1
21:40 +07 Thứ bảy, 27/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 233

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 232


Hôm nayHôm nay : 34097

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 338219

Tổng cộngTổng cộng : 27892503

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Mừng lẽ hai thánh Phêrô và thánh Phaolô Tông Đồ 29 - 06

Thứ ba - 26/06/2012 22:45-Đã xem: 1704
GXTNO-Phêrô và phaolô là hai khuôn mặt lớn trong việc rao giảng Tin Mừng. Cuộc đời Phêrô sau khi gặp những thử thách thay vì nhút nhát là một dạ can trường, thay vì chao đảo là một lòng xác tín. Sau khi Thánh Thần hiện xuống ông là người đầu tiên công khai rao giảng Tin Mừng Chúa Cứu Thế cho mọi người, đặc biệt là người Do thái
Mừng lẽ hai thánh Phêrô và thánh Phaolô Tông Đồ 29 - 06

Mừng lẽ hai thánh Phêrô và thánh Phaolô Tông Đồ 29 - 06

KHỐI ÓC VÀ TRÁI TIM

Phụng vụ công giáo mừng kính chung trong ngày 29-6 hai vị thánh: Phêrô và Phaolô. Các ngài được sánh ví như hai yếu tố căn bản làm nên tòa nhà Giáo Hội: Phêrô là nền đá, Phaolô là trụ đồng. Nhờ nền đá mà móng nhà chắc chắn, nhờ trụ đồng mà tòa nhà vững vàng. Hơn hai ngàn năm trôi qua, biết bao sóng gió bão táp không thể làm chuyển lay căn nhà Giáo Hội. Suốt bề dày lịch sử, biết bao phong ba dồn dập không thể tiêu hủy công trình của Chúa Kitô.

Việc hai vị thánh được mừng kính chung gợi ý cho chúng ta suy tư về Thánh ý diệu kỳ của Thiên Chúa và về đức tin nơi các Kitô hữu.

Hai vị thánh xuất thân từ hai môi trường xã hội hoàn toàn khác nhau: Phêrô là một người dân chài, cương trực, đơn sơ, sớm hôm vui với nước lên nước xuống, quen với cá tôm đi về. Phaolô là một học giả, kiến thức uyên thâm, đã có thời theo học những bậc thầy danh tiếng, nhiệt thành, hăng say tuân giữ truyền thống của cha ông (x. Gl 1,14).

Ơn gọi của hai vị thánh cũng khởi đầu từ hai bối cảnh hoàn toàn khác nhau: Phêrô được Chúa Giêsu gọi lúc đang vá lưới. Lời Chúa gọi mời có sức thuyết phục ông bỏ mọi sự, lập tức theo Chúa (x. Mc1 16-20). Phaolô đang hang hái tìm bắt các Kitô hữu. Cú ngã ngựa và tiếng nói lạ đã làm thay đổi cuộc đời, từ đó ông trở thành môn đệ của Đức Giêsu (x.Cv 9,1-19).

“Hãy theo Thày!”, tiếng gọi đơn sơ mà có sức mạnh thuyết phục lạ lùng, khiến chàng trai dân chài, suốt đời gắn bó với sông nước, dứt khoát bỏ nghề để theo Chúa.

“Tại sao ngươi bắt bớ ta?” lời chất vấn mạnh mẽ làm mềm lòng một binh sĩ đang  hằm hằm say máu, giúp ông quyết tâm gác kiếm để hoàn lương.

Với trái tim sẵn sàng rộng mở của Phêrô, Đức Giêsu đã đặt ông làm đá tảng cho ngôi nhà Giáo Hội.
Với khối óc uyên thâm và sẵn sàng phục thiện của Phaolô, Đức Giêsu đã chọn ông làm cột trụ nâng đỡ ngôi nhà của Người.

Nhờ tình yêu mà Giáo Hội trường tồn giữa bao sóng cả trần gian. Nhờ những suy tư giáo lý mà Giáo Hội vững chắc qua bao phong ba cuộc đời.
Hai con người, hai cuộc đời, hai vị thánh, cùng chung một lý tưởng, đó là phụng sự Đức Giêsu, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Danh Người. Cả hai đã làm chứng cho Chúa bằng việc hy sinh mạng sống và đạt được vinh phúc tử đạo.

Cả hai con người đều được Chúa kêu gọi, mỗi người một cách khác nhau. Cả hai đều giã từ quá khứ, khởi đầu một cuộc lên đường mới, mặc dù chưa biết rõ tương lai ra sao, nhưng một niềm xác tín. Họ đã thành công.

Sau này, Phaolô không ngần ngại nói về quá khứ của mình: “Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin” (1 Tm1,13).

Phêrô đã được Chúa cảm hóa. Từ một con người cương trực nóng nảy đến mức sẵn sàng rút gươm chém đứt tai viên đầy tớ vị Thượng tế (x. Ga 18,10), ông đã trở thành một môn đệ khiêm tốn, chỉ còn thốt lên lời cam kết yêu thương: “Thưa Thày, Thày biết rõ mọi sự, Thày biết con yêu mến Thày!” (Ga 21-17).

Phaolô đã được Chúa chinh phục. Từ một người say máu và ham giết chóc, trở thành vị tông đồ dân ngoại, quy hướng niềm đam mê của nình về Đấng chịu đóng đinh như lý tưởng duy nhất của đời mình:“Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Dothái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ.  Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Dothái hay Hylạp, Ðấng ấy chính là Ðức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1,22-24).

Nếu Đức Giêsu chỉ gọi Phêrô: Giáo Hội của Chúa sẽ chỉ bao gồm những người dân chài, những nông dân ít học hoặc những người sống bên lề xã hội.
 
Nếu Đức Giêsu chỉ gọi Phaolô: Cộng đoàn đức tin sẽ chỉ còn những người trí thức, giỏi giang, uyên bác với những triết lý cao vời.

Thánh ý của Chúa thật kỳ diệu. Ngài gọi Phêrô và Phaolô, để làm nên tính đa dạng của Dân Chúa.Giáo Hội của Chúa bao gồm những cụ ông cụ bà, suốt đời vất vả, chẳng một lần được học Giáo lý, vậy mà vẫn vững vàng tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất…”. Giáo Hội của Chúa cũng gồm những nhà khoa học, những phi hành gia, những kỹ sư, bác sĩ và những người có bằng cấp học vị cao, nhưng vẫn chưa hoàn toàn thỏa mãn và tiếp tục kiếm tìm Chân lý. Họ ngỡ ngàng trước uy quyền của Thiên Chúa và thốt lên: "Lạy Đức Chúa là Chúa chúng con, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu". (Tv 8,2)

Phêrô cảm nhận Thiên Chúa bằng trái tim; Phaolô cảm nhận Thiên Chúa bằng khối óc. Trái tim của Phêrô luôn rộng mở, tuy có lúc chao đảo yếu đuối, nhưng thành tâm sám hối. Phaolô đầy nhiệt thành, với kiến thức thâm sâu, đã có thời đi lạc đường, nhưng nhanh chóng phục thiện.

Nếu chỉ cảm nhận Thiên Chúa bằng trái tim, đức tin có nguy cơ trở thành một thứ tình cảm ủy mị và dễ lầm lạc. Nếu chỉ cảm nhận Chúa bằng khối óc, đức tin có nguy cơ trở thành một mớ lý thuyết  trống rỗng, vô hồn.

Qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu trên đường đi Đamát, đức tin thuần túy trí tuệ của Phaolô được bổ sung bằng tình yêu mến: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ðức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?  Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,35-37).

Qua những năm tháng thụ giáo nơi vị Ngôn sứ thành Nagiarét, đức tin mang tính tình cảm của Phêrô được tiếp sức bằng giáo huấn về Nước Trời. Ông được tăng thêm sức mạnh:  “Nếu bị sỉ nhục vì danh Ðức Kitô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em. Ðừng có ai trong anh em phải chịu khổ vì tội giết người, trộm cắp, làm điều gian ác hoặc dây mình vào việc người khác; mà nếu có ai phải chịu khổ vì danh hiệu Kitô hữu, thì đừng xấu hổ, nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa vì được mang danh hiệu đó” (1 Pr 4,14-16)
Cuộc đời và sứ mạng của hai vị thánh cho chúng ta thấy, người Kitô đích thực là người đón nhận Chúa bằng trái tim và trí tuệ. Đó cũng là lý do tại sao mỗi tín hữu cần phải học giáo lý và chuyên cần cầu nguyện. Học giáo lý để hiểu biết Chúa. Cầu nguyện để mỗi ngày tiến sâu hơn vào huyền nhiệm tình thương của Ngài.

Qua cuộc đời của hai vị thánh, không ai trong chúng ta còn mặc cảm cho rằng mình không thể sống đức tin. Bởi lẽ ai  cũng có thể đóng góp phần mình để xây dựng Giáo Hội. Những người nông dân, sớm hôm lặn lội ngoài đồng; những người trí thức, thi sĩ, nghệ sĩ, văn sĩ say sưa với những tác phẩm nghệ thuật; những người bệnh tật luôn chịu đựng những đau đớn thể xác cũng như tinh thần… tất cả mọi người đều được mời gọi thánh hóa bản thân, lắng nghe và thực thi Lời Chúa, là Lời đem lại cho họ niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Xin Thánh Phêrô và Thánh Phaolô cầu bầu cho mỗi người chúng ta.
 

 

                                                         Hải Phòng 26-6-2012
                                                       +Gm Giuse Vũ Văn Thiên

 

TRANH CÃI THẾ NÀO ?

Có một cặp vợ chồng sống trong một căn hộ, họ thường tranh cãi nhau to tiếng và lâu dài hầu như mỗi đêm. Qua những bức tường không cách âm, một cặp vợ chồng khác ở căn hộ kế cận có thể nghe tiếng họ la hét. Vậy phải làm gì để ngừng sự quấy rầy này, để giúp cho cặp vợ chồng kia nói nhỏ nhẹ hơn? Cặp vợ chồng bên cạnh quyết định một cuộc tranh cãi để cặp vợ chồng kia có một vài ý tưởng về sự ồn ào đáng sợ thế nào. Họ đứng sát tường rồi bắt đầu la hét nhau. Và hầu như tức thời cặp vợ chồng kia ngừng cãi nhau. Và không bao giờ họ la rầy nhau nữa.

Tất cả chúng ta có tranh cãi nhau, vì không có hai người trong chúng ta hoàn toàn giống nhau, không có hai người trong chúng ta nhìn cùng sự vật theo cùng một cách thức. Chúng ta có những khác biệt, và chúng ta bày tỏ những khác biệt này. Có nhiều cách tranh cãi lành mạnh, nếu chúng ta thực sự trao dổi tư tưởng, quan điểm và lý luận, chúng ta có thể học được nhiều nhờ trao đổi tư tưởng với người khác.

Hôm nay chúng ta tôn vinh hai vị thủ lãnh của Giáo hội, thánh Phêrô và thánh Phaolô. Các Ngài là những vị thánh, tuy nhiên các Ngài cũng đã có một cuộc tranh cãi. Thánh Phêrô nghĩ rằng: người nào muốn nhập cộng đoàn những người tin theo Chúa Kitô, thì trước hết phải trở nên người Do thái, họ phải chịu cắt bì và tuân theo nhiều qui tắc của lề luật Do thái. Thánh Phaolô thì nghĩ khác. Các Ngài đã tranh cãi công khai. Tại cộng đồng Giêrualem, các Ngài quyết định sự tranh cãi bằng cách nhắc đi nhắc lại những điều Chúa Kitô đã dạy các Ngài, nghĩa là Chúa Kitô đã thiết lập Giáo hội của Ngài không chỉ cho người Do thái mà cho cả người ngoài Do thái, dân ngoại.

Nếu bạn phải tranh cãi, thì hãy theo khuôn vàng thước ngọc là: hãy làm cho người khác điều mà bạn muốn họ làm cho bạn. Hãy tranh cãi với người khác như bạn muốn họ tranh cãi với bạn. Hãy lắng nghe, thực sự lắng nghe. Hãy mở rộng cho những ý tưởng khác với ý tưởng của bạn. Hãy chấp nhận là người khác có thông tin và kinh nghiệm vượt hơn bạn. Bạn đừng chửi bới, hay nguyền rủa, thiên vị, bất công hay lăng mạ. Bạn hãy giữ lời nói ôn hòa, đừng hăm dọa chút nào. Bạn hãy lắng nghe chính mình và người khác. Hãy nghe cuộc tranh cãi dữ dội như cặp vợ chồng thứ nhất trong câu chuyện đã làm.

Trước hết, bạn hãy cầu xin cho được hiểu biết và bình an. Hãy xin Chúa thực sự. Hãy cầu nguyện với ý nghĩa đăc biệt của lời Kinh Nguyện Thánh Thể II: “Xin cho chúng con khi thông Mình và Máu Chúa Kitô được hợp nhất cùng nhau nhờ Chúa Thánh Thần”.

Trong công đồng Vat. II, đã có những sự tranh cãi giữa 2500 giám mục. Một số trong những trao đổi này rất là nặng nề. Nhưng các Ngài đã giải quyết những khác biệt của mình theo đường lối giống Chúa Kitô.

Ngày nay, cũng có những tranh cãi trong gia đình của Thiên Chúa, nếu thánh Phêrô và Phaolô có những khác biệt, thì chúng ta cũng có thể thâý được những tranh cãi trong tổ chức phức tạp và mở rộng toàn cầu, đó là Giáo hội, chúng ta cũng có thể thấy những khác biệt trong chính giáo xứ chúng ta. Bạn hãy giải quyết chung trong tinh thần của Chúa Kitô, trong tinh thần khuôn vàng thước ngọc của Ngài.

Lạy Chúa, xin gìn giữ con khỏi tranh cãi, nhưng nếu con phải tranh cãi, thỉ xin giúp con hành động theo tinh thần của Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.


DƯ LUẬN NGHĨ GÌ VỀ THẦY ?

… “Phần các con, các con nghĩ Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Anh chị em thân mến,
Có thể nói Chúa Giêsu không quan tâm đến dư luận nghĩ như thế nào về Ngài: Là Gioan Tẩy Giả mà Hêrôđê giết chết nay sống lại, là Eâlia, Giêrêmia, một tiên tri nào đó … điều đó không quan trọng. Người đời tự do nhận hay khước từ Chúa Giêsu, việc đó từ khi Ngài xuống thế gian cho đến bây giờ vẫn luôn xảy ra, chẳng những thế người ta còn gán cho Ngài những danh xưng, những đức tính hay những tật xấu … việc đó cũng không quan trọng.

Quan trọng là chúng ta, những người Ngài đã kêu gọi và được thanh tẩy trong Bí Tích Rửa Tội, Ngài đã ban cho Thần Khí của Ngài, Ngài đã dùng Lời và Mình Máu Thánh Ngài để nuôi dưỡng, Ngài đã không ngớt yêu thương và chăm sóc … Chúa sẽ hỏi chúng ta: “Còn con, con nghĩ Thầy là ai?”

Qua bài Tin Mừng Mt 16, 13 – 19: Hỏi về dư luận chỉ là cớ để Chúa Giêsu bắt vào câu chuyện, còn vấn đề chính là dành cho các tông đồ: “Chúng con nghĩ Thầy là ai?” sau khi Phêrô trả lời, Chúa Giêsu nói ngay: “Chẳng phải (điều con tuyên xưng) do xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Chính Chúa Cha đã mạc khải, đã chọn, đã tỏ cho thấy con có đức tin đó, cho nên Thầy chọn con, con trở nên tảng đá vững chắc, Thầy sẽ xây dựng Giáo Hội của Thầy trên con và Giáo Hội sẽ không bao giờ lay chuyển…

Thưa anh chị em,
Kể từ giây phút đó, dường như Chúa Giêsu bắt đầu đổi hướng trong việc rao giảng và giáo huấn. Ngài dành nhiều thì giờ cho nhóm Mười Hai, Ngài dạy dỗ, chỉ bảo cho các ông, vì Ngài biết rằng đây là nhóm người mà Chúa Cha đã chọn, đã trao cho Ngài và từ những con người này (những con người còn đầy dẫy những khuyết điểm, yếu đuối…) Ngài xây dựng làm nền tảng cho Hội Thánh. Trải qua bao nhiêu thử thách, không quyền lực nào có thể lay chuyển được Hội
Thánh mà Ngài đã xây dựng. Chúng ta chính là Hội Thánh đó, là những con người Ngài xây dựng và luôn gìn giữ.

Trở lại với bài sách Công Vụ (Cv 12, 1 – 11), tôi nghĩ rằng dù trình bày như thế nào, chúng ta cũng không quên trọng tâm của câu chuyện: Thiên Chúa giữ lời Ngài nói qua miệng Chúa Giêsu “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Lời Ngài được thực hiện khi thiên thần giải thoát Phêrô khỏi ngục tù cách lạ lùng (Phêrô được Chúa tuyển chọn và Phêrô được Chúa trao cho quyền tha - buộc tội lỗi, và trong chức năng đó, Chúa gìn giữ Phêrô…). Giáo Hội trải qua 2000 năm với bao nhiêu thử thách nhưng vẫn là Giáo Hội của Đức Kitô, ngày hôm nay có thể mang nhiều sắc thái khác nhau, những vị Giáo Hoàng khác nhau, nhưng vẫn là một Giáo Hội duy nhất, Giáo Hội mà Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng Phêrô. Chúng ta thấy Lời Chúa vẫn luôn được thực hiện,

Chương trình của Thiên Chúa rất mầu nhiệm, phong phú và đa dạng. Chúng ta nghĩ rằng với thánh Phêrô, với đoàn tông đồ như thế là đã đủ và từ đó cứ tiếp nối để Giáo Hội trường tồn, nhưng không, bên cạnh đó Chúa đã tuyển chọn Phaolô cách rất đặc biệt: Từ con người hăng hái bắt đạo, Chúa đã biến đổi lòng dạ và làm cho Phaolô trở nên tông đồ nhiệt thành.

Vậy vai trò của Phaolô trong Hội Thánh lúc bấy giờ là gì? (Đọc trong những đoạn kinh Phụng Vụ để thấy Thiên Chúa nhiệm mầu trong chương trình của Ngài) Phêrô là người tuyên xưng đức tin, trên Phêrô đức tin được xây dựng; Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, là người đem đức tin đó gieo trồng khắp mọi nơi. Hai khía cạnh đó luôn có Trong Hội Thánh, sứ mạng củng cố đức tin, xây dựng nội bộ và sứ mạng truyền giáo, sứ vụ đến với muôn dân … Ngày hôm nay chẳng những trong lòng Giáo Hội, chẳng những ở Giáo Hội địa phương mà ngay mỗi Giáo Xứ, mỗi cộng đoàn và mỗi người luôn phải sống hai khía cạnh đó: một đàng phải luôn đào sâu đức tin, sống gắn bó với Chúa nhiều hơn, đàng khác chúng ta không chỉ được sống cho mình mà phải biết chia sẻ đức tin cho anh em, càng biết đến với anh em, càng biết chia sẻ đức tin, biết loan báo Tin Mừng thì đức tin chúng ta càng vững chắc. Đó là chương trình của Thiên Chúa trao ban cho mỗi người chúng ta. Có thể chúng ta nói mình yếu đuối, tọâi lỗi, nhưng thành thật mà nói, chắc chúng ta không tội lỗi hơn thánh Phaolô, cũng không tội lỗi hơn thánh Phêrô; còn nếu nói chúng ta yếu đuối thì tôi nghĩ rằng thánh Phaolô và thánh Phêrô còn có lúc yếu đuối hơn chúng ta. Thiên Chúa đã tuyển chọn và làm những việc lạ lùng với những con người tội lỗi, yếu đuối đó. Chúng ta cũng được Chúa tuyển chọn và ban Thánh Thần của Ngài, thế thì tại sao chúng ta lại không đi trên con đường đó và không can đảm nhận lấy trách nhiệm và sứ vụ đó?

Cử hành trọng thể lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, chúng ta cám ơn Chúa đã yêu thương và xây dựng Hội Thánh để Ngài luôn hiện diện giữa thế gian. Nhờ có Hội Thánh, chúng ta được tiếp xúc với Thiên Chúa và được dạy dỗ để đi trên con đường của Ngài. Tin vào điều đó nhưng đồng thời cũng tin Chúa trao cho chúng ta (ở trong Hội Thánh) sứ vụ làm chứng cho Ngài, vì Ngài không chỉ muốn cứu độ một nhóm người, nhưng Ngài muốn tình yêu cứu độ của Ngài phải được loan báo cho muôn dân. Chúng ta là những người mà Ngài đang cần đến, là những người mà Ngài tuyển chọn để thi hành sứ mạng đó.

Mừng lễ hai thánh tông đồ, chắc chắn chúng ta thêm niềm tin trong Hội Thánh, thêm niềm tin trong sứ vụ mà Chúa đã trao cho Hội Thánh. Noi theo gương hai Ngài, chúng ta luôn tuyên xưng cách vững chắc “ Ngài là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống”, Ngài là Đấng đã đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, Ngài đã xây dựng và đã sai Hội Thánh tiếp nối công việc của Ngài. Hiểu và tin được điều đó, chúng ta đã góp phần xây dựng Hội Thánh trường tồn và lan rộng cho đến tận cùng thế giới.

 

THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ

Phaolô thành Tarsê không phải là vị thánh của hết mọi người. Nhiều Kitô hữu tốt cảm thấy đối nghịch với Ngài vì thấy Ngài cứng cỏi, khô khan, thiếu hòa giải. Những người đương thời với Ngài cũng cảm nghĩ về Ngài như vậy. Không kể chi đến các bạn đồng liêu của Ngài. Ngay đến các thánh trong Giáo hội như Phêrô, Marcô và Barnaba đếu có lần xích mích với Ngài. Dịu dàng như Giacôbê mà cũng phải khuyên thánh nhân phải biết khéo léo hơn. Nhưng rồi cuối cùng, tất cả đều phải nhìn nhận Ngài với niềm kính phục và tình thương mến. Đó là kinh nghiệm chung đối với những ai lúc đầu cảm thấy đối nghịch với Phaolô, rồi sau đó ngỡ ngàng khi biết rõ Ngài trong các thư tín và sách công vụ sứ đồ. Ngài thật là một con người bất khuất, trung tín và rất thân tình với anh em. Sớm hay muộn, sau khi cởi bỏ lớp vỏ sần sùi bên ngoài đi người ta thấy rõ tính chất nhân bản và sự thánh thiện hàm ẩn của Ngài.

Thánh Phaolô sinh tại thành Tarse một thành phố trù phú miền nam Tiểu Á. Cha mẹ Ngài là những người thế giá, có quyền công dân Rôma. Ngài được giáo dục để trở thành một người biệt phái đúng nghĩa. Ngài được thày Gamaliel dạy dỗ thần học. Người người đều kỳ vọng ở người than niên thông minh này khi anh về Giêrusalem khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu bị đonh đinh. Kỳ vọng ấy đã thành sự, nhưng theo một đường lối không lường trước được. Mọi người đều biết là anh Phaolô đã có mặt trong cuôc tử đạo thánh Stephanô và đã nghe Ngài cầu nguyện cho những kẻ sát hại mình. Chẳng bao lâu sau trên đường về Damas, Saolê (tên cũ của Phoalô) đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh. Người biến đổi Phaolô từ một kẻ bách hại thành một lãnh tụ Kitô giáo.

Ngay sau khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, Phaolô, lui vào sa mạc để suy nghĩ cầu nguyện trong hai năm. Sau đó Ngài trở lại Damas. Như vậy phải đợi ba năm sau, Phaolô mớilên Giêrusalem bàn luận với các tông dồ. Và thánh nhân lại trở về Tarsê. Trong khoảng 10 năm (34 - 44). Chúng ta không thấy Phaolô xuất hiện. Đây phải là khoảng thời gian mà với sự trợ lực của Thiên Chúa, trí khôn của thánh nhân xây dựng cây cầu nối giữa Do thái giáo với Kitô giáo, giữa dân Do thái với dân ngoại. Việc nối kết này là món quà lớn lao nhất thánh nhân đã trao tặng cho thế giới.

Dĩ nhiên thánh Phaolô không phải là người đầu tiên rửa tội cho một lương dân. Thánh Phêrô đã rửa tội cho Cornêliô. Thánh Philipphê đã rao giảng Tin Mừng ở Samaria và rửa tội cho hoạn quan người Eâthiôpia. Nhưng việc rao giảng có hệ thống cho những người không phải là Do thái chỉ bắt đầu ở Antyiôkia vào đầu thập niên 40. Thánh Barnaba được các tông đồ sai đi xem xét tình hình. Nhưng thánh nhân đã đi xa hơn. Ngài nghĩ tới Phaolô còn đang sống âm thầm ở Rarse và đến tìm ông. Thánh Phaolô trở về Antiôkia với thánh Barbnaba. Từ đó thánh nhân hiến trọn đời cho công cuộc truyền giáo. Ngài bỏ vai trò của Maria và lãnh lấy vai trò của Mattha. Nhà học giả và chiêm niệm trở thành thầy dạy và nhà giảng thuyết.

Hết cuộc hành trình này tiếp đến cuộc hành trình khác, thánh Phaolô không ngừng bước chân đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã đi truyền giáo ở Chypre, Tiểu Á và Maceđonia, Hy Lạp. Mỗi khi Ngài đi đến đâu là ở đó nổi lên cơn giông tố nhiệt tình một bên và ghen ghét bên kia, nhốt tù, bị ném đá, đánh đập, bị đắm tàu và yếu đau và cả đến thất vọng nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục công việc. Mỗi khi đến nói chuyện ở hội đường, Ngài trích thánh kinh, ở công trường, Ngài trích thơ văn cổ và từ nơi đó phát sinh một trung tâm Kitô giáo. Trong 12 năm trời, Ngài đã biến đổi cộng đoàn Do thái nhỏ bằng thành bào thai của một tôn giáo hoàn cầu.

Năm 57, thánh Phaolô trở về Giêrusalem. Bạn bè xin Ngài đừng đi. Họ biết rằng: hội đồng công tọa ghét Ngài, ghét cây ghét đắng mà Giáo hội nhỏ bé không đủ sức bảo vệ cho Ngài, Ngài vẫn bất khuất ra đi và trong vòng một tuần lễ, mọi sự xem ra đều ổn thỏa, nhưng rồi lộn xộn xảy ra, Phaolô lại được cứu thoát khỏi bọn đấu tố, nhờ sự can thiệp của đội lính canh người Rôma. Tiếp sau đó là hai năm tù tội (bất công vì nhà cầm quyền Rôma muốn được qùa hối lộ). Trong thời gian này, Phaolô vẫn dùng cơ hội thuận tiện để rao giảng Tin Mừng.

Bị áp bức bởi Festô, Phaolô nại đến sự che chở của hoàng đế (đối với công dân Rôma) và được gởi về Rôma. Con tàu bị bão đánh và bể nát ở bờ biển Malta. Dip này cho thấy tài điều khiển bẩm sinh của Phaolô trong trường hợp khẩn trương. Tới mùa Xuân năm 60 (hay 61 ) đoàn người tới thủ đô. Thánh Phêrô đã có mặt ở đây và Phaolô lui vào bóng tối. Về những chuyến du hành của Phaolô đi Tây Ban Nha và về cận Đông, chúng ta không có đủ tài liệu. Truyền thống nói tới việc Ngài bị tù tội lần thứ hai dưới thời Nêrô và cho biết Ngài bị chém đầu khoảng năm 66 ở Tre Fontane.

Khi Phaolô tới Roma, Phêrô đã có mặt, Tin Mừng đã được rao giảng, bí tích đã được cử hành, cólẽ Phúc âm đã được Marcô khởi soạn. Vậy đâu là phần đóng góp của Phaolô như là cột trụ Chúa Giáo hội?

Trước hết phải kể đến nhiệt tâm và gương mẫu cuộc sống của thánh nhân. Nhưng phần chính yếu thánh nhân mang lạị là nền tảng vững chắc về tri thức của Giáo hội giúp con thuyền của ngư phủ đương đầu với bão tố. Ngài không thích mơ hồ, nhưng quan tâm tới từng hệ luận tàng ẩn bên trong giáo thuyết. Thực ra nói “giáo thuyết của Phaolô” thì không chính xác lắm, Ngài không sáng nghĩ ra giáo thuyết. Nhưng Ngài khai sáng ra những gì đã lãnh nhận được. Chẳng hạn khi nói “ Chúa Giêsu là đức Kitô” Ngài dựa ra một giải thích hoàn toàn mới mẻ về Cựu ước, với những ý niệm: Giáo hội là Israel mới, ơn thánh thay thế luật Môisê. Đức Kitô là Adam mới, là “hình ảnh” hoàn hảo của Thiên Chúa. Từ lời gọi “Saolê, Saolê, sao ngươi tìm bắt TA?” Ngài đã khai triển giáo thuyết về nhiệm thể: “đức Kitô là tất cả mọi sự trong mọi người” (Cl 3,11). Từ dụ ngôn những người làm vườn nho, Ngài diễn nghĩa cho thấy Israel cũ và Giêrusalem cũ bị thay thế bởi Giêrusalem mới “nơi không còn lương dân hay Do thái, man rợ hay Scythia, nô lệ hay tự do”

Có lẽ giáo thuyết về công giáo tính của Giáo hội là phần đóng góp tiêu biểu nhất của Phaolô, khiến Ngài được mệnh danh là tông đồ dân ngoại. Thánh Phêrô còn ngập ngừng chứ như thánh Phaolô thì không chịu thỏa hiệp. Chính Ngài cho thấy rõ thế nào và tại sao Giáo hội phải là công giáo phổ quát và công giáo tính bao hàm những gì.
GXTNO - St
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn