mộc. Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000 giáo dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng 6.000 người nữa. Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa. Đó. là hai làng kinh tế mới. Tôi thấy giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng như trong việc đạo. Đặc biệt tôi gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận. Khi tôi đến, ông đang dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi. Ông bà cho biết: họ có mấy người con trai, trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm. Để tránh cho mấy đứa khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã quyết định đưa cả gia đình tới đây sinh sống từ 1980. Bây giờ họ sống nghèo nhưng vui và bình an. Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi và phó thác của Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích của con cái. Họ nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.

Theo "ơn gọi” và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta khâm phục không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn noi gương vị Tiền Hô.



SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ

(Lm. Vũ Phan Long)

Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót!

1.- Ngữ cảnh

Giống như Tin Mừng Mt nhưng không lệ thuộc vào Mt, tác giả Luca mở đầu Tin Mừng bằng một trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu. Nhưng ngài là tác giả duy nhất đề cập đến thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả.

Phần tường thuật về Thời thơ ấu có hai cánh:

- Cánh các lời loan báo (1,5-56),

- Cánh các cuộc chào đời (1,57–2,52).

Truyện Gioan chào đời được đặt song song với biến cố Đức Giêsu giáng sinh.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Gioan chào đời (1,57-58);

2) Gioan được cắt bì và đặt tên (1,59-66);

3) Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (1,80).

3.- Vài điểm chú giải

- Nghe biết (58): Khi biết mình có thai, bà Êlisabét đã ẩn mình (x. 1,24), nên láng giềng và những bà con khác (trừ Đức Maria) không biết gì về tình trạng của bà, cho đến khi đứa bé chào đời.

- cắt bì (59): Theo St 17,11, cắt bì là ghi “dấu giao ước” cho cậu bé trai. Thường người cha sẽ cắt bì cho con (x. St 21,4).

- lấy tên cha … mà đặt tên cho em (59): Theo bản văn Lc, em bé được đặt tên khi cắt bì. Tuy nhiên, người Do Thái Paléttina có thói quen đặt tên con ngay vào lúc chào đời (x. St 4,1; 21,3; 25,25-26), và thường do người mẹ (St 29,31–30,24; 1 Sm 1,20), đôi khi do người cha (x. St 16,15; Xh 2,22) (xem R. de Vaux). Do đó, có những nhà chú giải nghĩ rằng tác giả Lc đã đưa vào đây một cách thực hành của người Hy Lạp, bởi vì tại Hy Lạp cổ thời, người ta thường đặt tên cho con vào ngày thứ bảy hoặc thứ mười sau khi sinh.

- Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả (61): Tuy nhiên, “Gioan” đã từng là tên của các thành viên dòng họ tư tế thời hậu Lưu đày (x. Nkm 12,13.42; 1 Mcb 2,1-2).

- bàn tay Chúa (66): Đây là một kiểu nói như nhân của Cựu Ước (x. 1 Sb 28,19; 4,10) nhằm diễn tả rằng Thiên Chúa uy quyền che chở và hướng dẫn Gioan. Thế nhưng Ngài vẫn không tránh cho Gioan khỏi tù và khỏi chết bởi tay Hêrôđê Antipa (x. Lc 3,20; 9,8).

- lớn lên (80): Đây là một điệp khúc của tác giả Lc (x. 2,40.52). Câu văn được phỏng theo Tl 13,24-25 và 1 Sm 2,26.

- sống trong hoang địa (80): Dựa vào đây, các chuyên viên đề ra giả thuyết là Gioan đã qua thời trai trẻ tại cộng đoàn Êxêni tại Qumran. Đây là giả thuyết không bảo vệ được và cũng không phi bác được.

4.- Ý nghĩa bản văn

* Gioan chào đời (57-58)

Đoạn tường thuật ngắn ngủi này kể lại cuộc chào đời của Gioan và niềm vui do biến cố này đưa lại. Tác giả Lc kể lại truyện này với hai sắc thái. Trước tiên, biến cố cho thấy lòng từ bi thương xót của Đức Chúa đối với dân Ngài khi cất khỏi bà Êlisabét nỗi ô nhục son sẻ. Truyện cũng nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa tỏ lòng từ bi thương xót ra khi chơi chữ trên tên “Gioan”. Ân huệ mà Ngài tỏ ra như thế không chỉ nhằm chiếu cố đến bà Êlisabét mà còn chiếu cố đến dân Ngài là Israel như một toàn thể. Đứa bé này, sinh ra từ những cha mẹ son sẻ, trở thành nguồn đưa lại niềm vui cho láng giềng và bà con thân thích, như sứ thần đã tiên báo.

* Gioan được cắt bì và đặt tên (59-66)

Đứa trẻ sinh ra được tám ngày thì phải làm phép cắt bì (x. Lv 12,3). Khi được cắt bì, em bé được ghi “dấu giao ước” (St 17,11) và được tháp nhập vào Israel (Gs 5,2-9). Từ nay, em được chia sẻ cách phúc lành Thiên Chúa hứa cho dân Ngài (Gs 5,6-7), nên có thể cử hành lễ Vượt Qua với họ (Xh 12,44-49). Cắt bì cũng có nghĩa là buộc phải tuân giữ Luật Môsê. Còn về việc đăt tên, đối với người Do Thái, cái tên rất quan trọng, vì nói lên tương lai của em bé. Có nhiều truyện trong Cựu Ước giải thích ý nghĩa của các tên: “Isaác”, trong tiếng Híp-ri, có nghĩa là “sẽ cười / sẽ mỉm cười” và yếu tố “mỉm cười” này thường xảy ra: Sara mỉm cười trong lều; Isaác cười với Ítmaên. Tên “Giacóp” báo điềm gở là “sẽ hất cẳng”, và sau này ông đã “hất cẳng” Exau. Khi Giacóp đã bỏ tính lọc lừa và trở nên đàng hoàng, Thiên Chúa đã cho ông một tên mới là “Israel”, như một dấu chuẩn nhận và đón tiếp. Cũng thế, sau này Đức Giêsu đã cho Simôn một tên mới là “Phêrô”, để dùng ông làm đá tảng xây dựng Hội Thánh.

Bà Êlisabét không đồng ý cho người ta lấy tên Dacaria mà đặt cho em bé, dù đây là tập tục; bà yêu cầu đặt là “Gioan”. Người ta mới hỏi ý kiến ông Dacaria, lúc này vẫn bị câm. Ông “đã xin một tấm bảng nhỏ và viết” tên Gioan (1,63). Hai ông bà đang tỏ ra vâng lời sứ thần khi chọn một tên cho đứa con, bất chấp truyền thống của dòng họ. Sứ thần đã bảo tên bé là Gioan, thì bây giờ phải đặt tên bé là Gioan! Đây cũng là cách tác giả Lc cho thấy các lời ngôn sứ được hoàn tất: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Ngài sẽ thực hiện.

Tên “Gioan”, Yơhô[k]anan (hoặc: Yô[k]hanan), có nghĩa là “Đức Chúa (ya = yhwh) đã tỏ lòng ưu ái (khanan = charis)” (x. 1,13). Tên này tạo thêm một đường nối giữa hai gia đình, vì nhắc lại lời sứ thần chào Maria, “bà được đẹp lòng (charis) Thiên Chúa” (1,30). Tên “Gioan” như thế có hiểu rằng Israel là đối tượng được Thiên Chúa đặc biệt chiếu cố, và Ngài có một sự quan tâm đặc biệt đến cũng như có một chương trình đặc biệt cho.

* Kết: Ghi nhận về Gioan lớn lên, vào hoang địa và ra mắt (80)

Sau khi chấm dứt bài Benedictus (chúng ta không đọc), tác giả Lc kết thúc hoạt cảnh bằng một ghi nhận nói rằng cậu bé ngày càng lớn lên mọi mặt, và báo trước việc Gioan vào sống trong hoang địa (3,2), chờ ngày “ra mắt dân Israel”.

+ Kết luận

Khi đặt bản văn này vào ngữ cảnh, ta thấy rõ ý hướng của Tin Mừng Lc. Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu được so sánh và đạt đối nhau, nhưng sự cao trọng của Đức Giêsu được nêu bật trong từng chi tiết. Rõ ràng Đức Maria cao trọng hơn ông Dacaria, và con của Đức Maria vô cùng cao trọng hơn con của ông Dacaria. Cốt lõi đầu tiên là thời thơ ấu của Đức Giêsu, và rõ hơn, là truyện Truyền Tin. Rất có thể câu truyện về thời thơ ấu của Gioan Tẩy Giả chỉ là một phần mở do tác giả Lc sáng tác ra để vị Tiền hô giới thiệu Đấng Mêsia.

Chương 1–2 Lc có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đn 9–10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Ml 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài Benedictus và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm “sự hoàn tất các ngày” (đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo, được viết theo ngôn ngữ Kinh Thánh.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đây là một lễ lớn, một đại lễ của niềm vui, nhưng nhất là một lễ của lòng từ bi thương xót! Bởi vì bà Êlisabét, mẹ của Gioan, bị hiếm muộn (x. Lc 1,7.36) và hoàn toàn nhưng-không – do ân sủng – mà bà đã được Chúa ban cho ơn phi thường là cưu mang một người con trong lúc tuổi già (x. Lc 1,36). “Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà”.

Nhưng đây là một lễ của lòng từ bi thương xót chính là vì cuộc chào đời của Gioan loan báo cuộc chào đời của Đấng Mêsia, Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, được sai phái đền trần gian để cứu chuộc con người sa đọa từ tội nguyên tổ!

2. Cuộc chào đời của Gioan đầy những chuyện lạ lùng bao quanh: sứ thần Gabriel loan báo cho ông Dacaria; bà Êlisabét gặp Đức Maria là cơ hội để cho thai nhi nhảy mừng. Và Gioan ra đời đã sống xứng đáng với các phép lạ đó. Nghĩ đến cuộc sống mình, chúng ta hẳn cũng thấy đời của mình đầy ắp phép lạ, hay là cả cuộc đời mình là một phép lạ kéo dài, bởi vì chúng ta cũng là những tiền hô của Đấng cứu thế. Chúng ta đang sống thế nào?

3. Chúng ta suy niệm về thánh Gioan dựa theo ý kiến của một vài vị thánh. Trước tiên, ta có ý kiến của linh mục Origiênê (Các bài giảng về Tin Mừng Luca, số 4,4-6): “Phần tôi, tôi nghĩ rằng mầu nhiệm Gioan đang được hoàn tất trong thế giới cho tới nay. Người nào được nhắm cho tin vào Đức Kitô Giêsu, thì trước đó tinh thần và sức mạnh của Gioan phải đến trong tâm hồn người ấy để “chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1,17) và trong những nơi lồi lõm của con tim, “khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho bằng” (Lc 3,5). Không phải chỉ vào thời đó các “khúc quanh co, mới phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, mới phải san cho bằng”, nhưng hôm nay cũng còn như thế. Tinh thần và sức mạnh của Gioan đi trước việc Chúa Cứu thế hiển ngự”.

4. Thánh Ephrem đã dạy (Bài thánh ca được gán cho thánh Ephrem [khoảng 306-373]: “Chính là ngài, thánh Gioan, mà chúng con nhìn nhận như là một Môsê mới, bởi vì ngài đã thấy Thiên Chúa, không phải trong dạng biểu tượng, nhưng hoàn toàn rõ ràng. Chính ngài mà chúng con coi như là một Giôsuê mới: ngài không đi từ bờ này sang bờ bên kia của sông Giođan, nhưng, với nước sông Giođan, ngài đã đưa người ta đi từ thế giới này sang thế giới khác… Chính ngài là Samuen mới đã không xức dầu cho Đavít, nhưng đã ban phép rửa cho con Đavít. Chính Ngài là Đavít mới, đã không bị vua Saun xấu xa bách hại, nhưng đã bị Hêrôđê giết chết. Chính ngài là Êlia mới, được nuôi dưỡng trong hoang địa không phải bằng bánh một con quạ mang đến , nhưng bằng châu chấu và mật ong do Thiên Chúa ban cho. Chính ngài là Isaia mới đã không nói: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và sinh con” (7,14), nhưng đã công bố trước mặt mọi người: “Này đây bà đã sinh ra Con Chiên Thiên Chúa, Đấng mang tội trần gian” (Ga 1,29)…

“Lạy thánh Gioan, Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn, ngài thật có phúc, vì ngài đã đặt tay trên Chủ của ngài, ngài đã nắm lấy trong tay ngọn lửa có ánh sáng làm các thiên thần phải run sợ! Là ngôi sao mai, ngài cho thế gian thấy Buổi Ban mai chân thật ; là bình minh tươi vui, ngài đã cho thấy ngày vinh quang; là ngọn đèn cháy sáng, ngài đã chỉ cho thấy Ánh sáng có một không hai! Là sứ giả mang ơn hòa giải của Chúa Cha, tổng lãnh thiên thần Gabriel đã được cử đến trước mặt ngài để loan báo cho Dacaria về ngài, như là một hoa quả vượt quá sự chờ đợi của ông… Là người cao trọng nhất trong số các con cái loài người (Mt 11,11), ngài đến đón trước Đấng Emmanuel, ngài đón trước Đấng vượt quá mọi thọ tạo; là con đầu lòng của bà Êlisabét, ngài đi trước Trưởng Tử của toàn thể thọ tạo!”

5. Mỗi người có ơn gọi của mình. Gioan có ơn gọi của riêng ông, ơn gọi không mấy thông thường. Cũng như mỗi người được Thiên Chúa kêu gọi, Gioan đã chuẩn bị trong lòng sứ mạng được ký thác cho ông. Ông chuẩn bị bằng đời sống ẩn dật. Đó chính là đời sống của ông với Thần Khí Đức Chúa. Đó chính là điều bí mật của ông. Phải chăng đây là một sự mô phỏng, khá mờ nhạt, của sự chuẩn bị của Đức Maria hầu đón tiếp Đức Chúa đến với Bà vào ngày Truyền tin? Bởi vì Đức Maria cũng đã nhận một tên mới do Thiên Chúa ban: thiên thần Gabriel đã gọi Bà bằng cái tên “Đấng đầy ân sủng” (Lc 1,28).

GXTNO - St
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: ngày người, sinh ra

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn