1
04:56 +07 Chủ nhật, 28/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 171

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 170


Hôm nayHôm nay : 10105

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 353134

Tổng cộngTổng cộng : 27907418

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » GIÁO HỘI HOÀN VŨ

Một số bài chia sẻ của HĐGMVN tại Roma-Ad Limina 2018

Thứ năm - 08/03/2018 08:51-Đã xem: 1078
Trong hai ngày 26 và 27/2/2018, quý Hồng y, Tổng Giám mục và Giám mục của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã lên đường đi Ad Limina. Trọng tâm của chuyến Ad Limina là cuộc yết kiến Đức Thánh Cha Phanxicô, người cha chung của Giáo hội hoàn vũ vào sáng thứ Hai, ngày 05/3/2018.
DIỄN TỪ CỦA ĐỨC CHA GIUSE NGUYỄN CHÍ LINH
 
Kính lạy Đức Thánh Cha,
Hiện diện trước mặt Đức Thánh Cha sáng hôm nay là Hội đồng Giám mục Việt Nam. Toàn bộ ba mươi ba vị Giám mục đương nhiệm tại chức đang có mặt đông đủ tại đây. Điều đó chứng tỏ tất cả và từng người chúng con rất quý trọng Đức Thánh Cha. Từ khi được Toà Thánh thông báo về thời điểm cuộc viếng thăm Ad Limina cách nay sáu tháng, ai nấy trong chúng con đều tràn ngập niềm vui, “ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương” và nóng lòng mong đợi cuộc gặp gỡ này.
Vâng, kính lạy Đức Thánh Cha, có được cơ hội để thể hiện tình hiệp thông Giám mục đoàn cách cụ thể bên cạnh ngai toà Thánh Phêrô, đối với chúng con là cả một hồng ân lớn lao. Càng hạnh phúc hơn nữa khi chúng con được trực tiếp diện kiến Đức Thánh Cha bằng xương bằng thịt, điều mà biết bao Kitô hữu khắp nơi trên thế giới ước ao suốt mà không được.
Trong giây phút lịch sử này, nhân danh cộng đồng công giáo Việt Nam, chúng con xin kính cẩn bái chào Đức Thánh Cha với tất cả tình con thảo đối với vị cha chung Giáo Hội hoàn vũ và vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập trên mặt đất này. Chúng con xin thân thưa với Đức Thánh Cha rằng cho đến nay, nét đặc trưng nhất của Giáo Hội công giáo Việt Nam là lòng yêu mến Đức Thánh Cha và lòng trung thành đối với Toà Thánh. Lịch sử của Giáo Hội và dân tộc Việt Nam đã trải qua bao nhiêu thăng trầm bão tố, nhưng những tình cảm tốt đẹp đó đã không bao giờ lay chuyển và phai mờ.
Các vị thừa sai Âu Châu đã đem Tin Mừng đến Việt Nam từ thế kỷ XVI. Mãi đến hơn ba thế kỷ sau đó, các thế lực thực dân mới xâm lăng Việt Nam, nhưng chính quyền dân sự thời bấy giờ đã chắp ghép truyền giáo với thực dân và tố cáo người công giáo làm tay sai cho các thế lực nước ngoài. Hậu quả là suốt gần hai trăm năm liên tiếp, Kitô hữu Việt Nam đã không ngừng bị bách hại. Lịch sử của dân tộc Việt Nam là một lịch sử đau thương, với những cuộc chiến tranh đẫm máu, hận thù và liên lỉ. Điều mà sử gia nào cũng phải nhìn nhận, đó là trong tất cả những cuộc chiến đó, người công giáo luôn luôn là nạn nhân của phân biệt, kỳ thị và ngược đãi.
Tuy nhiên, chúng con rất vui mừng và cảm nhận được rằng Thiên Chúa đã biến tất cả những khó khăn thử thách đó thành những kho tàng quý giá: hàng trăm ngàn Kitô hữu đã được phúc tử đạo. Trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong hiển thánh ngày 19/06/1988. Biến cố đó đã trở thành một trong những kỷ niệm đẹp nhất và là niềm kiêu hãnh đậm nét nhất trong lịch sử cận đại của Giáo Hội chúng con. Năm 2018 này là năm chúng con long trọng cử hành ngày hồng phúc ấy một cách cụ thể trong mọi sinh hoạt và ở mọi cấp cộng đoàn. Quả thật, giữa khốn khó gian truân, Kitô hữu Việt Nam chúng con đã khám phá được phần nào “Niềm vui Tin Mừng” như Đức Thánh Cha đã diễn tả trong tông huấn này.
Nói như thế không có nghĩa là chúng con đã được an thân trong thời đương đại này. Sau hàng nửa thế kỷ phải trải qua những giờ phút đầy thử thách của cuộc chiến tranh ý thức hệ, giờ đây chúng con đang phải đương đầu với một cuộc chiến mới: cuộc chiến chống lại tinh thần cầu an. Những cuộc bách hại nếu đã tôi luyện đức tin của chúng con thì về phương diện nhân loại, cũng khiến chúng con rơi vào tình trạng thủ thân khép kín. Vì thế mà từ khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, con số bảy triệu người Kitô hữu tại Việt Nam hầu như không hề gia tăng.
Trong bối cảnh đó, giáo huấn của Đức Thánh Cha là một nhắc nhở vô cùng quý giá cho Giáo Hội Việt Nam. Giáo huấn đó đã được Đức Thánh Cha phát biểu trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng: “Phải ra khỏi thế giới tiện nghi và phải can đảm tiếp cận tất cả các vùng ngoại vi đang cần đến ánh sáng Tin Mừng” (số 20 ). Chúng con rất cảm kích khi nhận ra rằng chúng con cần phải dứt khoát ra khỏi thói quen cũ kỹ và những lối sống sợ hãi, cầu an. Từ khi lên ngôi Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha luôn luôn lặp đi lặp lai lời kêu gọi hãy xây dựng một Giáo Hội sẵn sàng “lên đường”, một Giáo Hội hoạt động như một “bệnh viện lưu động”. Trong chốc lát nữa đây, chúng con sẽ rất phấn khởi nếu Đức Thánh Cha chia sẻ cho chúng con cảm hứng, kinh nghiệm và bí quyết của Đức Thánh Cha để chúng con thấm nhuần hơn nữa nguyện ước của người cho một Giáo Hội mỗi lúc một sống đúng sứ mệnh của mình hơn.
Tại Việt Nam hiện nay, chúng con cũng đang phải đối phó với hiện tượng suy đồi những giá trị nền tảng của gia đình. Trong một xã hội càng ngày càng có xu hướng tiêu thụ và hưởng lạc, trong một thế giới trào lưu di dân mỗi lúc một gia tăng, cuộc sống hôn nhân đang bị đe doạ cách nghiêm trọng. Trong ba năm trước mắt, chúng con đang phấn đấu tối đa để đưa tinh thần của tông huấn Amoris Laetitia của Đức Thánh Cha soi chiếu đường đời của những cặp vợ chồng trẻ trong giai đoạn nhạy cảm này.
Kính lạy Đức Thánh Cha,
Như những con nai mong đợi dòng suối mát, chúng con muốn trình bày rất nhiều vấn đề và thách đố chúng con đang gặp, để chúng con được uống tận nguồn nước phát ra từ đấng thay mặt Chúa Kitô, nhưng chúng con cũng biết thời gian dù quý báu này cũng chỉ giới hạn vì là thời gian của một vị lãnh đạo toàn cầu là thời gian đếm từng giây từng phút. Chúng con nghe nói Đức Thánh Cha chỉ điểm tâm có hai phút… Chỉ phục vụ một giáo phận thôi mà nhiều khi chúng con có cảm tưởng gánh nặng không thể vác nổi. Chúng con tự hỏi làm sao tuổi già sức yếu như Đức Thánh Cha có thể gánh vác được công việc của cả một hành tinh, nhất là một hành tinh càng ngày càng nhiều vấn đề đầy thách đố. Chúng con xin hứa hằng ngày sẽ cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, điều mà chúng con thường xuyên thực hiện mỗi khi có cộng đoàn chầu Thánh Thể.
Chúng con phải dừng lại ở đây và phó thác hiện tại cũng như tương lai của hai mươi sáu giáo phận, với bốn ngàn ba trăm giáo xứ, hơn bốn ngàn linh mục, trên dưới hai chục ngàn nam nữ tu sĩ của hai trăm bốn mươi hội dòng chúng con cho Đức Thánh Cha. Xin Đức Thánh Cha chúc lành và cầu nguyện cho Giáo Hội nhỏ bé của chúng con.
Kính lạy Đức Thánh Cha.
Một trong những món quà đẹp và đẳng cấp nhất chúng con nhận được trong cuộc hành hương Ad Limina này, đó là cuộc gặp gỡ thân mật Đức Thánh Cha đã dành cho chúng con hôm nay. Chỉ trong chốc lát nữa chúng con sẽ trở về mang theo và ấp ủ trong lòng kỷ niệm không bao giờ phai này. Nhưng chúng con cũng đành phải xa cách về thể lý đối với người Cha khả kính nhất của chúng con. Chúng con chạnh nghĩ, nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả những nước đa số không công giáo, đã được Đức Thánh Cha viếng thăm. Chúng con tự hỏi không biết đến bao giờ mới đến lượt quê hương đất nước Việt Nam của chúng con được cái diễm phúc tuyệt vời ấy.
Điều chắc chắn là trong khi chờ đợi, một lần nữa chúng con xin đoan hứa với Đức Thánh Cha rằng chúng con, mọi thành phần Dân Chúa Giáo hội Việt Nam sẽ tiếp tục yêu mến và cầu nguyện cho Đức Thánh Cha. Ad multos annos!
Chúng con xin hết lòng bái tạ Đức Thánh Cha.
Giuse Nguyễn Chí Linh
Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế
Giám quản Tông toà Giáo phận Thanh Hoá
Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam

 
BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC CHA GIUSE VŨ VĂN THIÊN
TRONG THÁNH LỄ TẠI ĐỀN THỜ THÁNH PHAOLÔ NGOẠI THÀNH
NGÀY 06/03/2018

 
Các Bài đọc: Đn 3,25.34-43; Mt 18, 21-35 (Thứ Ba tuần III Mùa Chay)
“Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? có phải bảy lần bảy không?”

Kính thưa Cộng đoàn phụng vụ,
Nhân câu hỏi của Thánh Phêrô, Chúa Giêsu đã kể một câu chuyện dụ ngôn. Nội dung của câu chuyện vừa bao gồm giáo huấn về lòng thương xót của Chúa Cha, vừa là lời mời gọi con người hãy tha thứ cho nhau. Nếu theo quan niệm của con người, sự tha thứ dừng lại ở con số bảy, thì đối với Chúa Giêsu, sự tha thứ không có giới hạn: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Đọc câu chuyện dụ ngôn này, chúng ta thấy một chuỗi những điều chênh lệch và cách biệt.
Sự chênh lệch thứ nhất là con số 7 và 70 lần 7 (tức là 490 lần). Con số 7 là cách nghĩ hẹp hòi tính toán của con người. Con số 70 lần 7 nói lên sự tha thứ không giới hạn của Thiên Chúa.
Sự chênh lệch thứ hai là giá trị của hai món nợ: Món nợ của người đầy tớ đối với ông chủ là mười ngàn yến vàng, trong khi người bạn kia nợ anh ta chỉ có một trăm quan tiền. Các nhà nghiên cứu lịch sử cho biết, đối với món nợ thứ nhất, một người có thu nhập bình thường phải lao động cật lực trong suốt một trăm năm mới kiếm đủ, trong khi đó, món nợ thứ hai, người ta có thể kiếm trong 3 tháng. Sự khác biệt này như một điểm nhấn để nói lên lòng bao dung của ông chủ rất lớn.
Sự cách biệt thứ ba, đó là sự bao dung của ông chủ và sự hẹp hòi của người đầy tớ vừa được tha nợ. Người đầy tớ vừa được tha một món nợ rất lớn, nhưng lại cố chấp và đòi bằng được một món nợ nhỏ của người anh em. Ông chủ trong dụ ngôn vừa được gọi là vua, vừa là tôn chủ và kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu kết luận: đó là hình ảnh của Chúa Cha. Nếu Thiên Chúa là Đấng nhân hậu và sẵn sàng tha thứ, thì con người lại ích kỷ và giữ mãi hận thù.
Bài học được rút ra từ câu chuyện dụ ngôn do chính Chúa Giêsu công bố: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho nhau” (c 35). Đây cũng là lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta trong kinh Lạy Cha, kinh mà chúng ta đọc hàng ngày: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Cảm nhận lòng thương xót của Chúa, người tín hữu phải thực thi lòng thương xót đối với anh chị em mình. Lòng thương xót của Thiên Chúa đã san bằng những cách biệt, nối liền những khoảng cách. Mùa Chay chính là thời điểm giúp chúng ta nhận ra khoảng cách ấy, để khiêm nhường sám hối và canh tân đổi đời. Một khi nhận ra lòng thương xót của Chúa, chúng ta sẽ đối xử nhân hậu với anh chị em mình.
Bài sách thánh trích từ sách ngôn sứ Đanien cũng cùng chung tư tưởng, diễn ta sự cách biệt giữa Thiên Chúa chí thánh và con người tội lỗi. Đó là lời cầu nguyện của ông Adaria giữa lò lửa (Bài đọc I). Ông đã ca ngợi tình thương vô bờ của Thiên Chúa, mặc dù dân Do Thái đã nhiều lần phản nghịch và phạm tội chống lại Ngài. Thiên Chúa luôn thương xót thứ tha, dân Israen luôn bất trung phản nghịch. Lời cầu nguyện này vừa là lời tôn vinh Chúa qua những điều kỳ diệu Ngài thực hiện trong lịch sử của dân Do Thái, vừa là lời cầu nguyện của niềm hy vọng cậy trông. Vì những ai tin vào Chúa sẽ không bao giờ phải hổ thẹn. Lòng thành tâm sám hối là của lễ đẹp lòng Chúa và nhờ đó, Chúa sẽ ban ơn tha thứ.
Kính thưa Cộng đoàn,
Chuyến viếng thăm Ad Limina của Hội đồng Giám mục Việt Nam được thực hiện trong thời điểm Mùa Chay. Mùa Chay là mùa trở về. Chuyến hành hương Ad Limina cũng là một cuộc trở về. Nếu lời mời gọi của Mùa Chay là trở về với Chúa, thì chuyến Ad Limina là cuộc trở về với cội nguồn đức tin. Nếu Mùa Chay nhắc ta ý thức bổn phận của người đã được lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, thì cuộc hành hương nhắc ta trách nhiệm của sứ vụ tông đồ. Dừng chân suy niệm bên mộ Thánh Phêrô và mộ Thánh Phaolô tông đồ, chúng ta, các Giám mục, như được liên kết hơn bao giờ hết với các vị thủ lãnh đầu tiên của Giáo Hội, đồng thời cảm nhận tính liên tục của Giáo Hội qua mọi thời đại, bất chấp những bão tố phong ba. Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập, đặt nền móng trên Phêrô và có cột trụ vững chắc là Phaolô. Nhờ có nền móng và cột trụ vững chắc đó, quyền lực trần thế cũng không thể phá hủy. Lịch sử Giáo Hội hoàn vũ và cách riêng lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam đã chứng minh điều đó. Nghi thức viếng mộ hai Thánh Tông đồ mang đầy cảm xúc. Lời kinh nối liền Giáo Hội qua mọi thế hệ, đã hơn hai mươi thế kỷ. Lời kinh này không thay đổi, trong khi bao thế lực hùng mạnh của trần gian, đã có thời xưng hùng xưng bá, nhưng đã suy tàn và bị xóa sổ. Hội đồng Giám mục Việt Nam đến nơi linh thiêng này, để khẳng định lòng trung thành với đức tin đã được tuyên xưng từ thời các thánh Tông đồ, được thể hiện trong một Giáo Hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Cuộc viếng thăm Ad Limina cũng là dịp để các Giám mục, với tư cách là những người kế vị các thánh Tông đồ, thể hiện tình hiệp thông với Đức Thánh Cha, vị Đại diện Chúa Kitô ở trần gian và là Đấng kế vị Thánh Phêrô. Ngài là mối dây hữu hình liên kết mọi thành phần Dân Chúa trên toàn thế giới, và làm thành gia đình của Thiên Chúa.
Với tinh thần của Mùa Chay, là những giám mục, chúng ta được mời gọi cảm nhận lòng thương xót của Chúa. Nếu chuyến viếng thăm Ad Limina là cuộc trở về để được tiếp thêm nghị lực tông đồ, thì Mùa Chay lại là mùa trở về để đón nhận ơn tha thứ. Như bao tín hữu khác, chúng ta cũng cần sám hối vì những thiếu sót trong bổn phận, để rồi nhờ ơn Chúa, chúng ta thực thi sứ mạng loan báo lòng thương xót của Ngài một cách có hiệu quả. Có thể chúng ta mắc nợ Chúa những món nợ rất lớn. Chúa sẵn sàng tha cho chúng ta, trong khi đó chúng ta không sẵn sàng tha thứ cho anh chị em mình những món nợ rất nhỏ.
Chúng ta đang dâng thánh lễ tại Đền thờ mang tên vị Tông đồ dân ngoại là Thánh Phaolô. Cuộc đời và ơn gọi của Thánh Phaolô diễn tả lòng thương xót của Chúa. Từ một người đang bừng bừng căm giận và hung hăng tìm giết các Kitô hữu, Chúa đã biến đổi ông nên một tông đồ. Trước khi gặp Chúa Giêsu trên đường đi Damas, Phaolô cho rằng mình đang chiến đấu vì danh Chúa. Tuy vậy, lòng nhiệt thành chiến đấu của ông đặt không đúng chỗ. Chúa đã biến đổi cuộc đời ông và đã điều chỉnh để lòng căm thù của ông trở thành lòng nhiệt thành tông đồ. Phaolô đã mắc nợ Chúa một món nợ rất lớn, nhưng Chúa đã tha thứ. Không những thế, Ngài còn đặt ông làm tông đồ của muôn dân.
Đến nơi linh thiêng này trong chuyến Ad Limina, chúng ta cùng ôn lại cuộc đời và giáo huấn của Thánh Phaolô. Cùng với thánh nhân, chúng ta cảm nhận rằng Chúa đã thương “dành riêng và gọi chúng ta từ trong lòng mẹ” (x. Gl 1,15), để góp phần loan truyền Lời Chúa và dựng xây Giáo Hội với tư cách là người kế vị các tông đồ. Thánh Phaolô đã khiêm tốn nhìn nhận rằng: “là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa” (1Cr 15,9). Chúng ta cũng vậy, Chúa chọn chúng ta làm Giám mục không phải vì những công đức hay tài ba của chúng ta, nhưng do lòng nhân từ thương xót của Chúa. Truyền giáo là một sứ mạng đầy gian nan thử thách, Phaolô đã nhiều lần muốn chùn bước, nhưng Chúa khích lệ ông: “Ơn ta đủ cho con” (2Cr 12,9). Phaolô coi truyền giáo là một đam mê, thậm chí là một món nợ phải hoàn trả, vì vậy Ông tâm niệm: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Trải qua những thăng trầm gian khổ, Phaolô vẫn miệt mài kiên định trong các hành trình truyền giáo. Cảm nhận sâu xa về niềm vui trong sứ mạng tông đồ, Thánh nhân đã xác tín: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” (Gl 6,14). Trong cảnh tù đày và xiềng xích, ông vẫn vững vàng và quả quyết: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1,12). Niềm xác tín này đã giúp ông vượt qua tất cả. Ông còn lạc quan tin tưởng và chờ đợi triều thiên công chính Chúa ban cho mình như phần thưởng của lòng trung thành.
Kính thưa Cộng đoàn,
Sứ mạng loan báo Tin Mừng được trao phó cho mọi tín hữu, qua bí tích Thánh Tẩy. Một cách đặc biệt, các Giám mục chúng ta được Chúa đặt làm mục tử mặc dù chúng ta bất xứng. Chúng ta “được tuyển chọn giữa loài người và được đặt lên vì loài người mà lo việc thuộc về Thiên Chúa”. Cuộc hành hương này cũng nhắc nhở chúng ta về bổn phận quan tâm chăm sóc đoàn chiên được trao phó. Đã lãnh nhận nhưng không, chúng ta hãy trao ban nhưng không. Xin Thánh Phaolô tông đồ dạy chúng ta kinh nghiệm truyền giáo, để “trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người, vì Tin Mừng tôi làm tất cả những điều đó để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9,23). Vào lúc cuối của cuộc đời, ước gì chúng ta được nghe những lời ngọt ngào của Chúa: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi” (Mt 25, 23).
Gm Giuse Vũ Văn Thiên


 
Bài giảng của Đức cha Giuse Nguyễn Năng 
trong Thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô ngày 03/03/2018
(Lời Chúa ngày thứ Bảy tuần II Mùa Chay:
Mk 7, 14-15.18-20 ; Lc 15, 1-3.11-32) 

Thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu trao phó nhiệm vụ Mục tử hữu hình tối cao của Hội Thánh. Ngài đã chịu tử đạo tại Rôma, vì thế, Đức Thánh Cha, trong tư cách là Giám mục Rôma, người kế vị thánh Phêrô, cũng là Mục tử của Hội Thánh hoàn vũ. Khi đến Rôma, tất cả các tín hữu Công giáo đều cảm nhận rất rõ sự hiệp thông với Đức Thánh Cha và Hội Thánh toàn cầu. Chính trong ý thức về sự hiệp thông đó mà hôm nay anh chị em quy tụ bên Hội đồng Giám mục Việt Nam dâng thánh lễ tại đây, nơi phần mộ của thánh Phêrô.
Sự hiệp thông không phải chỉ là một tình cảm mông lung, nhưng là những tương quan cụ thể, với Chúa, với Hội Thánh và với tha nhân. Sự hiệp thông trước hết là ân huệ của Chúa Thánh Thần, nhưng đó còn là một lối sống, một lối suy nghĩ, một sự chọn lựa, được thực hiện bằng nỗ lực của mỗi người.
1. Câu chuyện của sự trở về
Dụ ngôn người cha nhân hậu là một trong những trang Tin Mừng đẹp nhất diễn tả lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Chắc chắn mỗi người, không nhiều thì ít, đều nhận ra mình là người con thứ đã từ khước tình thương của Cha để sống theo ý riêng mình. Khi bỏ Nhà Cha ra đi, con người tưởng mình được tự do và hạnh phúc, nhưng thực ra lại là chuốc lấy đau thương tủi nhục vì mất tất cả: mất tình thương và sự sống của Cha, mất tình nghĩa anh em, thậm chí đánh mất chính phẩm giá cao cả của con người khi thèm thuồng thức ăn của loài heo.
Đứa con thì ích kỷ và từ chối tình thương, nhưng người cha lại vẫn một lòng thương xót. Ông vẫn kiên nhẫn đợi chờ và mong mỏi từng ngày. Khi đứa con đi hoang trở về, người cha đã cho con mặc áo mới, đi giày mới, đeo nhẫn, và mở tiệc ăn mừng. Ở đâu mà có áo mới, giày mới, nhẫn đẹp, chiên béo, nếu không phải là người cha đã tha thứ trước cả khi đứa con nói lên lời thú tội, hơn nữa còn hy vọng một ngày nào đó con mình sẽ trở về, nên ông mới chuẩn bị may áo, mua giày, mua nhẫn và vỗ béo cho con chiên chờ ngày con mình quay gót về nhà.
“Chúa là Đấng chịu đựng lỗi lầm, không giữ mãi cơn giận. Ngài sẽ lại thương xót chúng ta. Mọi lỗi lầm chúng ta, Ngài ném xuống đáy biển” (Bài đọc 1).
Chúa Giêsu mời gọi mỗi người trở về hoà giải với Chúa Cha. Đó là bước đi tiên quyết trên con đường tiến tới hiệp thông. Chỉ khi nào hoà giải với Thiên Chúa, con người mới được hiệp thông với Ngài và được dự phần sự sống và hạnh phúc của Ngài.
Không phải chỉ có người con thứ mới phải hoà giải, mà chính người con cả cũng cần hoà giải với cha và người em. Người con cả không bỏ nhà cha ra đi, nhưng thực ra lại là người đã đi hoang trong tâm hồn. Người con cả chu toàn bổn phận không phải vì yêu mến cha nhưng vì mong một phần thưởng. Anh ở lại trong nhà cha nhưng lại không chia sẻ ưu tư với nỗi đau buồn của người cha đang mất một người con là chính em của anh. Trong khi người cha mong người con đi hoang trở về, anh ta lại không mong, thậm chí còn bực bội và không vui khi thấy em về.
Sở dĩ Chúa Giêsu kể dụ ngôn người cha nhân hậu này là vì các biệt phái và kinh sư lẩm bẩm: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với họ”. Biệt phái và kinh sư có sự “công chính theo lề luật” nhưng lại thiếu một tấm lòng: tấm lòng với cha và với em. Nếu người con thứ đi hoang cần phải trở về hoà giải với cha, thì người con cả công chính đạo đức lại cần tới hai cuộc trở về: trở về hoà giải với cha và hoà giải với em.
Người con cả không vào nhà, nên người cha bỏ dở bữa tiệc ra ngoài tìm anh. Không biết người con cả có vào nhà chăng. Dụ ngôn bỏ lửng câu chuyện, không có kết luận. Nếu anh ta không vào, chuyện gì sẽ xảy ra? Người con thứ có vui trong gia đình hay sẽ lại quay gót ra đi? Nếu là người con cả, tôi có vào nhà không? Nếu là người con thứ, tôi sẽ phản ứng thế nào? Thánh Luca bỏ dở câu chuyện để mỗi người viết tiếp phần kết sao cho có hậu.
2. Kiến tạo sự hiệp thông trong Hội Thánh
Câu chuyện của sự trở về gợi lên những nguyên tắc để kiến tạo sự hiệp thông trong Hội Thánh. Cộng đoàn phụng vụ hiện diện nơi đây gồm đủ tất cả mọi thành phần Dân Chúa là biểu tượng cho Hội Thánh tại Việt Nam. Chúng ta ở đây bên mộ thánh Phêrô, đó cũng chính là biểu tượng cho sự hiệp thông của Hội Thánh địa phương với Hội Thánh hoàn vũ, một cách cụ thể với Đức Thánh Cha là dấu chỉ và là nguyên lý hữu hình của sự hiệp nhất trong toàn thể Hội Thánh.
Con đường của sự hiệp thông Hội Thánh trước hết cũng phải bắt đầu bằng sự trở về với Đức Kitô và Tin Mừng. Nếu không xây dựng trên nền tảng siêu nhiên này, sự hiệp thông Hội Thánh chỉ là hời hợt lỏng lẻo và có nguy cơ dễ đổ vỡ. Hội Thánh không phải là một tổ chức tôn giáo theo kiểu một tập thể xã hội loài người, nhưng là Dân của Thiên Chúa và là Thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Tách rời khỏi Đức Kitô, Hội Thánh chỉ còn là một tổng công ty nhân đạo quốc tế hay một tổ chức chính trị. Hội Thánh sống bằng sự sống của Đức Kitô, tùy thuộc vào Đức Kitô, vâng phục Đức Kitô. Hội Thánh không đi theo đường lối của thế gian nhưng theo đường lối của Tin Mừng, không hành động theo kiểu thế gian nhưng cậy dựa vào sức mạnh của Thần Khí và sử dụng các phương thế của Tám Mối Phúc Thật. Như dân Do Thái bước đi giữa lòng lịch sử, đôi khi Hội Thánh cũng bị cám dỗ trở nên như các dân khác. Tuy nhiên chính Tin Mừng mới là mẫu mực quy phạm và là tiêu chuẩn xét xử mọi hoạt động của Hội Thánh.
Để có sự hiệp thông Hội Thánh, các môn đệ của Đức Kitô cũng cần đón nhận nhau và hoà giải với nhau. Người con cả tự hào là công chính không thể chấp nhận đứa em hoang đàng trở về nhà cha. Cũng thế, các kinh sư và biệt phái không thể chấp nhận được việc Chúa Giêsu đón tiếp và đồng bàn với người thu thuế và tội lỗi. Hội Thánh của Đức Kitô không thể có thái độ loại trừ như thế. Hội Thánh tự bản chất là thánh thiện nhưng lại bao gồm cả người công chính lẫn tội nhân. Sự thánh thiện đích thực đòi Hội Thánh đón tiếp tất cả mọi người. Thánh thiện không có nghĩa là tự đặt mình làm quan toà xét xử, nhưng là tình yêu cứu thế, là khả năng chịu đựng, nâng đỡ gánh vác nhau, tha thứ và đón nhận nhau. Niềm mơ ước một thế giới toàn vẹn đôi khi có thể làm cho con người trở thành nhẫn tâm và cứng cỏi với người khác, thậm chí kết án và loại trừ nhau. Để duy trì và làm tăng trưởng sự hiệp thông, các môn đệ của Đức Kitô phải là những người khiêm tốn biết chấp nhận mọi giới hạn của nhau và vượt qua mọi dị biệt để chung sống hài hoà hạnh phúc trong gia đình của Thiên Chúa.
3. Lên đường đến với muôn dân
Trong thời Giáo hội sơ khai, dụ ngôn người cha nhân hậu còn được đọc trong viễn tượng của sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Người con thứ tượng trưng cho dân ngoại, còn người con cả chính là dân Israel. Việc người con thứ đi hoang không được con cả chấp nhận trở về gia đình gợi lên khó khăn của buổi ban đầu trong công cuộc truyền giáo. Các Kitô hữu lúc đó còn ngần ngại chưa đến với dân ngoại, hơn nữa, còn muốn bắt lương dân khi vào Hội Thánh phải giữ luật Do Thái. Về vấn đề này, hôm nay bên phần mộ thánh Phêrô, xin ngài dạy chúng ta kinh nghiệm của ngài.
Cũng như các Tông đồ khác, lúc đầu thánh Phêrô chỉ nghĩ tới việc loan báo Tin Mừng cho dân Do Thái. Nhưng sau đó, trong một thị kiến, ngài thấy tấm khăn lớn đựng các thú vật mà người Do Thái cho là không thanh sạch, và ngài nghe tiếng nói “Hãy giết mà ăn”. Lúc đó ngài chẳng hiểu gì. Nhưng một sự việc xảy đến đã giúp thánh Phêrô hiểu thị kiến. Một đàng Chúa sai thiên thần đến giục ông Cornêliô là một sĩ quan Rôma sai người đi tìm thánh Phêrô. Đang khi đó thánh Phêrô cũng được Chúa Thánh Thần thúc giục đến nhà ông Cornêliô để rao giảng và rửa tội cho gia đình ông (x. Cv 10).
Từ kinh nghiệm đó, sau này thánh Phêrô mạnh mẽ tuyên bố tại Công đồng Giêrusalem: “Thiên Chúa không phân biệt chút nào giữa chúng ta với họ… Vậy tại sao bây giờ anh em còn quàng vào cổ các môn đệ một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không mang nổi ?” (Cv 15, 9-10). Nhờ lòng nhiệt thành cùng với tầm nhìn cởi mở ấy, công cuộc loan báo Tin Mừng đã phát triển nhanh chóng.
Bên phần mộ của thánh Phêrô, từ dụ ngôn trong bài Tin Mừng, một lần nữa lệnh truyền loan báo Tin Mừng “ad gentes” lại vang lên mãnh liệt cho Hội Thánh Việt Nam. Trong bối cảnh của thế giới hôm nay, công cuộc loan báo Tin Mừng xem ra khó khăn: vì bách hại cấm cách, vì văn hoá hiện đại dửng dưng với tôn giáo, hay vì có người coi việc theo Chúa như là hành động phản lại dân tộc và văn hoá, hoặc vì lối sống hưởng thụ và chạy theo tiền bạc…
Người ta thường nghĩ rằng hoàn cảnh thời nay khó truyền giáo hơn ngày xưa. Thực ra mỗi thời có khó khăn của nó, dưới hình thức này hay hình thức khác. Ngay từ giai đoạn đầu của lịch sử Hội Thánh, hoàn cảnh của các Kitô hữu sống trong đế quốc Rôma cũng không hề dễ dàng thuận lợi. Đó là một thế giới xa lạ và thù nghịch với Tin Mừng. Đi theo Đức Kitô là lội ngược dòng và có nguy cơ đến tính mạng, nhưng công cuộc loan báo Tin Mừng rất hăng say và đạt hiệu quả.
Mỗi thời đều có những khó khăn riêng, mỗi giai đoạn đều có thể được coi là khủng hoảng, nhưng từ những tình huống cụ thể, Chúa Thánh Thần dẫn dắt Hội Thánh tiến lên và làm chứng cho Đức Kitô trong bối cảnh lịch sử đương thời. Những khó khăn không phải là những cản trở cho bằng là những lời mời gọi trong một giai đoạn mới.
Chúa Thánh Thần là tác nhân chủ yếu của công cuộc loan báo Tin Mừng. Một đàng Ngài thúc đẩy tâm hồn những người tông đồ, đàng khác Ngài âm thầm chuẩn bị mảnh đất tốt nơi tâm hồn người chưa biết Chúa. Trở ngại lớn nhất trong công cuộc loan báo Tin Mừng không phải là những khó khăn bên ngoài, nhưng là tình trạng các môn đệ của Đức Kitô an phận khép kín trong một mục vụ bảo tồn dành cho những người công chính và đạo đức, chưa thao thức “đi ra” đến những người còn ở xa. Trở ngại lớn nhất là tình trạng thiếu lửa trong Hội Thánh, thiếu nhiệt tình và niềm vui Tin Mừng, thậm chí đánh mất chính Tin Mừng.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Đừng nói rằng thời nay khó hơn, nó chỉ khác thôi. Hãy học nơi các thánh là những người đi trước đã đối diện với khó khăn trong thời của họ thế nào”. “Họ là những người tràn trề niềm vui, can đảm không mỏi mệt và nhiệt tình trong việc rao giảng Tin Mừng.” (NVTM s. 263)
Đến với Rôma là trở về trung tâm của Hội Thánh, không chỉ như một không gian địa lý nhưng còn như một cuộc trở về nguồn là chính trái tim kích hoạt sự sống của toàn thể Hội Thánh tại Việt Nam. Một cuộc trở về nguồn lúc nào cũng chất chứa niềm hy vọng cho một tương lai tươi sáng.
 
Gm. Giuse Nguyễn Năng
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn