1
15:01 +07 Thứ bảy, 27/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 196

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 195


Hôm nayHôm nay : 18133

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 322255

Tổng cộngTổng cộng : 27876539

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » MẢNH CÒN SÓT LẠI

Trung Quốc đang chơi 'ván bài lật ngửa'

Thứ ba - 17/07/2012 14:45-Đã xem: 1276
Động thái liên tục của Trung Quốc gần đây không đơn thuần là hành động trả đũa hay đòn gió mà là một bước tiến mới nguy hiểm trong kế hoạch có tính chất chiến lược", nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Trần Công Trục phân tích.
Trung Quốc đang chơi 'ván bài lật ngửa'

Trung Quốc đang chơi 'ván bài lật ngửa'

- Học giả Carlyle Thayer cho rằng, động thái Trung Quốc mời thầu thăm dò, khai thác dầu khí tại 9 lô nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là nhằm trả đũa Quốc hội Việt Nam thông qua Luật biển, đồng thời cho đây là một hành động có tính chất chính trị nhiều hơn là thương mại. Ông nghĩ sao về nhận định này?

- Đấy là một khả năng, một nhận định nhưng theo tôi thì không hoàn toàn như vậy. Đây không đơn thuần là hành động trả đũa hay đòn gió, răn đe mà thực chất là một bước tiến mới đầy nguy hiểm nằm trong kế hoạch có tính chất chiến lược lâu dài của Trung Quốc.

Các phản ứng của Trung Quốc sau khi Việt Nam thông qua Luật Biển đều đã được lường trước, đặc biệt nội dung liên quan tới Hoàng Sa, Trường Sa, bởi thái độ của họ từ xưa tới nay vẫn thế. Thông qua Luật biển là điều phải làm, theo đúng Công ước quốc tế về Luật Biển, đã tham gia thì phải nội luật hóa để có cơ sở pháp lý trong việc quản lý biển. Bất kỳ quốc gia nào tham gia công ước cũng phải có trách nhiệm xây dựng luật này. Luật biển Việt Nam chỉ là cái cớ rất nhỏ để Trung Quốc đưa ra các hành động. Bản chất của vấn đề chính là tài nguyên của vùng thềm lục địa Việt Nam.

Việc họ mời thầu ngay trên các lô thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế, nơi chúng ta đã có các đối tác hợp tác thăm dò khai thác nhằm tạo ra tranh chấp ở vùng vốn không có tranh chấp. Mục tiêu là dùng hoạt động kinh tế, dân sự để hợp thực hóa đường biên giới trên biển hình “lưỡi bò”. Một đường biên giới rất vu vơ nhưng nhắm đến dư luận quốc tế và chính dư luận ở Trung Quốc, đặc biệt những người chưa hiểu rõ thì sẽ nghĩ rằng cả hai nước Việt Nam, Trung Quốc đều có yêu sách với cùng một vùng biển (thực chất hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam) thì phải đàm phán để cùng nhau khai thác. Như vậy, nếu âm mưu của Trung Quốc thành công thì chí ít Trung Quốc cũng đạt được mục tiêu này.

1
Ocean Oil 981 - giàn khoan khủng vừa được Trung Quốc đưa ra biển Đông. Ảnh: CNR.

- Trong vài tháng, Trung Quốc có hàng loạt hành động như gây hấn ở bãi Scarborough, đưa hàng loạt phương tiện ra biển Đông, thành lập thành phố Tam Sa, mời thầu. Những động thái này nếu so với trước đây cho thấy điều gì trong chiến lược của Trung Quốc?

- Không kể các thời gian lịch sử trước (như việc đưa quân xuống đánh chiếm các đảo, tiến hành ra các đạo luật liên quan tới biển, cấm đánh bắt hải sản…), các hành động gần đây của Trung Quốc đưa ra theo tôi rất logic. Xu hướng chính của họ khác hẳn trước đây - chuyển sang dùng các biện pháp dân sự, đặc biệt nhằm vào mục đích kinh tế.

Có thể nói rằng Trung Quốc đang chơi bài ngửa, không giấu diếm ý đồ gì nữa của họ với tham vọng trên biển Đông. Trước đây Trung Quốc có nói đến chuyện “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Sách lược này của Trung Quốc được họ nói nhiều lần nhưng “tranh chấp” theo cách hiểu của họ lại khác với tranh chấp quy định theo luật quốc tế, theo công ước Luật biển. "Tranh chấp" mà Trung Quốc muốn đây là “đường lưỡi bò” - điều không ai chấp nhận được. Trung Quốc cố tạo hiệu lực của đường biên giới đó. Họ ngoài mặt tỏ ra thiện chí nhưng nay thì đã lộ rõ bản chất. Nếu không cho Trung Quốc cùng khai thác, họ sẵn sàng nhảy vào, hoặc tự làm lấy, hoặc như đã làm với Việt Nam: mời thầu.

Và đằng sau câu chuyện mời thầu của Trung Quốc, không đơn giản chỉ là “lời mời” công khai mà đã có những hành động khác nữa. Tôi cho rằng, có thể đã có những vận động nào đấy trong thực tế. Chúng ta cần nhớ câu chuyện có công ty dầu khí từng hợp tác với Việt Nam sau đó quay sang hợp tác với Trung Quốc. Họ sẵn sàng làm thật chứ không nói suông. Thực tế, nếu ai nghĩ rằng đây chỉ là chỉ đòn gió thì suy nghĩ đó có phần ngây thơ về mặt chính trị. Lần này, Trung Quốc đã bắn một mũi tên để đạt nhiều đích.

Trong thời đại này, việc dùng lực lượng quân sự để đánh chiếm vài đảo là lợi bất cập hại. Với Trung Quốc, nếu làm thế cũng không có ý nghĩa gì vì trên thực tế họ đã chiếm được Hoàng Sa, có mặt trên một số đảo ở Trường Sa. Muốn mở rộng biển thì cách tốt nhất là dùng các hoạt động kinh tế để hợp thức hóa "đường lưỡi bò". Đánh nhau đã phức tạp rồi nhưng tranh chấp kinh tế còn phức tạp hơn. Nhìn nhận rõ vấn đề này, chúng ta cần lưu ý để có cách ngăn cản, ứng phó nếu không sẽ bị động.

- Với các biến cố dồn dập trong thời gian qua, ông đánh giá như thế nào diễn biến sắp tới trên biển Đông?

- Để nhận định chuẩn xác về diễn biến trên biển Đông sắp tới thì chắc không ai dám. Bởi nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, phụ thuộc vào ứng xử của các bên.

Tuy nhiên, những biến cố trong thời gian qua có thể rút ra vài điểm. Cách làm của Trung Quốc, tham vọng hợp thức hóa đường lưỡi bò không còn là ý tưởng trên giấy tờ nữa. Nguy cơ lợi ích của các bên bị xâm phạm quyền chủ quyền thật sự hiện hữu. Và khi Trung Quốc tiếp tục lấn tới, động chạm tới cái "dạ dày" của các nước ASEAN, ảnh hưởng tới lợi ích của cộng đồng quốc tế thì tôi nghĩ các nước khó mà ngồi im được. Bản năng tự vệ của các nước có quyền lợi, lợi ích bị xâm phạm sẽ khiến họ không thể ngồi yên. Nếu không cẩn thận thì sẽ dẫn đến xung đột.

1
Bản đồ chào thầu 9 lô dầu khí trái luật của Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC).

- Trở lại với Luật Biển, ông cho rằng còn điểm gì cần hoàn thiện đối với văn bản này?

- Luật Biển Việt Nam bắt đầu xây dựng từ năm 1998, sau khi Quốc hội phê chuẩn việc Việt Nam tham gia Công ước Luật biển từ 1994. Giai đoạn đầu tôi có tham gia xây dựng đề án khi còn làm ở Ủy ban Biên giới quốc gia. Thực ra nội dung liên quan tới vùng biển của Việt Nam trước đây mình đã ra các tuyên bố từ 1977, 1982 nhưng đó là các văn bản dưới luật. Luật hóa đương nhiên giá trị pháp lý cao hơn.

Việc ra được luật là rất cần thiết và có ý nghĩa. Đây đồng thời còn là nghĩa vụ của các quốc gia thành viên Công ước. Dù Công ước có tới 320 điều nhưng vẫn là các nguyên tắc, định chế chung, trên cơ sở đó các quốc gia phải nội luật hóa, biến thành luật của mình sao cho không trái với công ước nhưng phù hợp với thực tế, vùng biển của mình. Đây là luật chuyên sâu về lĩnh vực biển nhưng trong quá trình thực thi tôi cho rằng cần phải bổ sung để luật toàn diện hơn, ra các văn bản hướng dẫn, dưới luật để làm rõ một số nội dung trong luật. Ví dụ, quy định trong vùng lãnh hải thì tôn trọng quyền tự do qua lại nhưng phải đi đúng luồng lạch, vậy luồng lạch phải quy định cụ thể như thế nào để tàu thuyền đi lại?

Cái nhìn thấy trước mắt như là phải có quy định cụ thể với các công ty nước ngoài đang hoạt động ở lãnh hải nước ta như dầu khí, đánh bắt hải sản, nghiên cứu khoa học... rồi phải chuẩn bị khung pháp lý để xét xử vi phạm với với nước ngoài khác với trong nước. Thứ hai là phải làm cho các đối tác hiểu bản chất của vấn đề, quyền hạn của Việt Nam đến đâu và giúp họ tránh đi những thỏa thuận sai lầm...

- Ông nghĩ như thế nào về việc bảo vệ chủ quyền thông qua phát triển kinh tế biển?

- Tôi cho rằng đấy mới là thực chất. Trong sự phát triển của nhân loại hiện nay, điều cốt yếu là khai thác tài nguyên biển để phục vụ cho lợi ích con người, lợi ích quốc gia chứ không phải chỉ chăm chăm có vùng biển rộng không thôi. Kinh tế biển vô cùng quan trọng. Chúng ta phải tiếp cận, cụ thể hóa chủ quyền, gắn chủ quyền bằng vấn đề kinh tế biển. Muốn vậy ta phải có chuyên gia, phải vươn ra làm ăn với quốc tế. Tài nguyên trong lòng biển, đáy biển còn nhiều hơn trên đất liền, vì thế, phải có tầm nhìn đồng bộ.

Nguyễn Hưng thực hiện

 

Thành phố Tam Sa' được Trung Quốc chuẩn bị kỹ lưỡng

Một số cơ quan báo chí và các trang mạng của Trung Quốc đăng ý kiến phát biểu của một vài tướng lĩnh Trung Quốc kêu gọi quân sự hóa "Tam Sa", "trên các đảo của Tam Sa chỗ nào đóng quân được thì đóng quân".
 

Ngày 21/6, trang mạng của Bộ Dân chính Trung Quốc thông báo việc Quốc vụ viện nước này phê chuẩn quyết định thành lập cái gọi là "thành phố Tam Sa" với phạm vi quản lý bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trung Quốc hoàn toàn không có pháp lý để thành lập đơn vị hành chính trên lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền như Việt Nam.

Đã từ lâu, ít nhất là từ thế kỷ 17, các nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền, tiến hành quản lý, khai thác hòa bình liên tục hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi nó chưa thuộc về lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào. Các chứng cứ pháp lý lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này đang được lưu giữ không chỉ ở các cơ quan lưu trữ của Việt Nam, mà còn đang được lưu giữ ở trung tâm lưu trữ của các nước như Pháp, Mỹ, Nhật, Hà Lan, Anh...

Ảnh tư liệu.
Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thể hiện trong Đại Nam nhất thống toàn đồ (năm 1834-1840). Ảnh tư liệu.

Giải thích cho thông báo về quyết định sai trái của phía Trung Quốc, người phát ngôn của Bộ Dân chính Trung Quốc cho rằng: "Trung Quốc là người phát hiện và đặt tên sớm nhất cho các quần đảo này". Cách giải thích này hoàn toàn trái với các quy định của luật pháp quốc tế. Nếu theo cách nghĩ của phía Trung Quốc thì có lẽ lãnh thổ của các nước sớm có nền hàng hải phát triển như Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha... sẽ trải khắp thế giới vì có biết bao hòn đảo trên các đại dương đã được những thương thuyền của các quốc gia này phát hiện và đặt tên cho nó.

Nhiều người đã đặt ra câu hỏi: Tại sao phía Trung Quốc không đưa ra những căn cứ cụ thể để chứng minh cho lời phát biểu của người phát ngôn Bộ Dân chính Trung Quốc? Câu trả lời rất đơn giản là phía Trung Quốc hoàn toàn không có những căn cứ pháp lý, căn cứ lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sử sách các đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều khẳng định cương vực của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam, các bản đồ của Trung Quốc cho đến tận đời nhà Thanh cũng chỉ vẽ điểm cực nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam chứ không gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc thường viện dẫn việc đô đốc Lý Chuẩn đổ bộ chớp nhoáng lên quần đảo Hoàng Sa năm 1907 để chứng minh cho cái gọi là "chủ quyền của Trung Quốc", nhưng khi đó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các nhà nước Việt Nam quản lý, khai thác từ hàng trăm năm trước.

Theo luật pháp quốc tế, một vùng lãnh thổ được coi là thuộc về một quốc gia khi quốc gia đó thực hiện quản lý, khai thác hòa bình, liên tục trong thời gian dài. Năm 1956, Trung Quốc chiếm một số đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa và năm 1974 chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực. Năm 1988, Trung Quốc tiếp tục sử dụng vũ lực để đánh chiếm vài bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa. Đây là những hành vi vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và hiến chương Liên hợp quốc, bị cộng đồng quốc tế lên án.

Qua những phân tích trên, càng thấy rõ việc thành lập cái gọi là "thành phố Tam Sa" của phía Trung Quốc là hoàn toàn sai trái và không có giá trị pháp lý. Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là rõ ràng, không chỉ được ghi nhận trong các tài liệu pháp lý lịch sử mà còn được thừa nhận ở một hội nghị quốc tế hết sức quan trọng bàn về vấn đề quy thuộc các vùng lãnh thổ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, Hội nghị San Francisco năm 1951 khi đại diện của Việt Nam đã khẳng định mạnh mẽ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng.
Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng.

Một điều đáng nói là cùng với việc đưa lên mạng quyết định sai trái về việc thành lập cái gọi là "thành phố Tam Sa", một số cơ quan báo chí và các trang mạng của Trung Quốc còn đăng ý kiến phát biểu của một vài tướng lĩnh Trung Quốc kêu gọi quân sự hóa "Tam Sa", "trên các đảo của Tam Sa chỗ nào đóng quân được thì đóng quân"! Với những lời lẽ đó, phải chăng họ đang muốn triển khai kế hoạch biến các đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam thành các căn cứ quân sự của Trung Quốc? Gần đây, Trung Quốc ra sức tuyên truyền chủ trương "trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc" và "ngoại giao hòa thuận với các nước láng giềng". Nhưng những lời lẽ và việc làm trên thực tế đó của phía Trung Quốc có thể hiện đúng "chủ trương nhất quán" đó của Trung Quốc hay không?

Một số tờ báo của Trung Quốc còn cho biết kế hoạch thành lập cái gọi là "thành phố Tam Sa" đã được chuẩn bị kỹ lưỡng từ lâu và Trung Quốc đã chọn thời điểm này để đưa ra công khai nhằm "trả đũa Việt Nam thông qua Luật biển". Với cách tiếp cận đó, phải chăng cái gọi là "thành phố Tam Sa" là một con bài thủ sẵn để tung ra đối phó với các nước láng giềng chứ hoàn toàn không có căn cứ pháp lý lịch sử?

Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam và đã được các nhà nước Việt Nam thành lập các đơn vị quản lý hành chính từ lâu. Việc Trung Quốc thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đi ngược lại tinh thần Tuyên bố DOC ký năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc, gây bức xúc và phẫn nộ trong nhân dân. Bộ Ngoại giao Việt Nam và UBND TP Đà Nẵng, UBND tỉnh Khánh Hòa và nhiều tổ chức xã hội nghề nghiệp đã có những tuyên bố kiên quyết phản đối hành động sai trái của Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc hủy bỏ các quyết định phi pháp này.

Là láng giềng gần gũi, tin rằng những người Trung Quốc chính trực thấy được lẽ phải, không để những lời nói và việc làm tổn hại đến tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc, cùng nhau vun đắp quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời giữa hai dân tộc Việt - Trung.

Đại đoàn kết

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa: n/a

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn