1
03:45 +07 Thứ năm, 02/05/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 205

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 204


Hôm nayHôm nay : 9079

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 59472

Tổng cộngTổng cộng : 28178720

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật XIV TN – năm B

Thứ năm - 05/07/2012 21:46-Đã xem: 1897
Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? ” Và họ vấp ngã vì Người.4 Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ.6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.
Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật XIV TN – năm B

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật XIV TN – năm B

 BÀI TIN MỪNG THEO THÁNH MÁC-CÔ (Mc 6, 1 - 6)

1 Khi ấy, Đức Giê-su ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo.2Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? ” Và họ vấp ngã vì Người.4Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ.6Người lấy làm lạ vì họ không tin.
 

CÁC BÀI CHÚ GIẢI

Bài 1. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofm:

ĐỨC GIÊSU VỀ THĂM NADARÉT

1- Ngữ cảnh

Ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả Máccô cho thấy Đức Giêsu hành động với uy quyền trước toàn dân (1,16–3,12). Nhưng sau đó, những trở ngại đã xuất hiện: thân nhân Người đi bắt Người về, vì cho rằng Người đã mất trí (3,21); các kinh sư thì nói rằng Người bị quỷ vương Bêendêbun ám và dùng quyền của nó mà trừ quỷ (3,22); bằng kiểu diễn tả bóng bảy, Người  đã nói đến sự cứng lòng của dân Israel (4,11-12); trận bão trên biển không nhận chìm được con thuyền của Người, là một hình ảnh cho hiểu là sứ vụ của Người sẽ gặp nhiều khó khăn (4,35t), nhưng vẫn đứng vững; yêu cầu của dân Ghêrasa cũng ở trong chiều hướng ấy (5,17). Bài tường thuật chuyến về thăm Nadarét cũng nói đến thái độ không tin của người dân Nadarét, khiến họ không chấp nhận Đức Giêsu (6,1-6). Như thế, truyện này tóm tắt một vài đề tài đã được triển khai trong các phân đoạn trước: tư cách môn đệ và lòng tin, Đức Giêsu là thầy và là vị làm phép lạ, sự hiểu lầm và sự loại trừ Đức Giêsu.

2- Bố cục

Bản văn này có thể chia thành bốn phần:

1) Đức Giêsu về quê và giảng dạy ngày sa-bát (cc.1-2a);

2) Các thính giả vấp phạm về Người (cc. 2b-3);

3) Sự cứng lòng tin: đánh giá và kết quả (cc. 4-6a);

4) Đức Giêsu tiếp tục ra đi (c. 6b).

3- Vài điểm chú giải

quê quán của Người (1): Đây là Nadarét thuộc miền Galilê (1,9), cách hồ Ghênêsarét khoảng 30 cs về phía tây. Vào thời đó, Nadarét chỉ là một làng nhỏ, không quan trọng gì (x. Ga 1,46). Trong Cựu Ước, làng này không bao giờ được nói đến. Vì làng ở đọ cao 300-400 m trên mặt biển, người ta có thể nhận ra làng từ xa.

có các môn đệ đi theo (1): Khi nói đến các môn đệ, tác giả Máccô luôn luôn đưa vào đề tài “đi theo” (sequela) (x. 2,15; 10,32; 15,41).

bắt đầu giảng dạy (2) : Ta nhớ lại đoạn 1,21-28 giới thiệu Đức Giêsu là thầy và là người chữa bệnh. Phản ứng đầu tiên trước sự khôn ngoan và những việc lẫy lừng của Người là sự ngạc nhiên. Từ đó, câu hỏi đặt ra “Bởi đâu ông ta được như thế ?” mang tính mỉa mai: trong khi những người đồng hương gắng tìm cho ra danh tánh của con người Giêsu, thì quyền lực của Người lại bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.

- nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên (2): Phản ứng này thường xảy ra trước lời giảng dạy (1,22; 11,18), một phép lạ (7,37) hoặc một câu nói lạ lùng của Đức Giêsu (10,26). Tác giả nhắc đến phản ứng này với nhận định về sự khôn ngoan của Đức Giêsu để cho thấy Người  vừa ban một mạc khải, nhưng dân chúng không tin.

- bác thợ  (3) : Từ Hy Lạp tektôn (La-tinh faber) có lẽ phản ánh từ A-ram naggârâ có thể là một người thợ đóng đồ mộc hoặc là một người thợ xây dựng. Những người thợ ấy thường đi đây đó. Phải chăng Đức Giêsu cũng đã đi đây đó, ít sống tại Nadarét? Bản văn dùng mạo tự xác địnhho cho hiểu rằng dân Nadarét đã quen gọi Đức Giêsu như thế.

- con bà Maria (3): Phải chăng câu này cho phép giả thiết là Giuse đã qua đời? Trong ngữ cảnh ở đây, không có gì bảo đảm là kiểu gọi này có ý nói là Giuse đã chết cả. Chúng ta ghi nhận là trongTM Máccô, Giuse không bao giờ được nêu tên. Dù sao, “con bà Maria” đã trở thành tên gọi của Đức Giêsu. Hoặc tên này được dùng để sỉ nhục, bởi vì người Do Thái được gọi bằng tên của người cha, hoặc để mỉa mai vì muốn ám chỉ đến một cuộc chào đời bất hợp pháp (con hoang). Nếu trường hợp sau là đúng, thì lời sỉ nhục này lại là một khẳng định về cuộc sinh hạ trinh khiết. Để ủng hộ cho cách giải thích này, người ta nêu ra câu hỏi của dân Nadarét về nguồn gốc của Đức Giêsu và sự kiện Mc tránh nhắc đến người cha.

ngôn sứ có bị rẻ rúng (4): Có lẽ đây là một câu tục ngữ phát xuất từ Do Thái giáo nhằm diễn tả kinh nghiệm của các nhà du thuyết Do Thái. Ta có những câu Hy Lạp tương tự: “Các triết gia khó sống tại quê hương” (Điônê Crisostômô; x. Epittêtô…). Nhưng ở đây Mc mở rộng câu ngạn ngữ mà áp dụng cho cả gia đình dòng họ; như thế là nối dài chiều hướng của sự cố được kể ở 3,20t.

4- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu về quê và giảng dạy ngày sa-bát (1-2a)

Đức Giêsu đã rời nhà và vùng ông Gia-ia ở để về quê, tức là Nadarét. Nhân dịp cử hành phụng tự tại hội đường vào ngày sa-bát, Người đã giảng một bài. Đó là việc Người vẫn thường làm (x. 1,21.39).

* Các thính giả vấp phạm về Người (2b-3)

Phản ứng của các thính giả chứng tỏ Đức Giêsu vừa ban một mạc khải. Họ đã nêu ra năm câu hỏi: ba câu liên hệ đến hoạt động của Đức Giêsu (bản thân; giáo lý; các phép lạ) và hai câu liên hệ đến gia đình dòng họ của Người. Chỉ đức tin mới nhận biết nguồn gốc đích thực của Đức Giêsu. Người là Con Thiên Chúa. Đối với những người đồng hương, sự hiểu biết về môi trường sinh sống của Đức Giêsu là biến thành một trở ngại không thể vượt qua. Họ từ khước Đức Giêsu và không chấp nhận giáo huấn của Người. Sự vấp phạm đó chính là sự cứng lòng tin của họ.

* Sự cứng lòng tin: đánh giá và kết quả (4-6a)

Đức Giêsu xác định lập trường bằng một câu ngạn ngữ. Câu này vừa giúp Người biện minh cho mình vừa giảm nhẹ tầm mức của các sự kiện. Các môn đệ (theo Mc, các ông lúc nào cũng đi theo Người) phải học lấy bài học kinh nghiệm này: không bao giờ được để cho nỗi thất vọng vì bị từ khước đánh ngã mình. Con Thiên Chúa bị mọi người kể cả gia đình, hiểu lầm, và bị bỏ cô đơn trong thế gian này. Sự kiện Người không thể làm được phép lạ nào ở quê hương cho thấy tương quan giữa phép lạ và đức tin. Điều này không có nghĩa là quyền lực của Đức Giêsu bị hạn chế nhưng có nghĩa là khi ơn cứu độ được ban tặng trong phép lạ bị từ chối, thì không thể xảy ra phép lạ được. Nếu Đức Giêsu làm khác là Người không trung thành với sứ mạng của Người. Lời ghi thêm “Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ” nhằm làm giảm nhẹ nét tiêu cực nơi những gì được nói trước. Nhưng c. 6a kết luận vẫn ghi nhận sự cứng lòng tin và sự ngạc nhiên của Đức Giêsu.

* Đức Giêsu tiếp tục ra đi (6b)

Tuy nhiên, thất bại này vẫn không làm Đức Giêsu chán nản chùn bước. Người tiếp tục ra đi như Người đã nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (1,38).

+ Kết luận

Đức Giêsu trở lại quê hương Nadarét. Người vào hội đường để giảng dạy, tức là thi hành sứ mạng ngôn sứ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dù đã biết các phép lạ Đức Giêsu làm và nay vừa nghe Người giảng, dân làng Nadarét lại chỉ coi Người như là “bác thợ, con bà Maria, anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn” (c. 3a) mà thôi. TM Mc cho thấy liên hệ huyết thống cũng như tình đồng hương không giúp người ta nhận biết Đức Giêsu trong chân tính của Người. Muốn khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu, người ta phải để cho chính Người dẫn dắt và giáo huấn ngày qua ngày.

5- Gợi ý suy niệm

1. Vấn đề trọng tâm của bản văn là đức tin. Đức tin giúp con người có sự khiêm tốn và sẵn sàng lắng nghe giáo huấn của Thiên Chúa và của các vị sứ giả của Ngài. Cũng chính đức tin giúp người ta nhận biết các việc kỳ diệu Thiên Chúa đã và vẫn đang làm trong thế giới, để ban ơn cứu độ cho mọi người. Tại nơi nào con người khép kín lại với Thiên Chúa, khi Ngài đang ngỏ với họ trong phép lạ, thì phép lạ trở thành chuyện phi lý. Cũng như quyền lực của Ngài là ơn cứu độ cho chúng ta, thì sự cứng lòng tin của chúng ta là sự bất lực của Ngài. Điều đó đã được chứng thực tại cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với dân làng Nadarét: họ đã ngạc nhiên về những gì Đức Giêsu nói, và thế là để vuột mất ý nghĩa của các lời Người loan báo.

2. Sự từ khước ở Nadarét vẫn tồn tại. Con người hôm nay, những người Nadarét mới, vẫn đang thấy Đức Giêsu là một cớ gây ngạc nhiên và vấp ngã. Do sự từ khước của con người hôm nay, hoạt động cứu thế của Thiên Chúa như bị tắc nghẽn. Bị giam hãm trong các định kiến, họ không hiểu được cốt lõi tinh túy của sứ điệp, cũng không tạo cơ hội cho các việc kỳ diệu có thể xảy ra hay cho ơn Chúa có thể đến được với chính họ và người khác. Từ đây, chúng ta có thể đi đến mộtnhận định: cộng đoàn Kitô hữu có hai trách nhiệm, bởi vì phải vừa biết nhận ra các ngôn sứ được Thiên Chúa cho xuất hiện giữa các thành viên của mình, vừa phải hỗ và làm gia tăng ơn Chúa mà sự hiện diện của họ mang lại. Ý thức này đòi hỏi cộng đoàn phải trở thành một tập thể sẵn sàng, trong tư thế cầu nguyện, có cái nhìn khôn ngoan, để nhận ra các dấu chỉ của Thiên Chúa. Tất cả các điều này không đơn giản: trong đời sống mỗi ngày, chúng ta ghi nhận rằng cộng đoàn chúng ta đang bước đi giữa hai đe dọa: một bên, cộng đoàn có thể rơi vào một thứ hứng khởi dễ dãi mà chạy theo bất cứ một chủ trương đổi mới nào, để rồi cuối cùng bị lạc hướng và bị phân tán; một bên, cộng đoàn dễ bị thu hút bởi xu hướng bất động và sự cứng ngắc do bám vào một vài điều xác tín nào đó.

3. Người môn đệ của Đức Giêsu không được nản chí khi gặp thất bại hay chống đối. Nhiệm vụ của họ là cứ ra đi để rao giảng Lời Chúa, để làm chứng, không nên bận tâm (và nặng lòng) với kết quả. Họ cần phải nhìn vào Thầy Giêsu mà dấn thân. Như Đức Giêsu, họ cứ quảng đại làm việc, “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2). Niềm vui họ sẽ nhận được khơng phải do kết quả kiểm chứng được, nhưng là do biết rằng họ đã kiên trì thực huện những điều Thiên Chúa muốn.

4. Thành kiến là một tật xấu nằm sâu trong tâm khảm con người. Chính tật xấu này làm cho khả năng đón nhận và loan truyền Lời Chúa bị giới hạn lại. Các Kitô hữu cần học lấy bài học của thánh Phaolô: “vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,6). Đấy là khả năng nhận ra sự thiện hảo tại bất cứ nơi nào nó xuất hiện, và sẵn sàng nêu lên.

 

Bài 2: Chú giải và gợi ý Suy Niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông


Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này nêu lên những khó khăn mà tất cả các ngôn sứ hay các nhà truyền giáo gặp phải, đặc biệt khi họ loan báo sứ điệp Thiên Chúa cho những người đồng hương của mình.

Ed 2: 2-5

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhận được sứ điệp phải loan báo cho những người đồng hương của ông, những người lòng chai dạ đá này, một sứ điệp cứng rắn về việc phải thay lòng đổi dạ.

2Cr 12: 7-10

Thánh Phao-lô hãnh diện về những đặc sủng mà mình đã lãnh nhận, nhưng thánh nhân cũng đã gặp phải không biết bao nhiêu khó khăn trong suốt sứ vụ truyền giáo của mình: thử thách cá nhân (“như một cái dầm đâm vào thân xác”), những bách hại, chống đối, nhục mạ, vân vân.

Mc 6: 1-6

Trở về Na-da-rét, Đức Giê-su rao giảng cho những người đồng hương của Ngài, nhưng gặp phải thái độ vô tri và ngờ vực của họ.

BÀI ĐỌC I (Ed 2: 2-5)

Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã là tư tế Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, đồng thời cũng lãnh nhận ơn gọi ngôn sứ. Đây là trường hợp đặc biệt.

Ê-dê-ki-en đã sống trong một thời đại bi thảm: đế quốc Ba-by-lon đã chinh phục xứ Pa-lét-tin, triệt hạ thành đô Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ và vương quốc Giu-đa. Dân chúng bị đưa đi lưu đày và sống ở đất khách quê người trong cảnh nghèo khổ. Họ đã trải qua từ những nghi lễ huy hoàng ở Đền Thờ đến một tôn giáo trơ trụi, nội tâm. Sứ mạng chính yếu của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là làm cho những kẻ lưu đày hiểu ý nghĩa của sự thử thách mà họ đang phải chịu để họ thay đổi“trái tim bằng đá thành trái tim bằng thịt”.

Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay là bài trình thuật về ơn gọi của ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Bài trình thuật này nêu bật quyền năng bất khả kháng của tiếng gọi Thiên Chúa và con người cảm thấy mình hư vô và nhỏ bé trước sự siêu việt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài trình thuật này cũng làm cho hiểu rằng dù chỉ là một phàm nhân nhưng ngôn sứ trở nên vĩ đại biết bao dưới tác động của Thiên Chúa.

1. Thần Khí nhập vào tôi:

Đối với Cựu Ước, Thần Khí chưa là một ngôi vị phân biệt với Đức Chúa, nhưng một sự thôi thúc đến từ Thiên Chúa, “hơi thở của Ngài”.

Thần Khí nhập vào ngôn sứ và làm cho vị ngôn sứ đứng dậy, nghĩa là, nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng của mình, con người chỉ là thụ tạo yếu đuối và nghiêng ngữa; nhưng khi được Thiên Chúa nắm bắt, vị ngôn sứ là một con người đứng thẳng, kiên cường trong sứ mạng của mình.

2. “Hỡi con người”

“Con người” được dịch theo sát từ là “con cái loài người”. Đây là một đặc ngữ Do thái, có nghĩa “một con người”, “một phàm nhân” (x. Tv 80: 17; Gr 50: 40; 51: 43). Nhưng trong Ê-dê-ki-en đặc ngữ này xuất hiện 93 lần và có nhiều sắc thái ngữ nghĩa. Ở chỗ này, đặc ngữ này bày tỏ rằng ngôn sứ xem mình như một một con người bình thường như bao nhiêu người khác, không có bất kỳ một đặc quyền nào, thậm chí cho dù ông là một phát ngôn viên của Thiên Chúa đi nữa. Ở nơi khác, đặc ngữ này chỉ ra rằng khi so sánh với Đức Chúa, Thiên Chúa quyền năng, Đấng cho ông thoáng thấy vinh quang của Ngài, ông chỉ là một con người, một thụ tạo yếu đuối thấp hèn: sứ điệp mà ông truyền đạt có khoảng cách khôn sánh giữa Thiên Chúa và con người. Cuối cùng, đặc ngữ này bày tỏ mối liên hệ của vị ngôn sứ với đồng bào của ông, vì ông không khác với họ về mọi phương diện, ngay cả ông đã được Thiên Chúa ủy thác sứ điệp của Ngài đi nữa. Đúng hơn ông thấy mình đơn giản như một thành viên của cộng đồng Ít-ra-en mà Thiên Chúa đang ngỏ lời qua ông.

Chính luôn luôn dưới danh xưng này: “Hỡi con người, hãy đứng cho thẳng Ta sắp phán vớingươi mà vị ngôn sứ được Thiên Chúa chỉ định là người truyền đạt sứ điệp cao vời của Ngài. Một cách nào đó, Thiên Chúa đòi hỏi nơi vị ngôn sứ đức tính khiêm hạ của một kẻ vô danh, như thử Thiên Chúa trao gởi một sứ mạng càng cao trọng bao nhiêu thì thừa tác vụ của người ấy càng phải khiêm tốn và nhỏ bé bấy nhiêu.

Đặc ngữ này sẽ mặc lấy một ý nghĩa khác trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến”, ở đó “Con Người” là một nhân vật có nguồn gốc thần linh. Trong các sách Tin Mừng Chúa Giê-su áp dụng cho mình đặc ngữ này cả theo truyền thống Ê-dê-ki-en để nhấn mạnh nhân tính tròn đầy của Ngài như khi Ngài tiên báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài lần thứ ba: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Ngài và sẽ nộp Ngài cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Ngài, khạc nhổ vào Ngài, họ sẽ đánh đòn Ngài và giết chết Ngài. Ba ngày sau, Ngài sẽ sống lại” (Mc 10: 33-34), lẫn truyền thống Đa-ni-en để nhấn mạnh nguồn gốc thần linh của Ngài, như khi Ngài công bố trước phiên tòa của Thượng Hội Đồng Do thái: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14: 62).

3. Một dân phản loạn

Lời của Đức Chúa thật là cứng rắn: “Một dân phản loạn… một bọn người mặt dày mày dạn và lòng chai dạ đá”. Đây sẽ là ngôn từ của Ê-dê-ki-en, một trong những ngôn từ nghiêm khắc nhất chưa bao giờ được viết ra kết án tội lỗi của dân Ít-ra-en. Vị ngôn sứ không khoan nhượng một chút nào. Theo ông, dân Chúa chọn đã chẳng bao giờ thật sự trung thành với Thiên Chúa của mình. Vị ngôn sứ lên án tội lỗi của vua chúa, quần thần, tư tế và toàn dân. Ông loan báo cơn giận khủng khiếp của Thiên Chúa bằng những từ ngữ rắn rõi. Từ cảnh lưu đày của mình, ông thấy thành thánh Giê-ru-sa-lem hoang tàn đổ nát: “Hỡi con người, ngươi hãy nói với con cái dân ngươi; ngươi hãy bảo: Khi Ta cho gươm đến trừng phạt xứ nào, thì dân xứ ấy sẽ chọn một người trong số họ và đặt làm kẻ canh gác cho mình” (33: 2).

Những biến cố của 587 trước Công Nguyên sẽ sớm chứng tỏ cho dân phản loạn này rằng “có một ngôn sứ ở giữa họ”. Tinh thần của Ê-dê-ki-en ảnh hưởng rất sâu xa sau cái chết bất ngờ của ông ở giữa cảnh lưu đày vào năm 571 trước Công Nguyên.

BÀI ĐỌC II (2Cr 12: 7-10)

Trong vô vàn những khó khăn nảy sinh giữa vị tông đồ và các tín hữu Cô-rin-tô, đáng kể là những lời chỉ trích phê bình về sứ vụ tông đồ của thánh nhân, đến từ “các Tông Đồ siêu đằng” (11: 5),“những kẻ đội lốt tông đồ của Đức Ki tô” (11: 13), những kẻ sửa sai giáo huấn của thánh nhân và vu khống hoạt động của thánh nhân là “sống theo tính xác thịt” (10: 2).

Để lấy lại niềm tin tưởng của các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô buộc phải tự biện hộ cho chính mình. Thánh nhân trình bày những đau khổ mà mình phải chịu và những đặc sủng mà mình đã đón nhận (thị kiến, xuất thần, “được nghe những lời khôn tả mà không được phép nói lại”: 12: 4).

1. “Cái dằm đâm vào thân xác”

Thánh nhân không muốn để cho mình bị mắc vào thói tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường đã nhận được này, vì thế, “để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dầm đâm vào”.

Các nhà chú giải luôn luôn tự hỏi qua lời này thánh nhân muốn nói điều gì. Họ đã so sánh bản văn này với một đoạn thư gởi tín hữu Ga-lát: “Anh em biết: nhân khi thân xác tôi đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu tiên. Mặc dầu thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của Thiên Chúa, như Đức Giê-su Ki-tô” (Gl 4: 13-14). Người ta đã nghĩ đến một khuyết tật bẩm sinh nào đó. Khoa ảnh tượng xưa trình bày thánh nhân lúc thì với đôi mắt lồi, lúc thì với đôi mắt lé. Người ta cũng đã gợi lên những xao xuyến tâm lý, như nỗi buồn phiền của thánh nhân vì đã không hoán cải được những người Do thái, đồng bào của thánh nhân, “anh em trong xác thịt của ngài”.

2. “Đã ba lần, tôi xin Chúa…”

Con số “ba” xem ra chỉ cường độ lời cầu nguyện của thánh nhân; cũng như Đức Giê-su ở trong vườn Ô-liu đã cầu nguyện ba lần.

Thánh nhân đã luôn luôn cầu nguyện với Thiên Chúa. Thánh nhân không cầu nguyện với Đức Ki-tô, nhưng luôn luôn cầu nguyện với Chúa Cha mà ngài gọi ở đây là Chúa, tước hiệu mà thánh nhân thích gán cho “Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta hơn.

3. “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”

Chúng ta nhận ra rất rõ văn phong của thánh Phao-lô ở nơi biện chứng mạnh mẽ-yếu đuối này. Càng xóa nhòa công sức của kẻ làm việc cho Thiên Chúa bao nhiêu, thì càng bày tỏ quyền năng Thần Khí ở nơi mình bấy nhiêu. Hể có dịp là thánh Phao-lô lập lại tư tưởng này.

Lời kết của thánh nhân vừa khái quát vừa ám chỉ đến những xúc phạm và những xao xuyến mà các tín hữu Cô-rin-tô đã bắt ngài phải chịu. Thánh Phao-lô cho họ hiểu rằng thái độ của họ sẽ không làm thay đổi thái độ của ngài là luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa.

Chương 12 này, mà chúng ta chỉ đọc một đoạn trích, là một chứng liệu duy nhất giúp chúng ta hiểu biết thánh Phao-lô. Không có những lời thú nhận nồng nàn này, chúng ta chỉ có một cái nhìn đại thể kiếm khuyết về những thử thách mà thánh nhân đã kinh qua và những kinh nghiệm thần bí mà thánh nhân đã trải nghiệm. Tâm tính bốc lửa của thánh nhân được bày tỏ ở đây rõ hơn nơi nào khác – một sự hòa hợp đáng ngạc nhiên ở nơi con người của thánh nhân giữa tính tự phụ, đức khiêm hạ và niềm tin kiên vững vào Đức Ki tô.

TIN MỪNG (Mc 6: 1-6)

Đây là lần đầu tiên Đức Giê-su có dịp trở lại nơi sinh trưởng của Ngài kể từ khi Ngài thi hành sứ mạng công khai của mình. Làm thế nào Ngài có thể bỏ quên những người mà Ngài đã chia sẻ cuộc sống trong nhiều năm mà không mang Tin Mừng đến cho họ được chứ?

Chắc chắn Ngài không mong chờ họ sẽ hồ hỡi đón tiếp Ngài. Mới đây thân nhân của Ngài từ làng Na-da-rét đến thành Ca-phác-na-um toan tính bắt Ngài về, vì cho rằng Ngài mất trí. Đức Giê-su đã không bận lòng đến cách hành xử của họ; Ngài cũng đã ám chỉ một sự đoạn tuyệt: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 49-50; Mc 3: 35; Lc 8: 21).

Quả thật, chuyến viếng thăm Na-da-rét của Ngài kết cục là một sự thất bại. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật biến cố này, bài tường thuật của Lu-ca cung cấp nhiều tình tiết nhất (Lc 4: 16-30).

1. Thân thế và nghề nghiệp

“Đến ngày sa-bát, Đức Giê-su vào giảng dạy trong hội đường”. Đây là phương thức rao giảng của Ngài. Ngài đã làm như vậy ngay từ đầu sứ vụ công khai của Ngài trong hội đường Ca-phác-na-um (1: 21). Đây cũng là phương thức mà thánh Phao-lô sẽ chọn. Phương thức này thành công đến mức các văn sĩ Do thái ghi nhận rằng không có các hội đường, Ki tô giáo sẽ không tràn lan…

Chúng ta biết rằng hội đường là nơi tụ họp chứ không tế tự, bởi vì những hy lễ chỉ được tiến dâng ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Các tín đồ quy tụ ở đây để cầu nguyện, đọc và giải thích Kinh Thánh, hát những bài Thánh Vịnh, đặc biệt vào ngày sa-bát.

Người công bố và giải thích Lời Chúa được chỉ định trước hoặc được chọn ở giữa những người tham dự. Vào ngày sa-bát này, trong hội đường Na-da-rét mà Đức Giê-su đã thường hay lui tới trước đây khi sống ở giữa họ, Ngài là người công bố và giải thích Kinh Thánh. Lu-ca xác định bản văn mà Ngài công bố và giải thích là bản văn I-sai-a.

Giáo huấn của Ngài làm mọi người kinh ngạc: “Ông ta được khôn ngoan như thế, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Người ta khâm phục tư tưởng của Ngài và ngưỡng mộ những phép lạ mà Ngài đã thực hiện ở những nơi khác. Nhưng rồi người ta xúc phạm Ngài khi nghĩ đến thân thế và nghề nghiệp trước đây của Ngài. Mọi người trong làng này không ai không biết gia thế của Ngài: bạn bè, họ hàng, bà con thân thích của Ngài hiện đang sinh sống ở giữa họ. Đức Giê-su đã là một con trẻ sinh ra và lớn lên trong làng này; Ngài là con bà Ma-ri-a. Còn về nghề nghiệp của Ngài, Ngài chỉ là một anh thợ mộc trong làng. Làm thế nào đôi tay mà họ đã từng thấy Ngài cưa, bào, đục, đẻo vân vân, lại có thể thực hiện những phép lạ được? Lẽ ra họ phải khởi sự tin vào Ngài, thì từ ngạc nhiên thán phục họ bổng trở nên bày tỏ thù địch công khai với Ngài.

2. Con bà Ma-ri-a

Mác-cô không nhắc đến cha của Ngài, ông Giu-se. Phải chăng từ đó suy ra rằng ông Giu-se đã qua đời? Lý do này chưa đủ, vì để xác minh căn tính của một người, biểu thức quen thuộc là phải trích dẫn tên cả cha lẫn mẹ, cho dù nếu một trong hai người, hay thậm chí cả hai đã qua đời đi nữa. Có lẽ đúng hơn, khi thánh Mác-cô soạn cuốn Tin Mừng này, Giáo Hội tiên khởi đã tin vào việc Đức Giê-su được thụ thai bởi người mẹ đồng trinh rồi (Mt 1: 18-20; Lc 1: 30-35). Vì thế, khi tránh nêu tên cha Ngài, ông Giu-se, thánh ký muốn nhấn mạnh một cách kín đáo đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a.

3. Anh em của Ngài:

Những “anh em” này là những anh em họ của Đức Giê-su. Từ “anh em” theo ngôn ngữ Hy bá có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng (tiếng Hy bá không có từ ngữ riêng biệt để chỉ anh em họ). Trong Kinh Thánh, từ “anh em” có thể để chỉ mối quan hệ họ hàng thân thích gần xa giữa bác hay chú và cháu (St 13: 8), hay anh em chú bác, cô cậu, hay con dì (Lv 10: 4; 1Sb 23: 21).

Chúng ta biết hai trong số “anh em” này của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, người sau này lãnh tụ Giáo Hội Giê-ru-sa-lem và ông Giô-xê mà mẹ của họ là bà Ma-ri-a, vợ ông Cơ-lô-pát đứng dưới chân thập giá (Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 25).

4. Giá trị lịch sử của câu chuyện:

Gia thế và nghề nghiệp của Ngài đã là “chướng ngại làm cho họ không tin vào Ngài”. Phản ứng của những người đồng hương, về phương diện nhân loại chúng ta có thể hiểu được, dâng hiến cho chúng ta một lợi ích lớn lao. Ngoại trừ giai thoại về việc Đức Giê-su lên mười hai tuổi ở giữa các tiến sĩ Luật trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem,  phản ứng của dân làng Na-da-rét này là ánh sáng duy nhất soi sáng cho chúng ta về cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su trong suốt ba mươi năm: một cuộc đời bình lặng không có gì trổi vượt như cuộc đời của bao nhiêu người Na-da-rét khác. Không ai có thể nghi ngờ căn tính đích thật của Ngài khi đang sống ở giữa họ: với đôi tay thợ mộc và sức lao động của mình, Ngài đã nuôi sống bản thân và gia đình của mình; không có bất kỳ một hành động phi thường nào. Thái độ của những người đồng hương của Ngài là một bằng chứng có giá trị.

5. Câu trả lời của Chúa Giê-su

Trước thái độ từ chối của họ, Đức Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn câu thành ngữ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình”. Câu thành ngữ này đã thường được kiểm chứng trong lịch sử Ít-ra-en. Bài đọc I đã cung cấp cho chúng ta một ví dụ về ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Nhưng còn biết bao nhiêu ngôn sứ khác có thể được nhắc đến. Ngôn sứ Ê-li-a bị hoàng hậu I-de-ven bắt bớ phải trốn chạy; ngôn sứ I-sai-a, thất vọng trước sự cứng tin của dân Ít-ra-en, cuối cùng dành riêng sứ điệp của mình chỉ trong vòng các môn đệ thân tính của mình; ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị nhục mạ, bị bách hại, vân vân.

Dân Na-da-rét từ chối những dấu chỉ của Nước Trời. Đức Giê-su không thể làm được phép lạ nào tại đó, vì Ngài không gặp thấy niềm tin ở nơi họ. Chỉ vài bệnh nhân hưởng được lòng thương xót của Đức Giê-su. Trong Tin Mừng Mác-cô, không chỗ nào nêu rõ mối hỗ tương mà Chúa Giê-su đặt ra giữa đức tin và các phép lạ cho bằng bài trình thuật này.

Với bài trình thuật này, giai đoạn thứ hai của Tin Mừng đã hoàn tất (3: 7-6: 6). Giai đoạn này đã nêu bật chủ đề nền tảng của Tin Mừng. Chúng ta đã gặp thấy nhiều thái độ khác nhau của những người đến gặp gỡ Ngài, dù dân chúng, môn đệ hay các bà con họ hàng của Ngài, đều đặt ra cho mình “câu hỏi gai góc nhưng then chốt về thân thế sâu xa của Ngài”.



Bài 3. NHỮNG CON MẮT THỊT

PM. Cao Huy Hoàng

Cuốn sách của Thiên Chúa đang mở ra. Cuốn sách ghi Lời Chân Lý. Cuốn sách mà Tiên tri Ezêkiel đã thị kiến với Lời rằng: “Chính ta đã sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân đang phản nghịch chống lại Ta, chúng cũng như cha ông  đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày, mặt dạn, lòng chai dạ đá, chính ta sai ngươi đến với chúng””(Ed 2,3-4).

Cuốn sách ấy tiên báo về chính  Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, và trang Tin Mừng hôm nay, qua tường thuật của Thánh Marcô, quả thực đã ứng nghiệm, không sai. Con người đồng thời, đồng hương của Chúa Giêsu không thể nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa, và tỏ ra “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” trước những lời rao giảng của Ngài. Họ không biết được, và cũng không chịu mở lòng ra để biết được Ngài là Đấng Thiên sai. Họ chỉ muốn nhìn thấy cái trước mắt là thân thế sự nghiệp quá sơ sài của Ngài để rồi trách cứ một cách ngạo mạn: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simon sao?  Chị em của ông không phải là bà con lối xóm của chúng ta sao?” (Mc 6,3).

Những con mắt thịt hai ngàn năm trước

Thì ra, từ ngàn năm trước, người ta đã có thói quen thẩm định tư cách một con người bằng cách nhìn vào thế, thân, ngân, lý! “Nhất thế, nhì thân, tam ngân, tứ lý”. Họ chỉ nhìn con người bằng con mắt con người, và con người ấy chỉ được trọng vọng khi đáp ứng được cái yêu cầu rất con người vật chất hữu hạn của họ.

Chúa Giêsu đã về thăm quê hương và giảng trong hội đường. Theo cách trình  bày của Thánh Marco, thì không phải những người quê hương của Chúa không nhận thấy sự khôn ngoan nổi trội của một con người mang tên Giêsu! “Ông ta được khôn ngoan như thế nghĩa là làm sao?” (Mc 6,2). Họ có thấy, và thấy quá rõ ràng đấy chứ, nhưng họ không muốn chấp nhận nghe và tin vào lời giảng của Ngài, một là vì lòng ganh tỵ và hai là vì chẳng mang lại lợi lộc gì trước mắt có thể nhai nuốt được.

Vì ganh tỵ,  lời giảng dạy của một con bác thợ mộc, hay chính người cũng là thợ mộc với nghề cha truyền con nối suốt ba mươi năm trời kia, thì có gì phải đáng nể phục. Con thợ mộc lại giảng trong hội đường lại là chuyện dở hơi hơn nữa!

Vì lợi lộc trần gian, cho nên, dẫu cho ông Giêsu nghèo khó kia có nói lời vàng lời ngọc thì giá trị cũng không bằng  lời của người có vàng có ngọc khoe trước mắt họ, ban tặng cho họ.

Thánh kinh gọi họ là “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” quả là chính xác, vì họ đã không mở lòng ra để thay đổi một não trạng xưa cũ của con người: Não trạng duy vật, lấy vật chất làm cái gốc con người, dựa vào vật chất mà thẩm định giá trị con người. Cùng một xuất xứ địa lý, cùng một cảnh ngộ cơ cực, không thể có ai xuất chúng hơn mình! Và nếu có, cũng không cần phải công nhận làm gì cho mệt xác nếu không có lợi lộc gì cho mình.

Họ không muốn mở con mắt linh hồn ra mà nhìn thấy cái “thế” của Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, chính là Con của Thiên Chúa và cái “thân” của Ngài là “chính Ngài là Thiên Chúa”. Họ càng không thể thấy cái “ngân” của Ngài là kho tàng sự sống vĩnh cửu không mối mọt, không nhàu nát, không hoen gỉ, và đời đời không hề mất nhưng luôn tồn tại. Họ không muốn nghe cái “lý” của Ngài là chân lý thường hằng bất biến đem lại sự sống và hạnh phúc đời đời! Họ “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” vì họ muốn nhìn thấy tận mắt cái hạnh phúc duy vật chất có thể ăn tươi nuốt sống được. Họ đang “đốt căn nhà muôn năm để luộc cho mình một quả trứng ăn liền”. Lòng họ không mở ra. Lòng họ đầy ích kỷ! Đúng như lời Thánh Nicôlas nhận định “Người ích kỷ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”.

Những con mắt thịt hai ngàn năm sau

Đã hơn  hai ngàn năm Thiên Chúa Giáng Sinh làm người, con người vẫn luôn tự hào vì những thành quả văn minh tiến bộ tột bực, nhưng vẫn còn một điều chưa hề tiến bộ, chưa hề thay đổi: lòng ích kỷ vẫn còn tồn tại nơi một số con người, nếu không dám nói là toàn thể.

Lòng ích kỷ phát sinh từ lòng kiêu ngạo! Kiêu ngạo và ích kỷ đẻ ra trăm ngàn thứ tệ hại khác: ganh tị, đàn áp, chà đạp, bất chấp luân thường đạo lý, tẩy chay lẽ phải, thanh trừng chân lý… tất cả để phục vụ cho cái lợi lộc riêng mình, cho cái “trứng luộc ăn liền” của mình.

Có muôn vàn  thành tựu lớn lao của khoa học, chính trị, xã hội, nhưng  để phục vụ cho một cõi lòng hẹp hòi nhỏ bé tí teo thế sao! Có những văn minh rất đáng phục, nhưng lại là văn minh đưa dẫn con người vào chỗ tự hủy diệt thế sao? Số phận của Tin Mừng, qua các thời đại luôn phải đối mặt với sự tẩy chay của lòng người ích kỷ.  Số phận của các ngôn sứ vẫn luôn bị sự thanh trừng tàn sát vì lòng người không muốn ai can thiệp vào cái hủ riêng mình!  Cái hủ “trứng luộc ăn liền” chứa đầy những thèm khát hưởng thụ và tìm mọi phương thế để hưởng thụ!

Nghịch lý trầm kha này đã cho thấy rõ  chân tướng âm mưu của Satan quỉ dữ, luôn đối lập với Thiên Chúa, đối lập với Tin Mừng. Do đó, hai ngàn năm sau ngày Tin Mừng Giáng Thế, những con mắt thịt trần gian vẫn luôn trong tư thế tẩy chay Tin Mừng chỉ vì một lẽ: Tin Mừng đòi đổi mới. Mà đổi mới là bất lợi. Đổi mới là phải đổi lòng ích kỷ thành quảng đại, đổi lòng chai dạ đá hóa ra mềm mại, đổi mặt dày mặt dạn của satan nên khuôn mặt đầy yêu thương của Thiên Chúa… Đổi mới là phải kiến tạo một thế giới của Thiên Chúa, kiến tạo một cộng đồng nhân loại theo tinh thần Tin Mừng, phải tái lập quan hệ với sự sống vĩnh cửu thay cho sự sống tạm bợ ở đời nầy… Không chấp nhận đổi mới, đồng nghĩa với việc giữ nguyên“mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” , mà “đốt sự sống đời đời để luộc cho mình một quả trứng ăn liền, khoái khẩu”

Những con mắt thịt ở trong nhà mình

Về với thực tế quanh ta, với hơn 80 triệu con người thân thương gần gũi nhất, cùng dòng máu, cùng màu da, cùng trải qua bao cuộc thăng trầm để bảo tồn nòi giống Tiên Rồng hùng anh Dũng Lạc, để nhìn lại hành trình của Tin Mừng Chúa Giêsu Cứu Thế. Số phận của Tin Mừng, của các Ngôn Sứ cũng không khác gì số phận Đức Giêsu ngày ấy. Nhưng niềm tự hào chân chính vẫn trào dâng trong chúng ta vì máu Các Thánh Tử đạo đã trổ sinh muôn ngàn hạt giống Đức Tin trên mảnh đất nầy.

Tuy nhiên, nếu Tin Mừng ở đâu cũng phải chung số phận chịu tẩy chay, chịu thanh trừng, thì ở nhà mình, ở đất nước mình chắc hẳn càng không tránh khỏi. “Thế, thân, ngân, lý” của Tin Mừng và các ngôn sứ Việt Nam chẳng khác gì “thế, thân, ngân, lý” của Chúa Giêsu Kitô ngày ấy- cũng đã bị lòng ích kỷ, tính kiêu ngạo, “mặt dày mặt dạn, lòng chai dạ đá” tẩy chay tới mức triệt để. Một phần mười dân số chấp nhận Tin Mừng và chấp nhận đổi mới chưa đủ làm chứng rằng Chúa Giêsu không bị thanh trừng!  Lòng con người đang đóng kín, không muốn cho ánh sáng chân lý lọt vào, sợ đổi mới, vì họ đang có một hạnh phúc ảo. Hơn nữa, họ vẫn đang tìm mọi cách để kéo dài hạnh phúc ảo ấy đến muôn năm! Cái hạnh phúc tức thời của lòng ích kỷ. Là Cha là Mẹ, có lẽ không ai dám “khôn ba năm dại một giờ” mà “đốt nhà mình để luộc quả trứng ăn liền cho tương lai  cháu con lâm cảnh màn trời chiếu đất”. Cũng vậy, càng không thể liều lĩnh “đốt sự sống đời đời để luộc cho mình một quả trứng ăn liền, khoái khẩu” ở đời nầy vậy!

Để Tin Mừng được đón nhận trên quê hương, có người nghĩ rằng: chứng nhân tại một đất nước thắm máu các thánh tử đạo mà không chấp nhận tử vì đạo thì quả thật là vô lý! Nhưng cách tử-vì-đạo-cách-có-lợi cho mình và cho Giáo Hội nhất,  chắc chắn phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần, phải theo sự hướng dẫn của Giáo Hội, để sống tốt cuộc sống Tin Mừng. Trong đó, có cả việc cần thiết phải nói cho những kẻ đốt nhà mình hoặc nhà người khác rằng: quê hương vĩnh cửu của chúng ta không phải ở mảnh đất nầy, ở trần gian nầy, nhưng là ở một Thiên Quốc vĩnh cửu. Anh có thể ăn một quá trứng luộc chính bằng cả giang san nầy đi nữa, thì anh có sống đời đời chăng? Có hạnh phúc đời đời chăng? Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin! “Hãy sám hối và tin và Tin Mừng”

Nguyện xin hướng dẫn của Thánh Phaolô Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” giúp chúng con kiên trì, kiên vững theo bước chân khiêm tốn nghèo hèn của Chúa Giêsu – nhưng rất mạnh mẽ, để đem hạnh phúc thật cho nhân loại..  Và cùng xác tín với Thánh Phaolô rằng: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”  (2Cr 12,9-10)
 

GXTNO - St


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn