1
23:14 +07 Thứ năm, 02/05/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 110


Hôm nayHôm nay : 51562

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 101955

Tổng cộngTổng cộng : 28221203

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật V TN – năm B

Thứ sáu - 03/02/2012 16:13-Đã xem: 1742
Hôm nay, Chúa cũng tỏ mình ra giữa chúng ta. Nhưng chúng ta làm gì trước sự kiện này? Đôi khi chúng ta giống những người trong thành phố. Chúng ta tìm cách lợi dụng tối đa sự hiện diện của Chúa mà quên để cho Ngài được tự do hành động. Chúng ta nghĩ rằng Ngài chỉ là Chúa của chúng ta, Vua của chúng ta, Ngài thuộc về chúng ta. Còn những kẻ không thuộc về nhóm chúng ta không thể gặp Ngài. Chúng ta cũng tìm cách làm cho Ngài thành Vua của chúng ta, tìm cách giam hãm Ngài trong những cơ cấu của chúng ta, làm cho Ngài trở thành nô lệ của chúng ta, thành đồ vật của chúng ta. Nhưng không phải Chúa chỉ đến cho chúng ta mà thôi...
Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật V TN – năm B

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật V TN – năm B

A. BẢN VĂN (Mc 1,29-39):
29 Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo.30 Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà.31 Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.32 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người.33 Cả thành xúm lại trước cửa.34 Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.35 Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.36 Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm.37 Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”38Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.”39 Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI

1. Chú giải của Học viện Đa Minh

1,29: Vì ở đoạn trước, vụ trừ quỷ diễn ra trong ngày Sa-bát (x. 1,21), nên rất có thể biến cố này cũng diễn ra trong ngày Sa-bát. Từ câu này chúng ta có thể kết luận rằng: ông Si-môn và ông An-rê cùng sống trong thành Các-pha-na-um. Họ đánh cá ở biển hồ Ga-li-lê, và cùng được Đức Giêsu gọi gần đó. Hơn nữa nhà của hai môn đệ này nằm gần hội đường, vì Đức Giêsu và bốn môn đệ “liền” (euthus) đi đến nhà ông Phê-rô và An-rê.

Những khai quật khảo cổ tại Tell Hum (thuộc thành Ca-phác-na-um xưa), nằm phía tấy bắc của biển hồ Ga-li-lê, đã cho thấy có một hội đường thuộc thế kỷ thứ III, có thể được xây trên nền của một hội đường thuộc thế kỷ thứ nhất, nơi Đức Giêsu giảng dạy. Những khai quật hiện nay giữa hội đường này với biển hồ Ga-li-lê đã phát hiện ra những ngôi nhà cách bờ biển khoảng 100 mét. Các nhà khảo cổ cho rằng rất có thể nhà ông Phê-rô thuộc số những ngôi nhà đó. Điều này không chắc lắm, nhưng ít ra những giả thiết đó cũng có cơ sở xuất phát từ bản văn này.

Nhiều học giả đã lưu ý một cách lý thú rằng: tình tiết ở đây và một số tình tiết liên qua khác được kể dưới góc nhìn của ông Phê-rô. Ví dụ ta chẳng bao giờ được nghe kể về tên của người phụ nữ được chữa lành hay của vợ ông Phê-rô. Ở đây, bà ấy lại là “mẹ vợ ông Phê-rô”. Rất có thể tác giả Mác-cô được nghe kể từ chính ông Phê-rô. Tại Giáo Hội ở thành Rô-ma, độc giả của Mác-cô hẳn đã nhận biết Phê-rô bằng tên của ông, nhưng các dân khác thì chưa hẳn như vậy.

1,30-31: Ông Si-môn Phê-rô đã lập gia đình (x. 1 Cr 9,5). Câu này đã cho chúng ta điểm dừng để nhận ra sự dấn thân mãnh liệt của ông Si-môn dành cho Đức Giêsu. Ông vẫn có những vướng vúi như: nghề nghiệp, một mái nhà, đại gia đình. Ít ra là ông cũng còn có người anh và bà mẹ vợ. Dĩ nhiên ta không thể quên hình ảnh một ông Si-môn đầy sai lỗi và nông nổi. Người ngư phủ này cần học biết thế nào là một kẻ lưới người. Nhưng cái giá ông đã trả cho việc đi theo Đức Giêsu thật ý nghĩa.

Khi Đức Giêsu tiến vào nhà, Người được báo cho biết mẹ vợ ông Phê-rô bị bệnh. Bản văn nói rõ rằng bà nằm liệt giường vì sốt. Sốt như thế nào thì chẳng được kể, vì trong thế giới cổ đại, sốt dùng để chỉ bệnh tật nói chung, chứ không chỉ dùng riêng cho chứng cảm mạo.

Khi Đức Giêsu đưa tay chạm đến người phụ nữ và nâng bà dậy, cơn sốt biến mất “ngay lập tức”, không những ám chỉ hành động cứu chữa thuộc về Đức Giêsu mà còn ám chỉ hiệu quả ở phía người phụ nữ. Cơn sốt hoàn toàn biến mất, đến độ bà có thể phục vụ họ. Bà không còn chút đau yếu nào, mà lẽ thường có thể còn. Hạn từ “phục vụ” dùng ở đây giống như hạn từ mà sau này các sách Tân Ước dùng để mô tả công việc của các trợ tá (xem từ diakôneô trong tự điển).

1,32: Trong văn hóa Hip-ri, có vẻ hạn từ “chiều” (ôphia) có thể dùng để chỉ khoảng thời gian giữa hai mốc: 15 giờ (“giờ thứ 9”; x. Mt 27,46), và 18 giờ (ví dụ như trong Xh 12,6 có nói phải sát tế chiên vào “giữa các buổi chiều”). Tác giả Mác-cô đã ghi lại chi tiết cụ thể, “khi mặt trời đã lặn”, khoảng gần 18 giờ, ngày Sa-bát đã hoàn toàn chấm dứt. Có lẽ trước đó là quãng thời gian đủ để những người có mặt trong hội đường về “phao tin”. Hoặc cũng có thể người ta đợi cho ngày Sa-bát trôi qua để đưa những người thân đến với Đức Giêsu mà không sợ vi phạm luật ngày Sa-bát (x. Gr 17,21).

1,33: Câu này ra như hơi cường điệu. Nhưng hẳn có đám người rất đông, như thể “cả thành xúm lại trước cửa”. Cũng có thể lúc ấy danh Đức Giêsu đã nổi như cồn, đến nỗi nhiều người trong thành háo hức tìm đến để xem thực hư thế nào.

1,34: Vương quốc Thiên Chúa đã tự hiển lộ qua việc xua trừ ma quỷ (1,26) và chữa người phụ nữ bị sốt cao (1,36). Giờ đây sự hiển lộ ấy nhiều đến nỗi tác giả Tin Mừng không thể thuật lại cách chi tiết được.

Có một hiện tượng khá thú vị diễn ra giữa động thái của ma quỷ và phản ứng của Đức Giêsu đối với chúng. Điều đó gợi lên cho ta một vài nghi vấn. Thứ nhất, đám quỷ nói điều gì? Từ câu khẳng định ở đây (“Chúng biết Người là ai”), ta có thể kết luận rằng chúng đã gọi đúng danh tính và căn tính Đức Giêsu. Trong thư Gia-cô-bê nói rõ rằng dù chỉ bằng trí hiểu thôi, quỷ cũng tin và tuyên xưng sự hiện hữu của Thiên Chúa (x. 2,19).

Thứ đến, tại sao quỷ lại gọi danh của Đức Giêsu? Có lẽ qua việc gọi đích danh của Đức Giêsu, chúng muốn khống chế Người, vì khi ấy người ta tin rằng biết và gọi tên ai đó thì có quyền trên người ấy.

Cuối cùng, tại sao Đức Giêsu lại cấm quỷ nói? Câu trả lời gần như hệ tại ở hai lý do: (1) Quỷ không xứng đáng để tuyên tín. Chúng không được cứu nhờ niềm tin, và chúng cũng không đưa người ta đến niềm tin vào Đức Giêsu. (2) Nhưng điều quan trọng hơn chính là bối cảnh của lời tuyên xưng. Tiên vàn, sứ vụ của Đức Giêsu không phải là trừ quỷ hay chữa lành các bệnh tật. Người muốn rao giảng Tin Mừng, hầu đưa người ta đến niềm tin cứu độ, và Người muốn hoàn toàn hiến mạng trên thập giá như của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa (x. 10,45).

1,35: Ở đây câu văn thuật lại rất rõ: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy…”. Bản văn nói khi ấy còn rất sớm, trước khi mặt trời mọc. Rõ ràng, Đức Giêsu đã qua đêm tại nhà ông Phê-rô, sau khi chữa bệnh và trừ quỷ vào tối hôm trước. Dù những phép lạ của Đức Giêsu thu hút nhiều người, nhưng Người vẫn tự buộc mình đi vào “nơi cô quạnh” để cầu nguyện. Rất nhiều lần, trước khi chữa bệnh và trừ quỷ, Đức Giêsu rao giảng về triều đại Nước Thiên Chúa, sau đó Người lại tìm đến nơi cô quạnh hay “hoang vắng”. Tại những nơi này, Người có thể ý thức về thân phận con người tội lỗi và sức mạnh của Thiên Chúa.

1,36-37: Ông Si-môn đã sớm đảm đương vị thế dẫn đầu trong cả điều tốt lẫn điều xấu. Rất có thể xác định cách chắc chắn “các ông” ở đây là những ai. Có thể có cả những môn đệ khác (An-rê, Gia-cô-bê, Gio-an), nhưng cũng có thể là một số người trong đám đông đã tề tựu tại nhà ông Phê-rô, có mối tương quan với ông này, họ những mong xem nhiều phép lạ hơn. “Ít ra ông Phê-rô cũng có ý tốt; Thầy Giêsu ra như đang vuột mất những cơ hội quý báu, và ông phải đến để đưa Thầy về” (Swete, Mark, p.26).

Nhóm người tìm kiếm Đức Giêsu có thể được mô tả qua hai nét: (1) Hạn từ miêu tả việc tìm kiếm là “katadiôkô”. Đây là một hạn từ mang hàm ý rất mạnh, chúng tương tự như “tầm nã địch thù”. Từ đó có thể nói: “người ta lùng sục Người”. (2) Khi gặp thấy Đức Giêsu, họ nói: “Mọi người đang tìm Thầy”. Lời này ra như lời khiển trách. Có vẻ như họ biết rằng tốt hơn Đức Giêsu nên ở đâu và nên làm gì.

1,38: Đức Giêsu đã trả lời họ, nhưng không như lối họ mong đợi. Cụm từ “Chúng ta hãy đi” ngầm ý rằng Người không muốn theo họ quay lại với đám đông để thi thố phép lạ và trừ quỷ; đúng hơn, Người muốn những kẻ Người đã gọi đi theo Người rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Đức Giêsu cũng xác định “nơi khác” là “các làng mạc chung quanh”. Hạn từ “làng mạc” (kômopolis) chỉ có ở Mác-cô và dùng một lần duy nhất ở đây. Hạn từ này dùng để chỉ những ngôi làng nhỏ, xa xôi hẻo lánh. Rất có thể chúng là một kiểu thị trấn nhỏ, nhưng còn mang dáng dấp thôn quê. Sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu cũng cần phải dành cho những người ở đó.

Hàm ý của câu nói này là những ngôi làng xa xôi hẻo lánh không những không bị loại trừ trước lời rao giảng và đòi hỏi của Tin Mừng, mà chúng còn là mục tiêu của hành động cứu độ nơi Thiên Chúa. Vì thế, thánh Phaolô đã nói rằng Thiên Chúa ra như thích chọn những người điên dại trước mặt người đời; Người chọn những kẻ hèn kém để chế giễu chuẩn mực của con người, hầu “không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” (1 Cr 1,29). Vậy nên khi Đức Giêsu nói: “Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”, Người không có ý nói “Người chỉ chủ tâm rời khỏi thành Ca-phác-na-um (c. 35), nhưng là để thi hành sứ vụ xuất phát từ Cha”. Sứ vụ cao cả đó là tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất,, nhất là những người bị người đời lãng quên.

1,39: Địa điểm đầu tiên Đức Giêsu thường hay tiếp xức với dân chúng là hội đường. Ông Phaolô cũng thường làm như thế (x. Rm1,16). Trừ quỷ là một trong những kết quả rõ nhất của những lời Đức Giêsu rao giảng khắp trong khắp vùng Ga-li-lê. Đó là biểu hiện dễ thấy khi Triều Đại Thiên Chúa ngự trị. Nhưng đây chỉ là biểu hiện thứ yếu. Điều quan trọng, như đã thấy, Đức Giêsu không rời xa sứ điệp trọng tâm của Người. Đó là lý do tại sao Người thường rời khỏi những nơi mà Người đã từng thực hiện phép lạ và trừ quỷ. Điểm nhấn của Đức Giêsu không phải là chính những phép lạ, nhưng là việc rao giảng Tin Mừng nhằm cứu chữa con người toàn diện.

 

2. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: TỪ THÁN PHỤC ĐẾN ĐỨC TIN

1- Ngữ cảnh

Đoạn này có một phần thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34; xin coi bài CN tuần trước). Nhưng “một ngày ở Caphácnaum” lại thuộc về toàn bộ rộng lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ, vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ.

2- Bố cục

Bản văn này có thể chia thành ba phần:

1) Việc chữa lành mẹ vợ Simôn (1,29-31);
2) Một “bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (1,32-34);
3) Một bước đi tới nhằm thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu (1,35-39).

3- Vài điểm chú giải

Vừa ra khỏi…” (euthys, tức khắc) (29): Trạng từ này chỉ có vai trò chuyển mạch, chứ không chỉ về thời gian chính xác, bởi vì từ phép lạ trừ quỷ đến việc chữa bệnh cho bà mẹ vợ Simôn, hẳn là đã có một khoảng thời gian khá dài thì “danh tiếng Người mới đồn ra khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c. 28). Tác giả thường dùng trạng từ này mà không gán cho nó một ý nghĩa chính xác nào cả (chỉ trong ch. 1 đã có 11 lần: cc. 10.12.18.20.21.23.28.29.30.42 và 43). Ở đây Người đang tìm cách giới thiệu một ngày mẫu trong sứ vụ của Đức Giêsu: “Ngày ở Capharnaum”. Do đó, ta không nắm được thời điểm chính xác của các sự kiện. Nhưng ta có thể cho rằng chuỗi “chữa bà mẹ vợ Simôn – các cuộc chữa bệnh cbuổi chiều” đã có trước cả khi các TMNL được soạn ra, bởi vì chi tiết “chiều đến” đã có cả trong Mc và MtLc đã bỏ trạng từ “tức khắc” (euthys) nhưng giữ lại chi tiết “(rời) hội đường”. Người sẽ triển khai chi tiết này thành một đề tài thần học quan trọng và sẽ lặp lại trong sách Cv: khi Đức Giêsu giảng dạy trong một thành phố hay làng mạc nào, Người luôn bắt đầu bằng giảng dạy tại hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như thế.

- ra khỏi hội đường (29): Đức Giêsu ra khỏi hội đường không những vì đã đến giờ đóng cửa, nhưng còn vì những người nghe chưa hiểu gì. Họ còn đang hỏi: “Thế nghĩa là gì ?” (c. 27), như các môn đệ sau này khi chứng kiến trận bão được dẹp yên: “Vậy người này là ai ?” (4,41). Nhưng họ chưa có câu trả lời. Có lẽ đây là một biểu tượng: bao lâu người ta còn ở trong hội đường, người ta không thể trở thành môn đệ của Đức Giêsu được; phải ra khỏi đó như thể thực hiện một cuộc xuất hành mới. Ở c. 39, tác giả dùng một tính từ để phân biệt: “các hội đường của họ”. Ở xa hơn, Người kể rằng sau khi Đức Giêsu đã làm phép lạ trong hội đường, nhóm Pharisêu bàn tính với nhóm Hêrôđê để tìm cách giết Người (3,1-6). Chính vì thế, Người lánh về phía Biển Hồ: Người đi ra và người ta lũ lượt đi theo Người (3,7). Trước khi xảy ra sự cố bánh hoá ra nhiều, Đức Giêsu cũng lánh riêng ra một nơi và người ta kéo đến với Người (6,32-33). Người còn ra khỏi Đền Thờ và thành Giêrusalem (11,11; 11,19; 13,1). Lc còn nói rõ hơn: lần đầu tiên giảng dạy tại hội đường Nadarét, Đức Giêsu đã phải tránh đi để khỏi bị giết (Lc 4,16-30).

- Đến nhà hai ông Simôn và Anrê (29): Phải chăng tác giả muốn đối lập hội đường với nhà Simôn, được coi như hình ảnh của Hội Thánh? Thật ra, Mc chưa nhắm đến tên “Phêrô” với sắc thái Hội Thánh như Mt và Lc: hai tác giả này chỉ còn nói đến Phêrô mà thôi (x. Mt 8,14; Lc 4,38), nên trong hai bản văn này, ý nghĩa “Hội Thánh” rõ ràng hơn.

- Có ông Giacôbê và Gioan (29): Bốn môn đệ đầu tiên, những người thân tín nhất, được chứng kiến phép lạ. Câu này hẳn là có giá trị như  một ngoặc đơn, do chính Phêrô kể cho tác giả Mc.

- Bà lên cơn sốt (30): Pyressousa là phân từ giống cái của động từ Hy Lạp pyressô, “bị sốt” (trong động từ này, có từ pyr, “lửa”. Trong bản văn song song, Mt 8,15 dùng danh từ hLpyretos, “sức nóng của lửa; sốt cao”). Đối với người xưa, “sốt” không phải là một triệu chứng mà là một bệnh. Sốt, đôi khi đưa đến tử vong, là một trong các hình phạt Đức Chúa (Yhwh) dành cho dân thất trung của Người (x. Lv 26,16). Cũng như cho các chứng bệnh khác, người ta thích gán cho “sốt” một nguồn gốc thuộc ma quỷ (so sánh Lc 4,39 và Mt 8,15 (= Mc 1,31), mà chỉ có việc cầu nguyện và một phép lạ mới thắng được (x. Ga 4,52; Cv 28,8).

Theo viễn tượng này, dân Caphácnaum hẳn là hiểu rằng phép lạ giới thiệu Đức Giêsu là vị sứ giả của Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia đã hứa; vị này sẽ cứu loài người khỏi những nổi đau buồn, hậu quả của sự dữ luân lý (x. Is 26,19; 29,18t; 33,3; 35,5…). Vậy phép lạ này là dấu cho thấy đã đến thời cánh chung, thời thiên sai: Đức Giêsu đang hành động với chính quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng con người còn phải mất một thời gian mới khám phá ra và chấp nhận được ý nghĩa của dấu chỉ này.

Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy (êgeiren) (31): Câu này dịch sát là: “Và lại gần, Người đỡ bà dậy sau khi đã cầm lấy tay bà”. Muốn diễn tả một cách thông thường, hẳn là nên viết: “Đức Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt biến mất; bà chỗi dậy …”. Đấy là kiểu nói của hai tác giả Mt (Mt8,15: “bà chỗi dậy”, êgerthê, aor. pass. của động từ HL egeirô) và Lc (Lc 4,39: “bà trỗi dậy”,anastasâ, aor 2 của động từ HL anistêmi). Động từ egeirô được Mc dùng ở dạng ngoại động (transitive) có nghĩa là “giúp trỗi dậy”, đã trở thành một từ ngữ chuyên môn để nói về sự sống lại.

- bà phục vụ các Người (31): Trong bối cảnh của phép lạ hoặc đúng hơn trong bối cảnh của sự tiếp đón Đức Giêsu nhận được tại nhà Simôn, “phục vụ” (HL. diakoneô) trước tiên có nghĩa là chiêu đãi ăn uống (x. Mc 1,13; Lc 8,55). Nhưng ở đây, có thể tác giả Mc đang nghĩ đến chính lời Đức Giêsu nói: “Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ (diakonêsai)” (10,45). “Phục vụ” không chỉ hệ tại việc phục dịch bàn ăn, nhưng nếu cần, còn hệ tại việc “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (c. 45). Đó là lý tưởng Đức Kitô đề nghị cho những ai Người đã cho sống lại từ cái chết do tội lỗi gây nên.

Riêng Mt lại viết ở dạng số ít: “bà chỗi dậy phục vụ Người” (Mt 8,15). Câu này đã nới rộng ý nghĩa của động từ: “Phục vụ Đức Giêsu” chính là bước theo Người (x. Mt 25,44: phục vụ những kẻ nghèo hèn bé mọn chính là phục vụ Đức Kitô).

- người ta đem (32): Epheron là động từ Hy Lạp pherô ở thì vị hoàn (frequentative imperfect), có nghĩa là “người ta vẫn cứ đem, tiếp tục đem”.

- mọi kẻ ốm (32):  Rõ ràng không thể hiểu theo nghĩa đen những câu khẳng định tuyệt đối như thế (x. Mt 8,16; Lc 4,40). Chúng ta biết là Đức Giêsu không chữa tất cả mọi người đau ốm; Người đòi hỏi đức tin. Cũng vì thế mà Mc không đi xa hơn nữa, Người viết: “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau” (c. 34). Tuy nhiên, theo não trạng Sê-mít, “nhiều” cũng có nghĩa là “tất cả”.

- Cả thành (33): Có lẽ đây cũng là một kiểu nói phóng đại, tổng quát hoá. Tuy nhiên cũng có một sự kiện thường xảy ra: truyền thống nhiều lần kể rằng người ta không thể đi qua cửa nhà bởi vì người quá đông, đành phải kéo người bệnh lên mái nhà mà thòng xuống (2,1-4) hoặc phải nhờ người báo tin vào trong (3,32).

- Quỷ (34): Từ daimôn xuất hiện 3 lần trong Mc 1,32-34 và thêm một lần nữa ở c. 39. Đây là mối bận tâm lớn của Mc. Đức Giêsu đã đến để đánh đuổi quỷ và giải thoát loài người khỏi quyền lực chúng. Ngay từ đầu, vị Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Kitô như Đấng “mạnh hơn” (1,7). Người đã khởi đầu sứ vụ bằng một chiến thắng trực tiếp trên Satan (1,12-13). Ngay khi Người lên tiếng rao giảng, một kẻ bị quỷ ám đã tìm cách ngăn chận Người, nhưng quỷ đã bị trục xuất (1,23-27). Trong phần Kết (“Kết dài”), dấu chỉ đầu tiên thuộc về người môn đệ hệ tại việc “trừ quỷ” (16,17). Trong viễn tượng này, mọi bệnh tật đều do ma quỷ gây nên, mọi cuộc chữa lành bệnh tật đều là một chiến thắng trên quỷ. Chúng ta cũng ghi nhận là Mc không cung cấp một định nghĩa nào về ma quỷ, cũng không nói chúng là loại hữu thể nào; nhưng đọc các mô tả của Người, ta ghi nhận ba nét tiêu biểu của ma quỷ: 1) chúng có thể chi phối loài người; 2) chúng biết chân tính của Đức Giêsu và biết Người là kẻ thù của chúng; 3) chúng vâng phục Satan (3,22-26) là kẻ ở trong sa mạc đã cám dỗ Đức Giêsu (1,13) và hành động chống lại hoạt động của Đức Giêsu (4,15).

- không cho quỷ nói (34): Mc trở lại với lệnh giữ bí mật (thiên sai) như trở lại với một đề tài ưa chuộng. Quỷ tức khắc nhận ra đối thủ của chúng, nên chúng đã gầm thét lên có thể vì muốn chiếm thế “thượng phong”, nhưng chắc chắn vì sợ hãi, vì đã thấy trước thất bại, khi đứng trước Đấng Thiên Chúa sai phái đến (x. 3,22-27). Đối với dân chúng, Đức Giêsu tự mạc khải ra cho họ cách tiệm tiến bằng cách cho họ thấy những dấu chỉ chứng tỏ quyền lực của Người trên những chứng nan y (1,40-45), trên tội lỗi (2,5-12), trên ngày sa-bát (2,28), và cuối cùng trên sự sống (ch. 15–16). Tuy nhiên, người ta tiến rất chậm.

Như vậy, một hành vi đức tin đặt nơi Đức Giêsu chỉ thực sự có giá trị khi nó hàm chứa một hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và công việc của Người, đặc biệt hiểu rằng Người phải chết và sống lại để hoàn tất công việc này.

- Người đi cầu nguyện (35): Lc sẽ nói nhiều hơn về điểm này. Mc không cho biết đối tượng hoặc nội dung của lời cầu nguyện của Đức Giêsu, nhưng mẩu đối thoại sau đó hé cho chúng ta thấy được chiều hướng Đức Giêsu theo khi cầu nguyện: đối thoại với Cha Người về sứ mạng Người đang thực hiện.

- vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó (38): Phải chăng đây là ra đi khỏi Caphácnaum hay là rời cung lòng Chúa Cha mà đến trần gian (nghĩa Ga: Ga 16,28; x. Lc 4,43)? Chắc là Mc vẫn còn đang ở gần các sự kiện đã xảy ra: Đức Giêsu không muốn mình bị cuốn hút bởi thành công. Sau này cũng thế, sau khi nhân bánh ra nhiều, Người lại rút lui vào cô tịch để tránh dân chúng và để đặt mình vào trong kế hoạch của Chúa Cha (Mc 6,46; x. Mt 14,23; Ga 6,15b). Cơn hấp hối tại vườn Ghếtsêmani cho thấy rõ điều này. Các môn đệ, và đặc biệt Phêrô, tỏ ra ngỡ ngàng, vì các ông chưa hiểu sứ mạng của Thầy.

4- Ý nghĩa của bản văn

* Việc chữa lành mẹ vợ Simôn (29-31)

Tại nhà Simôn, Đức Giêsu đã chữa mẹ vợ ông khỏi sốt cao. Như thế, Người cho thấy Người làm Chúa tể trên một thứ tai họa khác của loài người, đó là bệnh tật. Nhưng trong nhãn quan của TM II, bệnh tật cũng là do ma quỷ, nên chữa lành bệnh tật cũng là chiến thắng trên ma quỷ. Ở đây, chúng ta ghi nhận là lần đầu tiên Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là cho một phụ nữ, trong khung cảnh đơn sơ và thân tình của một ngôi nhà và của một gia đình. Bằng chứng cho thấy bà này đã thực sự được lành bệnh là bà đã ân cần chu đáo phục vụ các khách quí. Cũng như  Đức Kitô đã đỡ bà mẹ vợ Simôn trỗi dậy khi mà bà đang bị cơn sốt bắt nằm bất động như một người đã chết, Người cũng nâng chúng ta dậy, cho chúng ta sống lại, để chúng ta có thể phục vụ Người (x. thêm 9,27).

 * Một “bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (32-34)

Hành vi đó của Đức Giêsu trong ngày đầu tiên hoạt động công khai đưa tới hậu quả là dân chúng hiểu là khi ở trong tình trạng quẫn bách, họ có thể trông mong được ai giúp đỡ. Khi chiều đến, họ đưa tất cả mọi bệnh nhân và những người bị quỷ ám đến với Người. Đức Giêsu như bị cả một đại dương đau thương và bần khốn vây quanh và tấn công; toàn thể niềm hy vọng được đặt để nơi Người. Người có thể đương đầu với tình trạng quẫn bách này. Người có khả năng giúp đỡ và trong thực tế Người đã giúp đỡ.    

* Một bước đi tới nhằm thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu (35-39)

Vì Đức Giêsu đã đánh thức và củng cố lòng tin tưởng của dân chúng, không lạ gì khi chúng ta thấy họ muốn giữ Người lại và như thế chắc chắn là luôn luôn có sự trợ giúp của Người. Nhưng Đức Giêsu tránh khỏi tay họ: từ sáng sớm, Người đã vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Và Người không để cho người ta cầm giữ lại. Người biết rằng nhiệm vụ của Người không phải là trợ giúp thường xuyên dân Caphácnaum, nhưng là loan báo trong toàn miền Galilê rằng Triều Đại Thiên Chúa đã gần kề.

+ Kết luận

Tuy các nhà chuyên môn vẫn nhìn nhận TM Mc là một bản kêrygma hơn là một sách huấn giáo, điều này không có nghĩa là tác giả nói về đức tin cách hời hợt. Trái lại, Người rất đòi hỏi. Chính vì thế, Người đã có một khoa sư phạm đáng phục: giúp độc giả tiếp cận với mầu nhiệm Đức Giêsu tiệm tiến. Người hiểu rất rõ là đức tin sẽ đưa người ta đến sự đổi đời với những dấn thân quan trọng. Phải chăng Phêrô đã nhấn mạnh như thế, sau khi trải qua kinh nghiệm đau thương? Nhưng cũng chắc chắn là bởi vì vào lúc TM II được soạn thảo, các hoàn cảnh trong đó các Kitô hữu đang sống là những hoàn cảnh  rất khắc nghiệt, đòi hỏi người ta phải cương quyết gắn bó với Đức Kitô cho đến chết.

Đoạn Tin Mừng này cũng nhắc các Kitô hữu nhớ đến sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng, bên ngoài những lãnh thổ quen thuộc.

5- Gợi ý suy niệm

1. Cũng như ở Caphácnaum, Đức Giêsu đã tiếp nối lời giảng dạy uy quyền bằng việc trừ quỷ, Người tiếp tục nối tiếp lời loan báo bằng việc dùng uy quyền trục xuất các sức mạnh đang đối kháng lại Thiên Chúa và hành hạ loài người. Lời nói của Người được chứng thực bằng việc làm của Người.

2. Liên kết giữa loan báo và hành vi quyền lực nhằm chữa lành cũng là đặc điểm của hoạt động của các tông đồ (3,14t; 6,12t). Việc loan báo Triều Đại Thiên Chúa được củng cố bằng hành động hữu hiệu dựa trên sức mạnh vô song của Thiên Chúa.

3. Gương Đức Giêsu đi cầu nguyện khiến chúng ta phải xem lại cách chúng ta đánh giá ý nghĩa của việc cầu nguyện cũng như những tiêu chuẩn giúp chúng ta sử dụng thì giờ. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn dùng thì giờ mà làm cho mình được tự do để sống cho Thiên Chúa, các động lực đang nâng đỡ hoạt động của chúng ta rất có thể cần được xét lại. “Nếu Đấng không có tội mà còn cầu nguyện như thế, những lẻ tội lỗi còn phải cầu nguyện đến thế nào. Nếu Người đã thức qua đêm mà cầu nguyện liên lỉ, chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ và cũng phải canh thức đến độ nào” (Thánh Xýprianô). 

4. Cũng nên coi lại giá trị chúng ta gán cho sự thinh lặng, sự yên tĩnh, sự cô tịch. “Chính Đức Giêsu, với sức mạnh không cần được nâng đỡ trong một cuộc tĩnh tâm, cũng không bị ngáng trở bởi xã hội loài người, đã quan tâm để lại cho chúng ta một gương sáng. Trước khi thực hiện sứ vụ rao giảng và làm phép lạ, Người đã vào nơi cô tịch chịu thử thách cám dỗ và nhịn đói (Mt 4,1t). Kinh Thánh kể lại cho chúng ta rằng, Người đã bỏ lại đó đám đông môn đệ, mà leo lên núi để cầu nguyện (Mc 6,46). Rồi khi giờ Thương Khó đã đến gần, Người bỏ các môn đệ, và ra đi cầu nguyện một mình (Mt 26,36): gương sáng này giúp chúng ta hiểu sự cô tịch có lợi cho việc cầu nguyện đến thế nào, bởi vì Người không muốn cầu nguyện bên cạnh các bạn đường, ngay cả các tông đồ.

Không được bỏ qua một mầu nhiệm liên hệ đến tất cả chúng ta như thế. Là Đức Chúa, là Đấng Cứu Độ loài người, Người đã cung cấp nơi bản thân một gương sáng sống động. Một mình nơi hoang địa, Người chỉ lo cầu nguyện và tập tành đời sống nội tâm – ăn chay, canh thức và những hoa trái khác của việc sám hối – nhờ đó thắng vượt các cám dỗ của Đối Thủ bằng vũ khí của Thánh Thần.

Lạy Chúa Giêsu, con chấp nhận rằng ở bên ngoài, không có ai ở với con; nhưng là để cho ở bên trong, con ở với Chúa hơn nữa. Khốn cho con người ở một mình, nếu bạn không ở một mình với Người! Và có biết bao người ở trong đám đông mà lại thật sự cô độc, bởi vì họ không ở với Chúa. Con mong muốn rằng, không bao giờ cô độc, nhờ ở với Chúa. Vào lúc này, không có ai ở với con, thế nhưng con không cô độc: con là một đám đông với chính con” (Guigues le Chartreux, 1083-1136).

 

3. Chú giải của Noel Quesson

Hôm nay, chúng ta tiếp tục suy niệm về “Ngày hoạt động của Chúa tại Caphácnaum”. Đó là ngày đầu tiên trong đời sống công khai thi hành tác vụ của Đức Giêsu: ta thấy Người giảng dạy, giải thoát con người khỏi quỷ ám hại, chữa lành người bệnh và cầu nguyện. Đó cũng là bản tóm lược toàn thể hoạt động của Kitô hữu.

Vừa ra khỏi Hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê, có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo.

Sau khi đã giảng dạy và làm mọi người ngạc nhiên, sau khi đã giải phóng cho một người bị quỷ ám đáng thương, Đức Giêsu rời khỏi Hội đường, ndi họp mặt chung, để đi đến một tư gia, nhà hai anh em Simon và Anrê. Tôi hình dưng ra Đức Giêsu đang bước đi trên đường phố, cùng với bốn môn đệ đầu tiên của Người, vì hai ông Giacôbê và Gioan cũng có mặt ở đó, ngày nay cũng vậy, tác động của Thiên Chúa được thể hiện khắp nơi, trong mọi lãnh vực của cuộc sống: Tôn giáo cũng như trần thế, công cộng cũng như tư riêng. Lạy Chúa, Chúa ở với chúng con trong nhà thờ, Chúa hiện diện cùng chúng con ngoài đường phố, trên các quảng trường, và ngay trong nhà chúng con.

Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt, nằm trên giường.

Người ta lấy làm ngạc nhiên, vì trong Tin Mừng, có rất nhiều lần Đức Giêsu chữa lành người bệnh. Ngày xưa, bệnh tật mang một ý nghĩa tôn giáo và người chữa trị thuộc lãnh vực y khoa. Tuy nhiên, dù trước mọi tiến bộ về y học, bệnh tật và đau khổ vẫn đeo bám con người và tiếp tục đặt con người vào một tình trạng rất đáng sợ. Ngay giữa nền văn minh kỹ thuật của chúng ta, một “dấu hiệu” biểu lộ sự yếu đuối của thân phận con người vẫn còn luôn như trước: đó là con người có thể chịu những rủi ro xảy đến cách đột ngột bất ngờ. Trong thâm tâm, ai mà không sợ một số những chứng bệnh mà người ta không dám nhắc đến tên? Bệnh tật luôn mâu thuẫn với ý muốn sống yên ổn và bền vững trong tâm lý mọi người. Chỉ cần một cơn sốt nặng cũng đủ quật ngã con người mạnh nhất và buộc họ phải ngưng làm việc không còn trầm trọng hơn, khi mọi người chúng ta đều thừa biết rằng, một ngày nào đó ta sẽ gặp một bệnh mà không thầy thuốc nào chữa nổi.. Mọi bệnh tật đều mang “dấu” của tử thần: đó là biểu tượng của thân phận con người mỏng dòn và ta không thể tránh được.

Họ liền nói cho Người biết bà đang đau ốm. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy.

Thái độ cầu nguyện đầu tiên trước cảnh trên, đó là cần chiêm niệm, như thế chúng ta đang hiện diện tại đó. Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu bước vào nhà . Tôi lắng nghe những gì người ta đang trình bày với Người. Tôi hình dung ra Người đang tiến gần tới người bệnh, cầm tay bà ta. Đó là những cử chỉ đầy thân tình, nghĩa thiết và nhân ái. Thần học quả quyết với ta rằng, mỗi bí tích là một “cử chỉ của Đức Kitô”. Một bài thánh ca thường ngợi khen bàn tay của Đức Giêsu đã “làm những việc kỳ diệu”. Đúng vậy, đặc tính hiện thực của việc nhập thể đã đi đến mức độ đó. Hôm nay, tôi thích chiêm ngắm bàn tày của Đức Giêsu đang nằm bàn tay nóng ran vì cơn sốt của người bệnh. Lạy Chúa, nơi một cách biểu tượng, Chúa- cũng đang nắm bàn tay con như thế, để chữa lành các “cơn sốt”. Khi rước lễ, con cầm Chúa trong bàn tay con. Nhưng thính Chúa cũng đang nắm tay con .

Người đỡ bà dậy. Bà liền hết sốt và lo tiếp đãi các Người.

Khi đọc câu này trong bản văn Hí Lạp, cũng do Máccô trước tác, ta cần lưu ý Máccô đá sử dụng ở đây, từ “ègeire”, có nghĩa là “làm cho sống lại”. Ông cũng dùng một từ đó để diễn tả việc Chúa cho con gái ông Giarô sống lại: “Hãy chỗi dậy!” (Mc 5,41), và kể lại việc phục sinh của Đức Giêsu (Mc 12,26, 16,6). Do đó, đối với Mác-cô, việc chữa bệnh cách cụ thể trên là một “dấu chỉ” theo nghĩa mạnh, một thứ- biểu trung ngôn sứ báo trước nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Khi sẽ chẳng còn “tang chế, kêu than, đau khổ, khi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và chiến thắng sự chết” (Kh 21,1-4). Ngay trong thời Người, tại Galilê, chắc chắn Đức Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh nhân. Người chỉ chữa lành một số người tiêu biểu, như một thứ việc làm trước cho “Thời cánh chung”: chỉ khi đó con người mới được “cứu độ” thực sự, nghĩa là không còn sự chữa lành tạm thời một cơn sốt thoáng qua, mà chính là sự sống lại. Việc chữa lành đích thực mà Đức Kitô muốn cống hiến, đó là đi từ tình trạng “không tin” đến tình trạng “tin”: kẻ nào đón nhận đức tin nơi Đức Giêsu, thì đã biết rằng mình sẽ được cứu thoát khỏi sự chết rồi. Lúc đó, họ sẽ “chỗi dậy” để “phục vụ”.

Sự dữ mà Đức Giêsu nhắm theo đuổi còn thâm sâu hơn là bệnh tật tác hại trên thân xác. Đó là tâm hồn, đó là trung tâm” của người bị bệnh… khi họ không “phục vụ” anh em mình. Khi nói người bệnh chỗi dậy và bắt đầu “tiếp đãi” Máccô muốn nói với ta nhiều hơn là những cử chỉ bề ngoài ông diễn tả. Ông nhớ đến từ “phục vụ” mà ngày nào đó Đức Giêsu đã gán cho ý nghĩa là “thí ban mạng sống mình”: “Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Lạy Chúa, xin Chúa dùng Mình Chúa chữa lành tâm hồn con người hôm nay. Xin cứu giúp con để con biết đặt Thiên Chúa lên trên hết, biết đặt “kẻ khác” lên hàng đầu, xin cứu giúp con để con biết “phục vụ”, “hiến dâng mạng sống” và yêu thương!

Chiều tối, khi mặt trời đã lặn, dân chúng đem một kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người chữa. Cả thành xúm lại trước cửa nhà. Đức Giêsu chữa đủ thứ bệnh và trừ rất nhiều quỷ.

Có thể nói, cùng một tác động, Đức Giêsu vừa chữa bệnh, vừa biểu dương quyền năng của Người trên Sa-tan, hiện thân của sự dữ. Vâng, đối với Đức Giêsu, sự dữ chủ yếu là phải xa cách Thiên Chúa: do đó, chính tội lỗi mới là bệnh tật thật sự của chúng ta. Bệnh viện được trang bị đầy đủ nhất nhân viên y tế tài năng nhất, cũng không bao giờ thay thế được tình yêu, một yếu tố mà người bệnh còn cần hơn cả thuốc thang.

Ngày nay, cũng như thời Đức Giêsu, trong tâm hồn con người luôn có một điều gì đó cần phải được chữa trị, và trong công cuộc văn minh hóa người ta cần phải thực hiện một sự điều chỉnh đúng đắn… Không có căn bệnh nào trầm trọng đối với việc phát triển “đô thành trần thế” (bệnh viện cũng như mọi công trình khác) hơn là thứ “chất độc” do tội lỗi đem vào thế gian. Điều đó không có nghĩa là phủ nhận tiến bộ, hay những kỹ thuật chữa bệnh! Nhưng chỉ muốn nói lên, cần phải cho chúng một tâm hồn: Đó là tình yêu. Và Đức Giêsu đã thể hiện điều này tại đó! Lạy Chúa, xin dùng Mình và Máu Chúa, chữa lành tâm hồn con người hôm nay.

Người trừ rất nhiều quỷ, nhưng lại cấm quỷ không được nói gì, vì chúng biết Người là ai.

Đề tài “Bí mật thiên sai” lại xuất hiện ở đây lần thứ hai trong cùng một ngày (Mc 1,25 và 1,33). Đức Giêsu không muốn người ta làm sai đi ý nghĩa sứ vụ của Người.

Người buộc mọi người phải giữ im lặng, không được nói quá sớm Người là “Con Thiên Chúa”. Đã có quá nhiều ý kiến sai lầm về Đấng Mê-si-a, về Thiên Chúa đang được phổ biến. Người ta quá để ý kiếm tìm vẻ kỳ diệu bề ngoài.

Người ta chỉ chạy đến với Chúa, như với một “người chữa bệnh” đến thuần. Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a, là con Đấng Toàn năng, mà không biết chính Người sẽ phải chịu đau khổ và phải chết, thì kể như nói mà không biết điều mình phát biểu, và như thế có nguy cơ sẽ chối Đức Giêsu, khi chứng kiến thực tế của thập giá. Thiên Chúa không phải là “toàn năng” theo nghĩa chúng ta thường hiểu… Vì yêu thương, Chúa đã tự trở thành “hoàn toàn yếu đuối” đối với chúng ta… bởi vì Người là “tình yêu toàn năng”. Nếu ông là Con Thiên Chúa, ông hãy xuống khỏi thập giá đi… Chúng ta luôn nghĩ rằng, chắc hẳn Thiên Chúa phải chứng tỏ Người là “Ai” chứ! Đúng vậy Người đã minh chứng điều đó: Người là Tình yêu vô biên, tình yêu đi đến tận cùng của thái độ “phục vụ”… Tôi đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống! Trong khi chờ mọi giây phút Thiên Chúa tỏ mình ra trên thập giá, cần phải im hơi lặng tiếng.

Lạy Chúa, xin giúp con chấp nhận Chúa đúng như con người của Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con hiểu rằng, Chúa không muốn “quyền năng” theo nghĩa trần gian… “bởi vì cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người, và cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người” (l Cr 1,25).

Sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Đức Giêsu đã dậy, đi ra một nơi vắng vẻ mà cầu nguyện.

Ngay đêm đầu tiên mà Simon Phêrô trải qua bên cạnh Đức Giêsu, ông đã khám phá ra điều “cốt yếu” sau đây: đó là đối với Đức Giêsu, điều quan trọng là “Gặp gỡ Chúa Cha”.

Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm Người…

Vào sáng sớm; khi bóng đêm còn mù tối, trước lúc rạng đông, Đức Giêsu đã ra khỏi căn nhà mà Người đã nghỉ đêm. Người rời thành Caphácnaum. Hãy ngắm nhìn Người bước đi trên cánh đồng, dưới bóng đêm. Người tìm bầu khí cô tịch, sự yên lặng người lánh mình, đi đến “một nơi hoang vắng”. Người dừng chân. Người phủ phục. Người cầu nguyện. Đức Giêsu đang hiện diện ở đó, chính là nhân loại đang ở “bên cạnh Chúa Cha”, chính là nhân loại đang ở “gặp gỡ Thiên Chúa”. Chính trong khung cảnh đó các bạn hữu cần đến tìm kiếm Người.

Câu Tin Mừng trên đây không phải là một chi tiết bình thường. Đó là một bí quyết, một kết luận, một điểm nóng bỏng của “ngày sống đầu tiên trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Nhờ đó, Người đang “kêu gọi” ta, nhưng “trong yên lặng”: ý nghĩa của đời sống bạn là ở nơi Thiên Chúa… Căn bệnh trầm trọng nhất của bạn, là bệnh tật làm bạn xa rời Thiên Chúa.

Kẻ nào biết “ẩn mình trong Thiên Chúa” nơi hoang địa là một người được cứu độ.

Lúc đó, mọi cơn sốt và ngay cả sự chết, cũng không thể tác hại được họ nữa.

Này bạn, người anh em đang mang bệnh của tôi…

Này bạn, người anh em đang gặp thử thách trong tâm hồn… bạn có biết nhận ra “tin vui” được chữa lành, ngay giữa cơn thử thách của bạn không?

Khi gặp Người, họ thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy”. Người bảo họ: “Thôi chúng ta đi nơi khác, đến các làng xã xung quanh, để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở những nơi đó nữa, vì Thầy đến cốt để làm việc đó.

Vâng, lạy Chúa Giêsu, xin hãy nói lại cho chúng con, xin hãy nói lại cho mọi người Tin Mừng của Chúa. Xin cứu giúp chúng con. Xin chữa lành chúng con. Và xin hãy làm cho chúng con, cùng với Chúa, trở nên những sứ giả, những người phục vụ cho công cuộc Phục sinh.

 

4. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux

Chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô (1,29-31)

Hoạt động thứ hai này của Chúa Giêsu có thể được xem như một sự kiện “nho nhỏ” mà do tính cách vắn gọn Maccô đã lồng vào tiếp theo trình thuật đi trước. Quang cảnh này đã được Maccô tháp vào chuỗi trình thuật mang tựa đề “Cái ngày Chúa Giêsu rao giảng ở Caphanaum” khởi đầu nơi chương 1,21 và kết thúc ở chương 1,32-34. Câu chuyện xảy ra bên cạnh hội đường nơi Chúa Giêsu vừa tham dự nghi thức phụng vụ, đây là một ngày Sabbat. Theo quy định của luật, vào ngày này, người ta chỉ được phép di chuyển trong phạm vi luật cho phép. Chính tại căn nhà của Simon và Anrê, trong bầu khí thân mật gia đình của bốn người môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu sẽ thực hiện hành vi chữa trị của Ngài (1,16-20). Các tình huống được ghi lại thật gọn gàng: nhạc mẫu của Simon bị sốt đang nằm tại giường (c. 30a). Maccô không mô tả chính xác bà cụ sốt vì lý do gì. Tình trạng có lẽ xem ra không nặng, dầu vậy cũng gây phiền hà bởi vì rõ ràng không thể chờ đợi lâu hơn, “họ liền nói cho Ngài biết bà đang đau ốm” (c. 30b). Không thấy đề cập rõ đến người can thiệp cũng như cách thức can thiệp, tuy nhiên ở đây hàm ẩn tiến trình của đức tin: Chính vì biết Chúa Giêsu có quyền phép trị bệnh nên đám bạn hữu Ngài đã xin Ngài can thiệp. Chẳng nói một lời, Chúa Giêsu chỉ làm một cử chỉ đơn giản là nắm tay bà cụ giúp bà chỗi dậy (c. 31b). Thật khác xa với các trình thuật thời đó, các thầy trị bệnh ít nhiều thuộc dạng phù thủy, thường dùng sức mạnh của lời nói hoặc các công thức nghe rất kỳ quái. Ở đây, sự việc xảy ra hoàn toàn kín đáo, cơn bệnh tan biến ngay tức khắc (c.31c). Bà cụ lập tức hồi phục hoàn toàn, bởi vì Tin Mừng ghi nhận bà cụ có thể bắt đầu phục vụ Chúa Giêsu và các bạn Ngài.

Vì thiếu khía cạnh huyền diệu, trình thuật này xem ra khó hiểu đối với não trạng người thời nay. Để nắm rõ được đây là hành vi có liên quan đến sứ mệnh “Mêsia” của Chúa Giêsu, chúng ta phải biết rằng, theo tâm thức của người xưa, bệnh tật được quan niệm như là một dấu chứng của tội lỗi. Nói chính xác hơn, suốt lịch sử Cựu Ước, cơn sốt luôn được nga hình dung như những một trong những hình phạt Chúa đe sẽ gởi đến cho đám dân bất tín bất trung của Ngài: “Nếu các ngươi phế bỏ Lề Luật của Ta, nếu các ngươi đi ngược các tập tục Ta ban, không mang ra thực hành các huấn lệnh của Ta và như thế là cắt đứt Giao Ước với Ta thì này đây Ta sẽ giáng cho các ngươi sự kinh khủng, bệnh hoạn và sốt rét làm hư mòn con mắt và nhọc mệt tâm hồn” (Lv 25,15-16a, xem thêm Đnl 28,22).

Vào thời Chúa Giêsu, người ta dễ dàng gán cho cơn sốt tính cách quỷ nhập. Chính vì thế mà sử gia Luca đã tường thuật việc chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô giống như một cuộc trừ quỷ (Lc 4,39). Như thế, theo Maccô, chắc chắn cử chỉ Chúa Giêsu đối với bà cụ này minh họa quyền năng của Ngài trên các quyền lực Sự Dữ và Sự Chết. Đây chính là Đấng Mêsia mang đến các dấu chỉ về Vương Quốc của Thiên Chúa đang đến.

Tuy nhiên cần phải đi xa hơn. Nhằm mục đích ngỏ lời với cộng đoàn Kitô hữu của mình, Maccô đã đọc lại biến cố này dưới nah sáng của Chúa Giêsu Phục Sinh. Chính cách dùng một công thức diễn đạt của Maccô đã hé lộ cho thấy điều đó. Trong tiếng Hy Lạp, động từ trong câu Maccô sử dụng khi viết: “Ngài đỡ bà ấy dậy” (c.31b) cũng chính là động từ sau này Maccô sẽ dùng để nói về Chúa Giêsu: “Ngài đã chỗi dậy (sống lại)” (16,6). Quả thế, phải đặt mình trong bối cảnh các Kitô hữu ấy, Chúa Giêsu không phải chỉ là một người chữa bệnh lừng danh khi Ngài mới bắt đầu sứ vụ. Qua việc Ngài sống lại, Ngài còn được nhìn nhận như “Đức Kitô và như vị Chúa Tể” (Cv 2,36), Đấng hằng ngày tiếp tục cứu vớt kẻ tội lỗi, lôi họ ra khỏi cõi chết. Ngài là Đấng Cứu Độ làm cho kẻ từng bị sự ác đè xuống được đứng dậy. Và khi cho thấy bà cụ được khỏi bệnh lập tức ấy liền bắt đầu phục vụ các vị khách của bà (x. c. 31c), chắc chắn Maccô nghĩ ngay đến việc các Kitô hữu được mời gọi “phục vụ” Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín hữu Ngài khỏi sự dữ để sắp đặt họ vào công việc của Ngài.

Chúng ta được mời gọi thường xuyên đọc lại trang Tin Mừng này dưới hai cấp độ. Trước hết đây là hành vi có tính lịch sử của Chúa Giêsu. Người ta cảm nhận rõ ràng chiều kích lịch sử của biến cố được tường thuật. Tuy nhiên cấp độ thứ hai còn quan trọng hơn. Chúng ta phải đọc lại các hành vi cử chỉ của Chúa Giêsu được ghi chép cho cộng đoàn Kitô hữu, dưới ánh sáng Phục Sinh của Ngài, lúc bấy giờ, chúng ta sẽ luôn đặt niềm tin vào vị “Chúa Tể” hiện vẫn đang hoạt động nhằm cứu độ Giáo Hội cũng như trần gian.

Câu chuyện chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô đã gây thú vị rất nhiều cho những sử gia muốn tìm kiếm các chi tiết thấy nơi trình thuật trên một “kỷ niệm tận mắt” của nhân chứng Phêrô. Qua câu chuyện này người ta biết được vị thủ lãnh tương lai của nhóm Mười Hai (3,16) lúc ấy đã có vợ. Chẳng biết là hành động phục vụ Chúa Giêsu và các bạn Ngài của nhạc mẫu Phêrô lúc đó vắng mặt hay đã qua đời không? Chúng ta không thể biết được; và cũng không thể dựa vào chứng lý của Phaolô (trong 1Cr 9,5) là Phêrô có dẫn theo vợ Ngài trong khi thi hành sứ vụ, để giải đáp vấn nạn được nêu ra.

Một thành công rực rỡ (1,32-34)

Đoạn văn ngắn gọn này được ví như “bản tóm tắt” các hoạt động của Chúa Giêsu kể từ khi Ngài khởi đầu sứ vụ. Nó kết thúc một chuỗi sự kiện được Maccô chú ý ghi lại dưới tựa đề “Cái ngày tại Caphanaum” (bắt đầu với 1,21). Maccô muốn nhấn mạnh sự thành công rực rỡ trước đám đông của Chúa Giêsu với tư cách người chữa bệnh và trừ tà (c. 32-33). Hẳn người ta ngạc nhiên vì số lượng đông đúc người tuốn đến. Khi nói rằng “cả thành”, Maccô chắc chắn đã khuếch đại biến cố này để mang lại cho nó trọn vẹn mọi chiều kích. Thông qua các nguồn tài liệu liên quan đến dân Do Thái cũng như dân ngoại thời Chúa Giêsu, người ta được biết rõ là đám quần chúng bình dân rất háo hức xem phép lạ. Ngoài các loại thuốc thang thông thường rất đắt mà lại không hiệu quả cao (x. 5,26), dân chúng còn tìm đến đủ thứ thầy trị bệnh, thầy trừ tà, thầy pháp…

Nhờ khả năng điều trị phi thường nên Chúa Giêsu đã mau chóng được lừng danh (c.34a), chẳng một ai dám nghi ngờ Đức Giêsu Nadaret là một mẫu người đặc biệt có tài hấp dẫn, mê hoặc kẻ khác. Một truyền thống sau này của Do Thái có ghi nhận rằng sở dĩ Chúa Giêsu bị chết treo là vì “Ngài dùng trò ma thuật, quyến rũ và mê hoặc dân chúng”.

Tuy nhiên nếu Maccô ghi nhận rõ ràng Chúa Giêsu đã thực hiện vô số việc chữa bệnh và trừ ta thì ông vẫn cẩn thận cho thấy các hành vi cứu độ này được thực hiện ngay giữa sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu không phải là một tay chuyên làm phép lạ. Ngài chỉ trưng ra “các dấu chỉ” cho thấy Vương Quốc Thiên Chúa đã đến qua bản thân Ngài (1,15). Đàng khác, Maccô đã kết thúc bản tóm tắt hoạt động chữa bệnh của Chúa Giêsu bằng lệnh cấm các thần dữ không được phổ biến cho mọi người biết Ngài là ai (c.34b).

Đây là một lối diễn tả mới mẻ về “Bí mật Đấng Mêsi” từng được nhiều người lưu tâm. Chúa Giêsu rất muốn đáp lại lời kêu cầu đáng thương của đám đông, thế là Ngài mang đến ơn cứu độ cho họ.

Tuy nhiên Ngài buộc phải ngăn cấm ma quỷ không được tiết lộ quá sớm tư cách Mêsia của Ngài (1,24). Thực ra, ngay lúc này đây, tiết lộ điều đó là không hợp thời, là vô tình khiến dân chúng hiểu lầm rằng Chúa Giêsu đến tiêu hủy mọi sự dữ đang bủa vây họ bằng một cây đũa thần. Quả thực trong cơn nóng lòng chờ đợi “thời sau cùng”, đám người đương thời của Chúa Giêsu rất náo nức đón nhân “các dấu chỉ và phép lạ” được các tiên tri loan báo (x. 13,22). Tuy nhiên, Đấng Mêsia đặc biệt không muốn chiều theo những dụ dỗ của ma quỷ mà đám người hâm mộ Ngài đòi hỏi (x. Các cơn cám dỗ theo Matthêu 4,1-11). Các tước hiệu “Đức Kitô” và “Con Thiên Chúa” chỉ có thể được cắt nghĩa đúng đắn dưới ánh sáng cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Vì vậy trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của ông, Maccô đã tự gán cho mình bổn phận nhắc đi nhắc lại lệnh Chúa Giêsu truyền giữ kín về Ngài (1,44; 3,12; 5,43; 7,24b.36; 8,30; 9,9.33).

Như thế, Maccô mời gọi độc giả tự hỏi về thân thế và sứ vụ đích thực của Chúa Giêsu mà ông chưa đưa ra câu trả lời. Câu trả lời vẫn cứ lửng lơ đấy. Cho đến khi rõ ràng ai nấy đều biết là Đấng Mêsia đã chỉ cứu độ loài người qua con đường tử nạn (8,29-33). Từ đó, mới lộ ra quy tắc ngộ nghĩnh của Tin Mừng này – mọi “bí mật” về thân thế Chúa Giêsu chẳng qua là để lôi kéo độc giả chú ý đến câu hỏi nền tảng Maccô đặt ra cho họ: “Vậy Đức Giêsu Nadaret là ai?” và rồi người ta sẽ trả lời ngay: “Hãy đi theo người dẫn đường…”.

Cầu nguyện và thi hành sứ vụ (1,35-39)

Maccô có khuynh hướng đưa ra các tương phản sau khi trình bày hoạt động sôi nổi của Chúa Giêsu qua việc phục vụ đám đông (1,32-34), giờ đây Maccô đưa ra hình ảnh đối chọi về vị đạo sư thèm được sống trong cô tịch và kết hợp với Thiên Chúa (c.35). Chắc hẳn là sau bao mệt mỏi của ngày hôm trước, giờ đây phải khá can đảm Chúa Giêsu mới có thể dậy sớm lén các bạn bè đang còn say giấc nồng để tìm một chốn cô liêu cầu nguyện. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu sẽ còn được Maccô đề cập tới (6,46; 14;35-39) ở mỗi chặng đường quan trọng trong sứ vụ của Chú. Ở đây người ta dễ dàng nắm được nội dung bản văn: Chúa Giêsu không muốn để cho mình bị cuốn trôi bởi cơn sóng của đám quần chúng đang mê mẩn vì bao phép lạ Ngài đã làm. Ngài cần suy nghĩ về tính cách nghiêm trọng của sứ mệnh Ngài.

Rõ rànglà các môn đệ đi tìm kiếm Chúa Giêsu (c.36). Họ chẳng hề cảm thấy sự mơ hồ mà việc chữa trị thành công của Chúa Giêsu gây ra cho đám quần chúng (1,32-33). Sự kiện đám quần chúng đang mê mẩn chạy theo Chúa Giêsu đã mang một dạng thức khẩn trương đầy nguy hiểm. Vị đạo sư phải cảnh giác các bạn hữu mình chớ có đưa ra một cắt nghĩa lệch lạc nào về vai trò của Ngài (c. 38).

Nêu ra cho họ điểm trọng yếu là điều tối quan trọng. Chúa Giêsu nhắc họ những gì là then chốt trong sứ mệnh của Ngài. “Chúng ta hãy đi chỗ khác…”, điều này có nghĩa là sứ vụ đòi hỏi phải “lên đường” đi đây đi đó. Mục đích của Ngài đâu phải là phô diễn phép lạ. Đó chẳng qua chỉ là dấu chỉ về quyền năng đi kèm, theo tin vui về Ơn Cứu Độ. Chính tin vui này mới là điều thiết yếu. Ngay từ khi khởi đầu sứ vụ rao giảng. Chúa Giêsu đã không hành động vì một lý do nào khác. Bổn phận của Ngài rất rõ ràng là bằng lời nói và việc làm, công bố cho mọi người “Nước Thiên Chúa đã kề bên họ”, phải nhờ đức tin mà đón nhận Tin Mừng (1,14-15). Lời xác nhận cho ý định ấy của Chúa Giêsu rất rõ ràng: “Vì Thầy đến cốt để làm việc đó” (c. 38d). Câu nói: “Vì Thầy đến” mang đầy ý nghĩa cao với. Trong Phúc âm Gioan, để diễn tả sứ mệnh bao quát của mình, Chúa Giêsu sau này sẽ nói rằng “Ngài đến từ Thiên Chúa”, đây là một lời xác nhận về thiên tính của Ngài (Ga 8,42; 13,3; 16,27-28).

Bản văn đã kết thúc bằng một hành vi mang đặc tính phổ quát (c.39). Người ta nhận ra Caphanaum chỉ là một điểm tựa trong hành trình thi hành sứ vụ. Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng “trong toàn xứ Galilê thuộc mạn bắc của Palestin, không có biên giới phân cách rõ rệt với các dân ngoại sống chung quanh. Đây là một mảnh đất tuyệt vời để thi hành một sứ vụ mở rộng cho tất cả mọi người. Ở đây, Chúa Giêsu rao giảng trước tiên trong các nguyện đường Do Thái là nơi dân chúng thường tập trung cầu nguyện và nghe giảng dạy Kinh Thánh (1,21). Ngài bổ sung lời rao giảng bằng các hành vi trừ quỷ để minh họa cho dân chúng quyền uy tối thượng của Ngài (1,27). Chương này rất quý báu vì nó xác nhận rằng vị Đạo Sư đã biết liên kết thật kỳ diệu mọi đòi hỏi liên quan đến việc trình bày cho mọi người sứ mệnh “Mêsia” của Ngài, nghĩa là Ngài biết liên kết việc cầu nguyện với việc loan báo Tin Mừng và với các “dấu chỉ” minh xác về thân thế Ngài.

 

5. Chú giải của Fiches Dominicales: TỪ HỘI ĐƯỜNG CAPHÁCNAUM ĐẾN KHẮP MIỀN GALILÊ. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU NGAY GIỮA LÚC THI HÀNH SỨ VỤ

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Từ âm thầm trong “nhà”

Ba câu chuyện nhỏ xảy ra liên tiếp trong bài Tin Mừng Chúa nhật thứ V hôm nay. Cả ba tương phản nhau như được tượng trưng qua những địa điểm chúng xảy ra: bắt đầu từ một chỗ âm thầm trong “nhà của ông Simon” (Phêrô); rồi đến “ngoài cửa”, nơi “cả thành xúm lại”, sau cùng là “một nơi hoang vắng” ở đó, trong lúc Chúa đang cầu nguyện, vang lên lời Người gọi mời phải mở rộng cánh đồng truyền giáo.

Đức Giêsu, có các môn đệ đầu tiên cùng đi theo, ra khỏi hội đường Caphácnaum, đến “nhà hai ông Simon và Anrê”. Luật Do Thái có qui định nghiêm ngặt trong ngày Sabát như ngày hôm đó, người ta được phép đi lại bao xa. Kết quả những công trình đào xới khảo cổ học gần đây cho thấy, quãng đường phải đi từ hội đường đến “căn nhà mà Đức Giêsu và các ông định đến, quả thực rất gần. Căn nhà này hình như là địa điểm họp mặt, đồng thời là cứ điểm truyền giáo của Đức Giêsu. Nó đóng một vị trí quan trọng trong Tin Mừng thứ hai này.

Máccô thuật tiếp: “Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt”. Để hiểu được ý nghĩa câu chuyện, cần phải nhớ rằng vào thời đó, bệnh sốt được xem như là một trong những hình phạt mà Thiên Chúa doạ sẽ giáng xuống trừng phạt dân tộc bất trung: “nếu các ngươi khinh thường các luật điều của Ta, và hồn các ngươi ớn ghét các phán quyết của Ta, không làm theo rất cả các lệnh truyền của Ta, đến thủ tiêu giao ước của Ta, thì chính Ta, Ta sẽ làm điều này cho các ngươi. Ta sẽ giáng xuống trên các ngươi kinh hoàng, tiêu hao, cảm sốt làm cho mắt đờ, hơi kiệt” (Lv 26, 15-16a).

J. Pótin chú thích thêm: “người bị bệnh sốt, là kẻ bị tình nghi phạm một tội nào đó, khiên tuỳ mức nặng nhẹ của cơn sốt mà không được tham dự, hoặc tất cả hoặc một phần; vào sinh hoạt chung tôn giáo và xã hội” (“Jésus, lhistoire vraie”, Centurion, trang 162) .

Câu chuyện được tiếp tục kể, giọng điệu mau lẹ, ngắn gọn, không thấy một lời nói nào.

Trước tiên là sự thỉnh cầu của các thân nhân người bệnh: “Lập tức họ nói cho Người biệt tình trạng của bà”.

Tiếp đó là cử chỉ chữa lành: “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy”.

Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này của Đức Giêsu mang một ý nghĩa biểu tượng đối với Máccô và cộng đoàn Kitô hữu của ông. J.Hervieux lưu ý chúng ta: “ Đó là điều được ám chỉ một cách kín đáo, qua việc sử dụng một kiểu nói đặc biệt. Tro ng tiếng Hy Lạp, động từ “đỡ dậy” cũng là động từ Máccô dùng để nói về Đức Giêsu: “Người đã chỗi dậy rồi” (16,6). Chúng ta cần phải đặt mình trong khung cảnh những Kitô hữu tiên khởi khi đọc trang Tin Mừng này. Đối với họ, Đức Giêsu không chỉ là Đấng có quyền phép chữa bệnh lạ lùng trong giai đoạn đầu của sứ vụ. Với cuộc Phục sinh, Người được suy tôn là “Đức Chúa và Đấng Kitô” (Cv 2,36), nghĩa là Đấng qua từng ngày vẫn tiếp tục cứu chữa loài người khỏi tội lỗi tiếp tục giải thoát họ khỏi sự chết” (“LEvangile de Marc”, Centurion, trang 33).

Người bệnh bỗng phút chốc được lành bệnh, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn, bằng chứng là sau đó bà bắt đầu phục vụ Đức Giêsu và các người đi theo Chúa. Đó cũng là hình ảnh người Kitô hữu đã từng bị nằm liệt, do bị hành hạ bởi cơn sốt là tội lỗi Nhưng Đức ki tô đã đến “cầm lấy tay mà đỡ dậy”; nhờ đức tin và phép Rửa tội, để một khi đã được chữa lành, họ sẽ trở thành kẻ phục vụ Chúa và anh ern mình: “Cơn sốt dứt ngay, và bà phục vụ các ngài”. J. Hervieux tiếp tục: “Khi trình bày cho thấy, người đàn bà đã được chữa khỏi, bắt đầu phục vụ các vị khách của mình, Máccô chắc chắn nghĩ đến việc “phục vụ ” Đức Kitô mà mỗi Kitô hữu được mời gọi phải làm Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát các tín hữu của người khỏi sự dữ để họ bắt tay vào công việc phục vụ đó ” (Sđd) .

2. Rồi đến “trước cửa” có “cả thành xúm lại”:

Khi mặt trời lặn, đối với người Do Thái, đó là lúc kết thúc ngày Sabát, và bắt đầu một ngày mới.

Hết bị ràng buộc bởi những khoản cấm đoán liên can đến ngày hưu lễ, mọi người từ lúc này ai nấy trở lại với sinh hoạt bình thường, và họ dẫn đến cho Đức Gtêsu “mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám”. Chẳng mấy chốc, theo lời của Máccô, “cả thành xúm lại trước cửa”. Phép lạ chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô diễn ra âm thầm giữa một nhóm vài ba người, nay đã bung ra cho niềm khát mong của bao kẻ bên ngoài: “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ”.

- Người ra lệnh cho chúng không được nói gì cả lần này cũng nghiêm khắc không kém gì lúc ở trong hội đường (c.25): “Người không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai”.

M.E.Boismard đặt câu hỏi: “Tại sao lại có bệnh cấm đoán đó ở đây cũng như chỗ khác, trong ch. 1 câu 5, khi Đức Giêsu bị thần ô uế phải im tiếng mà xuất ra khỏi nạn nhân?… Vào thời đó cũng chính ông trả lời, đất nước Palestin đã bị mất chủ quyền, và rơi vào ách đô hộ của người La mã. Do vậy, dân tộc Do Thái ngày đêm mong mỏi một vi anh hùng giải phóng đến để “khôi phục lại vương quốcIsrael” (Cv 1, 6; Lc 1, 58-73). Nhưng Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến không phải thực hiện công cuộc khôi phục có màu sắc chính trị đó. Chính Đức Kitô rồi đây sẽ giải thích thực chất vương quyền của Người là gì, khi triển khai giáo huấn của Người bằng những dụ ngôn (Mc 4, 1 và tiếp theo). Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn sự sai biệt giữa vi vua mà dân Do Thái mong đợi và vị vua mà Thiên Chúa gởi đến cho họ. Chính vì muôn tránh sự hàm hồ đó mà Đức Giêsu đă không cho phép quỷ xưng Người là ai, cũng như sau này Người chỉ thị cho những kẻ được chữa lành phải thinh lặng. Đó là lý do của cái quen gọi là “bí mật Mêsia” (“Jésus, un homme deNazareth”, Cerf, trang 46-47).

Danh hiệu “Đấng Kitô” và “Con Thiên Chúa” chỉ được giải nghĩa chính xác sau ngày dưới ánh sáng của Khổ Nạn và Phục Sinh. Phải giữ thinh lặng cho đến khi thật sự sáng tỏ rằng Đấng Messia chỉ đến cứu loài người qua con đường hy sinh chịu chết.

3… Và “những nơi khác” phải đến để rao giảng:

Các câu từ 35 đến 39 đóng vai trò chuyển tiếp giữa sứ vụ của Đức Giêsu được khai trương ở Caphácnaum và mở rộng ra khắp miền Galilê.

Trái ngược hoàn toàn với công việc bề bộn của Người để phục vụ đám đông ở Caphácnaum, giờ đây Đức Giêsu chỉ có một mình trong một nơi thanh vắng”.

- Chúng ta đang ở vào lúc sáng sớm, lúc trời còn tối mịt”, hôm sau ngày Sabát, ngày thứ nhất trong tuần, sau này sẽ là Chúa nhật của người Kitô hữu, “ngày của Chúa”. Đức Giêsu cầu nguyện, như Người từng làm như thế vào mỗi khoảng khắc quan trọng của sứ vụ (x. Mc 6,46 và 14,35-39). Chắc chắn trước sự ồn ào nô nức của đám đông vây quanh mình, Người cảm thấy nhu cầu được đắm chìm lại trong sự thân mật với Chúa Cha, cũng như xác định lại vị trí của mình trên con đường sứ vụ. P.E. Boismard chú giải: “Trong nơi hoang vắng, tất cả đều im tiếng, chỉ có sự tĩnh lặng tràn ngập ánh sáng, chỉ có con người và Thiên Chúa. Bởi vì mọi sự đều lặng thinh nên con người mới nghe được tiếng Thiên Chúa” (Sđd, trang 49).

Các môn đệ thì chạy đi tìm Chúa, mong mời cho được Người trở về Caphácnaum, ở đó “mọi người đang tìm Thầy”. Nhưng Đức Giêsu cương quyết nhắc cho họ biết cái cốt lõi trong sứ vụ của Người là: loan báo Tin Mừng. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng chung quanh, Người trả lời họ, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.

Từ đó, “Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”. Đoạn Tin Mừng chấm dứt ở giai đoạn mở màn của sứ mạng truyền giáo ấy.

Vài câu Tin Mừng ở trên có những nét đặc trưng của Máccô: Đức Giêsu ra đi trước, một mình, cầu nguyện. Lúc đó là đêm thứ bảy bước sang ngày Chúa nhật, quãng thời gian của sáng sớm ngày Phục Sinh (x. 16, 1-8). Các môn đệ ra đi sau, tìm Chúa để cố lôi kéo người lại. Thế nhưng trong Tin Mừng Máccô, không bao giờ có điểm dừng, người ta luôn luôn được gởi đi đến một nơi khác: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quang, vì Thầy ra đi cối để làm việc đó”. Các phụ nữ đi viếng mộ Chúa sau này cũng được gởi đi lên một “nơi khác như thế (“Người không còn đây nữa. Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng người sẽ đến Galilê trước các ông). Bài tường thuật ngắn ngủi này có thể được dùng làm tấm gương soi cho cộng đoàn Kitô hữu đang họp nhau trong đêm thử bảy vọng sáng Chúa nhật, để cầu nguyện và tìm Chúa. Họ cũng sẽ được gởi đi đến một nơi các: “Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi dân tộc” (13,10) (“L’evangile se lon saint Marc”, Cerf, trang 37).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con cố gắng vẽ bức-tranh-cuộc-đời bằng nét-cọ-số-phận của chính mình hoàn toàn vì Chúa, thực sự mong làm sáng Danh Chúa, và sinh hoa kết trái tốt. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn