1
13:55 +07 Chủ nhật, 28/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 256

Máy chủ tìm kiếm : 3

Khách viếng thăm : 253


Hôm nayHôm nay : 26644

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 369673

Tổng cộngTổng cộng : 27923957

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật III Mùa Chay – năm B

Thứ bảy - 10/03/2012 08:43-Đã xem: 1559
Với tư cách là Thiên sai, Chúa Giêsu đã bất bình với phường buôn bán và đổi chác, không phải vì hành động của họ, mà chính vì quan niệm sai lạc của họ. Họ lên đền thờ với thái độ tự mãn. Với tiền bạc, họ có thể mua được những lễ vật. Và khi đã dâng lễ vật thì họ có cảm tưởng như là đã trả nợ cho Thiên Chúa, họ thảnh thơi ra về vì đã chu toàn lề luật và có quyền ngồi chờ Thiên Chúa thi ân đáp lễ. Họ đã cậy vào uy lực của tiền tài chứ đâu có cậy nhờ vào Chúa...
Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật III Mùa Chay – năm B

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật III Mùa Chay – năm B

A. BẢN VĂN (Ga 2,13-25):
13 Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem.14 Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền.15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.16Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.”17Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
18 Người Do-thái hỏi Đức Giê-su: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế? “19 Đức Giê-su đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.”20 Người Do-thái nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao? “21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người.22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.
23
 Trong lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm.24 Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ, vì Người biết họ hết thảy,25 và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.

 

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI

1. Chú giải của Học viện Đa Minh

2,13: Sau một thời gian ngắn ở lại Các-pha-na-um, Đức Giêsu lên Giê-ru-sa-lem. Lễ Vượt Qua kỷ niệm biến cố dân Do thái được giải thoát khỏi cảnh nô lệ Ai cập gần 15 thế kỷ trước. Tại Lễ Vượt Qua, dân tộc phải tưởng nhớ Chiên Thiên Chúa. Đức Giêsu đã mở đầu những công bố chính thức như là Đấng Mê-si-a ở đền thờ Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra, ở đó, sứ vụ của Người cũng kết thúc ba năm sau đó.

Từ Các-pha-na-um tới Giê-ru-sa-lem là con đường dốc, cao khoảng 1000 mét so với mặt nước biển. Theo nghĩa bóng, Giê-ru-sa-lem cũng được coi là “trên cao”. Ngôn sứ Ma-la-khi đã tiên báo rằng: Chúa mà “các người tìm kiếm” bỗng nhiên đi vào Thánh Điện của Người (Ml 3,1). Chúa khẳng định quyền của Người vượt trên Đền Thờ qua việc thanh tẩy.

2,14: Đền Thờ có ba sảnh đình: sảnh đình dành cho dân ngoại, sảnh đình dành cho dân Ít-ra-en, và sảnh đình dành cho các tư tế. Sảnh đình dành cho dân ngoại là nơi “những kẻ bán bò, chiên và bồ câu” thực hiện việc buôn bán hám lợi của họ. Người ta có thể tưởng tượng những cuộc mặc cả cùng với việc bán buôn và sự bát nháo khắp nơi.

Người tín hữu không được phép dùng đồng tiền Rô-ma dâng cúng Đền Thờ, vì đồng tiền như thế được xem là không thanh sạch. Họ phải đổi tiền nước ngoài sang tiền được thánh hóa. Đức Giêsu biết rõ rằng hình thức đổi tiền này biến thành một kiểu lừa gạt (Mt 21,13).

2,15: Hai lần thanh tẩy Đền Thờ được ghi lại. Tin Mừng Gioan ghi chép lần thanh tẩy thứ nhất khi Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ, và Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại lần thanh tẩy thứ hai trong tuần lễ Vượt Qua.

Hạn từ “roi” (phragellion), vốn không thấy nhắc đến trong lần thanh tẩy thứ hai, nói lên lòng nhiệt thành thánh thiện của Đức Giêsu. Việc lấy dây thừng nhỏ làm roi, cho thấy sự nóng giận chính đáng của Người, là lý do để Người khỏi mất thời gian.

Đức Giêsu xử lý với mỗi hạng người bất kính theo tính cách của họ. Người đuổi bò, chiên bằng roi. Người đổ tung tiền để chỉ cho những người đổi bạc biết rằng đầu cơ tiền bạc là “sai phạm” trong nhà Thiên Chúa. Chúa chúng ta thanh tẩy ngôi nhà vật chất như là một biểu tượng của việc thanh tẩy thiêng liêng. Hạn từ “tất cả” (pantas) giống đực, có nghĩa là những người buôn bán cũng như động vật họ mua. Đức Giêsu bày tỏ thái độ của thiên Chúa dodoiv ứoi những kẻ cản trở người khác đến thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật.

2,16: Đức Giêsu không nói: “Cha chúng tôi” (patros hemôn), nhưng Người nói “Cha tôi” (patros mou), bởi Người biết tương quan đặc biệt của chính Người với Thiên Chúa. Đức Giêsu không khoan dung với những gì liên quan đến tội lỗi. Thái độ của Người đồng nhất với quan điểm của Lề Luật. Lề Luật bày tỏ thái độ của chính Thiên Chúa, được mặc khải trên núi Sinai.

Không ai phản đối Người hành động. Lý do này có thể được cho là do uy quyền được thể hiện qua hình dáng uy nghi, qua lời nói và việc làm đầy thuyết phục của Người. Chắc chắn, một số tư tế có thể đã muốn làm điều Người làm; và số đông dân chúng đạo đức đến Đền Thờ đã phẫn nộ khi đi ngang qua một nơi giống như một cái chuồng bò để đến với một Thiên Chúa chân thật, mà bản tính và danh Người là thánh. Có lẽ, nhà cầm quyền sợ cuộc nổi loạn xảy ra nếu họ can thiệp.

2,17: Điều đáng lưu ý là các môn đệ rất quen thuộc với Kinh Thánh. Câu trích mà các môn đệ nhớ lại lấy từ Thánh vịnh 69,9. Lòng nhiệt thành của Đấng Mêsia làm cho Người bị kẻ thù ghen ghét, nhưng hẳn Người sẽ bàng quan nếu Người đã không tỏ thái độ của Thiên Chúa chống lại những lạm dụng mình.

2,18: Chúng ta có lý khi thừa nhận rằng: người lính coi đền của nhóm Lêvi đã báo cáo hành động của Đức Giêsu với sĩ quan an ninh, là người đã nhận lệnh từ các vị lãnh đạo Thượng Hội Đồng. Ngay lúc này, Đức Giêsu đã bị người Do Thái phản đối.

Xuyên suốt Tin mừng Gioan, hạn từ “Do Thái” (Ioudaioi) mang ý nghĩa đối lập và gán cho những nhà lãnh đạo Do Thái chứ không phải số đông dân chúng. Từ sự đối nghịch đơn thuần, thái độ và hành động của những nhà lãnh đạo này dẫn họ tới việc giết Đấng Mêsia.

2,19: Động từ “phá huỷ” (lusate) là lối mệnh lệnh, thì aorist (quá khứ) của động từ (luô), nghĩa là “cởi” hoặc “phá vỡ các thành phần cấu thành”, trong nhiều trường hợp có nghĩa là “phá huỷ”. Lối mệnh lệnh của động từ này là một trạng huống khả hữu chuyển dần đến một mệnh lệnh mang tính châm biếm. Nói cách khác, Đức Giêsu đang nói: “Các ông cứ phá huỷ Đền thờ này đi”. Sau này, những kẻ làm chứng gian chống lại Đức Giêsu khai rằng: Đức Giêsu đã tuyên bố Người sẽ phá huỷ Đền thờ (Mt 26,61; Mc 14,58). Lúc Đức Giêsu chịu khổ hình trên thập giá, những kẻ đi qua đã nhắc lại điều những kẻ làm chứng gian đã nói (Mt 27,40; Mc 15,29). Nhưng Đức Giêsu không nói “Tôi”; Người nói: “(các ông) cứ phá huỷ đền thờ này đi”.

Rõ ràng Chúa đang báo trước chính sự phục sinh của Người. “Trong ba ngày”, (en trisin hêmerais) có nghĩa đen là “trong” hay “suốt”, nghĩa là nội trong khoảng ba ngày.

Đức Giêsu khẳng định với tất cả uy quyền của chính Thiên Chúa rằng Người có quyền đối với sự phục sinh của chính Người. Không ai có thể tuyên bố điều này. Đức Giêsu Kitô công bố như vậy là tự với bản tính và hành động của Thiên Chúa. Đây không phải là khẳng định đơn độc, vì Người cũng đã nói Người có quyền hi sinh mạng sống và có quyền lấy lại.

2,20: “Bốn mươi sáu năm” (tesserakonta kai hex etesin) là thời gian Đền Thờ hình thành trong tiến trình được xây dựng, và công việc vẫn tiếp tục trong thời Đấng Cứu Thế. Đền Thờ này, gọi là đền thờ của Hê-rô-đê, thay thế đền thờ Zơ-rúp-ba-ben vốn được tái thiết sau Đền Thờ Sa-lô-môn và được hoàn tất năm 561 t.CN.

Người Do Thái vừa hiểu lầm vừa áp dụng sai lời Đức Giê-su. Họ cho thấy sự vô lý về việc khôi phục Đền Thờ trong ba ngày khi so sánh với 46 năm. Sự thiếu hiểu biết của họ thực sự là một cách cố ý xuyên tạc lời ngôn sứ của Đấng Mê-si-a.

2,21: Tin Mừng Gio-an làm sáng tỏ bất cứ quan niệm sai lầm nào có thể có của những nhà lãnh đạo Do Thái khi họ trình bày điều Đức Giê-su đã nói. “Đền Thờ thân thể Người” (tou naou tou sômatos autou) chỉ Đền Thờ mà Thiên Chúa thực sự ngự nơi đó. Trong thời Sa-lô-môn, Đền Thờ trở thành ngôi nhà trần thế của Thiên Chúa. Đền Thờ được được vua Zơ-rúp-ba-ben tái xây dựng đã trở nên nhà Thiên Chúa (Er 6,14). Tuy nhiên, Đền Thờ không có hòm bia, không có kê-ru-bim, không có đám mây vinh quang, và Nơi Cực Thánh hoàn toàn trống rỗng. Đền Thờ tráng lệ thời vua Hê-rô-đê cũng tương tự như vậy. Thân thể Đức Giê-su, lúc này, chính là Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa trên trần gian.

Việc họ phá hủy Đền Thờ là thân thể Người chính là việc đóng đinh Người vào thập giá. Đức Giê-su báo trước người Do Thái sẽ giết Người. Lời tiên báo này đã được nói ngay lúc khởi đầu sứ vụ của Người.

2,22: Sự phục sinh Người Con được Chúa Cha thực hiện và Đức Giê-su nói rằng chính Người sẽ chỗi dậy. Điều Người Con thực hiện Chúa Cha cũng thực hiện…

Một Chúa hoạt động cùng nhau. Điều được gán cho một Ngôi có thể được gán cho bất kỳ Ngôi nào trong Ba Ngôi.

Nhiều giáo huấn và lời tiên báo của Đức Giê-su không được hiểu đúng, mãi tới sau biến cố Phục Sinh và Ngày lễ Ngũ Tuần. Sự viên mãn trong các hoạt động của Thánh Thần làm sáng tỏ những gì Đức Giê-su đã nói và đã làm (14,26). Đoạn Kinh Thánh có liên quan ở đây có lẽ là Thánh Vịnh 16,10. (x.Cv 2,27 ; 13,35).

Các tông đồ của Tân Ước khẳng định rằng những sấm ngôn trong Cựu Ước và sấm ngôn của chính Đức Giê-su công bố rõ rang rằng: Đức Giê-su chỗi dậy từ cõi chết (1 Cr 15,4). Sứ điệp này là điểm chính yếu của toàn bộ lời giảng Tân Ước. Sẽ không có Tin Mừng, hoặc sự sống lại của người tin, nếu không có sự sống lại của Đức Giê-su.

2,23: Phần trước, Gio-an đã nối kết việc thanh tẩy Đền Thờ với phản ứng thù nghịch từ các nhà lãnh đạo Do Thái. Cũng vậy, ông đã nói về kết quả tích cực liên quan tới môn đệ Đức Giê-su. Trong câu này, Gio-an cho thấy rõ sứ mạng của Đức Giê-su đã tác động tới những người hành hương đi dự Lễ như thế nào.

Từ “dịp” không có trong bản Hy-lạp, nhưng được các dịch giả thêm vào. Thực tế, “dịp lễ” ở đây gồm 7 ngày Lễ Bánh Không Men, ngày sau Lễ Vượt Qua. Người Do Thái coi tất cả 8 ngày như “Lễ Vượt Qua”.

“Nhiều người” (polloi) tin tưởng hoặc tín thác đến mức họ hiểu những dấu lạ có nghĩa gì. Đức Giê-su thực hiện những dấu lạ đó để chứng thực vai trò Mê-si-a của Người. Họ tin vào những dấu này như những dấu hiệu thực hiện thực sự chứng tỏ Người là Đấng Mê-si-a. Gio-an cho chúng ta biết Đức Giê-su đã thực hiện nhiều dấu lạ, mà không được ghi chép lại (21,25).

2,24: Lý do Người không tin họ được bao hàm trong câu “vì Người biết họ hết thảy” (dia to auton ginôskein pantas). Niềm tin của “nhiều người” không sâu sắc bởi vì họ dựa trên những dấu lạ, và “nhiều người” thiếu khả năng hiểu những dấu lạ đó. Chính Đức Giêsu thực sự tin sáu môn đệ đầu tiên, bởi vì sự tin tưởng của họ đối với Người đủ để Người trao cho họ những mặc khải lớn hơn về bản thân và sứ vụ của Người.

“Vì Người biết họ hết thảy” nói lên bằng chứng hiển nhiên về thượng trí vô song của Người. Tin Mừng Gioan có nhiều viên ngọc lấp lánh loại này. Cái “biết” của Chúa về Phê-rô và Na-tha-na-en nhấn mạnh cùng một chân lý đó (1.42.47-48). Đức Giêsu biết Ni-cô-đê-mô và người phụ nữ Sa-ma-ri nhiều hơn họ biết về chính họ (chương 3 và 4). Người “biết” (to auton ginoskein) họ hết thảy” bởi vì Người dựng nên và hoạt động với họ qua các thế kỷ (St chương 1 và 3; Ga 1,1-11).

2,25: Đức Giêsu thấu hiểu những sâu kín tận trong tư tưởng mỗi người. Thư gửi tín hữu Híp-ri đã diễn tả “vì Lời (logos, như trong Tin Mừng Gioan 1,1 Thiên Chúa… phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Hr 4,12-13). Gioan đã lặp lại chân lý này trong một số đoạn (Ga 5,42; 6,61.64; Kh 2,23). Đức Giêsu biết bản chất bên trong của Phê-rô và tính chân thật của Na-tha-na-en, nhưng Người không tìm thấy nơi đám đông trong dịp lễ một ai mà Người có thể trao phó hoặc tin tưởng. Nếu đám đông lắng nghe thêm nữa, họ có thể tin tưởng nhiều hơn. Lúc đó, Đức Giêsu có thể tin họ. Thế nhưng, để Người có thể tin những kẻ tin vào Người, cần phải có một tiến trình để họ hiểu biết về Người.

 

2. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofmĐỨC  GIÊSU TẨY UẾ  ĐỀN THỜ

1- Ngữ cảnh

Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản văn song song với các TMNL (Mc 11,15-19;  Mt 21,12-17;  Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:

- Trong khi TM IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các TMNL lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn. 

- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và //) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.

- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các TMNL : Mc 11,28 và //).

Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (TMNL). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của cácTMNL có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).

Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của TMNL: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?

1. Đa số các nhà chú giải CôngGiáo và nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tr CG (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 CN: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các TMNL đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các TMNL chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất.

2. Những người nghiêng về các TMNL thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm ông đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4.11): ông muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, Gioan muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.

Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.

2- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).

3- Vài điểm chú giải

- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.

- trong Đền Thờ (en tôi hiêrôi, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh).

- Các môn đệ của Người nhớ lại (17): Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay:

- Người Do Thái (18):  Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong Tin Mừng, tác giả Gioan không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân này đang được đề cập đến.

- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy…”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy…”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy…”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.

- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ, với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe,Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.

- … là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh, và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.

- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại… Họ tin (22): Tác giả Máccô cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Gioan thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.

- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.

- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48 ; 20,29).

4- Ý nghĩa của bản văn

Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ khác. Đây không phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã làm cho họ thành mộtdân độc lập và thành Dân Người.

* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)

Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương diện hoàn toàn khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra một sự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quí nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.

Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc shéqèl bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát  của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.

Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến… Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim… Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ)…” (Ml 3,1-3).

Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứDacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp với biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.

Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng… Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới giờ rồi.

Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 69/68: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân…”, thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 69/68,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 69/68,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc.19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.

* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)

“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr1,22).  

Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy…”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy…”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy…”. Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.

Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn.

Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioancho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.

Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứHôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).

* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)

TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.

+ Kết luận

Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì  yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha. 

Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờ và xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.

5- Gợi ý suy niệm

1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?    

2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Đức Giêsu phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?

3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.

4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng? 

Nguồn tin: lamhong.org

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn