1
07:30 +07 Thứ năm, 02/05/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 220

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 219


Hôm nayHôm nay : 19239

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 69632

Tổng cộngTổng cộng : 28188880

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » VĂN HÓA - LẼ SỐNG

Tương quan giữa Giáo Hội với Nhà nước tại Việt Nam

Thứ năm - 02/05/2013 17:10-Đã xem: 1478
Trong hoàn cảnh khó khăn của Giáo Hội vào thời điểm đó, Thư Mục vụ đã đưa ra một đường hướng mục vụ sáng suốt, thích hợp với tinh thần tha thứ, lòng yêu thương, thái độ dấn thân và phục vụ của Tin Mừng. Trong Hội thảo kỷ niệm 25 năm Thư Mục vụ này, ông Trần Bạch Đằng phát biểu một câu rất ý nghĩa: “Người Công giáo Viêt Nam có thể tự hào về lá Thư chung 1980 vì tinh thần đổi mới của nó đã góp phần thúc đẩy quyết tâm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986”
Tương quan giữa Giáo Hội với Nhà nước tại Việt Nam

Tương quan giữa Giáo Hội với Nhà nước tại Việt Nam

TƯƠNG QUAN GIỮA GIÁO HỘI VỚI NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM [1]

Kitô giáo tự bản chất là một tôn giáo nhập thể và nhập thế. Theo giáo huấn của Đức Kitô, Giáo Hội không thể đứng bên lề lịch sử hay ngoài trần gian, mà cũng chẳng có thể đồng hóa với bất cứ một chế độ chính trị, một hệ thống kinh tế hay một nền văn hóa nào. Nhưng suốt dọc hơn 2000 lịch sử, Kitô giáo đã giới thiệu nhiều cách thể sống, hình thức diễn tả và mô hình Giáo Hội khác nhau. Có thể nói mỗi mô hình là một cố gắng cụ thể của người tín hữu để thể hiện chương trình của Thiên Chúa, trong những bối cảnh văn hoá, chính trị, xã hội, kinh tế nhất định nào đó. Từ các mô hình này sẽ nẩy sinh những khác biệt trong lãnh vực thần học và mục vụ, cũng như cơ cấu tổ chức và tương quan với xã hội trần thế.

Những dòng dưới đây là một vài nét sơ thảo về mối tương quan giữa Giáo Hội Công giáo và Nhà nước tại Việt Nam từ giũa thế kỷ XX đến nay.  

1- Giáo Hội mở cửa ra thế giới

Chủ trương “canh tân và thích nghi” nói chung và đường hướng đối thoại với thời đại nói riêng đã khai mở một giai đoạn mới trong tương quan giữa Giáo Hội Công giáo với thực tại trần thế. Tất cả được khơi nguồn nhờ một con người đặc biệt: Đức Chân phước Gioan XXIII. Sau triều đại dài của đức Piô XII, một số người nghĩ rằng Đức Gioan XXIII sẽ chỉ là một Giáo Chủ “tạm thời” và không gây nhiều chuyện cho giáo triều. Nào ngờ ngày 25 tháng giêng năm 1959, nghĩa là chỉ gần 90 ngày sau khi đảm nhận trọng trách kế vị thánh Pherô, vị “Giáo chủ chuyển tiếp 78 tuổi” này đã bất ngờ công bố một quyết định quan trọng: triệu tập Công đồng Vatican II. Quyết định này gây ngạc nhiên cho rất nhiều người, đặc biệt là Hồng y đoàn[2].     

Bất chấp mọi chướng ngại vật, Đức Gioan XXIII luôn lạc quan và tin tưởng, nhất quyết thực hiện công cuộc canh tân và cải tổ Giáo Hội. Trong bài giảng ngày tấn phong, ngài đã bộc lộ “quyết tâm đảm nhận một cách nghiêm chỉnh sứ vụ giám mục Roma, giám mục của một Giáo Hội địa phương, anh em của tất cả giám mục hoàn vũ”. Ngài ý thức sâu xa là Giáo Hội lúc đó quá xa lạ với con người và thế giới hiện đại. Nhiều dân tộc và nhiều vùng văn hóa đang ở ngoài tầm nhìn cũng như tầm ngắm của giáo triều. Ngài đặc biệt quan tâm đến các Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Công giáo, các nước đang phát triển, cũng như các nước cựu thuộc địa.

Trong diễn văn khai mạc Công đồng ngày 11 tháng 10 năm 1962, ngài yêu cầu các Kitô hữu cần can đảm và sáng suốt khám phá sự hiện diện nhiệm mầu của Đấng Quan phòng giữa những thăng trầm và biến đổi của xã hội nhân loại. Theo ngài, nếu trong quá khứ, Giáo Hội không ngừng chống lại những sai lầm và “đã thường xuyên khắt khe kết án chúng. Hôm nay, Hiền thê của Đức Kitô thích xử dụng phương thuốc của lòng từ bi nhân hậu hơn là biện pháp hà khắc. Giáo Hội nghĩ rằng sẽ trả lời tốt hơn cho những những nhu cầu của thời đại bằng cách làm sáng tỏ các giá trị phong phú nơi đạo lý của mình hơn là kết án”[3].

Khi bế mạc khoá I của Công đồng, Ngài đã long trọng lặp lại một lần nữa ước vọng thâm sâu của ngài: “Công đồng sẽ đích thực là “lễ Hiện Xuống mới”, làm cho Giáo Hội được triển nở trong nguồn năng lực nội tại và mở rộng ra tất cả mọi lãnh vực của hoạt động nhân loại”[4].

Ngày 11-4-1963, đức Gioan XXIII công bố thông điệp “Hòa bình trên trái đất”. Đây là thông điệp đầu tiên không những gửi đến các giám mục và người Công giáo, mà còn gửi đến tất cả “những người thành tâm thiện chí”, trong một thế giới đa văn hóa và đa tôn giáo. Thông điệp mở đầu với xác tín tâm linh: “Hòa bình trên thế giới, ước nguyện thâm sâu của tất cả nhân loại trải qua dài đời lịch sử, chỉ có thể thiết lập và củng cố khi người ta nghiêm chỉnh tôn trọng trật tự thiết định bởi Thiên Chúa”[5].

Ở giai đoạn chiến tranh lạnh đó, người ta vẫn nghĩ rằng “hòa bình chỉ có thể thực hiện được dựa trên sự quân bình về vũ trang”. Đối với thông điệp, chính cái “lôgíc chạy đua vũ trang” sẽ đẩy nhân loại vào ngõ cụt “đau thương tàn khốc”. Vì vậy, Đức Gioan XXIII kêu gọi nhân loại “khẩn cấp ngưng các cuộc chạy đua vũ trang, và các nước hiện đang sở hữu võ khí cần giải trừ binh bị và hủy bỏ võ khí nguyên tử”[6]. Nhưng nhân loại chỉ thực sự giải trừ vũ khí này, khi thực hiện được “cuộc giải giới toàn diện, nghĩa là một cuộc giải giới trong tâm hồn”. Nói rõ hơn, cần thay thế quan niệm về “xây dựng hòa bình dựa trên sự quân bình vũ khí để xây dựng hòa bình dựa trên lòng tin tưởng lẫn nhau”[7].

Mối tương quan giữa người Công giáo với những người thuộc các ý thức hệ và các tôn giáo khác cũng được cải thiện một cách đặc biệt nhờ thái độ ngôn sứ của Đức Gioan XXIII. Thông điệp “Hòa bình trên thế giới” đề nghị chấm dứt “giai đoạn đối đầu – thù hận” để khai mở  cuộc đối thoại giữa Công giáo với Cộng sản. Nơi thông điệp, chúng ta tìm gặp hai biện phân quan trọng về lý thuyết, mang tính khai mở và định hướng cho hoạt động chính trị – xã hội của người Công giáo:

Nguyên tắc thứ nhất, đòi hỏi phải biện phân sáng suốt “giữa sai lầm với người sai lầm (…). Bởi vì, mặc dù sai lầm, con người không phải vì thế bị tước bỏ điều kiện làm người, và cũng chẳng bao giờ tự động bị tước mất phẩm giá con người”[8].

Nguyên tắc thứ hai là phân biện sáng suốt giữa lý thuyết triết học với các trào lưu lịch sử trong lãnh vực chính trị – xã hội. Thông điệp viết: “Cũng rất cần thiết phân biệt giữa các lý thuyết triết học sai lầm về bản tính, nguồn gốc, cùng đích của thế giới và con người với những trào lưu kinh tế và xã hội, văn hóa hoặc chính trị, mặc dù các trào lưu này bắt nguồn và gợi hứng từ các lý thuyết triết học nói trên. Một học thuyết khi đã được kiến tạo và xác định thì không còn thay đổi nữa. Trái lại, các trào lưu nói trên, vì phát triển giữa những điều kiện đổi thay, do đó đương nhiên lệ thuộc vào sự biến thiên không ngừng. Ngoài ra, ai có thể phủ nhận rằng trong mức độ mà các trào lưu này cố gắng thích ứng với tiếng nói của lý trí và phản ánh một cách trung thực nguyện vọng chính đáng của con người, có thể chứa đựng những yếu tố tích cực đáng được chấp nhận?”[9].

Công đồng Vatican II cố gắng thể hiện đường hướng đối thoại này qua hiến chế “Giáo Hội trong thế giới hôm nay”. Dưới ánh sáng Tin Mừng, Công đồng đặc biệt tìm hiểu “thuyết vô thần” và coi đó là “một trong những sự kiện quan trọng nhất ở thời đại chúng ta”. Theo Công đồng “vô thần hiện đại” là một hiện tượng phức tạp và đa dạng: “Có người minh nhiên phủ nhận Thiên Chúa, có người lại nghĩ rằng con người không thể quả quyết gì về Thiên Chúa. Một số người khác trình bày vấn đề Thiên Chúa theo cách thức làm cho nó như mất hẳn ý nghĩa. Nhiều người đã vượt quá giới hạn khoa học thực nghiệm để chủ trương rằng chỉ duy lý luận khoa học giải thích tất cả, hoặc trái lại, cho rằng không có chân lý nào là tuyệt đối. Có người lại quá đề cao con người đến nỗi làm cho niềm tin nơi con người trở nên vô nghĩa, hình như họ muốn đề cao con người hơn là chối từ Thiên Chúa. Một số khác tự vẽ lên một hình ảnh về Thiên Chúa, để rồi Đấng mà họ bác bỏ chẳng liên hệ gì với Thiên Chúa của Tin Mừng… Chủ nghĩa vô thần nói chung không phát sinh do một nguyên nhân duy nhất, nhưng do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến phản kháng chông lại các tôn giáo, và đặc biệt ở một vài nơi, phê phán chính Kytô giáo. Vì thế, các tín hữu có thể chịu phần trách nhiệm không nhỏ trong việc khai sinh vô thần, hoặc bởi sao lãng việc giáo dục đức tin, hoặc trình bày sai lạc về giáo lý, hoặc do những thiếu sót trong đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội”[10].

Khi phân tích vô thần có hệ thống, Công đồng đặc biệt để ý đến chủ nghĩa Cộng sản:  “Trong số những hình thức vô thần hiện nay, người ta không thể bỏ qua hình thức vô thần nhằm giải phóng con người, nhất là về phương diện kinh tế và xã hội. Hình thức vô thần này cho rằng tôn giáo, tự bản chất, cản trở công cuộc giải phóng nói trên, bởi vì khi hướng tâm trí con người về niềm hy vọng ở cuộc sống vị lai và hão huyền, tôn giáo đã làm cho họ xao lãng việc xây dựng xã hội trần thế. Do đó, khi những người chủ trương lý thuyết vô thần này nắm quyền, họ sẽ kịch liệt chống lại tôn giáo, sử dụng tất cả mọi thứ áp lực của công quyền, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục thanh thiếu niên, để truyền bá lý thuyết vô thần”[11].

Trung thành với Thiên Chúa cũng như với con người, Công đồng không thể không tiếp tục lên án chủ nghĩa vô thần với tất cả sự cương quyết, như đã từng lên án trước đây[12]. Nhưng đồng thời Công đồng tha thiết kêu mời mọi người, có tín ngưỡng hay vô thần, phải cộng tác với nhau để xây dựng một thế giới tiến bộ và nhân bản hơn. Đặc biệt, đối với các tín hữu, Công đồng nhắc lại rằng cần phải “tôn trọng và yêu thương ngay cả những người không cùng cảm nghĩ hoặc đường hướng hành động với chúng ta trong lãnh vực xã hội, chính trị hay tôn giáo nữa. Thực vậy, càng cố gắng tìm hiểu cảm nghĩ của họ với nhân ái và yêu thương, chúng ta càng dễ dàng để thiết lập một cuộc đối thoại với họ”[13].  

Sau khi lặp lại biện phân lịch sử của đức Gioan XXIII và áp dụng vào các trào lưu lịch sử nói chung và trào lưu xã hội nói riêng, đức Phaolô VI yêu cầu các Kitô hữu cần có một nhận định sáng suốt, bởi vì dưới danh xưng trào lưu xã hội chứa đựng nhiều phong trào và mô hình xã hội rất khác biệt. Chủ nghĩa Mác là một trong các dạng thức của phong trào xã hội và ngay trong lòng chủ nghĩa Mác cũng có nhiều khuynh hướng hay phe nhóm khác nhau. Trên thực tế, có người coi chủ nghĩa Mác là một chủ trương triệt để đấu tranh giai cấp; có người lại nhìn nó như một hình thức “dân chủ tập trung”, dưới quyền lãnh đạo của một Đảng duy nhất; một số người đề cao chủ nghĩa Mác như một phương pháp phân tích xã hội có khả năng đưa ra một phê phán có tính khoa học về thực trạng xã hội; nhiều người khác lại quan niệm chủ nghĩa Mác như một ý thức hệ vô thần, xây dựng trên chủ nghĩa duy vật lịch sử và phủ nhận mọi chiều kích siêu việt.

Vào giai đoạn đó, một số người Công giáo dấn thân trong lãnh vực xã hội thường đề cao giá trị phân tích của chủ nghĩa Mác và cho rằng có thể tách rời phương pháp phân tích xã hội này khỏi những yếu tố cấu trúc khác, như quan niệm về con người, chủ trương vô thần, đấu tranh giai cấp… Đức Phaolô VI sáng suốt cảnh báo: “Nếu trong chủ nghĩa Mác hiện thực có thể phân biệt các chiều kích khác nhau đó, những chiều kích đang đặt ra cho các Kitô hữu nhiều nghi vấn để suy nghĩ và hành động, thì quả là ảo tưởng và nguy hiểm lãng quên mối tương quan chặt chẽ nối kết chúng với nhau”[14].

Nói chung, cuộc canh tân và thích nghi của Vatican II đã khai mở một mùa xuân cho Giáo Hội Công giáo, đồng thời đã tháo gỡ nhiều rào cản trong hoạt động chung giữa người  Công giáo với những người thuộc các tôn giáo và ý thức hệ khác. Giáo Hội Công giáo tích cực dấn thân vào con đường phục vụ vừa mang tính Tin Mừng, vừa thấm đượm tình người. Ngoại trừ một số nhỏ Giáo Hội địa phương vẫn luyến tiếc cơ chế cũ, đại đa số các Giáo Hội đã hăng hái dấn thân xây dựng một thế giới công bằng, phát triển, nhân ái và an hòa hơn.

Đây cũng cũng là giai đoạn năng động và nhiều sáng kiến nhất trong lãnh vực tư tưởng, với nhiều cuộc gặp gỡ, đối thoại, tọa đàm, hội nghị giữa Công giáo với Cộng sản[15]. Những cuộc đối thoại này như thổi thêm sinh khí vào một số hoạt động chung nhằm kiến tạo hòa bình và tranh đấu cho công bằng xã hội vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70. Nhưng chẳng bao lâu những khó khăn ập tới và niềm lạc quan ban đầu giảm dần theo năm tháng. Theo nhiều chuyên viên, để cuộc đối thoại này thực sự triển nở, cần thiết một “canh tân & thích nghi”  khác trong lòng các phong trào Cộng sản thế giới. Cho dù đã chuyển từ một “stalinisme cứng rắn” sang một “stalinisme ôn hòa”, các Đảng Cộng sản cầm quyền ở giai đoạn đó vẫn quá giáo điều, độc tài, khép kín. Chính vì vậy, những cuộc đối thoại nói trên cuối cùng cũng chẳng đi tới đâu, vì chỉ là những trao đổi bên lề giữa các trí thức Công giáo cấp tiến với các trí thức tân mác-xít hay mác-xít phi truyền thống.

II- Biến chuyển về nhận thức nơi người Công giáo Việt Nam

Do vòng xoáy của lịch sử và điều kiện nghiệt ngã của thời cuộc, nhiều lần trong quá khứ mối tương quan giữa Giáo Hội và Nhà nước ở Việt Nam đã rơi vào tình trạng bế tắc, căng thẳng, xung đột, bạo động… Đôi lúc người Công giáo Việt Nam hầu như không còn cơ hội để chọn cái tốt hơn, mà đành phải chọn cái ít xấu hơn giữa những giải pháp nghiệt ngã. Có những lần hoàn cảnh cũng không cho phép người Công giáo đảm nhận đồng thời vai trò “công dân tốt” và “Công giáo tốt”, mà hầu như bó buộc phải chọn lựa một trong hai. Với ước nguyện “ôn cố tri tân”, chúng ta cùng nhau nhìn lại một cách sơ lược vấn đề phức tạp này.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Điện Biên Phủ thất thủ và giấc mộng bá chủ của thực dân Pháp tan vỡ thê thảm. Cùng với các đồn bốt cuối cùng của Pháp, các làng tự trị Công giáo cũng theo nhau hạ súng. Nhưng hiệp định Genève đã chia đôi đất nước và lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới cho hai Nhà nước và hai ‎ý thức hệ đối kháng. Cơn lốc chính trị mới xuất hiện, kéo theo một cuộc di cư vĩ đại chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Hơn một triệu người Công giáo bỏ miền Bắc di cư vào miền Nam, với 2/3 số linh mục và 6/10 giám mục miền Bắc vĩ tuyến 17.

Sau cuộc di cư, Giáo Hội miền Bắc mất quá nhiều nhân lực và sinh lực. Tiếp đến, trong cuộc cải cách ruộng đất, đầy nước mắt và máu, rất nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân bị tù tội, trong khi đó ruộng đất của Giáo Hội bị tịch thu. Thế rồi, khi Nhà nước Việt Nam quyết định xây dựng Xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên Xô & Trung quốc thì các tín đồ Công giáo càng bị khinh miệt và loại trừ. Người Công giáo không những không được làm công nhân viên Nhà nước, mà cũng chẳng được vào Cao đẳng hay Đại học. Ngay cả việc thi hành nghĩa vụ quân sự cũng không được phép, mà chỉ được làm dân công tải lương thực và đạn dược cho chiến trường. Mãi đến giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh chống Mỹ, mới có sự hiện diện của thanh niên Công giáo trong quân đội.

Giáo Hội miền Bắc trở thành một Giáo Hội thầm lặng và bị cô lập với thế giới bên ngoài, cũng như với đồng bào và xã hội chung quanh. Các Giám mục hoàn toàn bị cắt đứt mọi liên lạc với Tòa Thánh. Chẳng có giám mục nào tham dự Công đồng Vatican II và mãi đến sau năm 1975 các văn kiện của Công đồng mới bắt đầu được phổ biến ở miền Bắc. Trong suốt thời chiến tranh lạnh, Công đồng chẳng có ảnh hưởng gì trên người Công giáo miền Bắc.

Giáo Hội miền Nam, trái lại, được tăng nhân lực và khí thế do hàng giáo sĩ và giáo dân di cư thổi vào. Chiêu bài “bất cộng đái thiên” (không đội trời chung với Cộng sản) được triệt để khai thác. Sự hiện diện của Tổng thống Công giáo càng làm cho nhiều người xác tín nơi lí‎ tưởng xây dựng một Việt Nam tiến bộ, độc lập, tự do và hữu thần. Nhiều giáo sĩ và giáo dân có vị thế quan trọng trong chính quyền Miền Nam. Một số làng Công giáo di cư được xây dựng như một thứ “pháo đài chống Cộng”.

Thư chung 1960 của các giám mục miền Nam tiếp tục nói về vấn đề “Cộng sản vô thần” để giúp người tín hữu “thấu hiểu nó nguy hại và nham hiểm đến mức nào trong việc tiêu diệt đức tin của chúng ta”. Sau khi khẳng định giữa học thuyết Công giáo và Cộng sản “không thể đi đôi với nhau”, Thư chung kết luận: “Muốn cho Đạo thánh được nguyên vẹn, người Công giáo phải phủ nhận lý thuyết Cộng sản và những áp dụng của nó đến tận cùng”. Để củng cố cho lập luận ở trên, Thư chúng 1960 trích dẫn nhiều khoản của Thư chung 1951[16].

Giáo Hội Công giáo được ưu đãi, có nhiều ảnh hưởng và muốn góp phần vào việc tìm một giải pháp cho Việt Nam. Người Công giáo hăng say dấn thân vào tất cả các lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, bác ái, từ thiện… Nhưng sau cuộc đảo chính 1963 và cái chết bi thảm của ba anh em gia đình họ Ngô, một số người đã ngỡ ngàng nhận ra cái ảo tưởng và cái giá của con đường độc lập – tự do theo “mô hình Mỹ”. Sau một thời gian chao đảo vì cuộc đảo chính 1963, Giáo Hội đã tái lập mối tương quan với Nhà nước của Đệ II Cộng hòa và tiếp tục ủng hộ “chủ nghĩa Quốc gia”. Vì thế, có thể nói Giáo cũng chia sẻ phần nào những ưu và khuyết điểm của chế độ này!

Công đồng Vatican II, hướng đi của Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI đã giúp một số tín hữu Công giáo miền Nam Việt Nam thức tỉnh và thay đổi quan điểm về chiến tranh và hòa bình. Xuất hiện “Phong trào Công giáo” chống chiến tranh và kêu gọi hòa bình. Họ không chấp nhận chống Cộng sản bằng bất cứ giá nào và cho đến người cuối cùng. Nổi bật nhất là những người mệnh danh “Công giáo tiến bộ”, gồm cả linh mục lẫn giáo dân, thuộc nhiều phong trào và nhóm khác nhau. Một số sự kiện nổi bật nhất của “Phong trào” này là: Lá thư của “Một số Linh mục Việt Nam trước vấn đề hòa bình của dân tộc”(1-1-1966); việc thành lập “Phong trào Công giáo xây dựng hòa bình” (24-11-1970); Thỉnh nguyện thư gửi Giáo quyền của 10 Linh mục Việt Nam và 2 Linh mục người Mỹ (1-10-1971) yêu cầu xét lại tinh thần Thư chung 1951, v.v…

Trong thực tại lịch sử của giới Công giáo miền Nam lúc bấy giờ, “Phong trào Công giáo tiến bộ” chẳng có ảnh hưởng bao nhiêu trên đại chúng. Nhiều người còn cho rằng họ ảo tưởng, ngây thơ và làm lợi cho Cộng sản hay thuộc loại Cộng sản nằm vùng. Trên thực tế, các diễn biến sau 1975 hình như đã kiểm chứng một số dư luận trước đây về một số thành viên của phong trào này.

Nhiều người đã nhận ra thế kẹt của người Miền Nam nói chung và giới Công giáo nói riêng trước gọng kìm của các thế lực quốc tế và cơn lốc thời đại. Một mặt, chủ nghĩa Mác cổ điển vẫn chủ trương “đấu tranh giai cấp”, “chuyên chính vô sản”, “duy vật biện chứng” và coi “tôn giáo là thuốc phiện”, vì vậy nhiều thành phần khác của dân tộc tiên thiên bị loại trừ hay bị liệt vào “công dân hạng hai hay hạng ba”. Mặt khác, nhiều vị lãnh đạo ở miền Nam vẫn nhất quyết lấy cuộc chiến vì lý do ý thức hệ để biện minh cho tất cả. Thêm vào đó, các thế lực chính trị đã khéo léo lợi dụng sự đối kháng này để phục vụ cho ý đồ riêng.

Trong rất nhiều trường hợp, câu nói “giữa Quốc gia và Cộng sản, không thể đội trời chung”hình như đã trở thành một thứ nguyên tắc! Đối diện với sự đối kháng nghiệt ngã này, hầu như không còn giải pháp thứ ba, chỉ có thể một mất một còn và hệ luận tất nhiên của nó là phải chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng. Hòa bình, nếu có, chỉ có thể thực hiện khi hoàn toàn tiêu diệt hay đè bẹt đối phương[17].

Nguy hiểm nhất là các thế lực ngoại bang đều biết khai thác, lợi dụng chiêu bài chống Cộng. Một số người, vì nhiều lý do, đã trở thành lực lượng hậu thuẫn cho chúng. Những thân phận ấy bị hút vào cơn lốc “giống như những chiếc lá mà giông bão cuốn lên, tan tác mọi ngả, rồi tự rơi xuống”.

Tuy nhiên, cuối cùng quan điểm của Vatican II, của đức Gioan XXIII  và nhất là của đức Phaolô VI đã ảnh hưởng tích cực trên nhận thức và thái độ của các Giám mục Việt Nam đối với cuộc chiến. Đối diện với cuộc chiến tranh ngày càng tàn khốc tại Việt Nam, đức Phaolô VI tuyên bố, với tư cách một người lãnh đạo tôn giáo, ngài không thể không lên tiếng. Kể từ lễ Giáng sinh năm 1964, Ngài đã đưa ra nhiều đề nghị và sáng kiến hòa bình cho Việt Nam bằng con đường thương thảo. Ngày 13-2-1965, Ngài gửi thư cho các giám mục Việt Nam để chia sẻ những nỗ lực vận động của Ngài cho hòa bình Việt Nam. Trong cuộc triều yết ngày 29-11-1965, Ngài cho biết “hằng mong ước cùng cầu nguyện để được thấy ngày mà tiếng súng sẽ im bặt và nền hòa bình thực sự sẽ chiếu dọi trên đất nước Việt Nam, trong niềm hân hoan và hòa hợp dân tộc”[18]. Qua Thông điệp Mân Côi, ngày 15-9-1966, Ngài lại kêu gọi hai Miền Nam Bắc chấm dứt chiến tranh và thương thuyết.

Hơn thế nữa, Ngài đã gửi Đặc sứ là TGM Sergio Pignedoli tới Sàigòn để gặp gỡ các giám mục Việt Nam từ ngày 30-9 đến ngày 6-10-1966 nhằm thúc đẩy tinh thần hòa bình và hòa giải. Nhờ cuộc gặp gỡ và trao đổi này, các giám mục Việt Nam đã hoàn toàn hiệp nhất với Đức Giáo chủ để lặp lại lời kêu gọi thiết tha: “Nhân danh Chúa, xin  hãy dừng lại. Hãy gặp gỡ nhau, hãy đi tới bàn hội nghị, hãy thành thật thương thuyết. Ngay bây giờ hãy giải quyết các mối bất hòa tranh chấp, dù có phải chịu thiệt thòi chút ít, vì thế nào rồi cũng phải hòa giải, nhưng có lẽ với nhiều tai họa thảm khốc hơn, mà hiện nay không ai lường được”[19].

Cũng chính đức Phaolô VI đã tiếp kiến phái đoàn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do ông Xuân Thủy dẫn đầu, mà từ chối tiếp kiến ông Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Sự kiện này khiến cho nhiều người ở Miền Nam lúc đó rất ngỡ ngàng và bất bình với Vatican.

Nhưng đã bắt đầu hình thành một số biến chuyển ngày càng rõ nét trong nhận thức của hàng giáo sĩ về chiến tranh và hòa bình. Thông cáo ngày 5 tháng giêng năm 1968 được xem như một lời kêu gọi hòa bình, thúc giục người Công giáo hành động cho hòa bình, trước hết bằng cách thực thi một đời sống tốt lành, phù hợp với Tin Mừng, bằng lời cầu nguyện và bằng học hỏi về hòa bình chân chính. Đây cũng là lần đầu tiên, các giám mục miền Nam nhắc đến nhà cầm quyền Miền Bắc: “Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi thiện chí của chính quyền hai miền Nam và Bắc, hãy cùng nhau kiến tạo hòa bình. Nhân danh Thiên Chúa, xin hãy dừng lại! Hãy gặp nhau, hãy đi đến bàn hội nghị, hãy thành thật thương thuyết”[20].

Thư luân lưu 1969, nhân dịp cuộc họp thường niên của Hội đồng Giám mục Miền Nam, tiếp tục suy tư, nghiên cứu và thảo luận về vấn đề “làm sao góp phần xây dựng hòa bình”. Từ viễn quan Kitô giáo, các giám mục nhận định: “Hòa bình phải là thăng tiến nhân quyền. Hòa bình là trật tự trong công lý và khôn ngoan, là sự hòa hợp của cộng đồng Dân tộc để cùng nhau mưu cầu công ích, là kết quả của tình thương quảng đại bao dung, xóa bỏ hận thù, là nỗ lực không ngừng để cải thiện đời sống xã hội và đem ích chung cho mọi tầng lớp người dân”[21]

Trong Thông cáo tháng 7 năm 1971, các giám mục ý thức rằng Việt Nam đang rơi vào cơn lốc của lịch sử và vòng xoáy của cuộc chiến tranh bi thảm do Hoa Kỳ và Liên Xô lãnh đạo: “Cả Bắc lẫn Nam, Việt Nam đang bị giằng co giữa hai thế lực tranh giành ảnh hưởng. Người Việt Nam đang là nạn nhân của tình trạng quốc tế chúng tôi vừa phác họa trên đây”. Với tư cách mục tử, các giám mục “muốn cho đất nước này được tự do, dân chủ, trong đó, mọi tự do – nhất là tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng – được bảo đảm chắc chắn”[22].

Trong Thư chung ngày 3-2-1973, công bố một tuần lễ sau Hiệp định Paris về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”, các giám mục nhắc lại những nỗ lực vận động cho hòa bình của đức Phaolô VI và của Hội đồng Giám mục Việt Nam, đồng thời cũng lặp lại quan niệm Kitô giáo về một nền hòa bình đích thực. Lại một lần nữa các giám mục miền Nam trực tiếp đề cập đến chủ nghĩa duy vật vô thần. Các vị cũng dự đoán rằng trong tương lai “sẽ diễn ra cuộc xung đột ý thức hệ rút gọn nằm trong cuộc tranh chấp đại qui mô hết sức gây cấn trên khắp tòan cầu, giữa hai quan niệm về đời sống: một bên là vô thần và duy vật dưới mọi hình thức và một bên là Thiên Chúa, Đức Kitô, Phúc Âm, Giáo Hội, với tất cả những giá trị thiêng liêng của con người”[23].


( Còn nữa )...

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn