1
13:00 +07 Thứ hai, 29/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 298

Máy chủ tìm kiếm : 3

Khách viếng thăm : 295


Hôm nayHôm nay : 45417

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 435504

Tổng cộngTổng cộng : 27989788

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » TẬP SAN & NGUYỆT SAN

Năm đức tin theo thánh Tô-ma (Bài 12&13)

Thứ sáu - 28/12/2012 07:35-Đã xem: 1311
Trong kinh Tín biểu các thánh tông đồ, liền sau lời tuyên xưng về Chúa Thánh Thần là lời tuyên xưng về Hội thánh, theo bản dịch tiếng Việt là: “Tôi tin Hội thánh hằng có ở khắp thế này”.
Năm đức tin theo thánh Tô-ma (Bài 12&13)

Năm đức tin theo thánh Tô-ma (Bài 12&13)

ĐỀ TÀI: Tôi tin Giáo hội thánh thiện công giáo  (bài 12)
----------------------------------------------

 

        Trước khi đọc bài giải thích của thánh Tôma về mục thứ 9 của Kinh Tin kính, xin nói đôi lời nhận xét về bản văn.

        1/ Về bản văn Kinh Tin kính

        Trong kinh Tín biểu các thánh tông đồ, liền sau lời tuyên xưng về Chúa Thánh Thần là lời tuyên xưng về Hội thánh, theo bản dịch tiếng Việt là: “Tôi tin Hội thánh hằng có ở khắp thế này”.

        Nên lưu ý là cùng một từ ngữ trong các tiếng Âu châu (ecclesia tiếng Latinh, église tiếng Pháp, church tiếng Anh) được dịch ra nhiều từ trong tiếng Việt: “Hội thánh” - “Giáo hội” - “giáo đoàn” (như vậy các danh từ này đồng nghĩa), hoặc cũng có nghĩa là “nhà thờ, thánh đường”.

        Ngoài ra, khi đối chiếu với nguyên bản Latinh, ta thấy có đôi ba chỗ khác biệt:

        a) Nguyên bản không có “tôi tin”. Động từ “Tôi tin” chỉ được nói một lần, đặt ở đầu vế thứ ba chứ không lặp lại ở mỗi mục: “Credo in Spiritum sanctum, sanctam Ecclesiam catholicam...”.  Thực ra, thánh Augustinô đã phân biệt giữa hai cấp độ tin:

        - đối với Chúa Thánh Thần thì nói: Credo in Spiritum (tôi “tin kính”);

        - đối với Hội thánh thì chỉ là: Credo ecclesiam (tôi tin “có” Hội thánh).

        b) Có hai tính từ đi kèm theo “Giáo hội”, đó là: sancta (thánh thiện) và catholica (phổ quát).

        - “thánh thiện”: đây không phải là sự thánh thiện của các phần tử Giáo hội, nhưng là sự thánh thiện nhờ được kết hợp với Thiên Chúa, nhờ ơn Ngài tuyển chọn. Tư tưởng này không hoàn toàn mới mẻ, bởi vì dân Israel đã được gọi là “dân tộc thánh” (Xh 19,6; Đnl 7,6; 26,19). Đặc tính này được thánh Phêrô áp dụng cho dân mới của Thiên Chúa (1Pr 2,9). Tuy nhiên, vào thế kỷ II và III, bởi vì có những giáo phái tự nhận mình là thánh thiện và chê Giáo hội là chứa chấp những kẻ tội lỗi, cho nên các giáo phụ đã nhấn mạnh đặc tính “thánh thiện”, để nói rằng chỉ trong Giáo hội mà chúng ta mới tìm thấy ơn cứu độ và sự thánh thiện do Chúa Thánh Thần ban.

        - “phổ quát”; theo nguyên gốc Hy lạp, catholica có nghĩa là tổng quát hoặc phổ quát. Vào thời các giáo phụ, đặc tính này được gán cho Giáo hội nhằm chống lại các lạc giáo hoặc ly giáo, bởi vì những nhóm này chỉ hoạt động trong một vài địa phương đang khi Giáo hội hiện diện khắp nơi.

        2/ Chú giải của thánh Tôma

        - Dựa theo tín biểu của công đồng Constantinopolis I, thánh Tôma kê ra bốn đặc trưng của Giáo hội: “duy nhất, thánh thiện, phổ quát, tông truyền”. Như vậy là thêm hai đặc tính nữa: “một” (una) và “tông đồ” (apostolica). Tính “duy nhất” (một) đã được nhắc đến trong Tân ước. Tính tông đồ được các giáo phụ (chẳng hạn như thánh Irênêô) thêm vào để chống các nhóm ngộ giáo. Nhóm này chủ trương rằng chân lý được truyền thụ nhờ sự khai quang của các bậc danh sư đã ngộ đạo; đối lại, các giáo phụ khẳng định rằng chân lý đức tin được truyền thụ qua những giám mục kế vị các thánh tông đồ.

        - Thánh Tôma mở đầu bài giáo lý với việc móc nối tín điều về Hội thánh với tín điều về Chúa Thánh Thần bằng cách so sánh mối liên hệ giữa linh hồn với thân xác: Thánh Thần là linh hồn, nguyên ủy mang lại sự sống và sự hợp nhất cho các phần tử của thân thể.

        - “Giáo hội” ám chỉ trước hết “cộng đoàn các tín hữu” (congregatio fidelium). Ý nghĩa này sát với nguyên ngữ Hy-lạp của Tân ước: ekklesia có nghĩa là sự tập hợp, quy tụ một cộng đoàn để nghe lời Chúa. Chính ở điểm này mà Giáo hội khác với các cộng đồng, hiệp hội, xã hội khác.

        - Thánh Tôma thường nêu ra ba lý do để giải thích đặc tính “duy nhất”, “thánh thiện”, “phổ quát”. Đặc tính “vững bền” (thay vì tông đồ) được giải thích theo hai nghĩa, nhưng nghĩa thứ hai cũng có ba lý do; chính nguồn gốc “tông đồ” mang lại cho Giáo hội tính “vững bền”.

    ---------

 “Tôi tin Giáo hội Công giáo, Thánh thiện”

         Chúng ta biết rằng ở nơi con người có một linh hồn và một thân xác; thân xác lại có nhiều bộ phận. Cũng vậy, Giáo hội Công giáo là một thân thể với nhiều bộ phận khác nhau, nhưng chính Chúa Thánh Thần là linh hồn làm cho thân xác được sống động. Do đó, sau khi tuyên xưng đức tin vào Chúa Thánh Thần, chúng ta được mời gọi tuyên xưng vào Giáo hội thánh thiện công giáo, như tín biểu đã dạy.

        Nên biết rằng “Giáo hội” có nghĩa là cộng đoàn. Vì thế Hội thánh là cộng đoàn các tín hữu và mỗi Kitô hữu giống như phần tử của Hội thánh được nói đến trong sách Huấn ca (51,23): “Hỡi những người thất học, hãy tập họp lại trong ngôi nhà giáo huấn”. Hội thánh ấy có bốn đặc điểm, đó là: duy nhất, thánh thiện, công giáo và bền vững (tông truyền).

I.  Duy nhất

Trước hết, chúng ta xác tín rằng Giáo hội là một. Mặc dù các lạc thuyết đã sáng lập các giáo phái khác nhau nhưng họ không thuộc về Giáo hội bởi vì họ bị chia rẽ thành nhiều phần. Còn Giáo hội là một, như sách Diễm ca (6,8) đã thốt lên: “Bồ câu của tôi là duy nhất, là duy nhất nhưng lại hoàn hảo”. Có ba nguyên nhân tạo ra sự duy nhất của Giáo hội:

        (1) Sự duy nhất của đức tin. Thật vậy, tất cả các Ki-tô hữu đều là chi thể của một thân thể Giáo hội, đều tin vào những chân lý như nhau. Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Corintô (1Cr 1,10): “Tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em”, và với các tín hữu Êphêsô: “Một Thiên Chúa, một đức tin và một phép rửa”.

        (2) Sự duy nhất của đức cậy. Tất cả các Kitô hữu được củng cố trong một niềm hy vọng sẽ đạt đến sự sống đời đời. Do đó, thánh Tông đồ đã nói cho các tín hữu Ephêsô (4,4): Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng” .

        (3) Sự duy nhất trong đức ái. Tất cả các tín hữu được nối kết với nhau trong tình yêu Thiên Chúa và trong tình yêu đối với nhau. Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một” (Ga 17,22). Tình yêu này, nếu là chân thật, sẽ diễn tả qua việc quan tâm với nhau và thông cảm với nhau, như thánh tông đồ đã viết: “Nhưng, sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái” (Ep 4,15-16). Do đó, mỗi người phải dùng ân huệ Thiên Chúa ban cho để phục vụ lẫn nhau. Không một ai được phép thờ ơ hoặc tỏ vẻ thờ ơ đối với Giáo hội, cũng như không được phép để cho mình bị loại trừ hoặc xua đuổi ra khỏi Giáo hội, bởi vì chỉ có một Giáo hội mà trong đó mọi người được cứu; cũng tương tự như không ai ở ngoài tàu ông Noê mà có thể được cứu vớt.

II. Thánh thiện

         Về đặc điểm thứ hai là sự thánh thiện, chúng ta biết rằng  có một Giáo hội[1] khác nữa, gồm bởi những kẻ bất lương; đó là đám người được thánh vịnh nói đến: “Tôi hằng gớm ghét cộng đoàn bè lũ vô lương” (Tv 25,5). Đó là cộng đoàn xấu xa, còn Giáo hội của Đức Kitô thì thánh thiện. Thánh Tông đồ viết cho các tín hữu Corintô (1Cr 3,17): “Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,17). Vì vậy chúng ta tuyên xưng “Tôi tin Giáo hội thánh thiện”.

        Các tín hữu của cộng đoàn thánh này được nên thánh nhờ bốn điều sau đây: máu thánh Chúa Giêsu, ân sủng Chúa Thánh Thần, Chúa Ba Ngôi ngự trị và việc kêu cầu Thiên Chúa.

        (1) Thứ nhất, cũng như trong nghi thức cung hiến,  thánh đường[2] được rửa sạch theo nghĩa thể lý, thì các tín hữu cũng được tẩy sạch trong máu Đức Kitô: Đức Giêsu Ki-tô đã yêu thương chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta” (Kh 1,5). Và thư gửi Hipri (13,12) đã viết: “Đức Giêsu đã chịu khổ hình ngoài cửa thành, lấy máu mình mà thánh hóa toàn dân”.

        (2) Thứ hai, cũng như trong nghi thức cung hiến, thánh đường được xức dầu, thì các tín hữu cũng được xức dầu trong linh hồn để được thánh hóa. Nếu không thì họ không phải là Kitô hữu, bởi  vì “Kitô” có nghĩa là “được xức dầu”. Dầu thánh ấy là ân huệ của Chúa Thánh Thần như thánh Phaolô viết: Đấng xức dầu cho chúng ta là Thiên Chúa” (2Cr 1,21); và: “Anh em đã được thánh hóa, trong danh Chúa Giêsu Kitô” (1Cr 6,11).

        (3) Các tín hữu được nên thánh nhờ Thiên Chúa Ba Ngôi cư ngụ trong họ. Bởi vì bất cứ nơi nào Thiên Chúa cư ngụ thì chỗ đó là thánh. Vì thế ông Giacob đã thốt lên: “quả thật đây là nơi thánh” (St 28,16). Vịnh gia thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, nơi đền vàng rực lên toàn thánh thiện” (Tv 92,5).

        (4) Cuối cùng, các tín hữu được thánh hóa nhờ việc cầu khẩn Thiên Chúa. Thực vậy, ngôn sứ Giêrêmia thưa với Chúa: Lạy Đức Chúa, Ngài ngự giữa chúng con; chúng con được mang danh Ngài” (Gr 14,9).

        Bởi vì linh hồn chúng ta đã được thánh hóa cho nên chúng ta phải cẩn thận đừng để cho đền thờ của Thiên Chúa bị hoen ố do tội lỗi. Thánh Tông đồ đã viết: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao ? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy” (1Cr 3,16-17).

III. Công giáo

        Đặc tính thứ ba của Giáo hội là Công giáo, nghĩa là phổ quát.

        (1) Thứ nhất, phổ quát xét về nơi chốn vì Giáo hội bành trước khắp thế giới, chứ không như lạc thuyết Đônatô[3] lầm tưởng. Giáo hội là một cộng đoàn của các tín hữu và các tín hữu thì ở khắp nơi trên thế giới, vì thế Giáo hội cũng ở khắp nơi trên thế giới. Thánh Phaol ô viết cho tín hữu Rooma (1,8): “Trong khắp hoàn cầu, ai ai cũng đều nói đến lòng tin của anh em” (Rm 1,8). Và Chúa Giesu trước khi lên trời đã nói với các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Thực vậy, ngày xưa Thiên Chúa chỉ được biết đến tại vùng Giuđê, còn ngày nay, Ngài đã được biết đến trên toàn thế giới. Giáo hội gồm có ba thành phần, một phần ở trên mặt đất này, một phần ở trên trời và phần còn lại ở trong nơi luyện tội.

        (2) Thứ đến, Giáo hội là phổ quát xét về điều kiện của những con người làm phần tử, bởi vì không ai bị loại trừ, dù là nô lệ hay chủ nhân, đàn ông hay đàn bà, như thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Galat (3,28): “Không còn chuyện phân biệt nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả anh em là một trong Đức Giêsu Kitô”.

        (3) Thứ ba, Giáo hội là phổ quát xét về thời gian. Đã có người cho rằng Giáo hội chỉ tồn tại trong một thời gian nào đó thôi. Đó là một sai lầm bởi vì Giáo hội đã bắt đầu từ thời ông Abel và sẽ tồn tại cho đến tận cùng, như Chúa Giêsu đã hứa: Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Hơn thế nữa, ngay cả sau khi tận thế, Giáo hội sẽ tiếp tục tồn tại ở trên thiên đàng.

IV. Vững bền

        Đặc tính thứ bốn của  Giáo hội là vững bền.

        (1) Một ngôi nhà được coi là bền vững nếu nó dựa trên một nền móng vững chắc. Nền tảng căn bản của Giáo hội là Đức Ki-tô, như thánh Phaolô quả quyết: “Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giê-su Ki-tô” (1Cr 3,11). Ngoài ra nó còn dựa trên nền tảng thứ hai là các Tông đồ và lời dạy của các ngài. Do vậy, Giáo hội bền vững chắc chắn như sách Khải huyền đã nói: tường thành có “mười hai nền móng” và trên đó “viết tên mười hai Tông đồ” (Kh 21,14). Vì thế Giáo hội được gọi là tông truyền, và thánh Phêrô được chỉ định làm đá tảng để ám chỉ sự bền vững của Giáo hội.

        (2) Một ngôi nhà cũng được coi là bền vững khi nó không bị lung lay trước những lay động. Thế nhưng không bị sụp đổ,

        a- dù là bởi những kẻ bách hại. Ngược lại, trong thời kỳ bị bách hại, Giáo hội được tiến triển, đang khi những kẻ bách hại hoặc chống Giáo hôi thì đã quỵ ngã, đúng như lời của Chúa Giêsu: Ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương ; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt” (Mt 21,44);

        b- dù là bởi những lạc thuyết. Ngược lại, các lạc thuyết càng tăng thì càng có dịp để làm sáng tỏ chân lý hơn. Thánh Tông đồ viết: “(Các lạc giáo) chống đối chân lý là những con người sa sút trong cách phán đoán, lệch lạc trong lòng tin;  nhưng họ không tiến xa bởi vì mọi người nhận thấy sự điên rồ của họ” (2Tm 3,8).

        c- dù là bởi những cơn tấn công của ma quỷ. Thật vậy, tựa như một cái tháp, Giáo hội trở nên một nơi ẩn trú rất kiên cố cho những ai chống lại quân thù, cũng giống như thánh danh Chúa, như sách Châm ngôn đã viết: “Danh thánh Chúa như tháp kiên cố (Cn 18,10). Vì thế ma quỷ dồn hết nỗ lực để phá hủy Giáo hội, nhưng nó không tài nào thắng được, bởi vì Chúa đã hứa rằng: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi Giáo hội” (Mt 16,18). Ra như Người muốn nói: “Chúng sẽ chống lại anh nhưng chúng sẽ không thể thắng được anh” (Gr 15,20). Vì thế chúng ta hiểu được vì sao chỉ có Giáo hội của Phêrô (người được các môn đệ cử đi rao giảng tin mừng ở Italia) luôn luôn đứng vững trong đức tin, đang khi những nơi khác thì hoặc là chưa có đức tin hoặc là đức tin pha lẫn nhiều sai lầm. Giáo hội của Phêrô thì phát triển trong đức tin và thoát khỏi những sai lầm. Chẳng có gì phải ngạc nhiên về điều ấy bởi vì Chúa Giêsu đã nói với ông Phêrô rằng: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,32).
 

NĂM ĐỨC TIN VỚI THÁNH TÔMA (bài 13)

ĐỀ TÀI: (Tôi tin) các thánh thông công. Tôi tin phép tha tội

          Thánh Tôma ghép lời tuyên xưng “các thánh thông công” với “tôi tin phép tha tội”, còn Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo thì gắn mệnh đề “các thánh thông công” với lời tuyên xưng về Hội thánh “thánh thiện và phổ quát”. Các tín biểu cổ điển không đồng nhất về điểm này: có nơi coi “thông công” và “tha tội” nối dài sự “thánh thiện” của Hội thánh, có nơi thì tách ra làm ba mệnh đề riêng biệt (thánh thiện / thông công / tha tội). Vì thế việc giải thích ý nghĩa của mỗi mệnh đề cũng tùy thuộc vào mạch văn tổng quát ấy.

          - Communio sanctorum. Bản dịch tiếng Việt “các thánh thông công” không rõ nghĩa cho lắm. Thực ra nguyên bản Latinh có thể giải thích theo ba nghĩa: a) hiệp thông trong những sự thánh, nghĩa là trong các bí tích; b) hiệp thông giữa những người thánh, nghĩa là sự liên kết giữa các tín hữu với các thánh trên trời và các linh hồn đang cần được thanh luyện (theo nghĩa này Giáo hội không chỉ giới hạn vào các tín hữu ở trần thế); c) cộng đoàn họp bởi các thánh nhân (nghĩa này quảng diễn ý tưởng của mục trước: Giáo hội thánh thiện, mặc dù bao gồm nhiều người tội lỗi). Dù sao chúng ta đừng nên quên rằng trong Tân ước, tất cả các Kitô hữu đều được gọi là “thánh” bởi vì họ đã được thanh tẩy nhờ máu Đức Kitô và nhờ ơn Chúa Thánh Thần.

          - Remissio peccatorum. Trong những tín biểu cổ điển, mệnh đề này (ơn tha thứ tội lỗi) chỉ muốn lên một hiệu quả của việc gia nhập Hội thánh. Về sau, mệnh đề này được tách rời và gắn với hiệu quả của bí tích rửa tội. Bản dịch tiếng Việt “tôi tin phép tha tội” có thể gây hiểu lầm là bí tích thứ bốn (bí tích thống hối); tín biểu Constantinopolis nói rõ hơn “tôi tin có một phép rửa để tha tội”.

          Thiết tưởng nên dịch lại là “(Tôi tin) sự hiệp thông trong Hội thánh; ơn tha tội”. Dù sao, trong bài này, thánh Tôma đi theo một hướng rất độc đáo.  Khởi đi từ ý niệm “thông phần” giữa các chi thể trong thân thể, tác giả đi đến sự thông chia các ơn huệ cứu chuộc của Đức Kitô là Đầu cho toàn thân thể nhờ các bí tích. Từ đó, thánh nhân giải thích tất cả bảy bí tích của Hội thánh. Sự cần thiết của các bí tích được nêu bật qua việc đối chiếu với đời sống tự nhiên: con người cần phải sinh ra, bổ sức, ăn uống, chữa lành khi đau ốm bệnh tật. Tất cả các bí tích ấy đều mang lại ơn tha thứ tội lỗi. Sau cùng, sự “thông hiệp” còn được nhìn dưới việc chia sẻ vào những điều tốt lành mà những người yêu nhau để chung với nhau.




                              MỤC 10:  “Các thánh thông công, Ơn tha tội”

         Trong thân thể tự nhiên, hoạt động của một cơ thể giúp ích cho toàn thân thể thế nào, thì ở trong thân thể thiêng liêng là Giáo hội cũng vậy. Bởi vì tất cả các tín hữu họp thành một thân thể, cho nên  việc tốt của một người này sẽ được thông chia cho người khác. Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Rôma (12,5): “Tất cả chúng ta đều là những cơ thể của nhau. Vì thế trong các mục của Tín biểu mà các thánh tông đồ đã truyền lại, có câu “sự hiệp thông các thánh”.  Giữa các cơ thể của Hội thánh, thì cơ thể chính yếu là Đức Kitô bởi vì Người là Đầu: “Thiên Chúa đã đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh, là thân thể Người” (Ep 1,22). Vì vậy những điều tốt lành của Người được chuyển thông cho tất cả mọi tín hữu, giống như sức mạnh và năng lực của đầu được chuyển thông cho tất cả mọi cơ thể.

        Sự chuyển thông này được thực hiện nhờ các Bí tích của Hội thánh, trong đó quyền năng cuộc khổ nạn của Đức Kitô được chuyển thông để ban ân sủng tha thứ các tội lỗi. Các Bí tích của Hội thánh thì gồm có bảy.

         1. Thứ nhất là bí tích Thánh tẩy, đem lại sự tái sinh thiêng liêng. Cũng như con người không thể có đời sống thể xác nếu không được sinh ra theo thể xác, thì con người cũng không thể có đời sống thiêng liêng, tức là đời sống ân sủng, nếu không được tái sinh về mặt thiêng liêng. Sự tái sinh này là nhờ bí tích thánh tẩy. Thật vậy, Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô : “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5). Cần phải biết rằng, cũng như con người chỉ có thể được sinh một lần thì cũng chỉ lãnh bí tích Thánh Tẩy một lần mà thôi. Do đó, các Giáo phụ đã nói thêm rằng: “Tôi tin chỉ có một phép rửa”. Công hiệu của phép Rửa ở chỗ là nó tẩy sạch khỏi mọi tội xét về lỗi phạm cũng như xét về hình phạt[1]. Vì thế, những người lãnh bí tích thánh tẩy không buộc phải  làm việc đền tội, dù họ đã phạm tội nặng nề đến đâu đi nữa; và nếu họ chết liền sau khi được rửa tội thì họ được vào đời sống vĩnh cửu ngay lập tức. Cũng vì lý do ấy cho nên mặc dù việc rửa tội là một nhiệm vụ của các linh mục, nhưng trong trường hợp cần thiết, bất cứ ai cũng có thể rửa tội miễn sao tuân giữ mô thức của bí tích là : “Tôi rửa anh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Công hiệu của Bí tích này bắt nguồn từ cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô. Thánh Tông đồ viết: “Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người” (Rm 6,3). Do đó, cũng như Đức Kitô đã ở trong mồ ba ngày, thì người ta cũng  dìm trong nước ba lần[2].

        2. Bí tích thứ hai là Thêm sức. Như trẻ sơ sinh cần sức mạnh để hoạt động thì con người được tái sinh về đời sống thiêng liêng cũng cần t sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Vì vậy để có thể trở nên vững mạnh, các Tông đồ đã nhận được Chúa Thánh Thần sau khi Đức Ki-tô lên trời, như Người đã nói với họ: “Hãy ở lại trong thành Giêrusalem, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24,49). Sức mạnh này được trao ban trong Bí tích Thêm sức. Do vậy, những ai coi sóc các thiếu nhi phải quan tâm để cho chúng được lãnh bí tích Thêm sức, bởi vì bí tích này mang lại một ân sủng lớn lao. Vì vậy khi chết,  kẻ được thêm sức sẽ hưởng vinh quang lớn hơn kẻ chưa được thêm sức, nhờ ân sủng dồi dào mà họ đã  lãnh nhận.

        3. Bí tích thứ ba là Thánh Thể. Trong đời sống của thể xác, sau khi con người được sinh ra và có sức mạnh, thì cần thức ăn để duy trì và tăng cường sự sống. Đời sống thiêng liêng cũng thế: sau khi nhận được sức mạnh, con người cần thức ăn tinh thần là Thân Thể Đức Ki-tô, như Người đã nói: “Nếu các ông không ăn thịt của Con Người thì các ông sẽ không có sự sống” (Ga 6,54). Do đó, theo luật buộc của Giáo hội, mỗi Kitô hữu phải rước Mình Thánh Chúa ít là một năm một lần, theo cách thức xứng đáng và với lương tâm trong sạch, như thánh Tông đồ đã dặn: Ai ăn và uống Mình và Máu Chúa cách bất xứng (nghĩa là kẻ rước lễ khi có ý thức mình mắc tội trọng mà không xưng tội hoặc không dốc quyết sẽ chừa) là ăn và uống án phạt mình” (1Cr 11,29).

        4. Bí tích thứ bốn là Sám hối. Trong đời sống thể lý, nếu ai bị bệnh mà không dùng thuốc thang thích hợp thì sẽ chết. Trong đời sống thiêng liêng, con người bị bệnh do tội lỗi, vì thế cần thuốc để hồi phục sức khỏe. Thuốc ấy là ân sủng được ban nhờ bí tích Sám hối. Vịnh gia đã nói: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi” (Tv 103,3). Trong Bí tích Thống hối có ba việc mà hối nhân phải làm: a) thành thật sám hối, nghĩa là đau buồn về tội lỗi mình cũng như quyết tâm không tái phạm; b) xưng thú hết các tội lỗi; c) đền tội bằng các việc lành.

         5. Bí tích thứ năm là Xức dầu bệnh nhân. Trong cuộc sống trên đời, có nhiều trở ngại khiến cho con người không thể thanh luyện hoàn hảo khỏi các tội lỗi.Thế mà vì không ai có thể bước vào cuộc sống vĩnh cửu nếu không được tẩy sạch khỏi tội lỗi, do vậy cần có một Bí tích khác để thanh luyện con người hoàn toàn khỏi các tội lỗi, giải thoát họ khỏi bệnh tật và chuẩn bị tiến vào nước trời. Đó là Bí tích Xức dầu bệnh nhân. Bí tích này không luôn luôn giúp hồi phục sức khỏe thể lý, bởi vì sức khỏe thể xác không lúc nào cũng có lợi cho ơn cứu độ linh hồn. Đây là giáo huấn của thánh Giacôbê về bí tích này: “Ai trong anh em đau yếu ư ? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội thánh đến ; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh ; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Gc 5,14-15).

        6. Như thế đã rõ là chúng ta lãnh nhận được sung mãn đời sống ân sủng nhờ năm bí tích vừa kể. Tuy nhiên, các bí tích ấy cần được trao ban bởi những thừa tác viên, vì thế cần phải thiết lập Bí tích truyền chức thánh, nhờ đó  các Bí tích được phân phát. Chẳng cần phải xét đến đời sống riêng của các thừa tác viên nếu đôi khi họ sa ngã phạm tội, nhưng hãy suy xét quyền năng của Đức Kitô là nguồn gốc mang lại công hiệu các bí tích; còn các thừa tác viên này chỉ là những người phân phát mà thôi. Thánh Tông đồ viết rằng: “Chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những thừa tác viên của Đức Ki-tô, những người phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cr 4,1). Đó là Bí tích thứ sáu.

        7. Bí tích thứ bảy là Hôn phối, trong đó nếu người ta sống với lòng thanh sạch thì họ sẽ được cứu độ và họ có thể sống mà không phạm tội trọng. Đôi lúc, các cặp vợ chồng rơi vào tội nhẹ khi tình dục của họ không vượt quá những thiện hảo của hôn nhân[3]; nhưng nếu như họ vượt quá thì sẽ mắc tội trọng.

        Qua bảy Bí tích này chúng ta đón nhận ơn tha thứ tội lỗi. Vì thế trong tín biểu các thánh tông đồ, sau lời tuyên xưng “tôi tin sự hiệp thông trong Hội thánh”, chúng ta đọc tiếp “tôi tin ơn tha thứ tội lỗi”.  Các thánh tông đồ đã được trao quyền  tha tội. Vì vậy chúng ta phải tin rằng các thừa tác viên của Giáo hội có thẩm quyền tháo cởi và cầm buộc, mà họ nhận năng quyền này từ các Tông đồ và các Tông đồ đã nhận từ Đức Kitô. Trong Giáo hội, quyền tha thứ tội lỗi thì sung mãn và toàn diện, nhưng được hành sử tùy theo cấp bậc, nghĩa là lãnh nhận từ Đức thánh cha và trao lại cho các giám mục khác.

        Cũng nên biết rằng không những hiệu năng của cuộc Vượt qua của Đức Kitô mà cả công trạn của cuộc sống của Người cũng được chuyển thông cho chúng ta. Ngoài ra, tất cả ai sống trong đức mến thì cũng thông hiệp vào tất cả những điều thiện hảo mà các thánh đã thực hiện, bởi vì tất cả những ai có đức mến thì đều trở nên một, dù họ sống ở đời này hoặc ở đời sau. Vịnh gia có nói:” Con làm bạn với mọi người kính sợ Chúa” (Tv 118,63). Do đó, ai sống trong trong đức mến thì thông phần với những điều thiện được thực hiện trên toàn thế giới, và nếu ai đã làm một điều thiện cho người nào đó thì người này được thông hưởng cách đặc biệt hơn. Thực vậy, một người có thể đền tội thay cho một người khác, như ta thấy sự kiện là nhiều dòng tu đã nhận vài người cho họ được thông dự vào những thiện ích thiêng liêng của mình. Do đó, nhờ sự hiệp thông, chúng ta nhận được hai điều thiện ích. Thứ nhất là tất cả mọi người đều được thông dự những công trạng của Đức Kitô; thứ hai là những điều tốt của người này có thể thông chia cho những người khác. Vì thế, những kẻ bị tuyệt thông, bởi vì họ tách lìa khỏi Giáo hội, cho nên họ không được thông phần vào bất cứ điều tốt nào được thực hiện trong Hội thánh. Đây là một sự mất mát lớn lao hơn bất cứ sự mất mát về của cải thế trần dù rất to tác đến. Ngoài ra họ còn mắc một nguy cơ khác nữa: sự thông hiệp vào những ân huệ thiêng liêng chắc chắn sẽ ngăn cản ma quỷ cám dỗ chúng ta; vì thế ma quỷ sẽ dễ dàng chinh phục những kẻ đã bị mất những lời chuyển cầu của Hội thánh.  Đó cũng là lý do vì sao trong Giáo hội sơ khai, khi một kẻ nào bị tuyệt thông thì lập tức ma quỷ đến hành hạ thân xác người ấy[4].

 

 

Sưu tầm
 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn