1
18:18 +07 Chủ nhật, 28/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 166

Máy chủ tìm kiếm : 2

Khách viếng thăm : 164


Hôm nayHôm nay : 35520

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 378549

Tổng cộngTổng cộng : 27932833

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Chúa nhật 7 Phục Sinh (B) - Đại Lễ Chúa Giêsu Lên Trời: 20 bài suy niệm và chú giải Lời Chúa

Thứ sáu - 18/05/2012 16:51-Đã xem: 1654
Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập. Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất...
 

A. BẢN VĂN (Mc 16,15-20):

15 Khi ấy, Đức Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ.18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”
19
 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI

Bài 1. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: LOAN BÁO TIN MỪNG CHO MỌI LOÀI THỌ TẠO 

1- Ngữ cảnh

TM Máccô kết thúc với câu 16,8. Tuy vậy, một số Kitô hữu thuộc thế kỷ i-ii đã tìm cách “bổ túc” truyện sách Tin Mừng bằng cách thêm vào những cảnh mà họ nghĩ rằng tác giả Mc hẳn cũng đã thêm vào nếu ngài viết tiếp. Đoạn văn 16,15-20 nằm trong Phần Kết phụ trội thứ nhất gọi là “Phần Kết Dài” hay là “Phần Kết Vô Danh”, từ c. 9 đến c. 20 của chương 16. Phần này nói đến những cuộc hiện ra của Đức Giêsu với bà Maria Mácđala và với các môn đệ để thúc giục họ, tức Hội Thánh, đi loan báo Tin Mừng khắp nơi. Các nhà truyền giáo không có gì phải sợ, bởi vì Đức Giêsu Phục Sinh vẫn ở với họ. Các độc giả tinh ý sẽ thấy có một số đề tài trong các câu này không giống gì với những điều họ đã thấy trong TM II. Họ cũng còn có thể nhận ra nơi các đề tài này âm vang của những cảnh quen thuộc ở trong các Tin Mừng khác, được quy tụ lại để làm cho phần kết của Mc (16,8) bớt đột ngột (x. Ga 20,11-18; Lc 24,13-35; Mt 28,16-20).

Bản văn chúng ta đọc hôm nay tập trung vào sứ mạng phổ quát của các tông đồ, và giống như Lc24,36-53, nó kết thúc với việc Đức Giêsu lên trời mà các ông thấy được. Bài không hề xác định nơi chốn. Tác giả chỉ muốn chúng ta lưu ý đến điều cốt yếu: sứ mạng được giao phó cho các môn đệ.

2- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:

1) Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (16,15-18);
2) Lên trời (16,19);
3) Ra đi thi hành sứ mạng (16,20).

3- Vài điểm chú giải

- Nhóm Mười Một (14): Đây chính là Nhóm Mười Hai trước đây, nhưng nay chỉ còn mười một tông đồ, vì Giuđa không còn nữa. Nhóm mang nơi mình dấu chỉ của sự sa sút. Chính là với Nhóm này mà Đức Giêsu đã hiện ra và giao sứ mạng loan báo Tin Mừng. Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và giao sứ mạng, điều này có nghĩa là Người đã tha thứ cho họ, và lòng cứng tin của họ đã được thắng vượt.

- Tin Mừng (15): Nội dung của sứ điệp phải loan báo không được giải thích, mà lại được tổng hợp trong khái niệm “Tin Mừng”. Do khái niệm này được nối kết với “các thọ tạo”, nó gần với Cl1,23. Công thức này đã được chuẩn bị trong Do Thái giáo, nơi mà Thiên Chúa được ca ngợi là vua của toàn thể công trình tạo thành của Ngài (Gđt 9,12), là chúa tể của muôn loài thọ tạo và có lòng yêu thương muôn loài thọ tạo (x. 3 Mcb 2,2.7; 6,2. Sách 3 Mac không thuộc về Kinh Thánh). Vậy Tin Mừng phải loan báo chính là quyền chúa tể của Đức Kitô Phục Sinh trên toàn thể thọ tạo.

- phép rửa (16): Các phản ứng của con người trước sứ điệp Tin Mừng là tin hoặc không tin. Đức tin có kèm theo thái độ sẵn sàng lãnh nhận phép rửa. Phép rửa nhân lãnh trong đức tin đưa tới ơn cứu độ trong cuộc phán xét chung cuộc. Trong Tt 3,5 và 1 Pr 3,21, phép rửa và ơn cứu độ được nối kết với nhau. Sự đối lập giữa cứu độ và kết án khiến ta nhớ đến Ga 3,18. Tuy nhiên, ở đây bản văn hướng đến cuộc phán xét chung. 

những dấu lạ đi theo (17): Khác với những gì xảy ra ở Mc 8,11t, dấu (lạ) được dùng theo nghĩa tích cực. Dấu lạ không đi trước đức tin và cũng không diễn tả một uy quyền chỉ được ban riêng cho các môn đệ (như ở Mc 6,7-13), mà phải được dùng như là cách Thiên Chúa chuẩn nhận cho những ai đã trở thành tín hữu. Dấu lạ cho thấy Đức Kitô là vị Chúa tể mới của tạo thành, Người muốn ban ơn cứu độ cho toàn thể tạo thành. Năm loại phép lạ quy chiếu về sách Cv: đuổi quỉ (Cv 16,16-18), nói tiếng lạ (Cv 2,1-11), cầm rắn độc (Cv 28,3-6), chữa bệnh (Cv 31-10; 9,31-35; 14,8-10; 28,8t). Còn thuốc độc có lẽ dựa theo một truyện kể nào đó (chẳng hạn chuyện sử gia Êusêbiô kể về Giúttô Bácsaba; x. Hist. Eccl. 3,39,9). Lc 10,19 có nói đến khả năng đạp trên rắn độc và bọ cạp. Các dấu lạ xảy ra “nhân danh Thầy”, tức là với việc cầu khẩn danh Đức Giêsu. Như thế, Đức Giêsu được tôn vinh tiếp tục ở với cộng đoàn của Người và hoạt động.    

Chúa Giêsu được đưa lên trời (19): Danh hiệu “Chúa Giêsu”, rất quen thuộc với Phaolô và sách Cv, chỉ xuất hiện ở đây trong các Tin Mừng. Đấng Phục Sinh, Đấng được tôn vinh, chính làKyrios (chúa tể), là Kosmokrator (chúa tể vũ trụ). Cuộc lên trời của Đức Giêsu giả thiết có hình ảnh của Kinh Thánh về thế giới (= lên trời), được mô tả phỏng theo cuộc lên trời của ngôn sứ Êlia (2 V 2,11; 1 Mcb 2,58).

- Ngự bên hữa Thiên Chúa: Câu này dựa theo Tv 109 (110), 1 muốn nói rằng nay Đức Giêsu có tất cả quyền năng của Thiên Chúa.

4- Ý nghĩa của bản văn

* Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (15-18)

Ta thấy lệnh truyền của Đức Giêsu quá rõ ràng và cấp bách, nhưng trong thực tế, dường như không phải thế: Đức Giêsu không cho biết rõ khoảng thời gian kéo dài từ khi Người sống lại đến khi Người quang lâm; Người không loan báo rằng các Dân ngoại sẽ dần dà đi vào trong Giáo Hội trước khi xảy ra phán xét chung; các tông đồ đã phải mò mẫm tìm kiếm phương hướng hoạt động, với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần (x. Cv 10; 11,1-8; 15,7-11…). Dù sao, ở đây, chúng ta thấy sứ mạng của Giáo Hội nơi Dân ngoại đã trở nên rõ ràng, không ai phản đối nữa: các tông đồ phải ra khỏi môi trường Do Thái giáo mà loan báo Tin Mừng cho “mọi loài thọ tạo”. Công thức này tương đương với Mc 1,10 và Mt 28,19: “mọi dân tộc”; chỉ loài người mới có thể nghe rao giảng và đáp lại bằng đức tin. Tuy nhiên, cũng có thể, trong chiều hướng của thánh Phaolô (Rm8,19-22; Cl 1,1-23), tác giả nghĩ đến ảnh hưởng của công cuộc Đấng Cứu thế thực hiện trên toàn vũ trụ.

Tại sao lại “loan báo Tin Mừng cho muôn loài thọ tạo”? Cây cối có thể nghe Tin Mừng? Khi người ta nghe theo sứ điệp của Chúa Kitô, phải chăng tất cả vũ trụ sẽ được biến đổi? Điều này sẽ được thánh Phaolô giải thích trong Thư gửi người Rôma: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người… với niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,19-21). Khi chúng ta sử dụng các thọ tạo sai cách, chúng ta làm điều dữ. Khi sứ điệp Tin Mừng thay đổi con tim chúng ta, muôn loài thọ tạo cũng sẽ được cứu chuộc; chúng không còn bị sử dụng cho điều xấu nữa, mà được sử dụng đúng mục tiêu của chúng như khi chúng được tạo thành: một phương tiện để yêu thương và sống hạnh phúc. Sứ mạng của các môn đệ là làm việc để cho có một nhân loại mới và một thế giới mới chào đời.

Đức tin chính là lời đáp trả lời rao giảng và được liên kết với phép rửa tội (Cv 2,41; 8,12…).

Còn về các dấu lạ, trong Hội Thánh lúc ấy, không phải bao giờ các dấu lạ cũng được các tông đồ thực hiện; nhiều lần Thánh Thần hành động nơi và qua các thính giả (x. Cv 10,44-46). Các dấu lạ được kể ra như là những ví dụ, và được chứng thực trong sách Cv.

* Lên trời (19)

Tác giả đã liên kết hai thực tại không thuộc về cùng một bình diện, một bên là một cuộc tỏ mình hữu hình của Đức Giêsu Phục Sinh kết thúc những cuộc hiện ra, được diễn tả bằng ngôn ngữ của sách Cv (x. Cv 1,1-11); một bên là một cuộc tôn vinh trên thiên quốc, gắn liền với cuộc Phục Sinh (x. Ep 4,10; 1 Tm 3,16…). Thật ra, tác giả Mc không tường thuật một biến cố xảy ra trước mặt các khán giả. Các độc giả sẽ sai lầm nếu tưởng tượng Thăng Thiên như một “cuộc rời bỏ nhau”, “một chuyến ra đi”, “một sự biến mất”. Đức Giêsu không ở quanh quẩn đâu đó trong vòng bốn mươi này trước khi lên trời. Người đã đi vào vinh quang của Cha Người ngay sau khi chết. Ngày Thăng Thiên không phải là một lễ từ biệt, mà là một lễ mừng sự hiện diện. Điều mà tác giả muốn kể cho chúng ta là Đức Giêsu Nadarét, đã bị lính Rôma giết vào trước lễ Vượt Qua, không hề bỏ rơi các môn đệ Người mãi mãi. Người đã sống lại và tiếp tục sống với họ. Cách thức hiện diện thì khác, nhưng Người không bỏ rơi họ. Trước khi sống lại, Người không thể ở với mọi người tại mọi nơi chốn. Nay đã được tôn vinh, Người có thể hiện diện ở mọi nơi. Người có thể ở với mọi người chúng ta.

* Ra đi thi hành sứ mạng (20)

Tác giả quan tâm khẳng định rằng trong hoạt động truyền giáo, các tông đồ (và sau các ông, là Hội Thánh mọi thời) có thể cậy dựa vào sự hiện diện tuy vô hình nhưng hữu hiệu của Đức Giêsu đang ở trên thiên quốc với tất cả quyền năng Kyrios của Người.

Ngay ngày hôm nay, việc loan báo Tin Mừng cũng phải có kèm theo các dấu lạ, nhưng các dấu lạ này không phải là những mánh lới phù chú ma thuật, nhưng là những dấu chỉ cho thấy thế giới mới như các ngôn sứ và tác giả Mc đã từng lon báo.

+ Kết luận

Bởi vì các nhà chuyên môn cho rằng Kết dài của TM Mc là một huấn giáo về Phục Sinh, chúng ta có thể đối chiếu bản văn với 1 Cr 15,1-11. Cuộc gặp gỡ với một nhóm môn đệ giới hạn trở thành nền tảng cho các biến cố liên hệ đến Đức Giêsu Phục Sinh. Giới hạn về thời gian giữa cuộc Phục Sinh và Lên Trời đảm bảo cho tính hợp pháp của các chứng nhân chọn lọc, nhưng cũng cho thấy cuộc Phục Sinh là như một kiểu trở lại tạm thời của Đức Giêsu trong một cuộc sống trần thế. Quan trọng là đi loan báo Tin Mừng “khắp nơi” và chỉ khi loan báo như thế, người môn đệ mới trải nghiệm sự hỗ trợ thường trực của Đức Chúa được tôn vinh vẫn đang ở lại trong cộng đoàn mình.

5- Gợi ý suy niệm

1. Nay đã sống lại, đã được tôn vinh, Đức Giêsu có thể hiện diện với từng người trong chúng ta. Có thể gọi Thăng Thiên là lễ nhân ra nhiều sự hiện diện của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa đích thực của Thăng Thiên, nên chúng ta có thể thực sự hạnh phúc và chan hòa niềm vui. Đức Giêsu Phục Sinh là Chúa tể (Kyrios) nhưng vẫn đang “cùng hoạt động” với các môn đệ Người, với mỗi tín hữu đang dấn thân cho sứ vụ Người giao phó.

2. Nhìn vào Nhóm môn đệ, chúng ta nhớ đến tập thể trong đó chúng ta đang hiện diện: gồm những con người bất toàn, có thất trung. Nếu hôm nay, chúng ta còn có thể ra đi loan báo Tin Mừng, là vì Đức Giêsu Phục Sinh đã tha thứ và khôi phục tư cách cho chúng ta. Sống đời thừa sai là làm chứng rằng chúng ta đã được ơn tha thứ và chúng ta đã gặp Đấng Phục Sinh.

3. Địa bàn hoạt động của người môn đệ là thế giới, “khắp tứ phương thiên hạ”; đối tượng họ gặp gỡ là mọi người và từng người trên đường họ đi, “mọi loài thọ tạo”. Người môn đệ của Đấng Phục Sinh không được để cho những phân biệt về màu da, ngôn ngữ, chủng tộc,… làm cho mình ngần ngại ra đi chia sẻ Tin Mừng cứu độ.

4. Hôm nay chúng ta đang làm các “dấu lạ” nào? Phải chăng chúng ta cứ muốn Thiên Chúa làm các phép lạ, hay là chính chúng ta cũng muốn thực hiện các “dấu lạ”? “Dấu lạ” có phải là chính sự hiện diện khiêm tốn, nhân ái và có khả năng “chữa lành” của chúng ta? Con người hôm nay có cảm thấy rằng Đức Giêsu đã lên trời, vẫn đang ở cùng chúng ta tại đây chăng?

Bài 2. Chú giải và gợi ý chia sẻ của Lm Inhaxiô Hồ Thông

Lễ Thăng Thiên tưởng niệm đồng lúc hai biến cố: cuộc Thằng Thiên hữu hình của Chúa Giê-su có các Tông Đồ làm chứng và cuộc tôn vinh của Ngài không có nhân chứng.

Cv 1: 1-11

Sau khi đã nhắc lại cuộc gặp gỡ sau cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ của Ngài, sách Công Vụ tường thuật cuộc Thăng Thiên hữu hình,

Ep 4: 1-13

Sau khi gợi lên biến cố Thăng Thiên vinh quang của Đức Ki tô: “Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời”, thánh Phao-lô nhắc lại rằng vận mệnh của người Ki-tô hữu là gặp lại Đức Ki-tô, vì Ngài là Thủ Lãnh của Giáo Hội, và Giáo Hội là Nhiệm Thể của Ngài.

Mc 16: 15-20

Tin Mừng Mác-cô hiệp nhất cuộc Thăng Thiên hữu hình và cuộc tôn vinh của Chúa Con ngự bên hữu Chúa Cha, theo một công thức cô động mà Giáo Hội đã giữ lại trong kinh Tin Kính.

BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)

Sách Tông Đồ Công Vụ được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng Lu-ca: cùng một tác giả là thánh Lu-ca, và cùng một người nhận là ông Thê-ô-phi-lô nào đó, mà chúng ta không biết.

Tin Mừng Lu-ca kết thúc với cuộc Thăng Thiên của Đức Ki tô: “Người rời khỏi các ông, và được đưa lên trời…” trong khi sách Công Vụ mở ra với hai lần gợi lên cùng một biến cố: “…cho tới ngày Người được rước lên trời” (1: 2) và “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”(1: 9). Như vậy, qua cách trình bày văn chương này: “ở phần cuối” sách Tin Mừng Lu-ca và “ở phần đầu” sách Công Vụ, cuộc Thăng Thiên rõ ràng được trình bày vừa như đích điểm sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa và vừa như khởi điểm sự hiện diện vô hình của Thiên Chúa ở giữa loài người; đồng thời, vừa như hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giê-su và vừa như bắt đầu sứ mạng của các Tông Đồ.

1. Hai cuộc Thăng Thiên:

Một cách nào đó, chúng ta có thể phân biệt hai cuộc Thăng Thiên:

- Cuộc Thăng Thiên thứ nhất không có nhân chứng, đó là việc Đức Giê-su trở về cùng Cha Ngài ngay sau khi Ngài sống lại. Đây là một cuộc đoàn tụ Ba Ngôi, biến cố tuyệt mức thần linh; và đó cũng là cuộc tôn vinh Đức Giê-su bên cạnh cạnh Chúa Cha, cuộc tôn vinh mà Ngài đã nguyện xin trong lời cầu nguyện của Ngài, trước khi bước vào cuộc Khổ Nạn của Ngài: “Vậy, lạy Cha, xin Cha tôn vinh Con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5).

- Cuộc Thăng Thiên thứ hai là việc Đức Giê-su lên trời hữu hình trước mắt các Tông Đồ. Biến cố chủ yếu liên quan đến chúng ta: chính nhân tính, cùng với Đức Ki-tô, sẽ chiếm chỗ trong vinh quang Thiên Chúa. Cuộc Thăng Thiên nầy loan báo cuộc thăng thiên của chúng ta.

2. Lý do của cuộc Thăng Thiên hữu hình

Vào cuộc gặp gỡ sau cùng với các môn đệ, Ngài chỉ cần loan báo cho các ông rằng Ngài sẽ không tỏ mình ra nữa, đoạn nói lời từ biệt với họ, và rồi biến mất như Ngài đã nhiều lần làm như vậy trong suốt bốn mươi ngày sau biến cố Phục Sinh. Tại sao Đức Giê-su đã chọn cuộc ra đi khỏi thế giới nầy một cách ngoạn mục như thế, dù thoáng qua và kín đáo?

Chúng ta gặp thấy câu trả lời qua cách thức mà Đức Giê-su, trong suốt cuộc đời công khai của Ngài, đã trình bày cuộc sống tiền hữu và cuộc Nhập Thể của Ngài.

Trước hết, Ngài lên trời theo cách thức như vậy nhằm chỉ rõ mình dưới danh xưng “Con Người”, nhân vật này, theo thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, từ mây trời ngự đến. Trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô Ngài xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13; cf. 16: 28; 17: 11, vân vân).

Đức Giê-su cũng sử dụng hình ảnh nầy khi công bố: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Trong diễn từ “bánh hằng sống”, Ngài gợi lên sáu lần diễn ngữ “từ trời xuống” nầy, và cuối cùng, Ngài kết thúc bằng những lời nầy: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Đây là cách thức Đức Giê-su dùng để loan báo cuộc Thăng Thiên của mình rõ ràng nhất.

3. “Trong bốn mươi ngày, Người hiện ra…”

Nếu con số bốn mươi không hoàn toàn chính xác thì chẳng quan trọng gì, con số nầy chất chứa biết bao ý nghĩa: nó hình thành nên thể song đối với bốn mươi ngày Đức Giê-su trải qua trong hoang địa để chuẩn bị sứ mạng của Ngài, giữa phép rửa bởi thánh Gioan Tẩy Giả và khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài. Đó cũng là khoảng thời gian để chuẩn bị cho các môn đệ bắt tay vào sứ mạng của họ, giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên của Ngài.

Chúng ta có thể tự hỏi Ngài đã sống như thế nào sau khi sống lại. Một cách nào đó, Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một tiên trưng. Quả thật, khi đọc đoạn văn Tông Đồ Công Vụ nầy làm thế nào chúng ta không nghĩ đến sách Tô-bi-a. Thiên sứ Ra-pha-en, sau khi đã hoàn tất sứ mạng trần thế của mình, mặc khải cho ông Tô-bi-a và vợ của ông, bà Xa-ra, căn tính thật của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Chúa…Đừng sợ! Bình an cho các ngươi!…Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi…do ý muốn của Thiên Chúa…Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy…Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi…Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa” (Tb 12: 15-21).

4. Chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống

Trước khi từ giả các môn đệ lên trời, Đức Giê-su dặn dò các ông những lời sau cùng và loan báo cho các ông biết các ông sẽ đón nhận phép rửa trong Thánh Thần. Ngài nhắc lại lời hứa mà Ngài đã hứa với các ông: “Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.

Vào lúc nầy, các ông đã hỏi Ngài câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Họ vẫn ôm ấp một giấc mơ chính trị xưa cũ về việc khôi phục nền độc lập của quốc gia Ít-ra-en! Đức Giê-su không trách cứ họ; Ngài không trả lời thẳng câu hỏi của họ, nhưng mượn kiểu nói khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá đất nước nhỏ bé của xứ Giu-đê, cho đến tận cùng thế giới. Nhưng vào lúc nầy đây, chưa đón nhận sức mạnh Thánh Thần, họ chưa có thể nào hiểu được.

5. Đức Giê-su biến mất trong mây trời:

Đây không cốt là đám mây nào, nhưng đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, như đã xảy ra biết bao lần trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là thành ký của biến cố Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ của Chúa Thánh Thần, phủ bóng trên Đức Ma-ri-a vào giây phút thụ thai đồng trinh của Mẹ; đó cũng là đám mây quyện lấy Đức Giê-su khi Ngài từ giả cõi thế nầy. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ thưa “xin vâng”. Cũng thế, các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.

Biến cố Thăng Thiên là điều kiện của biến cố Ngũ Tuần; Chúa Thánh Thần ngự xuống sẽ biến đổi các Tông Đồ và thúc đẩy họ bắt tay hành động. Các thiên sứ đã mời gọi họ rồi: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Nhưng phải chuẩn bị ngày Ngài trở lại nầy bằng cách bắt đầu công việc truyền giáo vĩ đại mà Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta.

BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-13)

(Bản văn Ep 1: 17-23 đã được chú giải trong lễ Thăng Thiên năm A. Để có thêm chất liệu phong phú cho ngày lễ Thăng Thiên năm B, xin được chú giải bản văn Ep 4: 1-13 mà lịch Phụng Vụ cho phép chọn).

Thánh Phao-lô đã viết thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô trong khi thánh nhân đang bị cầm tù ở Rô-ma vào những năm 61-63. Lời chào của bức thư nầy rất tổng quát gởi đến “các tín hữu trong Đức Giê-su Ki-tô”, điều nầy khiến nghĩ rằng bức thư nầy nhằm luân lưu giữa các cộng đoàn (các cộng đoàn khác miền Tiểu Á).

Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý và phần thứ hai về luân lý và khuyên bảo. Phần thứ hai được liên kết chặc chẽ với phần thứ nhất. Đoạn trích hôm nay là đoạn mở đầu của phần thứ hai.

1. “Tôi là người đang bị tù vì Chúa”

Để tăng cường những lời khuyên bảo của mình, thánh Phao-lô nhắc nhớ trước hết ngài đang bị giam cầm, như vậy thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là nhân chứng chịu thương chịu khó vì Đức Ki tô.

Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã chú tâm trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và ra lệnh phải truyền lại cho Giáo Hội của Ngài, đó là trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người, dù Do thái hay lương dân, đều được mời gọi hưởng nhận cùng một ơn cứu độ.

2. Ơn gọi làm người Kitô hữu

Vì thế, thánh nhân nhắc nhở với hết mọi người Ki-tô hữu, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.

Thánh nhân khuyên họ phải ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại, lấy đức ái mà chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đã đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Đoạn thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau bằng cách “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”. Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).

Lời kêu gọi “ăn ở thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.

3. Lời tuyên xưng đức tin

Tiếp đó, trong một niềm hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề về sự hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân. Biểu thức nguyên thủy có thể là một lời công bố phụng vụ mà những người chịu phép rửa tuyên xưng khi khẳng định niềm tin của mình, và chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Những thuật ngữ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê.

Thật kỳ lạ và có thể có chủ ý, khi ngỏ lời cả với những Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn những Ki-tô hữu gốc lương dân, thánh Phao-lô sử dụng những diễn ngữ nhắc nhớ trước hết lời tuyên xưng độc thần của Ít-ra-en: chỉ có một Chúa; đoạn, sử dụng từ vựng rất gần với từ vựng của phái Khắc Kỷ. Thiên Chúa của phái Khắc Kỷ, nguyên lý hiệp nhất, là “cha của muôn loài muôn vật”, Đấng duy trì sự cố kết và sự hòa điệu của vũ trụ. Đức Ki-tô cũng là nguyên lý hiệp nhất, nhưng không là một vị thần linh nội tại trong vũ trụ. Vai trò siêu việt của Ngài chính là hiệp nhất tất cả mọi sinh linh: Ngài là “Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”.

Biểu thức hoàn vũ của thánh Phao-lô cũng thay thế những suy luận Do thái giáo, trong đó họ đề cao những quyền lực trung gian giữa Thiên Chúa và con người, nhất là quy trật tự vũ trụ cho vai trò của các thiên sứ.

4. Biến cố Thăng Thiên và biến cố Ngũ Tuần

Muôn vàn ân sủng mà mỗi người đón nhận tùy theo mức độ Đức Ki-tô ban cho, Đấng “đã xuống tận các vùng đất sâu thẩm dưới mặt đất” (nhờ mầu nhiệm Nhập Thể) cũng chínnh là Đấng “đã lên cao hơn mọi tầng trời”. Ở đây, chúng ta nhận ra một trong những ý tưởng chủ đạo của thánh Phao-lô, thánh nhân thiết lập mối liên hệ giữa sự hạ mình của Con Thiên Chúa trong kiếp sống phàm nhân và sự tôn vinh của Ngài.

“Để làm cho vũ trụ được viên mãn”, thánh Phao-lô hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh biến cố Thăng Thiên và biến cố Ngũ Tuần, tức là việc Đức Giê-su lên trời và việc Ngài ban xuống muôn vàn ân sủng. Để thực hiện điều nầy, thánh nhân dựa vào một bản văn Kinh Thánh: Thánh Vịnh 68. Thánh Vịnh này là một bài ngợi ca được hát lên khi rước Hòm Bia Giao Ước lên Giê-ru-sa-lem; bài ngợi ca nầy trình bày Đức Chúa tiến lên thánh điện của Ngài như một vị lãnh tụ chiến thắng, dẫn theo đám tù binh. Thánh Phao-lô áp dụng bài ngợi ca nầy vào Đức Ki tô “Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người”. Muôn vàn ân huệ nầy được ban trước tiên cho những ai xây dựng Giáo Hội của Ngài.

5. Giáo Hội, sự viên mãn của Đức Kitô

Lúc đó, thánh Phao-lô hướng về phía các tín hữu, cũng chính họ xây dựng Nhiệm Thể Đức Ki-tô cho đến khi đạt được tầm mức tăng trưởng tối hậu, tầm vóc viên mãn. Sự viên mãn nầy chỉ có thể được thực hiện trong sự hiệp nhất của đức tin (thánh Phao-lô trở lại chủ đề về sự hiệp nhất) và của sự hiểu biết thật sự về Con Thiên Chúa.

Như vậy, cùng với nhau tăng trưởng trong đức tin và trong đức ái, “chúng ta sẽ được đưa lên cao cho đến Ngài”. Biến cố Thăng Thiên của Đức Ki-tô loan báo và chuẩn bị biến cố thăng thiên của chúng ta.

TIN MỪNG (Mc 16: 15-20)

Đây là đoạn kết Tin Mừng Mác-cô. Biến cố Thăng Thiên được gợi lên rất ngắn gọn nhưng đầy đủ: “Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Đây là cách diễn tả mà Giáo Hội đã giữ lại trong kinh Tin Kính. Quả thật, lễ Thăng Thiên tưởng niệm hai biến cố lên trời của Đức Giê-su: Cuộc tôn vinh của Ngài ngay lúc Ngài sống lại và cuộc lên trời hữu hình của Ngài trước mắt các Tông Đồ của Ngài.

Như Tin Mừng Lu-ca, Tin Mừng Mác-cô định vị hai biến cố vào cùng ngày: cả hai thánh ký đều đặt biến cố Thăng Thiên vào buổi chiều Phục Sinh, đây là cách thức thâu tóm hai biến cố trong cùng một quan điểm thần học. Tuy nhiên, sách Công Vụ lại đặt biến cố Thăng Thiên vào một khoảng thời gian “bốn mươi ngày sau”, về phương diện lịch sử xem ra thật hơn, bởi vì Tin Mừng Lu-ca nói về những lần Đấng Phục Sinh tỏ mình ra, dạy dổ các môn đệ của Ngài.

Đoạn Tin Mừng Mác-cô hôm nay có thể được chia thành ba phần:

- Lệnh lên đường loan báo Tin Mừng (16: 15-18).
- Biến cố Thăng Thiên (16: 19).
- Thi hành sứ mạng (16: 20).

1. Lệnh lên đường loan báo Tin Mừng (16: 15-18)

Biến cố Thăng Thiên đánh dấu việc kết thúc sứ vụ trần thế của Đức Giê-su và việc khởi đầu sứ vụ của các Tông Đồ.

Sự kiện Đấng Phục Sinh sai nhóm Mười Một đi thi hành sứ vụ đều được nhắc lại trong cả bốn sách Tin Mừng. Tin Mừng Mát-thêu nhấn mạnh rõ nhất chiều kích phổ quát của sứ vụ nầy: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ” (Mt 28: 19).

Tin Mừng Mác-cô cũng nhấn mạnh không kém: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Diễn ngữ “mọi loài thọ tạo”, rất gần với diễn ngữ của thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Rô-ma (8: 19-22), có chung một viễn cảnh về sự đổi mới tâm linh, không chỉ của nhân loại nhưng cũng toàn thể vũ trụ.

1.1- Tin và không tin

Thế chọn lựa đôi ngã: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”, gợi nhớ bút pháp của Tin Mừng Gioan: hoặc tiếp đón ánh sáng hay ở trong bóng tối. Cuộc giáng trần của Đức Giê-su đòi buộc con người phải chọn lựa. Tất cả lời rao giảng tông đồ quả quyết rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất; không ai có thể đạt được sự sống siêu nhiên mà không qua Ngài. Chỉ Giáo Hội được trao quyền truyền đạt sự sống siêu nhiên nầy nhờ các Bí Tích, trước hết bí tích Thánh Tẩy.

Lập trường không nhân nhượng nầy được giải thích do việc các Tông Đồ ngỏ lời với người Do thái, những ngươi này từ chối tin vào Đức Ki-tô và chỉ thấy ơn cứu độ nhờ Lề Luật.

1.2- Dấu lạ

Đức Giê-su kể ra một loạt dấu lạ mà “những ai có lòng tin vào danh Ngài” có thể làm được. Ở đây, Chúa Giê-su không không chỉ ngỏ lời với các Tông Đồ, nhưng còn với những ai tiếp nối sau các Tông Đồ: Họ sẽ trừ được quỷ, họ sẽ nói được những tiếng mới lạ…”

Từ ngữ “dấu lạ” có một tầm mức rộng lớn hơn và sâu xa hơn từ ngữ “phép lạ”. Phép lạ hàm chứa một sự ngạc nhiên, một sự thán phục, trong khi dấu lạ hàm chứa một giáo huấn, một mặc khải chứ không luôn luôn là một điều kỳ diệu. Như nước và máu chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu là một dấu lạ về sự sinh hạ của Giáo Hội; cuộc Tử Nạn của Đức Giê-su tự nó là dấu lạ về tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại; muôn vàn ân huệ của Chúa Thành Thần, dù kín đáo, cũng là những dấu lạ không kém.

Trước đây Tin Mừng Mác-cô đã tránh dùng từ ngữ dấu lạ, vì đây là thuật ngữ mà các đối thủ của Đức Giê-su đã sử dụng để đòi hỏi Ngài cho họ thấy một bằng chứng để chứng tỏ Ngài là Đấng Mê-si-a (hai Tin Mừng Nhất Lãm khác cũng tuân theo thái độ dè dặt như thế). Trong đoạn kết nầy, thuật ngữ dấu lạ mặc lấy một giá trị tương đồng với thuật ngữ dấu lạ thường được dùng trong Tin Mừng Gioan: bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng cứu độ của Đức Giê-su.

Chúng ta gặp lại những dấu lạ nầy trong sách Công Vụ: các Tông Đồ đã trừ được quỷ, nói được những ngôn ngữ; thánh Phao-lô bị con rắn độc quấn vào tay mà không hề hấn gì (Cv 28: 3-6), thánh Phê-rô đặt tay và chữa người què (3: 7-8), ông Kha-na-ni-a đặt tay và chữa ông Sao-lô được thấy lại (9: 17-18), vân vân. Vả lại, Chúa Giê-su đã hứa với các môn đệ của Ngài vào lúc sai nhóm Bảy Mươi Hai đi thi hành sứ vụ: “Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bò cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em” (Lc 10: 19).

Tuy nhiên, các ngôn sứ đã loan báo rằng những dấu lạ như thế đánh dấu triều đại Mê-si-a, như ngôn sứ I-sai-a phác họa một cách sinh động: “Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất nầy, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11: 8-9).

Thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội được minh họa bởi muôn vàn ân sủng mà các Tông Đồ và các Ki-tô hữu tiên khởi được hưởng.

2. Thăng Thiên (16: 19)

“Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời”. Tước hiệu “Chúa” (Kurios) để chỉ Đức Giê-su chỉ được gặp thấy một lần trong Tin Mừng Mác-cô: khi Ngài sai hai môn đệ ra đi chuẩn bị cuộc khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem của Ngài, chính Ngài tự cho mình tước vị nầy: “Nếu có ai bảo: ‘Tại sao các anh làm như vậy?’, thì cứ nói là Chúa cần đến nó” (Mc 11: 3). Tước hiệu “Chúa” nầy Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, được các Ki-tô hữu tiên khởi áp dụng cho Đức Giê-su để công bố “quyền chúa tể hoàn vũ của Ngài”.

Cuộc tôn vinh của Đức Giê-su được diễn tả bằng hình ảnh: “ngự bên hữu Thiên Chúa”“Bên hữu Thiên Chúa” là chỗ danh dự và là dấu chỉ của việc dự phần vào quyền năng của Thiên Chúa. Đây là chỗ mà Thánh Vịnh 110 phân định cho Đấng Mê-si-a tương lai, Đấng sẽ là “Đức Chúa”. Chính Đức Giê-su tiên báo biến cố nầy cho các thành viên của Thượng Hội Đồng : “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng…” (Mc 14: 62).

Thánh Lu-ca là thánh ký duy nhất cho vài chi tiết rõ ràng về biến cố Thăng Thiên hữu hình (trong sách Công Vụ chi tiết rõ ràng hơn trong sách Tin Mừng của thánh nhân), trong khi Tin Mừng Gioan dọi chiếu ánh sáng trên biến cố Thăng Thiên vinh quang không có nhân chứng. Trong bài Diễn Từ Cáo Biệt của Ngài, Đức Giê-su nhiều lần nói với các Tông Đồ là Ngài “ra đi khỏi thế giới nầy mà về cùng Cha Ngài” và trong lời cầu nguyện của Ngài, Chúa Giê-su gợi lên cuộc tôn vinh của Ngài: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh Con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5). Sau cùng, không phải biến cố Biến Hình trên núi cao là dấu chỉ tiên báo biến cố Thăng Thiên vô hình và vinh quang mà Chúa Con sẽ được nhận lại đó sao?

3. Thi hành sứ mạng (16: 20)

Đoạn, các Tông Đồ ra đi loan báo Tin Mừng “khắp nơi”; và “có Chúa cùng hoạt động với các ông”. Sự hiện diện vô hình của Ngài mà thánh Mát-thêu diễn tả trong cùng một bài tường thuật song song khi nhắc lại những lời sau cùng của Đức Giê-su với các Tông Đồ của Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28: 20).

Biến cố Thăng Thiên không là một cuộc ra đi của Đức Giê-su, nhưng khai mạc một cách thế hiện diện mới của Ngài. Từ nay, với cách thế hiện diện mới nầy, Ngài không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian nữa.

Bài 3. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux: LỜI KẾT THÚC

Những câu kết thúc Tin Mừng Maccô không phải là của chính tác giả. Trong nhiều thủ bản quan trọng người ta không thấy có đoạn này. Ngoài ra, văn phong trừu tượng ở đây khác hẳn lối viết cụ thể và đầy màu sắc của Maccô. Do đó các nhà chuyên môn cho rằng đoạn này được “thêm” để xóa đi cảm giác hụt hẫng kết thúc với câu 16,8: các bà sợ hãi và bỏ chạy ra khỏi ngôi mộ trống.

Tuy nhiên, không phải đoạn này chẳng có giá trị gì: nó vẫn là Thánh Kinh được linh hứng. Cũng như ba Tin Mừng khác, nó thuật lại “những lần Chúa Giêsu hiện ra” trước tiên là với các phụ nữ, rồi đến các môn đệ, và cuối cùng là với nhóm các Tông đồ (x. Mt 28,9-20; Lc 24,13-49; Ga 20,11-29). Nhưng ở đây, tác giả soạn thảo đoạn kết này dưới hình thức một bản “tóm lược”, không nhiều chi tiết, chủ yếu dựa vào Luca và kế đó là Gioan. Trước hết, Chúa Giêsu hiện ra với riêng một phụ nữ nhiệt thành nhất trong “đám phụ nữ theo chân Ngài” (c.9). Lần hiện ra này với Maria Magđala được tường thuật chi tiết ở Gioan (Ga 20,11-18). Luca cũng nói bà này là người trung thành với Chúa Giêsu, như Gioan đã nhận định về bà Maria Magđala, truyền thống lại coi đó là kẻ bị “bảy quỷ dữ ám”, và là người phụ nữ có lòng hối cải. Nhưng ta cũng biết rằng Chúa Giêsu cũng trục xuất quỷ khỏi các bệnh nhân (ví dụ 3,10-11) Maria Magđala có thể không phải là một phụ nữ tội lỗi ghê gớm lắm đâu, mà là một bệnh nhân nguy kịch được Chúa Giêsu chữa lành…

Trong cả bốn Tin Mừng, các phụ nữ, chẳng hạn như Maria Magđala ở đây, là những người đầu tiên đã tin và rao giảng Tin Mừng, dù rằng thuở ấy họ không đóng một vai trò công khai nào cả (c. 10-11). Ta cần ghi nhận rằng đoạn Thánh Kinh này đã cho thấy được các môn đệ quả hết sức phiền muộn khi thấy Thầy mình đã chết đi. Họ chịu đựng cảnh tang tóc và không hề tin rằng Thầy Phục Sinh. Trái lại, Maccô nhấn mạnh là các bạn hữu Chúa Giêsu là những kẻ rất cứng lòng tin, họ chẳng hề tin vào lời các phụ nữ, những người đã thấy rõ ràng Chúa đang sống (Lc 24,9-11). Việc Chúa Giêsu hiện ra cách riêng với hai môn đệ cũng được Maccô đề cập tới (c.12). Đó chính là cuộc gặp gỡ kỳ diệu với “hai lữ khách trên đường Emmau” theo như Luca kể lại (Lc 24,13-35). Những tiếng “dưới một hình dạng khác” chỉ về chính Chúa Giêsu “mà họ không nhận ra được” khi Ngài đồng hành với Cleopas và một người bạn khác (Lc 24,15-16). Câu tiếp theo (c.13) là một lời lên án các ông Tông đồ cứng lòng tin.

Sau khi đã thất bại trong hai lần cố tỏ mình ra cho các môn đệ, cuối cùng liệu Chúa Giêsu có gặp được đức tin nơi những kẻ hết sức gần gũi với mình không? Tệ hại hơn thì có (x.14)! Lần này Chúa Giêsu hiện ra thẳng với nhóm Mười Hai trừ Giuđa. Theo các Tin Mừng thì chính nhóm các Tông đồ sẽ trở thành chứng nhân đích thực cho Chúa Phục Sinh. Vậy mà Chúa Giêsu lại một lần nữa lên tiếng quở trách các ông cứng lòng tin và chai đá. Về việc này sách Tin Mừng nào cũng đều có ghi lại cả: phản ứng đầu tiên của các ông là nghi ngờ, cực kỳ nghi hoặc (x. Mt 28,17’ Lc 24,37-38; Ga 20,25-27). Ta chớ quên thực tế lịch sử đã chắc chắn xảy ra đúng như thế! Sau khi đã quở trách những chứng nhân tương lai, tác giả Maccô không cho biết thêm gì về những dấu chỉ Chúa Giêsu cho họ xem hầu họ có thể nhận ra Ngài cả (x. các dấu tích thương tổn trong Lc 24,39; Ga 20,20). Rồi Ngài sai họ đi rao giảng. Và đó chính là mục đích của những lần Chúa Giêsu hiện ra. Quy mô hoàn vũ của sứ mạng đó thật quá hiển nhiên (c.15). Ở đây ta có thể đánh giá được ý thức lạ thường của Giáo Hội sơ khai hồi bấy giờ. Giáo Hội nhận thức được rằng Tin Mừng phải được rao giảng cho hết mọi người, khắp cả thiên hạ.

Rồi Chúa Giêsu nói thêm rằng đức tin của người chịu thanh tẩy sẽ cứu rỗi được họ, ai từ chối tin thì sẽ bị kết án (c.16). Qua câu này ta thấy biểu lộ một quan niệm rất sống động nơi Giáo Hội vừa mới khai sinh. Sự công bố Tin Mừng nhất thiết phải đi kèm với việc trở lại đạo: phải tin. Phép rửa đến sau như thể là một đăng quang tất yếu cho kẻ có được đức tin. Đức tin quy tụ các tín hữu vào cộng đoàn cứu rỗi (x. Cv 2,38; Mt 28,19). Không được tách lòng tin ra khỏi phép rửa –và ngược lại- đồng thời cũng không được tách họ ra khỏi con đường cứu độ họ đã quyết tâm dấn bước. Kẻ nào từ chối đức tin –với ý thức tự do- khi đã biết đến Tin Mừng, kẻ ấy tự kết án chính mình vậy. Có lẽ tác giả muốn nói về thảm trạng của dân Chúa đã chọn, dân đã kịch liệt chối bỏ Chúa Giêsu chăng? Cuối cùng là những dấu chỉ đi kèm người tín hữu hầu họ chu toàn được sứ mạng lãnh nhận.

Trong thuở còn sinh thời, Chúa Giêsu đã làm nhiều dấu chỉ về sứ điệp được tin nhận. Trong Công Vụ Tông đồ, ta thấy các Tông đồ đã làm nhiều phép lạ để chứng thực lời rao giảng của họ (x. Philipphê: Cv 8,4-7; Phêrô: Cv 9,32-43 v.v…). Ở đây ta thấy có liệt kê các dấu chỉ, ít nhiều “phi thường”. Đuổi trừ ma quỷ kiểu như trong y học thời cổ đại (Cv 5,12-16; 16,16-18), “nói” tiếng lạ đôi khi là đặc sủng của Thánh Thần (Cv 2,4-13; 10,44-46; 9,10-17), đặt tay trên bệnh nhân để chữa lành (Cv 4,30; 9,10-17), bắt rắn trong tay mà vẫn bình an vô sự như chuyện kể về Phaolô (Cv 28,3-6). Toàn bộ các dấu chỉ này, một số rất xa xưa (chứng tỏ thời Chúa Giêsu ảnh hưởng văn hóa Đông phương rất thịnh hành), thảy đều minh chứng cho uy quyền tuyệt đối của Đấng Phục Sinh trên các quyền lực sự Ác và sự Chết. Đây chính là sứ điệp của Tin Mừng, sứ điệp mang lại một sức mạnh cứu rỗi.

Sau bài tường thuật cuối cùng về những lần Chúa Giêsu hiện ra với mười một Tông đồ, sai các ông đi rao giảng và hứa ban cho các ông những dấu chỉ hỗ trợ, tác giả kết thúc bằng một loạt những hình ảnh hùng hồn (c.19). Với một câu văn cô đọng, tác giả đã đặt độc giả vào một tình trạng mới mẻ của Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài “được rước lên trời”. Đó là Thăng Thiên, một lối diễn tả có tính Kinh Thánh, hình tượng hóa việc Chúa Giêsu Phục Sinh từ giã cõi trần để về cùng Thiên Chúa trên chốn trời cao. Việc các người công chính và lành thánh được đưa về trời cao, sau khi họ đã trải qua cuộc sống trần thế này cùng với Thiên Chúa, là một chủ đề thường gặp trong truyền thống dân Do Thái (x. Hônôc: St 5,24; Êlia: 2V 2,9-18). Nhưng mục đích đến của Chúa Giêsu khi về trời lại đặc biệt hơn. Văn bản ghi rõ: Ngài “ngự bên hữu Thiên Chúa”. Nghĩa là Chúa Giêsu hoàn toàn trở nên Đấng Mêsia, và Đức Chúa do việc Ngài sống lại. Thiên Chúa đã ban cho Ngài thông phần đầy đủ vào quyền năng tối thượng của Đấng Xét xử và Cứu độ của hết thảy mọi người trong thời cuối cùng (x. Maccô 12,35-37: phác họa và Cv 2,32-36: triển khai).

Ở đây ta không thấy nói gì đến ơn cần thiết ban xuống trong Lễ Ngũ Tuần (ngược với Cv 2,32-33; Ga 20,22). Nhưng dù sao thì ơn ban “Mêsia” cốt yếu của Chúa Kitô Phục Sinh cũng đã khiến các môn đệ dấn thân hoàn toàn vào niềm tin Phục Sinh. Chính Thánh Thần mà họ sắp lãnh nhận mới giải thích trọn vẹn được việc thi hành chương trình rao giảng được đề cập đến trong câu cuối cùng (c.20). Mười một Tông đồ sắp rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Và lời rao giảng (đến từ Thiên Chúa và được Thánh Thần linh hứng) sẽ được đi kèm với các dấu chỉ để mọi người tin).

Một lần chót, chúng ta đã thấy rõ Giáo Hội thuở mới khai sinh đã hết sức ý thức được sứ mạng rao giảng cho muôn dân trên khắp cả thế giới, loan báo sứ điệp hạnh phúc của Đấng Mêsia chịu đóng đinh nay đã sống lại và khai mở nguồn ơn cứu thoát cho hết mọi người. Lời cuối cùng nhấn mạnh đến sự hiện diện sống động và hết sức hữu hiệu của Chúa Giêsu trong hoạt động truyền giáo. Chính Đấng Phục Sinh cùng “làm việc” với các tín hữu. Tin Mừng có sức cứu rỗi hết thảy những ai làm chứng cho Tin Mừng, và tiếp nhận Tin Mừng trong đức tin (xem gương Phaolô trong thư gởi giáo hữu Rôma 1,1-7).

Bài 4. Chú giải của Noel Quesson

Những câu từ 9 đến 20 của chương cuối cùng Tin Mừng theo Thánh Maccô không có trong những văn bản cổ xưa nhất vì có nhiều Giáo phụ trong Giáo Hội không biết đến những câu này. Ý kiến thông thường là những câu này đã được thêm vào do một tác giả khác không phải là Thánh Maccô (cách hành văn cũng có khác). Dầu vậy, đoạn cuối này vẫn “Hợp luật Giáo Hội” và là một phần bản văn chính thức của Thánh Kinh đã được linh ứng. Nên đó cũng là “Lời Chúa” như tất cả Tin Mừng. Đàng khác chúng ta nhận thấy nhũng câu này không có gì “mới lạ”. Tác giả vô danh đã tóm lại đoạn cuối của những bản Tin Mừng khác. Trước tiên đoạn này có giá trị thần học. Chúng ta sẽ lưu ý đến điều mà tác giả nhấn mạnh trong đoạn này: “Đức Giêsu phục sinh nói với 11 tông đồ: Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho tất cả loài người”.

 Nếu chúng ta hiếu kỳ đọc câu liền trước câu này, chúng ta sẽ thấy: Đức Giêsu hiện ra cho 11 môn đệ thấy, Người trách sự cứng lòng của các ông vì các ông đã không tin theo những người đã trông thấy Chúa sống lại (Mc 16,14). Như thế chúng ta đột ngột đi từ chỗ Chúa Giêsu trách cứ nặng nề sự không tin của các môn đệ đến việc Người sai các môn đệ đi rao giảng khắp thế giới. Dĩ nhiên là tác giả đã tóm lược lại qua những trình thuật khác. Chúng ta biết rằng, ban đầu các môn đệ đã “không tin”. Nhưng trình thuật tóm tắt này nhắc nhở trong lòng chúng ta rằng: Chúng ta không nên trì trệ trong những hoài nghi và do dự Đức Giêsu sống lại đã thúc đẩy “Các môn đệ”. Không đếm xỉa đến việc họ không tin, Đức Giêsu chủ động, đặt niềm tin cậy nơi các ông còn đang bất toàn -Hai động từ chia vào mệnh lệnh cách: “Anh em hãy đi” và “Hãy rao giảng”, hai cách nói này diễn tả một động lực mãnh liệt biết bao!

 Lạy Chúa Giêsu, Chúa không đợi chúng con –Giáo Hội Chúa cũng chưa hoàn hảo, những môn đệ cũng không hoàn hảo, và con cũng không hoàn hảo nhưng đó không phải là nguyên cớ để chúng con không làm gì cả.

“Khắp thế giới” – “Tất cả loài người”.

 Những dự án, chương trình của chúng ta nhỏ nhen và tầm thường biết bao. Đức Giêsu mời gọi các bạn của Người loại trừ thói quen nhỏ nhen, để đến gặp gỡ mọi người. Có sứ vụ, thì phải có khởi hành, phải ra khỏi chính mình, ra khỏi thế giới tinh thần nhỏ bé của mình. Đối với các môn đệ, họ phải ra khỏi môi trường Do Thái để đi về phía dân ngoại. Đối với chúng ta cần phải quan tâm đến những nền văn hóa mới, chấp nhận những tư tưởng hiện đại, lắng nghe những ước vọng tân thời, ”rời bỏ sự thoải mái trí thức của những tư tưởng sẵn có”, để làm cho những người không suy nghĩ như chúng ta hiểu được chúng ta.

 Nếu chúng ta trung thành với chiều hướng phổ quát này, chúng ta sẽ thích thú để thấy những nơi vừa mới được Tin Mừng hoá đã có những ngôn ngữ mới để loan báo tin mừng. Chúng ta sẽ cầu nguyện sao cho “những lục địa nhân loại” mới, những tâm thức mới đến được Giáo Hội, dù có phải xáo trộn một chút những gì đã có sẵn của chúng ta. Tin mừng dành cho “toàn thế giới” và cho “toàn nhân loại”.

Anh em hãy loan báo Tin Mừng.

Từ Hy Lạp ở đây là “Kèrussein”, nghĩa đen là “la lên”. Tin Mừng trước tiên là một tiếng “kêu”. Chúng ta tìm gặp lại được chiều hướng này của những Kitô hữu đầu tiên trong đức tin –Chúng ta đã quá trí thức hoá, chương trình hoá, tổ chức hoá việc rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu đã nói:”Hãy kêu to” Tin mừng cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta thuyết phục “hay” chứng minh – Nhưng đơn giản chỉ làm chứng tá với sự vui mừng và sức mạnh của đức tin chúng ta. Than ôi có những người Kitô hữu không muốn làm chứng nhân như thế. Họ cứ rên siết, lên án, chỉ trích, đoán xét – Lạy Chúa xin cho chúng con sự vui mừng có sức lôi cuốn mà Chúa đòi hỏi nơi chúng con – ước gì gương mặt chúng con tỏ lộ cho anh em biết sự vui mừng đến từ Chúa. Nếu đối với chúng con, đức tin tôn giáo là một điều buồn tẻ, thì tốt hơn là chúng con nên im lặng về vấn đề này. Nếu đó là một “Tin mừng”, “Tin tốt” thì xin sự mừng tốt đó phát triển ra từ da thịt chúng con, trên môi miệng chúng con thành ra một tiếng kêu hân hoan.

Ai tin và chịu phép rửa sẽ đượ cứu độ, còn ai không tin sẽ bị kết án.

 Nếu Tin Mừng phải được rao giảng lớn tiếng cho mọi người, thì con người cũng có thể chấp nhận hay từ chối một cách tự do. Việc rao giảng Tin Mừng thể hiện một sự “xét xử” gần như là “phiên toà xử Đức Giêsu”. Một số đáp lại bằng đức tin, một số khác bằng “sự không tin” – Dĩ nhiên, không thể đẩy xuống địa ngục vô số con người thiện chí nhưng không thể tin vào Tin Mừng. Cũng không thể tưởng tượng một sự can thiệp của Chúa để trừng phạt. Toàn bộ Thánh Kinh chứng minh rằng Chúa không kết án ai, nhưng cứu rỗi tất cả mọi người. Không bao giờ đặt vấn đề: ”Chúa có tha tội cho tôi không?”. Mà là “Tôi có chấp nhận sự tha thứ mà Chúa đã ban cho từ trước hay không?”. Nói cách khác, kẻ nào biết rõ mà lại cố tình chối bỏ Tin Mừng, thì không phải Chúa kết án người đó, mà chính người đó tự kết án mình.

Làm sao hiểu được điều này?

Hiểu đơn giản như sau: Ngoài Tin Mừng, ngoài Chúa Giêsu Phục sinh và Hằng sống, không có sự cứu rỗi, không có câu giải đáp cho số phận con người hay chết. Ngoài Đức Giêsu, con người thực sự chỉ hư mất, số kiếp của con người ngắn ngủi. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người ra khỏi số kiếp của nó. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người khỏi phải “chỉ là một con người” mà thôi. ‘Kẻ nào tin? kẻ nào không tin?’. Đây là phần thưởng đặc biệt cho sự tự do của chúng ta. Nhưng có một điều chắc chắn là: Không ai bị bắt buộc phải sống đời đời với Đức Giêsu nếu người đó không muốn -Đức Giêsu tôn trọng chúng ta. Ngài không ép buộc chúng ta.

Những ai có lòng tin, sẽ làm được các dấu lạ này: “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ được ma quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ có cầm phải rắn hay uống nhầm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh hoạn yếu đau thì những người này sẽ được mạnh khoẻ”.

 Con người thời nay không thể đặt “câu hỏi” về ma quỷ, rắn, bệnh tật và những chất độc khác mà con người tin Chúa được miễn nhiễm. Những “dấu lạ” được hứa này chỉ là những giá trị điển hình, phù hợp với thời đại mà Kitô giáo được nảy sinh giữa cộng đồng dân ngoại, trong đó những “Thầy phép” (phù thuỷ) là những ông vua.

Độc giả ngày nay phải hiểu những “dấu lạ” này theo nghĩa tượng trưng. Điều vẫn đúng là: Người “tín hữu” cùng với Đức Giêsu sống lại, phải lao vào trận chiến chống lại “tất cả những lực lượng thù địch, nô lệ hoá và làm mất phẩm giá con người”, tất cả những gì “đầu độc” nhân loại. Ngày nay có những “dấu lạ” tương ứng với những dấu lạđược tác giả Tin Mừng kể ra trên đây đối với thời của ông. Chúng ta hãy tự hỏi xem ngày nay cái gì có thể là “dấu lạ” cho mình thời bây giờ. Chúng ta đừng coi thường “năng khiếu sinh ngữ” vì ngôn ngữ là một phương tiện truyền thông tuyệt hảo, và nó là một “ân ban của Chúa Thánh Thần”. Lạy Chúa xin cho mọi Kitô hữu “khả năng một ngôn ngữ mới” để có thể làm cho Tin Mừng đi vào trong những “tâm hồn mới lạ” (chưa đón nhận Chúa).

 Còn về khả năng “săn sóc và chữa bệnh cho người đau yếu” thì chúng ta biết người anh em chúng ta cần đến năng khiếu này như thế nào. Tin Mừng là một sức mạnh cứu rỗi, một nguồn hạnh phúc mà Kitô hữu có trong tay. Vậy thì chúng ta chớ khoanh tay không làm gì cả, chúng ta phải biết xây dựng chúng.

Nói xong Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.

 Tác giả vô danh chỉ có nhắc lại mà không dàn cảnh cụ thể những gì mà thánh Luca đã kể (Cv 1,9). Chúng ta nên lưu ý rằng, trong hai cách nói này, một cách có thể có giá trị lịch sử đối với con người chúng ta, (sự biến mất được nhìn thấy rõ ràng của Đức Giêsu), trong khi cách nói kia hoàn toàn căn cứ vào đức tin (việc bay lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa). Chúng ta coi chừng đừng “vật chất hoá” cách diễn tả này: Thiên Chúa không có “bên phải” hay “bên trái” gì cả, Người cũng không “ở trên” trời hay “ở dưới” đất. Trong tâm thức thời đó, hình ảnh bầu trời xanh gợi lên thế giới thần thánh và người ta cũng đã có nói về một vài vị hoàng đế La Mã nào đó đã “lên trời”. Đối với Đức Giêsu, sự Thăng Thiên hoàn toàn khác: Người đạt đến Vương quyền trên toàn vũ trụ, và để diễn tả điều này, người ta dùng đến ngôn ngữ Thánh Kinh trong Thánh vịnh 110,1: “Lời truyền dạy của Thiên Chúa cho Chúa tôi: Hãy ngự bên phải của Ta”. Những từ ngữ gợi hình này nói lên một ý nghĩa thần học về thực tại Đức Kitô Phục sinh: Chúa vinh quang, một thực tại mà ta không nắm bắt được bằng giác quan hay lý trí con người, một thực tại mà ta chỉ có thể đạt đến bằng đức tin.

Còn các tông đồ thì đi rao giảng khắp nơi.

Dường như các ông không để chậm trễ một giây nào. Các ông lên đường ngay lập tức. Đây cũng là một “dấu lạ”. Ngôi mộ trống … “Họ ra đi”… “họ lên đường “…

Chuá cộng tác với họ và dùng dấu lạ điềm thiêng mà xác nhận lời họ giảng.

 Đức Giêsu không còn “ở trong mồ” nữa. Người đồng thời “ngự bên hữu Thiên Chúa” và “hoạt động với các môn đệ”. Đây là dấu lạ mà chúng ta không có từ ngữ nào để diễn tả sự phong phú của mầu nhiệm Thăng Thiên. Những từ ngữ đúng nhất có lẽ lại là “một hiện diện ẩn khuất”, một hiện diện sinh động đang “hành động” dưới hình thức của một lời nói.

 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn