1
09:28 +07 Thứ hai, 29/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 313

Máy chủ tìm kiếm : 12

Khách viếng thăm : 301


Hôm nayHôm nay : 32180

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 422267

Tổng cộngTổng cộng : 27976551

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa nhật II Mùa chay - Năm A

Thứ sáu - 14/03/2014 09:45-Đã xem: 1446
Chúa phán cùng Abram rằng: "Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn, Ta sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi, ngươi sẽ được diễm phúc. Ta sẽ ban phúc cho ai chúc phúc ngươi, và chúc dữ cho ai chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ngươi mà được diễm phúc". Abram liền ra đi, như lời Thiên Chúa phán dạy.
Chúa biến hình trên núi

Chúa biến hình trên núi

Phúc Âm: Mt 17, 1-9
"Mặt Người chiếu sáng như mặt trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người". Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: "Các con hãy đứng dậy, đừng sợ". Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: "Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại".
Ðó là lời Chúa.
 

 

Chú giải của Noel Quession

Mỗi năm, ngay sau chuyện kể về cơn cám dỗ của Đức Giêsu, Chúa nhật thứ hai mùa Chay cho chúng ta suy niệm về câu truyện Đức Giêsu biến hình. Chúa nhật trước, chúng ta đã ngắm xem Ngài khước từ, không lợi dụng thiên tính của mình, Người khiêm tốn và dè dặt, và khi Người đói, Người bị cám dỗ như một người thường. Hôm nay, chúng ta nhìn ngắm sự vinh quang ẩn dấu của Người, thiên tính của Người.

Ba sách Tin Mừng nhất lãm phù hợp nhau khi đặt đoạn này vào khúc quanh tác vụ của Đức Giêsu. Ban đầu nhiều đám đông đã theo Đức Giêsu nhưng lại hoàn toàn lầm lẫn về Người. Việc nhân bánh hóa nhiều. Với nỗ lực của họ muốn biến Người làm vua, đã đưa sự hiểu lầm ra ánh sáng. Thực sự Đức Giêsu đã thất bại! Người đã không thành công khi muốn đưa được đám đông đến đức tin chân thật, đồng thời tất cả “tầng lớp trí thức” tôn giáo thời Người lại khước từ Người nhân danh chính giáo lý tốt đẹp truyền thống: các kinh sư và tư tế không ngừng gương cao bẫy chơi Người và cáo giác Người là phá hủy tôn giáo (Mt 12,2; 12,14; 12,24; 12,38; 15,2; 16,1; 16,6). Nhận thấy sự thất bại về chương trình giảng dạy giáo lý của mình. Đức Giêsu từ nay tập trung vào việc đào tạo các môn đệ của Người với nhóm Mười Hai nhỏ bé, như Người loan báo thử thách lớn lao sẽ xảy đến. Người đã xa lánh miền Palestine.

Ở đó tình hình từ nay đã trở nên nguy hiểm, Người chạy sang tị nạn ở bên Li-băng, về phía miền Xêdarê Philip. Ở đó cách biệt khỏi đám đông và các kinh sư, Người đã thúc đẩy Phêrô tuyên xưng đức tin; rồi lập tức Người nói: Tôi phải sang Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tê và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21). Phêrô, cũng lại ông, muốn cám dỗ Đức Giêsu khước từ cái viễn ảnh chết chóc kia. Khi đó Đức Giêsu la mắng ông và hứa rằng vinh quang sẽ đến, thực sự, nhưng sau khi chịu khổ hình thập giá: “Bởi vì Con Người sẽ đến với thiên thần của Người trong vinh quang của Con Người…” (Mt 16,27-28). Chính trong bối cảnh thê thảm này mà cảnh tượng chúng ta sắp đọc, xảy đến.

Sáu ngày sau. Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.
Tôi thích tưởng tượng ra cái cảnh tượng này một cách cụ thể: một lối quanh co trên một con đường núi. Cả bốn người, họ đều đi chậm rãi. Không gian cứ lớn dần. Không khí trở nên tươi tắn và mát mẻ. Đồng bằng xa xa dưới thấp kia, các đám dông còn xa. Ôi, chốn cô liêu hạnh phúc biết bao trên các đỉnh cao! Người ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong chốn thing lặng. Phải chăng tôi đã dành ra những thời gian để sống cô liêu, trong mùa Chay này?

Nhưng chúng ta cũng biết rằng núi là một chủ đề Matthêu ưu thích. Núi cám dỗ (Mt 4,8), Núi hạnh phúc và Luật mới (Mt 5,1), Núi bánh được chia sẻ (Mt 15,29), Núi Biệt ly của Đấng Phục sinh (Mt 18,16). Ở đây việc Thiên Chúa hiển linh ở núi Siani được tái hiện trên Núi biến hình; nhưng đó không phải là núi Sinai ở Giêrusalem, nơi đón nhận vinh quang của Thiên Chúa mà các ngôn sứ đã loan báo (Is 2,2; Tv 2,6); chính một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê của nhiều dân nước sẽ là chứng nhân của vinh quang của anh thợ mộc hèn mọn ở Nagiarét, xa những vẻ tráng lệ của Đền Thờ. Thiên Chúa chỉ tự cho thấy mình ẩn giấu. Thiên Chúa khước từ các danh vọng, các nghi thức, các trình diễn sân khấu: Đền Thờ do bàn tay con người làm sẽ bị phá hủy (Mt 24,1-3; 26,61). Còn tôi, tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đâu?

Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Matthêu, hơn hai tác giả Tin Mừng kia, nói về ánh sáng. Cũng như thế, Mô sê, tại Sinai, đã tiếp nhận tia sáng phản chiếu của vinh quang Thiên Chúa, và da mặt người tỏa sáng (Xh 34,29-35). Cũng như thế, Con Người (Đn 7,9) được mô tả bằng những hình ảnh có tính khải huyền: tia sáng, màu trắng. ánh sáng, lửa… Động từ Hy Lạp được Matthêu sử dụng ở đây, “metamorphoun” có nghĩa chữ là “biến dạng”; đó là một sự biến hình sâu xa hơn là chỉ biến hình cái mặt mà thôi. Đức Giêsu hiện ra với một hình thái khác. Và người ta nhớ đến đoạn văn nổi tiếng mà Phaolô tả cho chúng ta một tác động trái ngược: “Ngài khi ấy ở trong hình dạng Thiên Chúa,… đã lấy hình dạng con người đầy tớ… (Pl 2,6-7). Nhưng làm thế nào nói được những thực tại không thể nói được này? Thế thì càng phải dùng thật nhiều hình ảnh về ánh sáng. Tôi dành thời gian để chiêm ngắm. Và bỗng các ông thấy ông Môsê vâ ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.

Từ muôn thuở, người đã lưu ý rằng ba môn đệ đã được đặc ân về mạc khải siêu nhiên này lại chính là ba người sẽ phải đụng chạm gần gũi nhất với “hủy dạng” của Đức Giêsu khi Người hấp hối tại Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37). Đức Giêsu như thế đã cho họ trước một kinh nghiệm về sự vinh quang sẽ đến của Người, để cố ngừa cho họ khỏi bị cái gương mù về sự hạ mình của Người. Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: lạy Ngài chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê một cho ông Êlia.

Phêrô, là người mà quyền ưu tiên của ông vừa được nhìn nhận, sáu ngày trước, sau khi tuyên xưng đức tin của mình, lên tiếng và nói “tôi” đầy quả quyết, hăng hái, quảng đại, ông đã nhìn nhận Đấng Mêsia được chờ đợi qua hai nhân vật chủ chốt của Kinh Thánh đi theo Người: Môsê và Êlia: luật pháp và các Ngôn sứ… Môsê là người đã khởi dẫn dân Chúa trong sa mạc trên núi Sinai, và Êlia, người phải trở về để chuẩn bị giai đoạn mới, chấm dứt các thời đại tiên báo về Đấng Mêsia (Mt 17,10-13). Hoàn toàn vui mừng về sự khám phá của mình, Phêrô có lẽ muốn ngưng lại cái khoảnh khắc hạnh phúc này và có thể nói là cố định lại nó trong cái phút hạnh phúc và vinh quang này: “Tôi sẽ dựng nhiều lều…”. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta có thể bắt được hạnh phúc và cố định nó lại!

Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông. Đám mây này, biểu tượng của sự hiện diện Thiên Chúa (Tv 18,12; Xh 40, 34-35; 1V 8,10-12), cắt ngang lời nói của Phêrô. Không phải Phêrô sẽ xây một ngôi nhà cho Thiên Chúa; mà là chính Thiên Chúa đến xây nhà của Người. Đám mây. Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về sự liên kết kỳ lạ này: một đám mây sáng ngời lại tạo ra bóng che. Chúng ta ở đó thêm một lần nữa, đứng trước một ngôn từ biểu tượng qua đó chứng minh rằng chúng ta không thể nào hiểu những từ này như thể chúng chỉ mô tả một cảnh tượng. Động từ ‘lấy bóng mình bao phủ’ bằng tiếng Hy Lạp “Episkiazô”, chỉ xuất hiện hai lần trong toàn bộ Tân ước; ở đây và vào ngày lễ Truyền Tin, khi Thánh Thần lấy bóng mình bao phủ Maria (Lc 1,35). Theo các nhà chú giải từ này ám chỉ đến một trong các từ Do Thái nổi tiếng nhất “shékinah”, nghĩa là “nhà ở”, “Hiện Diện” của Thiên Chúa. Và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là con yêu dấu Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”.

Cái từ ‘Đây là’, bề ngoài có vẻ không quan trọng. “Đây là” chính nó cũng mang đầy ý nghĩa. Trong chuyện kể nó được lặp lại ba lần: “đây là một sự hiện ra… đây là một đám mây… đây là một tiếng nói…”. Trong Kinh Thánh, đó là dấu chỉ có một sự can thiệp siêu hình được áp đặt. Đây là! Chính ở đó! Chính là thế đấy! Chúng ta ở đó chẳng để làm gì cả. Tiếng của Thiên Chúa này lặp lại sự mạc khải về phép Rửa của Đức Giêsu: Đức Giêsu còn “hơn” cả một người, Người là Con Độc Nhất và Yêu Dấu. Nhưng điều đã được nói, trong sự thân tín, đối với một mình Đức Giêsu, Người khởi đầu tác vụ của Người… bây giờ được nói lại cho các môn đệ với một hậu quả đi theo.

Lạy Chúa, trong thời gian đặc ân của mùa Chay này, xin giúp chúng con sẵn sàng nghe tiếng Chúa, với cái nghiêm túc mà chúng con đôi khi biết sống nó là nghe một số những sứ điệp quan trọng cho chúng con.Nghe vậy các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống. Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo: Trỗi dậy đi, đừng sợ. Trong khi gục mặt xuống đất bái lạy (từ ưa thích của Matthêu) các môn đệ nhận ra rằng họ đang ở trước một sự hiển hiện của Thiên Chúa: phản xạ tôn giáo của con người ở trước một thực thể linh thánh! Thờ phượng! Tôi có biết thờ phượng không? Đó là hành vi tối thượng của con người. Sống, Yêu, Thờ Phượng. Con người không được tạo dựng để thu mình lại với chính mình trong một thứ tự huỷ. Con người được tạo dựng để mở ra cho người khác bằng tình yêu. Và sự hoàn thành của nó được thực hiện khi nó mở ra cho Đấng Tha Thể bằng thờ phượng. Và điều đó luôn luôn mang hình thực một thứ hư vô hóa chính mình: phải chết trước khi được sống. Phải chết cho chính mình đã, để yêu mến, tha thứ. Nhưng nếu con người tự hư vô hóa, mặt cúi xuống đất để tới gần Thiên Chúa, thì chúng ta thấy Đức Giêsu tới gần, đụng chạm, vực các bạn hữu của Người dậy. Những cử chỉ yêu thương. Những cử chỉ cùng quyền năng Thiên Chúa mà chúng ta lát nữa sẽ thấy ý nghĩa biểu tượng.

Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”. Sách kinh lễ không dám dùng từ chính xác. Bởi vì, một cách có chủ ý, Matthêu đã sử dụng cùng một từ Hy Lạp “Egeirein”, “vực dậy”, để nói rằng Đức Giêsu đỡ các bạn hữu mình dậy và làm cho sống lại. Nếu Thiên Chúa nói từ đám mây, thì đó không phải để đè bẹp con người, như chết, dưới đất… mà để làm cho con người sống lại. Nhưng trong khi chờ đợi, Phêrô và các bạn hữu của ông phải xuống núi lại. Và họ sẽ phải, nếu họ muốn, biến hình kiểu thường ngày. Phêrô sẽ sống những ngày đều đều, những ngày cực khổ, những thất bại và những bách hại. “Nhưng, suốt đời, ông sẽ nhớ lại cái khoảnh khắc thoáng qua này, ở đó ông nghe thấy tiếng gọi này đến từ trời, từ trên núi thánh (2 Pr 1,16-18). Mỗi một lần thể hiện nhiệm tích Thánh Thể là một trạm dừng lại để được tưới mát trên núi với Đức Giêsu. Nhưng phải đi lại, vươn tới những nhiệm vụ của chúng ta, với kỷ niệm…


 
 ĐỨC GIÊSU BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG

Để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.
 
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ, tiếp sau lời tuyên xưng của Phêrô (Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức Giêsu nói về số phận của môn đệ và vinh quang của Con Người (Mc 8,34–9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).  

Riêng Tin Mừng Mt đóng khung cuộc đời công khai của Đức Giêsu giữa hai ngọn núi:

- Khi chuẩn bị ra đi thi hành sứ vụ: trên “một ngọn núi rất cao” (4,8), quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu nhận quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới từ tay nó: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (4,9). Nhưng Người đã dứt khoát từ chối.

- Khi kết thúc sứ mạng của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn đệ, Đức Giêsu gặp Nhóm Mười Một “tại ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến” (28,16). Tại đây Người tuyên bố là Người “đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền trên trời dưới đất” (28,18) và dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng “cho muôn dân”.

Vì Người đã từ chối nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ Người nhận được mọi quyền hành từ tay Thiên Chúa.

- Giữa hai biến cố nêu trên, có một biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn núi cao: Đức Giêsu biến đổi hình dạng, Người có vinh quang Thiên Chúa: cuộc khải hoàn Phục Sinh đã được giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy ra sau khi Đức Giêsu gạt bỏ đề nghị của Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo đường lối của Chúa Cha.

Theo văn cảnh xa, có thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung vừa tóm lại các cám dỗ vừa đón trước cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục Sinh và các môn đệ; chúng ta thấy ở đây có các yếu tố của hai tình trạng ấy của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa vinh quang và Đấng Mêsia phải chịu đau khổ; nổi bật lên như một gạch nối là sự chọn lựa dứt khoát, thái độ cương quyết của Đức Giêsu để đi theo thánh ý Chúa Cha. Điểm này được minh chứng theo văn cảnh gần: cuộc Hiển Dung được đóng khung giữa hai lời loan báo về Khổ Nạn (16,21-23; 17,22-23).
 
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành phần:
1) Mở (17,1);
2) Thị kiến (17,2-8):
a) Mở đầu: Đức Giêsu biến đổi hình dạng,
b) Các tình huống: Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo; Phêrô đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa phán,
c) Kết: các môn đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn an; mọi sự trở lại như cũ;
3) Kết (17,9).
 
3.- Vài điểm chú giải
- Sáu ngày sau (1): Theo Xh 24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình ra cho Môsê trên núi Sinai sau sáu ngày; và theo Đnl 16,13-15, đay là ngày cuối cùng của Lễ Lều.

- Phêrô, Giacôbê và Gioan (1): Ba môn đệ này lại xuất hiện tại Ghếtsêmani (26,37).
 
- một ngọn núi cao (1): Một quả núi là biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả núi này là một Sinai khác tại Galilê. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabo, mà Tabo thật ra chỉ là một quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Cácmen hay Khétmôn. Đặc biệt trong Tin Mừng Mt, khi Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan trọng, Người thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao (4,8); các Mối Phúc được công bố trên núi (5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (15,19); và Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục Sinh trên một ngọn núi (28,16).

-  biến đổi hình dạng (metemorphôthê, 2): Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này là điều rất quen thuộc đối với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Lc đã tránh dùng từ ngữ này.

- Môsê và Êlia (3): Đây là hai nhà linh thị trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với núi Sinai-Khôrép. Môsê thường được coi là đại diện cho Lề Luật và Êlia đại diện cho các Ngôn Sứ; nhưng có thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là những ngôn sứ. Và nói chung, các ngài đại diện cho thiên giới.

- ba cái lều (4): Hẳn chi tiết này nhắc dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv 23,42; Nkm8,14-18).

- đám mây sáng ngời bao phủ các ông (5): Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động từ episkiazein, “bao phủ; rợp bóng” là động từ cổ điển để lưu ý về sự hiện diện (Hp shekinah) của Đức Chúa (Yhwh) trong đời sống và trong các tình huống của dân Ngài (x. Xh 40,34-35; 1 V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).

- tiếng từ đám mây phán (5): Trong Cựu Ước, “tiếng nói” thường xuất hiện trong các bài tường thuật về ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1 Sm 3,4; Is 6,8; Gr1,11 ….

- Đây là Con yêu dấu của Ta (5): Câu này là một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2. Từ ngữ “con” trước tiên diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân tình, kết hợp và hiệp thông.

- Nghe vậy, các môn đệ rất đỗi sợ hãi (6): Mt cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh Thiên Chúa truyền, chứ không phải do thấy thị kiến (Mc).

- Đức Giêsu lại gần (7): Động từ proserchomai, “đi đến, đến gần”, là một động từ Mt thích dùng (52 lần; 5 lần trong Mc và 10 lần trong Lc), nhưng chỉ có hai lần được áp dụng cho Đức Giêsu (ở 17,6-7 và 28,18 riêng của Mt). Trong cả hai bản văn, Đức Giêsu đến gần các môn đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi hoặc hoài nghi:

 
Mt 17,6-7 Mt 28,16-20
6 Khi các môn đệ nghe vậy
 
họ ngã sấp mặt xuống đất
và hết sức kinh hoàng
7 Bấy giờ Đức Giêsu lại gần
chạm vào các ông và bảo:
“Trỗi dậy đi, đừng sợ”
16 Mười một môn đệ…
17 Khi thấy Người,
các ông bái lạy Người ,
nhưng có mấy ông hoài nghi. 
18 Đức Giêsu đến gần
nói với các ông:
19 “…toàn quyền…”
20 Thầy ở cùng anh em mọi ngày” 

- thị kiến (9): Hoạt cảnh này vừa là “thị kiến” ([h]orama do động từ [h]oraô) kiểu khải huyền vừa là một cuộc thần hiển (có thể so sánh với các bản văn khải huyền: Đn 10,1-10 [Kh1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố thần hiển trong: Xh 19,16; 24,15-16; 40,34-35). Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức Giêsu hiển vinh là một “thị kiến” được Thiên Chúa ban cho.
 
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn chúng ta đọc hôm nay có phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho chúng ta biêt về một biến cố đặc biệt xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, thì hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và rõ ràng; nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung cấp thông tin. Ngài muốn nói cho chúng ta biết Đức Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ đầy hình ảnh và biểu tượng dễ hiểu và rõ ràng cho người thời đại ngài, nhưng lại khó cho chúng ta hôm nay.
 
* Mở (1)

Chi tiết xác định thời gian “sáu ngày sau” muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác giả lại ghi nhớ một chi tiết không đáng kể như vậy? Và làm sao ngài có thể còn nhớ được chi tiết này 50 năm sau, khi bắt đầu viết?

Tại sao Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người lên một ngọn núi? 
Chi tiết “sáu ngày sau” hẳn là muốn đưa độc giả về với Xh 24,16, trong đó kể rằng “sau sáu ngày”, mây bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa gọi Môsê. Tác giả hướng độc giả chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì Đức Giêsu đưa các môn đệ “đi riêng với mình, lên một ngọn núi cao”, bởi vì theo một cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh, người ta không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn độn và ồn ào náo nhiệt. Đức Giêsu chính là vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại diện bởi ba môn đệ.
 
* Thị kiến (2-8)

Sau phần mở, tác giả giới thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận dụng các yếu tố quen thuộc của những thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y phục trắng tinh). Sau này, khi mô tả trang phục của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả Mt cũng cho thấy các yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là một sự “biến hóa; biến thái” (metamorphein) để cho thấy sự thay đổi xảy ra nơi nhân tính Đức Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta nghĩ đến sự hóa trang của các thần linh Hy Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được các Kitô hữu Siri và Paléttina biết đến. Từ ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa được tất cả mầu nhiệm Phục Sinh mà các tác giả Tin Mừng còn gọi là “sự tái sinh”, “sự công chính hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự “biến hóa” nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy rằng Người là một nhân vật thuộc thế giới khác, là “Con Người” mặc lấy uy quyền và vinh quang (x. Đn 7,13-14). Đây là một thị kiến về Đức Kitô trong vinh quang tương lai của Đấng Phục Sinh.

Đức Kitô biến đổi hình dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề Luật và các Ngôn Sứ (x. 5,17). Sự xuất hiện của Môsê và Êlia (ngược lại với Mc 9,4) cho thấy các niềm chờ mong của dân Israel, các lời hứa thiên sai, nay đã nên hiện thực nơi bản thân Đức Giêsu (x. Lc24,27; Rm 3,21). Chúng ta không được biết là hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về chuyện gì, nhưng dựa theo Lc 9,31, các ngài nói về “cuộc xuất hành” Đức Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem, thì hẳn là các ngài trao đổi cuộc Khổ Nạn Đức Giêsu sắp đi vào. Môsê và Êlia tượng trưng cho truyền thống Cựu Ước mà Đức Giêsu đến để hoàn tất (5,17). Khi chỉ một mình ngài ghi nhận là “dung nhan Người chói lọi như mặt trời”, hẳn là tác giả Mt muốn ám chỉ Đức Giêsu là Môsê mới, còn Môsê ngày xưa chỉ có “da mặt sáng chói” mà thôi (x. Xh34,30).

Phản ứng của Phêrô khi đề nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một lần nữa sự tương phản giữa các khát vọng của loài người và kế hoạch của Thiên Chúa. Mới trước đây ít lâu, ông đã lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, và đã bị Đức Giêsu mắng là “Satan”.  Nay khi đề nghị dựng ba lều, ông đã hiểu sai ý nghĩa của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng vinh quang mình không đáng hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho “thịt và máu” (16,17), tức người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách của loài người (16,23), nên lại ngáng trở thay vì cộng tác với Thiên Chúa. Lần này, không phải là Đức Giêsu mắng Phêrô là “người kém tin” (14,31) hoặc là liên minh Satan (16,23), nhưng  chính Chúa Cha can thiệp để điều chỉnh các ước vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời bao phủ cả các tông đồ. Như thế, các ông đã được tiếp xúc với chính vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa, để được đón nhận một sứ điệp trực tiếp từ Thiên Chúa. Khi Chúa Cha giới thiệu Con của Ngài, lời lẽ của Ngài không còn dè giữ, không giới hạn nữa (x. 11,25-27). Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục Sinh) là một tổng hợp giữa các “bản văn thiên sai” (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như tại phép rửa, “tiếng nói” từ trời làm sáng tỏ và xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn gọi của Đức Giêsu. Phêrô đã muốn xóa đi mộtphần chương trình thiên sai; Chúa Cha đến nhắc rằng chương trình này không phải là mộtcông trình của loài người, nhưng là một kế hoạch của Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức Giêsu con đường phải theo (người tôi tớ đau khổ chứ không phải là một vị vua thuộc dòng dõi Đavít).
            
Tác giả hoàn tất khung cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống đất, sợ hãi, im lặng. Đây là những mẹo văn chương mà các tác giả văn chương khải huyền thường dùng để diễn tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức Giêsu can thiệp như vai trò thiên thần trấn an. Các lời “Đừng sợ” thường được nói lên trong các thị kiến tương tự (x. Đn8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-13.29-30).
            
Câu cuối của hoạt cảnh có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau khi “hóa thân”, Đức Giêsu trở lại với tình trạng bình thường. Từ nay, “chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi”, bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên Chúa, mà loài người phải quy chiếu về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến mọi người, nhưng đặc biệt được gửi đến những người còn tin vào Môsê và chờ đợi Êlia trở lại (x. 17,10).
 
* Kết (9)

Từ trên núi xuống, lời nhắc “giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn này song song với các mạc khải kiểu khải huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các tình huống phức tạp (chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về Đấng Mêsia đã và sẽ gặp. Lời xác định “cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” cho thấy con đường đúng để hiểu được ý nghĩa bài tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ sẽ nên sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của Người.
 
+ Kết luận
            
Cuộc Hiển Dung là cuộc tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện trong tất cả những phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung của Đức Chúa, Mêsia, Con Thiên Chúa, và với tất cả các liên hệ của Người trong lịch sử cứu độ. Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của Nhóm Mười Hai (18,18) lên tới trời là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng quang, nhằm xác nhận các quyết định của các ông.
 
5.- Gợi ý suy niệm
1. Muốn có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra khỏi đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này. Điều này không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là những người thường xuyên sống và dấn thân giữa lòng xã hội với những vấn đề và biết bao cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.

2. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài (= Chúa)”, nhưng rất có thể theo nghĩa là đế vương, vị thống lãnh, hơn là Mêsia vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và hôm nay, Họi Thánh) giới thiệu là chúa tể, nhưng đặc biệt là ngôn sứ, là nhà lập pháp được ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng mà loài người phải lắng nghe, nghĩa là vâng phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa hướng dẫn, nên sai lạc; các đề nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những lời loan báo về số phận cuối cùng, trần thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là những đề nghị đúng đắn mà loài người phải đón nhận.  

3. Tất cả những gì Israel vẫn ước mong nay đã trở thành hiện thực. Điều mới mẻ là nhân vật được biến đổi hình dạng. Người không từ trời xuống đất, mà chính là trời xuống với đất. Người không nói, mà chính tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối cùng, điều chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta phải lắng nghe (vâng phục) không còn phải là Đức Chúa (Yhwh) mà là Đức Giêsu, Đấng đang ở đó. Con người này là Đấng mạc khải, là chính Đức Chúa.

4. Sự biến hình Thánh Thể của Chúa Giêsu đối với Người hệ tại không phải là tỏ vinh quang của Người ra bên ngoài, nhưng là che giấu vinh quang ấy đi dưới những hình bí tích. Tuy nhiên, vì đã trung thành lắng nghe lời của Con yêu dấu để được Người dạy dỗ về mầu nhiệm này, chúng ta nhạn ra Người đang hiện diện dưới dạng bánh thánh và Phêrô có thể kêu lên: “Lạy Chúa, ở đây thật là hay!”. Sau đó, cần có can đảm mà phụng sự Người trong nếp sống khiêm tốn mỗi ngày.

5. Hội Thánh đang dấn thân thi hành sứ mạng Đức Giêsu đã giao phó cho Nhóm Mười Một trên núi (x. Mt 28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh luôn nhớ bài học Đức Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ chối các gợi ý của Satan, cũng như lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi Người giới thiệu Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng ta, là Đấng sẽ ban cho chúng ta những giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của Thiên Chúa.

 
Sưu tầm
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn