1
10:26 +07 Thứ sáu, 03/05/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 182

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 181


Hôm nayHôm nay : 16687

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 120521

Tổng cộngTổng cộng : 28239769

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Lời Chúa và các bài chú giải, suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật XVII Thường niên – năm A

Thứ bảy - 26/07/2014 11:06-Đã xem: 1241
Kho báu Tin Mừng của thánh Matthêu nói tới ở đây là bảo vật quí báu : Nước Trời hay chính Đức Giêsu. Chính vì Nước Trời là bảo vật vô song, quí giá đến độ con người phải hy tất cả để chiếm hữu lấy.Nước Trời có hai giai đoạn, lúc đầu kẻ lành, người dữ, sự lành, sự dữ, bóng tối ánh sáng lẫn lộn với nhau, nhưng tới ngày tận thế, Chúa sẽ phân chia, phân rẽ ra rõ ràng.
Lời Chúa và các bài chú giải, suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật XVII Thường niên – năm A

Lời Chúa và các bài chú giải, suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật XVII Thường niên – năm A

BẢN NĂN

BÀI ĐỌC I: 1 V 3, 5. 7-12
"Xin ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.  

Trong những ngày ấy, tại Gabaon, ban đêm, Chúa hiện ra cùng Salomon trong giấc mộng và phán rằng: "Ngươi muốn gì thì hãy xin, Ta sẽ ban cho ngươi". Salomon thưa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Đavít thân phụ con. Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước lượng được. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này?"  Điều Salomon kêu xin như trên đã đẹp lòng Chúa, nên Chúa phán cùng Salomon rằng: "Vì ngươi đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, lại xin cho được khôn ngoan để biết xét đoán, thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi". Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 118, 57 và 72. 76-77. 127-128. 129-130

Đáp: Lạy Chúa, con yêu chuộng luật pháp của Chúa biết bao!

Xướng: 1) Lạy Chúa, con xưng thực kỷ phần của con là tuân giữ những lời ban dạy của Ngài. Đối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn.

2) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu uỷ lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. Nguyện Chúa xót thương cho con được sống, vì luật pháp Ngài là sự sung sướng của con.
3) Bởi thế nên con yêu quý chỉ thị Ngài hơn vàng, và hơn cả vàng ròng tinh khiết. Bởi thế nên con tự chọn tất cả huấn lệnh của Ngài; hết thảy đường lối gian tà con đều ghét bỏ. 
4) Kỳ diệu thay những lời Ngài nghiêm huấn, bởi thế linh hồn con vẫn tuân theo. Sự mạc khải lời Ngài soi sáng và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm.

BÀI ĐỌC II: Rm 8, 28-30

"Người đã tiền định cho chúng ta trở nên giống hình ảnh Con Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa thì Người giúp họ được sự lành, họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng, những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính?, thì Người cũng cho họ được vinh quang. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: 1 Pr 1, 25

Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 13, 44-46 {hoặc 44-52}

"Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy. 
{"Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa rằng: "Có".
Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới, cũ trong kho mình".}
Đó là lời Chúa.  


 
Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài.

Chúng ta có thể dựa vào lời khẩn nguyện tuyệt vời của vua Sa-lô-môn để đưa ra chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: xin ban cho con “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để nhận ra rằng ngay từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài. Đó là giá trị khôn sánh mà mỗi người Ki-tô hữu phải đạt cho bằng được.

1V 3: 5, 7-12

Để có đủ sức cai trị dân Thiên Chúa, vua Sa-lô-mon khẩn cầu Thiên Chúa cho ông có được “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái”.

Rm 8: 28-30

Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu biết rằng Thiên Chúa tiền định cho họ trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài và làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho những ai yêu mến Ngài.

Mt 13: 44-52

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta biết nhận ra giá trị khôn sánh của Nước Trời và sẵn sàng hy sinh mọi sự để sở hữu cho bằng được Nước Trời.

BÀI ĐỌC I 1V 3: 5, 7-12

Vào năm 970 trước Công Nguyên, vua Sa-lô-mon lên ngôi kế vị cha mình là vua Đa-vít. Lúc đó, ông chỉ là “một thanh niên bé nhỏ”, như chính ông thân thưa với Chúa về mình trong lời cầu nguyện của ông. Theo sử gia Giô-sê-phút, khi lên ngôi, vua Sa-lô-mon ở độ tuổi mười bốn; còn theo truyền thống kinh thánh, vua ở độ tuổi mười hai.

1. Giấc mộng của vua Sa-lô-mon:

Vua đến thánh địa Ghíp-ôn, cách Giê-ru-sa-lem khoảng chín cây số về hướng tây-bắc, để tế lễ Thiên Chúa, vì lúc đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem chưa được xây dựng, vì thế đây là nơi cao trọng nhất. Đêm sau đó, vua có một giấc mộng.

Giấc mộng đóng một vai trò quan trọng tại các dân tộc thời xưa. Các Pha-ra-ô Ai-cập và các vua miền Lưỡng Hà Địa đều có bên cạnh mình những nhà giải điềm mộng báo. Ở Hy-lạp, các tín đồ ngủ trong các đền thánh với hy vọng là mình nhận được một sứ điệp từ thần linh trong khi ngủ. Dân Ít-ra-en chắc hẳn cũng đã biết những mặc khải thần linh được truyền đạt trong những giấc mơ. Chúng ta đọc thấy nhiều ví dụ như vậy trong thời các tổ phụ như tổ phục Gia-cóp hay nhất là tổ phụ Giu-se. Thật đáng cho chúng ta ghi nhận rằng cách thức mặc khải này rất hiếm trong thời kỳ trào lưu ngôn sứ và chỉ tái xuất hiện trong các sách khải huyền vào những thế kỷ muộn thời hơn.

2. Lời khẩn nguyện của vua Sa-lô-mon:

Sa-lô-mon bày tỏ một sự khôn ngoan trước tuổi. Vua không cầu xin cho mình được trường thọ, được giàu sang hay được quyền lực, nhưng “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để vua có đủ sức cai trị dân Ngài, “một dân đông đúc, không kể xiết, cũng không đếm nổi”.

Như người cày thuê gặp được kho báu trong ruộng hay một thương gia bất ngờ tìm được ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay, vị vua trẻ biết nhận ra đâu là những giá trị đích thật. Đức Chúa đã nhận lời cầu xin của vua, vì thế, vua đã cai trị dân Ngài một cách khôn ngoan (ít ra trong giai đoạn đầu của triều đại mình). Trong giấc mộng, nếu vua không xin sự giàu sang phú quý, hay quyền lực, tuy nhiên, Thiên Chúa cũng ban cho vua những điều đó.

3. Tính chất thần học của chuyện tích:

Chuyện tích không có tính chất lịch sử theo nghĩa nhặt. Quả vậy, các nhà biên soạn hai sách Các Vua đã tra cứu những tài liệu và đã thu thập những truyền thống miệng, suốt thời gian làm việc nghiêm túc; nhưng nỗi bận lòng hàng đầu của họ là vấn đề thần học. Vì thế, chuyện tích về giấc mộng của vua Sa-lô-mon cho thấy hai khía cạnh quan trọng.

Trước tiên, chuyện tích này nhấn mạnh tính chất đặc biệt của vương quyền Ít-ra-en. Vương quyền này thuộc trật tự “ân sủng”. Chúng ta biết rằng dân Thiên Chúa đã từ lâu không muốn tôn một người trần thế lên làm vua của mình. Đối với họ, chỉ duy một mình Đức Chúa là vua của họ. Tuy nhiên, vì những hoàn cảnh đã dẫn họ đến thể chế quân chủ; nhưng để thể chế quân chủ này được tín nhiệm, điều quan trọng là vị quân vương phải nhận ra mình chỉ là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Chúng ta nên lưu ý rằng trong lời khẩn nguyện của mình, vua Sa-lô-mon không nói “dân của tôi”, nhưng “dân của Ngài”. Về vấn đề này, giấc mộng ở Ghíp-ôn đáp ứng mọi thỏa mãn và mặc lấy tinh cách của việc Thiên Chúa trao quyền.

Thứ nữa, tước vị con vua Đa-vít cao quý được ban tặng cho vua Sa-lô-mon cũng như triều đại vinh quang của vua hiển nhiên là lời đáp trả của Thiên Chúa, Đấng, ngay từ khởi đầu triều đại của vua này, cầm tay vị vua bé nhỏ để hướng dẫn vận mệnh của vua. Như vậy, khi đọc lại lịch sử này, người thuật chuyện có thể phát hiện ở đây là Lịch Sử Thánh.

BÀI ĐỌC II Rm 8: 28-30

Đoạn văn này là phần kết của chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần này được kết thúc với lời ca ngợi về tình yêu của Thiên Chúa. Đây là bản văn khó vì tự nguồn gốc nó là những suy luận thần học về tiền định.

1. Vấn đề:

Phải hiểu những lời này của thánh Phao-lô: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, Con của Người, để Đức Ki-tô làm trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc” như thế nào?

Trước tiên, chúng ta nên đặt đoạn văn này trở lại mạch văn của nó. Trong một cái nhìn khái quát, thánh Phao-lô lấy lại sự phát triển của mình trên ơn công chính hóa nhờ đức tin và trên sự vinh quang của những người được tuyển chọn. Khởi điểm lập luận của thánh nhân là ý định rộng lớn của Thiên Chúa về nhân loại. Từ ngữ “ý định” (prothesis) luôn luôn được thánh Phao-lô dùng theo nghĩa phổ quát chứ không hạn định. Một mặt, vị tông đồ nhấn mạnh Thiên Chúa gọi và con người được gọi. Đằng khác, về phía Thiên Chúa, Ngài “biết trước”, còn về phía con người, họ có “ơn gọi”; giữa Thiên Chúa và con người, có “sự tự do”. Cứu cánh của con người là ơn gọi, chứ không là tiền định. Không có bất kỳ chỗ nào dành cho việc tiền định phải chịu kết án cả.

2. Tình yêu của Thiên Chúa:

Đây là đề tài chủ đạo. Tiếng gọi của Thiên Chúa là tiếng gọi phát xuất từ tình yêu. Con người đáp trả tiếng gọi của Ngài, tức là “những ai yêu mến Người”, sẽ thấy rằng “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho họ”. Ơn ích hiển nhiên là ơn cứu độ chung cuộc, nhưng chắc chắn cũng là ơn ích tinh thần đối với thời hiện tại. Từ ngữ “mọi sự”, đối lập với “ơn ích”, chỉ những thăng trầm của thế giới, cũng như những gian nan thử thách mà mỗi người phải chịu. Khi hướng dẫn các biến cố, Thiên Chúa muốn cứu độ những ai yêu mến Ngài, đôi khi Ngài dùng những phương cách gây sửng sốt.

Ngay cả khái niệm yêu mến ở nơi những lời: “Những ai Người đã biết từ trước” luôn luôn có một âm vang của việc tuyển chọn phát xuất từ tình yêu. Sự kiện Thiên Chúa biết từ trước này không là một sự chọn lựa cho bằng cái nhìn của Thiên Chúa. Qua thời gian, Ngài phân định những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài nhờ đức tin.

3. Nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài:

Một lần nữa, thánh Phao-lô đặt sự lạc quan của mình rõ ràng trên chương thứ nhất của sách Sáng Thế. Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài; người Ki-tô hữu, trở nên con cái của Ngài, được ân sủng nhào nắn, được tiền định trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, cũng như Chúa Con đồng hình đồng dạng với Chúa Cha. Khi hiệp nhất với Đức Ki-tô, con người được “phục hồi hình ảnh và họa ảnh nguyên thủy” của mình.

Tiếp đó, thánh Phao-lô trở về khởi điểm của mình (kỹ thuật văn chương bao hàm). Thánh nhân vạch lại những giai đoạn cứu độ: tiếng gọi của Thiên Chúa, câu trả lời của con người nhờ đức tin, ơn công chính hóa và vinh quang. Chúng ta lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt vinh quang tương lai ở thì quá khứ: “Người đã cho hưởng vinh quang” để diễn tả một điều chắc chắn. Về việc dùng thì quá khứ để diễn tả điều chắc chắn trong tương lai này, chúng ta gặp thấy một ví dụ khác trong Tin Mừng Mác-cô về việc cầu nguyện, ở đó Đức Giê-su nói: “Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11: 24).

Vì thế, theo thánh Phao-lô, nếu có tiền định, thì không gì khác hơn là Thiên Chúa yêu mến chúng ta từ muôn thuở. Niềm hy vọng này đem lại cung giọng đầy lạc quan cho toàn bộ chương 8 này: ý định của Thiên Chúa chính là hướng dẫn con người đến vinh quang, đó là cho Con của Ngài trở nên “trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc”.

TIN MỪNG Mt 13: 44-52

Vào Chúa Nhật này, chúng ta hoàn tất bài diễn từ dài về các dụ ngôn của Đức Giê-su.

Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại ba dụ ngôn mới: dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý rất gần giống nhau, còn dụ ngôn chiếc lưới rất gần với dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng.

1. Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý:

Hai dụ ngôn này được biệt phân rất rõ nét với các dụ ngôn trước đó. Các dụ ngôn trước liên quan đến việc loan báo Nước Trời và sự phát triển thần kỳ của nó. Các dụ ngôn đó chủ yếu là thể văn“miêu tả”. Còn Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý là những “lời khuyến dụ” được gởi đến cho từng cá nhân, mang tính khẩn trương và quyết liệt, nhằm biến đổi đời sống. Nếu chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào vương quốc của Ngài và Đức Giê-su là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến đó, lúc đó việc chúng ta kết hiệp với Đức Ki-tô là ngay tức khắc, không thể nào chần chừ được nữa. Vì thế, việc chúng ta từ bỏ mọi sự cho điều cốt yếu duy nhất này, là chuyện dể hiểu. Với sự hiện diện của Đức Ki-tô, Nước Trời có mặt ở đây rồi. Kho báu hay ngọc quý này ở trong tầm tay của chúng ta. Việc từ bỏ mọi sự để sở hữu cho được kho báu hay ngọc quý này là niềm vui lớn lao, niềm vui của sự tự do vì được giải thoát khỏi những điều bất tất.

2. Dụ ngôn chiếc lưới:

Dụ ngôn chiếc lưới mô tả rất thực nghề đánh cá. Đây cũng là là dịp, là cơ hội để các môn đệ sống lại những kỷ niệm xưa kia của mình khi họ còn là những ngư phủ trên biển hồ Ga-li-lê. Dụ ngôn này lập lại những chủ đề của dụ ngôn cỏ lùng. Ngư phủ thả chiếc lưới xuống biển, như người nông dân gieo những hạt giống trên cánh đồng. Lưới dần dần đầy cá, nhưng phải đợi mẽ cá hoàn tất để chọn lựa cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vất đi. Cũng như người gieo giống chờ đợi mùa gặt để thu những hạt lúa tốt vào kho lẫm, còn cỏ lùng thì nhổ, bó thành bó mà đốt đi. Các Tông Đồ đã là những ngư phủ lưới người – và Giáo Hội nối tiếp bước chân của các ngài. Giáo Hội phải biết kiên nhẫn. Trong phần kết của dụ ngôn này, số phận dành bọn ác nhân được diễn tả theo cùng những ngôn từ như trong phần kết dụ ngôn cỏ lùng.

Để kết luận, thánh Mát-thêu gợi lên một kinh sư trở thành môn đệ của Đức Giê-su. Vì có được một kiến thức Kinh Thánh rất phong phú, người kinh sư biết giá trị của những thiện hảo mà Luật Mới đem đến. Lý tưởng này biểu thị rất rõ nét lý tưởng của Tin Mừng Mát-thêu đến mức chúng ta có thể nhận ra ở đây chữ ký kín đáo của thánh nhân.


KHÔN NGOAN LÀ BIẾT CHỌN CHÚA LÀM GIA NGHIỆP

Chúng ta thường đọc thấy trên trác phương tiện truyền thông hay báo chí rất nhiều những tin đồn như ở nơi này, nơi kia có kho báu gồm: vàng, bạc, kim cương cũng như cổ vật. Khi nghe tin đồn như thế, không ít người đã làm mọi cách và dùng mọi chiến thuật để mong sao đạt được điều mà họ đang hy vọng. Còn đại đa số con người ngày nay thì kho báu của họ có lẽ là: tiền, tài, tình. Vì thế, cũng đã không ít người hăng say, lăn xả để chiếm đoạt cho kỳ được.

Với người kitô hữu chúng ta, kho tàng là gì? Làm thế nào để chiếm hữu?

1. Ý nghĩa của các dụ ngôn

Dụ ngôn “kho tàng” và “viên ngọc quý” là một trong hàng loạt dụ ngôn Đức Giêsu dùng mặc khải về Nước Trời. Bên cạnh đó, dụ ngôn “chiếc lưới” cũng giúp cho chúng ta hiểu thêm về sự kiên trì của Thiên Chúa và giá trị của những người được chọn trong ngày sau hết.

Qua ba dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn ám chỉ “kho tàng” trong thửa ruộng chính là Nước Trời, còn Đức Giêsu chính là “viên ngọc quý”.

Người lái buôn đi tìm ngọc và anh thanh niên tìm kho tàng chính là những người có đức tin, khao khát chân lý và hạnh phúc thật.

Trong công cuộc tìm kiếm này, không phải chuyện dễ dàng để gặp được. Vì thế, người tìm kiếm phải có tài, có đức và phải kiên trì, trung thành.

“Kho tàng” và “ngọc quý” vẫn có đó, nhưng có khi có người tìm thấy sớm, có người thấy muộn và cũng có kẻ đến giờ phút chót không thấy được.

Thật vậy, con người khi đã có khát khao, nhất là sự khao khát đó lại được nuôi dưỡng trong sự chờ đợi, hy vọng, thì khi tìm được, người ta đã phải bán hết mọi sự mình đang có để mua, với ý thức rằng có “kho tàng” và “ngọc quý” là có tất cả.

Khi mua được rồi, họ đâu còn tiếc nuối công khó với mồ hôi và nước mắt mà họ đã đổ ra trên hành trình tìm kiếm.

2. Sự khôn ngoan của con cái Chúa

Anh thanh niên và người lái buôn quả là người khôn ngoan. Sự khôn ngoan của họ rất giống với vua Salomon mà bài đọc I đã đề cập đến. Ông đã không xin Chúa sức khỏe, tiền tài và danh vọng, cũng như những thứ có giá trị ở đời, nhưng ông đã xin Chúa sự khôn ngoan. Lòng chân thành của ông đã được Chúa nhận lời và người đã ban cho ông gấp trăm ngàn lần. Như vậy, có sự khôn ngoan, ông có tất cả.

Đức tin là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Biết xử dụng đức tin trong đời sống qua các mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân là người khôn ngoan. Bởi vì nhờ có đức tin, chúng ta biết mình và biết Chúa. Biết mình giới hạn và biết Chúa quyền năng. Biết sự sống đời này là hữu hạn và sự sống đời sau sẽ trường tồn. Người khôn ngoan theo Kinh Thánh là người sẵn sàng để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc đời mình.

Tuy nhiên, con người ngày nay, mấy ai để cho Lời Chúa được lớn lên, sinh hoa kết trái như ý Chúa???

Họ là những con người lầm lạc, sự khôn ngoan của họ là sự ngu đần trước mặt Thiên Chúa. Khôn ngoan của những người này chính là “Khôn ngoan của con cái tối tăm” họ thực hiện điều họ cho là khôn ngoan trong tội lỗi, và như một hệ lụy, họ không nhìn ra đâu là sự thiện, sự ác, không biết lo cho phần rỗi đời đời, nên đến cuối đời, họ như những con cá bị loại ra ngoài, không được cho vào giỏ của ông chủ.

Thật vậy, người khôn ngoan theo ý muốn của Thiên Chúa là người biết xác định rõ : “Khôn thế gian làm quan địa ngục“; “Dại thế gian làm quan Thiên Đàng” và “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì?” (Mt 16, 26).

Người khôn ngoan theo Kinh Thánh chính là người sống hôm nay mà biết lo cho tương lai. Phải chu toàn bổn phận trần thế, nhưng không phải vì thế mà quên thực tại Nước Trời mai hậu. Sống trên trần gian nhưng không thuộc về trần gian.

3. Sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải khước từ những thứ được coi là thấp hèn. Không quá coi trọng vật chất. Khước từ tính kiêu ngạo, thích ăn trên ngồi trước. Phải sống chan hòa tình nghĩa với nhau.

Phải tin tưởng vào Chúa tuyệt đối, không thể tin nửa vời để rồi dẫn đến tình trạng mê tín dị đoan như tin thầy bùa, thầy ngải, thổ địa…

Hãy mau mắn thi hành Lời Chúa dạy. Trung thành với Giáo Huấn của Giáo Hội.

Sẵn sàng hy sinh tất cả, để chỉ còn “… mối lợi truyệt vời, là được biết Ðức Kitô Giêsu, của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Ðức Kitô (9) và được kết hợp với Người”(Pl 3, 8-9).

Nước trời không thể đến với những người: “Bắt cá hai tay”; vì: “Không ai có thể làm tôi hai chủ”; và hạnh phúc không thể có đối với người chỉ biết “há miệng chờ sung rụng”.

Lạy Chúa Giêsu, Xin Chúa ban Thánh Thần của Ngài xuống giúp chúng con biết nhận ra đâu là điều tốt, đâu là điều xấu để chúng con lựa chọn. Xin cho chúng con ơn can đảm và trung thành vì Nước Trời. Amen.


Khám phá Kho Báu Tin Mừng

Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một kho tàng quý báu đó là Tin Mừng sự sống được rao truyền cho nhân loại suốt hai ngàn năm qua.

Kho tàng ẩn giấu dưới lòng đất

Qua bao đời, người Ả-rập Xê-út sống ngay trên những túi dầu khổng lồ với một trữ lượng lớn lao vượt xa các nơi khác trên thế giới mà không hay biết. Hiện nay, Ả-rập Saudi sở hữu 266,75 tỷ thùng dự trữ dầu, chiếm khoảng 20% trữ lượng dầu mỏ thế giới. Thế mà, suốt cả mấy ngàn năm trước đây, tổ tiên ngàn đời của họ phải sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực vì đất nước của họ gồm phần lớn là sa mạc nóng cháy với một khí hậu khắc nghiệt khác thường.

Mãi cho đến năm 1938, nhờ kỹ thuật tân tiến của phương Tây, họ mới khám phá và khai thác những túi dầu lửa khổng lồ nằm ngay dưới bước chân mình. Nhờ đó, từ thân phận nghèo khổ bần cùng nhất thế giới, họ trở nên một dân tộc giàu có, phồn vinh.

Tiếc thay, biết bao nhiêu thế hệ cha ông họ đã phải sống túng thiếu cùng cực ngay trên trữ lượng “vàng đen” khổng lồ vì không phát hiện được kho tàng ẩn giấu!

Kho tàng ẩn giấu trong cuốn Tin Mừng

Vì lòng yêu thương vô bờ dành cho con cái mình, Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một kho tàng quý báu hàng tỷ lần hơn kho dầu bên Ả-rập; đó là Tin Mừng sự sống được rao truyền cho nhân loại suốt hai ngàn năm qua.

Tin Mừng Chúa Giê-su là sự khôn ngoan của Thiên Chúa được Chúa Giê-su mang từ trời xuống tặng ban cho thế giới.

Tin Mừng Chúa Giê-su là phương dược cứu chữa nhân loại khỏi chia rẽ, hận thù và tự hủy diệt.

Tin Mừng Chúa Giê-su đề ra giải pháp tối ưu để xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ, công bằng, hạnh phúc.

Nhưng tiếc thay, cũng như người Ả-rập trước đây phải sống lây lất trong nghèo đói, bần cùng và lạc hậu vì không biết khám phá và khai thác những túi dầu khổng lồ dưới chân mình, thì nhiều người hiện nay vẫn chưa phát hiện được những giá trị vô cùng cao quý do Tin Mừng mang lại nên phải sống trong tình trạng nghèo tình thương, đói công lý, nhân phẩm bị chà đạp, công bằng xã hội bị tiêu hủy, hố cách biệt giàu nghèo gia tăng, nếp sống đạo đức sa sút nghiêm trọng…

Sở dĩ như thế là vì Tin Mừng là kho báu, nhưng là kho báu ẩn giấu dưới những dòng chữ, là ngọc quý ẩn mình trong những trang sách, nên mặc dù sách Tin Mừng đang ở trong tầm tay mọi người, nhưng nhiều người không phát hiện được giá trị tiềm ẩn bên trong nên không tìm cách khai thác để mang lại lợi ích cho mình.

Hăm hở khai thác kho tàng

Hiện nay, khi thấy dấu hiệu có trữ lượng dầu lửa đáng kể nằm sâu dưới lòng đất hay dưới lòng đại dương, các quốc gia lân cận lập tức xác nhận chủ quyền của mình trên những vùng biển hay vùng đất đó và tìm cách khai thác cho bằng được. Nếu cần, các quốc gia liên hệ có thể huy động cả lực lượng quân đội hùng hậu nhất để cưỡng chiếm những vùng đất đó nhằm thu lợi về cho riêng mình. Nói chung, ai cũng hăm hở khai thác những nguồn lợi nằm trong tầm tay của mình dù phải trả giá rất cao.

Đó cũng là chọn lựa của anh nông dân bất ngờ khám phá ra kho báu hay của một thương gia đi săn lùng ngọc quý trong dụ ngôn Tin Mừng Mát-thêu sau đây (13, 44-46):

“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”

Lạy Chúa Giê-su,

Tin Mừng của Chúa là một kho tàng tuyệt vời đang ẩn mình dưới những dòng chữ, là viên ngọc vô cùng quý báu chìm khuất trong những trang sách, nhưng tiếc thay, vì người đời chẳng hay biết nên họ tỏ ra dửng dưng, hờ hững với Kho Tàng nầy.

Xin cho chúng con biết đánh giá đúng giá trị của Tin Mừng để rồi quyết tâm khám phá cho bằng được và sẵn sàng đầu tư khai thác không quản ngại phí tổn về thời giờ và công sức; vì một khi sở hữu được kho tàng vô giá nầy, một khi làm chủ được viên ngọc quý báu nầy, cuộc đời của mỗi người sẽ được cải thiện, xã hội sẽ có thêm công bằng hạnh phúc và tương lai của nhân loại sẽ bừng sáng.
 

Sưu tầm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn