1
11:52 +07 Chủ nhật, 28/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 180

Máy chủ tìm kiếm : 3

Khách viếng thăm : 177


Hôm nayHôm nay : 22454

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 365483

Tổng cộngTổng cộng : 27919767

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » GIÁO LUẬT & THẦN HỌC

Việc giáo dân tham dự vào cử hành bí tích Thánh Thể

Thứ bảy - 29/03/2014 09:53-Đã xem: 1546
Hy Tế Thánh Thể phải được cử hành với bánh không men, bằng bột mì nguyên chất và mới chế biến, không chút nào sợ hư. Do đó, bánh được làm với một chất khác, dù đó là một loại ngũ cốc, hay là bánh mà người ta đã thêm vào đó một chất khác hơn bột mì, với một số lượng đến nỗi, theo ý kiến chung, người ta không thể xem đó là bánh làm bằng lúa mì, thì bánh đó không làm thành chất thể thành sự cho việc cử hành Hy Tế và Bí Tích Thánh Thể
Việc giáo dân tham dự vào cử hành bí tích Thánh Thể

Việc giáo dân tham dự vào cử hành bí tích Thánh Thể

Chương I
VIỆC ĐIỀU HÀNH PHỤNG VỤ THÁNH

 
14.     “Việc điều hành Phụng Vụ thánh chỉ tùy thuộc thẩm quyền của Giáo Hội mà thôi : nghĩa là thuộc quyền Tông Toà và, chiếu theo quy tắc luật pháp, cũng thuộc quyền Giám Mục”[34].
15.     Đức Giáo Hoàng, là đấng “Đại Diện Chúa Kitô và là Chủ Chăn của toàn thể Giáo Hội trên trần gian, do uy lực của nhiệm vụ, ngài có một quyền bính thông thường, tối cao, trọn vẹn, trực tiếp và phổ quát trong Giáo Hội, và ào giờ ngài cũng được tự do thi hành quyền bính ấy”
[35], đặc biệt bắng cách thông truyền với các mục tử và các tín hữu.
16.     Tông Toà có thẩm quyền tổ chức Phụng Vụ thánh của Giáo Hội toàn cầu, xuất bản các sách phụng vụ, công nhận các bản dịch của chúng sang các ngôn ngữ bản xứ và chăm chú theo dõi để những quy tắc phụng vụ được trung thực tuân giữ khắp nơi, đặc biệt là những quy tắc đặt quy chế cho việc cử hành Hy Tế Thánh Lễ.
[36]
17.     Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích “chăm lo, trừ những gì thuộc thẩm quyền của Bộ Giáo Lý Đức Tin, tất cả những gì thuộc Tông Toà về mặt quy định và xúc tiến thuộc Phụng Vụ thánh, và trước hết về các bí tích. Bộ giúp đỡ và chăm lo về kỷ luật các bí tích, đặc biệt là tính thành sự và hợp pháp của việc cử hành các bí tích”. Sau cùng, “Bộ ân cần chăm chú theo dõi để các quy định về phụng vụ được tuân giữ cách chính xác, để các lạm dụng trong lãnh vực này được cản ngăn và những lạm dụng bị phát hiện được chấm dứt”[37]. Trong lãnh vực này, theo truyền thống của cả Giáo Hội, việc cử hành Thánh Lễ và việc tôn thờ Phép Thánh Thể Chí Thánh, cả khi ngoài Thánh Lễ, được quan tâm một cách đặc biệt.
18.     Các tín hữu có quyền đòi hỏi thẩm quyền Giáo Hội điều hành hoàn toàn Phụng Vụ thánh một cách có hiệu lực, để Phụng Vụ thánh không bao giờ được coi là “tài sản riêng của một người nào, không phải của vị chủ tế cũng không phải cộng đoàn nơi đó cử hành các Mầu Nhiệm”
[38].
1.    GIÁM MỤC GIÁO PHẬN, THƯỢNG TẾ CỦA ĐÀN CHIÊN
19.     Giám Mục giáo phận là người phân phát chính yếu các Mầu Nhiệm của Thiên Chúa trong Giáo Hội địa phương được ủy thác cho ngài, là người tổ chức, chủ xướng và gìn giữ cả đời sống phụng vụ.
[39] Quả thực, “Giám Mục, được nhận đầy đủ bí tích Truyền Chức thánh, lãnh trách nhiệm phân phát ân sủng của chức tư tế tối cao”[40], đặc biệt là trong Phép Thánh Thể mà chính ngài dâng hoặc đảm bảo cho việc hiến dâng,[41] và từ đó liên tục phát sinh cho Giáo Hội sức sống và tăng trưởng”[42].
20.     Giáo Hội được biểu lộ nhất là mỗi khi Thánh Lễ được cử hành trọng thể, chủ yếu là tại nhà thờ chánh toà, “cùng với toàn thể dân thánh Thiên Chúa tham dự trọn vẹn và linh động, […] trong cùng một kinh nguyện, trước cùng một bàn thờ dưới sự chủ toạ của giám mục”, có linh mục đoàn, các phó tế và những thừa tác viên khác bao quanh.
[43] Hơn nữa, “mọi việc cử hành hợp pháp Phép Thánh Thể đều do Giám mục điều khiển, vì ngài là người lãnh nhận nhiệm vụ dâng lên Tôn Nhan uy nghi Chúa phụng tự Kitô-giáo và có phận sự điều hành việc phụng tự đó theo đúng huấn giới của Chúa và lề luật của Giáo Hội. Ngài dùng phán quyết riêng để đem lại cho những lề luật đó những quy định mới phù hợp với giáo phận mình”[44].
21.     Quả thực, “Giám Mục giáo phận có quyền ban hành các quy luật về phụng vụ, buộc mọi người phải giữ, trong Giáo Hội đã được uỷ thác cho ngài và trong giới hạn thẩm quyền của ngài”
[45]. Nhưng, Giám Mục phải luôn luôn chăm lo đừng làm mất sự tự do, đã được các sách phụng vụ dự liệu, để thích ứng, một cách sáng suốt, việc cử hành vào cơ cấu thánh, hay vào nhóm tín hữu, hay là vào các hoàn cảnh mục vụ, để thế nào toàn bộ nghi lễ thánh được thực sự thích nghi vào tâm thức của con người.[46]
22.     Giám Mục điều khiển Giáo Hội địa phương đã được ủy thác cho mình,[47] và, thi hành chức vụ thánh mà ngài đã lãnh nhận khi được truyền chức giám mục,[48] nên ngài có nhiệm vụ đưa vào nề nếp, điều khiển, động viên và đôi khi quở trách,[49] để xây dựng đoàn chiên trong chân lý và thánh thiện.[50] Ngài có nhiệm vụ giải thích ý nghĩa thực sự của các nghi lễ và các bản văn phụng vụ, và chính ngài có nhiệm vụ phải nuôi dưỡng các linh mục, phó tế và giáo dân tinh thần của Phụng Vụ thánh,[51] để tất cả họ đều được hướng dẫn đến một việc cử hành Phép Thánh Thể cách tích cực và có hiệu quả.[52] Sau cùng, Giám Mục cũng phải chăm chú theo dõi để toàn thân của Giáo Hội có thể được phát triển toàn bộ, trong sự hiệp nhất yêu thương về các mặt giáo phận, quốc gia và toàn cầu.[53]
23.     Các tín hữu “phải gắn bó với Giám Mục như Giáo Hội gắn bó với Chúa Giêsu-Kitô và như Chúa Giêsu-Kitô gắn bó với Chúa Cha, để mọi sự đều hòa hợp trong sự hiệp nhất và trở nên phong phú cho vinh quang Thiên Chúa”[54]. Tất cả, kể cả các thành viên của các Hội Dòng thánh hiến và Tu Hội tông đồ, cũng như các đoàn thể và các phong trào thuộc giáo hội, phải phục tùng quyền của Giám Mục giáo phận về tất cả những gì liên quan đến Phụng Vụ,[55] ngoại trừ những quyền đã được nhượng cho họ một cách hợp pháp. Như vậy, Giám Mục giáo phận có quyền và có bổn phận quan tâm giám sát về mặt phụng vụ, và, với danh nghĩa này, ngài viếng thăm các nhà thờ và nhà nguyện nằm trên lãnh thổ của ngài, kể cả những nhà thờ, nhà nguyện được xây dựng và điều khiển bởi các thành viên của các hội nói trên, nếu các tín hữu thường ngày lui tới.[56]
24.     Về phần mình, dân Kitô-giáo có quyền đòi hỏi Giám Mục giáo phận chăm chú theo dõi các lạm dụng len lỏi vào kỷ luật giáo hội, nhất là về những gì liên quan đến tác vụ Lời Chúa, đến việc cử hành các bí tích và á-bí-tích, đến việc phụng thờ Thiên Chúa và tôn kính các thánh.[57]
25.     Các uỷ ban, các hội đồng hay các ban được Giám Mục thành lập nhằm mục đích “xúc tiến hoạt động phụng vụ, cũng như âm nhạc và nghệ thuật thánh trong giáo phận của ngài”, phải hành động hợp với tư tưởng và quy tắc của Giám Mục, và họ phải dựa vào uy quyền và sự phê chuẩn của ngài mà thi hành cách đúng đắn các chức năng riêng biệt của mình,[58] và để đảm bảo uy quyền bính đích thực của Giám Mục trong giáo phận của ngài. Về vấn đề của tất cả những nhóm này, của những hội dòng khác, và của tất cả những ai, cách chung, có những sáng kiến trong lãnh vực phụng vụ, các Giám Mục phải khẩn trương tìm hiểu xem các sinh hoạt của họ, đến bây giờ, đã có hiệu quả hay không [59]; và phải quan tâm phân nhận được những gì phải sửa chữa hay phải cải thiện trong các cấu trúc và sinh hoạt của họ,[60] để đạt được một sức mạnh mới. Luôn luôn phải nhớ rằng các chuyên viên phải được tuyển chọn trong số những người chứng tỏ sự vững vàng trong đức tin công giáo và được chuẩn bị kỹ càng trong những lãnh vực thần học và văn hoá.
2.   HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
26.     Những gì khẳng định trước đây cũng có giá trị cho các uỷ ban phụng vụ, mà, theo lời yêu cầu của Công Đồng,
[61] đã được Hội Đồng Giám Mục thành lập. Các thành viên của các uỷ ban này phải là những vị Giám mục, phải được phân biệt rõ ràng với các chuyên viên đến hợp tác với các ngài. Trong trường hợp số các thành viên của Hội Đồng Giám Mục không đủ, và do đó việc thành lập uỷ ban phụng vụ trở nên khó khăn, phải chỉ định một hội đồng hay một nhóm chuyên viên luôn luôn phải được đặt dưới quyền chủ tịch của một Giám mục ; tuy nhiên, trong khi làm tròn các tốt nhất trách nhiệm của mình, hội đồng này hay nhóm chuyên viên này phải tránh mang danh “uỷ ban phụng vụ”.
27.     Từ năm 1970,
[62] Tông Toà đã cho biết tất cả những thí nghiệm phụng vụ liên quan đến việc cử hành Thánh Lễ phải chấm dứt, và Tông Toà đã lặp lại cấm chỉ này vào năm 1988.[63] Do đó, mỗi Giám mục riêng biệt, cũng như các Hội Đồng Giám Mục, không còn có trường hợp nào mà có quyền cho phép các thí nghiệm liên quan đến các bản văn phụng vụ và những điều khác được ấn định trong các sách phụng vụ. Trong tương lai, để có thể làm những thí nghiệm loại này, cần thiết phải được Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích cho phép ; Bộ này sẽ cho phép bằng văn bản, theo lời thỉnh cầu của các Hội Đồng Giám Mục. Một sự nhượng bộ như thế chỉ có thể chấp nhận cho một nguyên nhân nghiêm trọng. Còn những gì liên quan đến các dự án hội nhập văn hoá trong lãnh vực phụng vụ, phải tuân thủ một cách chặt chẽ và toàn bộ các quy tắc đặc biệt được thiết lập cho việc này.[64]
28.     Tất cả những quy tắc liên quan đến phụng vụ, do một Hội Đồng Giám Mục thiết lập, theo những quy tắc của luật pháp, cho lãnh thổ riêng của mình, cần phải được trình lên Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích để phê chuẩn (recognitio), nếu không, chúng không có một tính cách bó buộc nào.[65]
3.   CÁC LINH MỤC
29.     Các linh mục, những người cộng tác trung thành, chín chắn và cần thiết của hàng giám mục,
[66] được kêu gọi phục vụ dân Thiên Chúa, và cùng với Giám mục của mình hợp thành một linh-mục-đoàn (presbyterium) duy nhất [67] với nhiều phận vụ khác nhau. “Trong mỗi cộng đoàn tín hữu địa phương, linh mục là hiện thân của Giám mục mà các ngài hằng liên kết với lòng tin tưởng và quảng đại, lãnh nhận phần chức vụ và cùng chia sẻ nỗi lo lắng của Giám mục, và hằng ngày ân cần thi hành việc chăm sóc các tín hữu”. Và “vì tham dự vào chức tư tế và sứ vụ của Giám mục, các linh mục phải thực sự xem ngài như cha mình và phải kính cẩn vâng phục ngài”[68]. Vả lại, “luôn mưu cầu ích lợi cho con cái Thiên Chúa, các linh mục phải hăng hái tham gia công cuộc mục vụ của cả giáo phận, hơn nữa của toàn thể Giáo Hội”[69].
30.     “Trong việc cử hành thánh lễ”, trách nhiệm nặng nề thuộc về “các linh mục cách riêng, vì các ngài phải chủ toạ in persona Christi (trong tư cách của Đức Kitô), trách nhiệm làm chứng và phục vụ cho sự hiệp thông không chỉ của cộng đoàn đang tham dự trực tiếp vào buổi cử hành, nhưng còn của Giáo Hội hoàn vũ, vốn là thành phần của mọi cử hành Phép Thánh Thể. Phải lấy làm tiếc, nhất là từ những năm sau cuộc cải tổ phụng vụ hậu-công-đồng, vì nhận thức lệch lạc về tính sáng tạo và thích nghi, mà đã có một số lạm dụng gây nên đau khổ cho nhiều người”
[70].
31.     Theo lời cam kết trong nghi lễ Truyền Chức Thánh và hằng năm được lặp lại trong Lễ Dầu, các linh mục phải cử hành “cách sốt sắng và trung thành các mầu nhiệm của Đức Kitô, đặc biệt nhất là trong Hy Tế Thánh Thể và bí tích hoà giải, theo truyền thống của Giáo Hội, để ca tụng Thiên Chúa và thánh hoá dân kitô-hữu”
[71]. Như thế, các ngài không được làm cạn đi ý nghĩa sâu sắc của sứ vụ đặc thù của mình, mà làm biến dạng một cách tuỳ tiện việc cử hành phụng vụ bằng những thay đổi, những bỏ sót hay những phần thêm thắt.[72] Quả nhiên, như lời thánh Ambrôsiô : “Giáo Hội không bị thương tổn nơi mình, [….] nhưng nơi chúng ta. Vậy, chúng ta hãy coi chừng đừng làm Giáo Hội bị thương tổn do lỗi của chúng ta”[73]. Vậy, phải ân cần đừng để Giáo Hội của Thiên Chúa bị các linh mục làm tổn thương, các ngài là những người đã tự hiến chính mình cho sứ vụ một cách trọng thể như thế. Trái lại, các ngài phải ân cần theo dõi một cách trung thành, dưới quyền của Giám mục, đừng để những người khác mắc phạm những hành động như thế làm biến dạng phụng vụ.
32.     “Cha quản xứ cố gắng để Phép Thánh Thể Chí Thánh trở nên trung tâm của cộng đoàn giáo xứ ; ngài cố gắng làm cho tín hữu được hướng dẫn và nuôi dưỡng nhờ việc cử hành sốt sắng các bí tích và đặc biệt họ thường xuyên lãnh nhận Thánh Thể và bí tích thống hối ; ngài cũng hãy cố gắng hướng dẫn các tín hữu biết cầu nguyện, kể cả việc cầu nguyện trong gia đình, và biết tham dự cách ý thức và tích cực vào Phụng Vụ thánh mà, chính ngài với tư cách là quản xứ, dưới quyền của Giám mục giáo phận, phải lo điều hành trong giáo xứ mình và phải theo dõi đừng để xảy ra những lạm dụng”
[74]. Để chuẩn bị một cách thoả đáng các cử hành phụng vụ, đặc biệt là Thánh Lễ, cha quản xứ nên nhờ nhiều tín hữu khác giúp mình ; tuy nhiên, không một trường hợp nào ngài được nhường cho họ những gì thuộc riêng phần sứ vụ của ngài về mặt phụng vụ.
33.     Sau hết, tất cả “các linh mục phải chăm lo trau dồi kiến thức và nghệ thuật phụng vụ, để nhờ việc các ngài thi hành phụng vụ mà những cộng đoàn kitô-hữu được trao phó cho các ngài biết ca ngợi Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần mỗi ngày một hoàn hảo hơn”
[75]. Nhất là, các ngài phải thấm nhuần những tâm tình khâm phục và kinh ngạc, mà mầu nhiệm vượt qua, cử hành trong Thánh Thể, làm nảy sinh trong lòng các tín hữu.[76]
4.   CÁC PHÓ TẾ
34.     Các phó tế, “những người được đặt tay không phải để lãnh nhận chức tư tế, mà là để phục vụ”
[77], phải là những người có danh thơm tiếng tốt,[78] và phải ăn ở thế nào để, nhờ ơn Thiên Chúa giúp, các thầy được nhìn nhận là những môn đệ đích thật của Đấng,[79] “đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ”[80] và đã ở giữa các môn đệ của mình “như người phục vụ”[81]. Hơn nữa, các phó tế được thêm mạnh sức nhờ ơn Chúa Thánh Thần mà các thầy đã lãnh nhận bằng việc đặt tay, để phục vụ dân Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với Giám mục và linh-mục-đoàn của ngài.[82] Cho nên, các thầy phải xem Giám mục như một người cha, và phải giúp đỡ ngài cũng như giúp các linh mục “trong thừa tác vụ rao giảng lời, bàn thờ và bác ái”[83].
35.     Các thầy không bao giờ được bỏ qua “như lời Thánh Tông Đồ nói, mà không gìn giữ mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch,
[84] và không công bố đức tin này bằng lời nói và hành động của mình, trung thành với Tin Mừng và với truyền thống của Giáo Hội”[85], bằng cách phục vụ hết lòng, trung thực và khiêm nhượng, Phụng Vụ thánh như nguồn suối và tột đỉnh của đời sống Giáo Hội, “để mọi người, nhờ đức tin và phép rửa, trở nên con cái Thiên Chúa, cùng nhau quy tụ ngợi khen Thiên Chúa giữa lòng Giáo Hội, thông phần Hiến Tế và ăn Tiệc của Chúa”[86]. Như vậy, tất cả các phó tế, mỗi người cho phần vụ của mình, bắt buộc phải làm thế nào để Phụng Vụ thánh được cử hành theo các quy tắc có trong các sách phụng vụ đã được phê chuẩn hợp lệ.
 

Chương II
SỰ THAM DỰ CỦA GIÁO DÂN
VÀO VIỆC CỬ HÀNH BÍ TÍCH THÁNH THỂ
1.   MỘT SỰ THAM DỰ TÍCH CỰC VÀ Ý THỨC
36.     Việc cử hành Thánh Lễ, như là hành động của Đức Kitô và của Giáo Hội, là trung tâm của cả đời sống kitô-hữu đối với Giáo Hội hoàn vũ cũng như địa phương, và đối với mỗi người tín hữu,
[87] “mà nó có liên quan cách khác nhau với từng chi thể, tuỳ theo khác biệt về phẩm trật, phận vụ và sự tham dự sống động.[88] Bằng cách này, dân kitô-hữu, “là dòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, là dân được cứu chuộc”[89] biểu lộ sự kết hợp chặt chẽ và cách tổ chức phẩm trật của nó”[90]. Chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về yếu tính, song cả hai bổ túc cho nhau ; thực vậy, cả hai, đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình”[91].
37.     Nhờ phép rửa, mọi tín hữu của Đức Kitô được giải thoát khỏi tội lỗi của mình và sáp nhập vào Giáo Hội ; vậy do ấn tích của phép rửa, họ được cử vào việc phượng tự của Kitô-giáo,
[92] để, căn cứ vào chức tư tế vương giả,[93] kiên trì cầu nguyện và ca ngợi Thiên Chúa,[94] họ dâng hiến chính con người mình làm lễ vật sống động, thánh thiện, làm vui lòng Thiên Chúa và chứng thực một tiến vật như thế bằng tất cả việc làm của họ.[95] Họ làm chứng cho Chúa Kitô khắp nơi trên thế giới, và, trước mọi người chất vấn họ, họ không ngần ngại trình bày về niềm tin của họ về một đời sống bất diệt.[96] Do đó, chính việc tham dự của giáo dân vào việc cử hành Thánh Thể và những nghi lễ khác của Giáo Hội không thể chỉ là một sự kiện đơn thuần, hơn nữa thụ động, nhưng nó phải được coi là một sự luyện tập thật sự của đức tin và phẩm cách của phép rửa.
38.     Giáo lý không thay đổi của Giáo Hội về bản tính của Phép Thánh Thể, được xem chẳng những như là một bữa tiệc, mà còn và trước hết là một hy tế, một cách chính xác được coi như là một trong những chìa khoá chính để hiểu và thực hiện việc tham gia đầy đủ của tất cả các tín hữu vào một Bí Tích cao trọng dường ấy.
[97] “Bỏ đi giá trị hy tế của nó, Thánh Thể chỉ có ý nghĩa và giá trị của một cuộc gặp gỡ thân hữu trong một bữa tiệc thông thường mà thôi”[98].
39.     Để xúc tiến và biểu lộ việc các tín hữu tham dự cách tích cực, việc canh tân các sách phụng vụ mới đây, theo những ý định của Công Đồng, đã góp phần phát triển các lời tung hô của dân chúng, những lời đáp, việc hát thánh vịnh, các điệp ca, các bài hát, cũng như những hành động hay cử điệu, và những tư thế của thân thể, và việc canh tân đó đã quan tâm ấn định việc thinh lặng thánh khi cần thiết, đồng thời cũng dự trù, trong phần chữ đỏ, những phần thuộc về các tín hữu.
[99] Hơn nữa, có dành một phần rộng rãi để tự do thích nghi hợp thời, được căn cứ trên nguyên tắc là mỗi cử hành phải được thích ứng với nhu cầu của người tham dự, cũng như với khả năng của họ, với sự chuẩn bị nội tâm và tài năng riêng của họ. Trong mỗi cử hành, có rất nhiều khả năng để lựa chọn các bài hát, các giai điệu, các lời nguyện và các bài đọc kinh thánh, cũng như trong khuôn khổ bài giảng lễ, trong việc soạn thảo kinh nguyện của các tín hữu, trong những lời huấn dụ đôi khi được công bố, và trong việc trang hoàng nhà thờ theo mùa phụng vụ. Những yếu tố này phải góp phần làm nổi bật cách rõ ràng hơn sự phong phú của truyền thống phụng vụ, và, luôn chú trọng đến các nhu cầu mục vụ, chúng góp phần cẩn thận mang đến một ý nghĩa đặc biệt cho việc cử hành, nhằm mục đích giúp cho tham dự nội tâm. Tuy nhiên, phải nhớ rằng hiệu quả các hành động phụng vụ không nằm trong việc thay đổi thường xuyên các nghi lễ, nhưng thực ra trong việc đào sâu lời Thiên Chúa và mầu nhiệm được cử hành.[100]
40.     Dù không thể chối cãi rằng việc cử hành phụng vụ có đặc tính là việc tham dự của các tín hữu phải tích cực, nhưng không phải do đó cần thiết mọi người, theo nghĩa cụ thể, phải làm cái gì khác hơn những cử điệu và tư thế thân thể đã được dự liệu, như là mỗi người cần đảm nhiệm một chức vụ đặc thù trong lãnh vực phụng vụ. Đúng hơn phải làm thế nào, khi dạy giáo lý, ân cần quan tâm sửa chữa các quan niệm và thực hành nông cạn đã phổ biến về chỉ định này ở một số nơi, trong những năm gần đây, và phải làm sao, khi dạy giáo lý, ân cần không ngừng khơi lại nơi các tín hữu ý nghĩa đổi mới của lòng khâm sùng sâu sắc đối với đặc tính cao cả của mầu nhiệm đức tin này, là Phép Thánh Thể. Trên thực tế, trong cử hành Thánh Thể, Giáo Hội không ngừng đi “từ cái cũ đến cái mới”[101]. Quả nhiên, trong cử hành Thánh Thể, cũng như trong cả đời sống kitô-hữu, mà Phép Thánh Thể ban cho sức mạnh và hướng về đó, Giáo Hội, như thánh Tông Đồ Tôma, sụp lạy, phụng thờ Chúa chịu đóng đinh, chịu chết, chịu mai táng và phục sinh “trong sự huy hoàng viên mãn của Thiên Chúa, và Giáo Hội liên tục thốt lên : ‘lạy Chúa tôi và Thiên Chúa tôi’”[102].
41.     Để khơi dậy, xúc tiến và làm tăng trưởng ý nghĩa nội tâm của sự tham dự phụng vụ, việc cử hành chuyên cần và kéo dài Giờ Kinh Phụng Vụ tỏ ra rất hữu ích, cũng như việc dùng các á-bí-tích và các việc thuộc lòng đạo đức bình dân Kitô-giáo. Những thực hành đạo đức này, “mang một phẩm cách và tầm quan trọng đặc biệt, tuy theo mặt luật chặt chẽ mà nói, không thuộc Phụng Vụ thánh”, phải được giữ lại vì sự liên hệ của chúng với việc tổ chức phụng vụ, nhất là khi chúng được chính Huấn Quyền phê chuẩn và ca tụng 
[103]; việc này có giá trị đặc biệt cho chuỗi Mân Côi.[104] Hơn nữa, vì những thực hành đạo đức này đưa dân kitô-hữu năng lui tới các bí tích, nhất là với bí tích Thánh Thể, “cũng như suy gẫm các mầu nhiệm Ơn Cứu Chuộc chúng ta hay noi gương các thánh, chính nhờ đó, chúng góp phần giúp chúng ta tham dự việc phụng tự theo phụng vụ với rất nhiều ơn ích cứu độ”[105].
42.     Cần nhìn nhận rằng Giáo Hội không được thành lập bởi quyết định của loài người, nhưng được Thiên Chúa triệu tập trong Chúa Thánh Thần và bằng đức tin, Giáo Hội đáp trả với lời kêu gọi nhưng không của Ngài : quả nhiên, từ ekklesia liên quan đến klesis, có nghĩa là “kêu gọi”
[106]. Vậy, người ta không thể kể Hy Tế Thánh Thể theo nguyên nghĩa “đồng tế” của linh mục với dân chúng hiện diện.[107] Trái lại, Thánh Lễ do các linh mục cử hành là một quà tặng “triệt để vượt trội quyền hạn của cộng đoàn [….]. Để thực sự là một cộng đoàn thánh thể, cộng đoàn cùng nhau quy tụ để cử hành Thánh Thể tuyệt đối cần một linh mục đã được truyền chức để chủ toạ. Mặt khác, cộng đoàn không có khả năng tự cung cấp cho mình thừa tác viên có chức thánh”[108]. Tất cả cần phải được khẩn cấp khởi công ngay để loại bỏ mọi nhập nhằng trong lãnh vực này, và sửa chữa các khó khăn nảy sinh trong những năm gần đây. Vì thế, chỉ phải sử dụng cách cẩn thận các từ ngữ như “cộng đoàn đồng tế” (communauté célébrante, assemblée célébrante) được dịch ra trong nhiều ngôn ngữ hiện đại khác bằng những từ “celebrating assembly”, “asamblea celebrante”, “assemblea celebrante”, và những từ khác thuộc loại này.
2.   NHỮNG CHỨC NĂNG CỦA GIÁO DÂN TRONG VIỆC CỬ HÀNH THÁNH LỄ
43.     Vì lợi ích của cộng đoàn và của toàn thể Giáo Hội Thiên Chúa, thật là công bình và đáng khen, trong hàng giáo dân, có một ít người, theo truyền thống, thi hành một số chức năng trong khuôn khổ của việc cử hành Phụng Vụ thánh.
[109] Nên có nhiều người chia sẻ với nhau để chu toàn các chức năng khác nhau, hay những phần khác nhau của cùng một chức năng.[110]
44.     Thêm vào các thừa tác vụ giúp lễ và đọc sách được thiết lập,[111] trong những chức năng đặc biệt, được nêu trên đây, có những chức năng của người giúp lễ [112]và người đọc sách,[113] được cử tạm thời, thêm vào đó có những chức năng khác được miêu tả trong Sách Lễ Rôma,[114] và cả những chức năng chuẩn bị bánh lễ, giặt giũ đồ phụng vụ và những chức năng khác tương tự. Để phụng vụ của Giáo Hội được diễn biến cách xứng đáng và thích hợp, tất cả, “thừa tác viên có chức thánh hay giáo dân, khi thực hiện thừa tác vụ hay chức năng của mình, phải làm tất cả những gì thuộc về mình và chỉ những điều ấy mà thôi”[115], trong chính khi cử hành phụng vụ cũng như trong lúc chuẩn bị.
45.     Phải tránh mối nguy cơ làm lu mờ tính bổ sung giữa sự hoạt động của các giáo sĩ và sự hoạt động của giáo dân, để phận sự của người giáo dân không bị, như người ta nói, là “giáo sĩ hoá”, và các thừa tác viên có chức thánh, về phần mình, không cáng đáng không đúng luật những gì thuộc riêng về đời sống và hoạt động của giáo dân.
[116]
46.     Người giáo dân, được kêu gọi phụ giúp trong các cử hành phụng vụ, phải được chuẩn bị hợp lệ và được chọn thể theo đời sống kitô-hữu, đức tin, hạnh kiểm và lòng trung thành của họ đối với Huấn Quyền của Giáo Hội. Nên cho đương sự được đào tạo về mặt phụng vụ thích hợp với lứa tuổi, địa vị, lối sống và trình độ tôn giáo của họ.[117] Đừng chọn bất cứ ai mà việc chỉ định có thể gây ngạc nhiên cho các tín hữu.[118]
47.     Hoàn toàn đáng ca ngợi việc duy trì tập quán đặc biệt là sự hiện diện các trẻ em hay các thanh niên - thường được gọi là “người giúp lễ” hay “thiếu nhi cung thánh” -, các em giúp việc bàn thờ như các tá viên giúp lễ, và, tuỳ theo khả năng của chúng, được bồi dưỡng giáo lý thích hợp với công việc của chúng.[119] Đừng quên rằng, trong số các trẻ giúp việc bàn thờ này, suốt bao thế kỷ, đã cho vô số thừa tác viên có chức thánh.[120] Để cung ứng có hiệu quả các nhu cầu mục vụ cho các trẻ giúp việc bàn thờ này, cần thiết lập và xúc tiến cho các em những đoàn thể, và kêu gọi cả cha mẹ các em tham gia và giúp đỡ. Khi các đoàn thể loại này đạt đến chiều kích quốc tế, Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích có nhiệm vụ thiết lập các đoàn thể đó, hay xem xét và phê chuẩn quy chế của chúng.[121] Các thiếu nữ hay các phụ nữ có thể được chấp nhận giúp việc bàn thờ, tuỳ theo sự phán đoán của Giám mục giáo phận ; trong trường hợp này, phải theo các quy tắc được thiết lập về vấn đề này.[122]
 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn