1
00:19 +07 Thứ tư, 01/05/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 191

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 190


Hôm nayHôm nay : 745

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 745

Tổng cộngTổng cộng : 28119993

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » LỜI NGUYỆN TÍN HỮU

Lu-ca Tông Đồ đoàn của Đức Giê-su

Thứ tư - 17/10/2012 14:36-Đã xem: 1497
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. 3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép
Lu-ca Tông Đồ đoàn của Đức Giê-su

Lu-ca Tông Đồ đoàn của Đức Giê-su

BÀI ĐỌC : 2Tm 4, 10-17
10 Anh thân mến, anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; anh ta đã đi Thê-xa-lô-ni-ca. Anh Cơ-rét-xen đã đi sang miền Ga-lát, anh Ti-tô đi sang miền Đan-ma-ti-a.11 Chỉ còn một mình anh Lu-ca ở với tôi. Anh hãy đem anh Mác-cô đi với anh, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục vụ của tôi.12 Anh Ty-khi-cô thì tôi đã sai đi Ê-phê-xô.13 Cái áo choàng tôi đã để lại nhà anh Các-pô ở Trô-a, thì khi đến, xin anh đem theo, cũng như các sách vở, nhất là những cuộn giấy da.14 A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Chúa sẽ cứ việc anh ta làm mà trả báo.15 Cả anh nữa, cũng hãy đề phòng anh ta, vì anh ta mạnh mẽ chống lại lời chúng ta rao giảng.
 16 Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ.17 Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng.
ĐÁP CA : Tv 144
Đ.   Lạy Chúa, kẻ hiếu trung với Chúa được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang. (x c 12a)
10 Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, 11 nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng.
12 Để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.13ab Triều đại Ngài: thiên niên vĩnh cửu, vương quyền Ngài vạn đại trường tồn.
17 Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa, đầy yêu thương trong mọi việc Người làm. 18 Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG : x Ga 15,16
Hall-Hall : Chúa nói : Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Hall.
TIN MỪNG : Lc 10, 1-9
1 Một hôm, Chúa Giê-su chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.2 Người bảo các ông:
 “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. 3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này! "6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia.8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em.9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."
 
ĐÔI NÉT ĐẶC THÙ VỀ THÁNH LUCASaint_Luca
I. Ghi nhận lịch sử - phụng vụ
Thánh Luca tác giả sách Tin Mừng được mừng kính ngày 18 tháng 10 hợp với các niên lịch Byzantin, Syria và Hiêrônimô. Ngày lễ này ở phương Đông gọi là Sinh nhật thánh Luca Tác giả sách Tin Mừng, đã được đưa vào phương Tây ở thế kỷ IX và vào Rôma năm 866.

Theo truyền thống, thánh Luca người gốc Syria, có thể là Antiochia, nơi đây ngài làm nghề thầy thuốc (xem Cl 4, 14 : Người anh em chúng tôi là Lu-ca, thầy thuốc). Ngài là bạn đồng hành của thánh Phaolô trong hành trình truyền giáo lần thứ hai, khoảng năm 49, khi thánh tông đồ đem ngài theo từ Troas đến Philíp, và từ Philíp đến Giêrusalem. Ngài còn ở lại với thánh Phaolô ở Rôma, trong những ngày cuối đời của thánh tông đồ (xem 2 Tm 4, 11). Sau khi thánh Phaolô tử đạo, ngài bỏ Rôma và người ta mất dấu vết của ngài. Theo Gaudence de Brescia thì ngài đi truyền giáo ở Achia, Patras với thánh André ; còn theo thánh Hiêrônimô thì ngài đến Béotia, và trở thành giám mục thành Thèbes. Người ta không biết gì chắc chắn về cái chết của ngài. Theo một truyền thống xưa (Gaudence), có thể ngài đã chịu tử đạo với thánh André ở Patras (Hi Lạp), hưởng thọ 84 tuổi.

Thánh Luca được tôn kính như bổn mạng của các thầy thuốc và họa sĩ, vì người ta cho rằng ngài là tác giả một bức chân dung Đức Mẹ, được kính ở nhà thờ Đức Bà Cả, Rôma. Chắc hẳn đây chỉ là một truyền thuyết. Thực ra, những bức tranh đẹp nhất của ngài là ở trong những trang sách Tin Mừng của ngài.

 Khoa vẽ hình thánh thường trình bày ngài khi thì đứng chung với ba tác giả Tin Mừng khác, bên cạnh là một con bò mộng có cánh
, biểu tượng của ngài ; khi thì vẽ ngài đang viết sách Tin Mừng (tiểu ảnh trong sách Phúc Âm của Egbert, Trève), hay ngài đang vẽ Chúa Kitô trên thập giá (Zurbarán, Madrid). Nguời ta cũng vẽ ngài đang hoạ bức chân dung Đức Mẹ (Van den Weyden, Boston), hay đang chỉ về Đức Mẹ (El Greco, Tolède).


II. Thông điệp và tính thời sự
a. Lời Nguyện của ngày nhắc lại rằng Thiên Chúa đã chọn thánh Luca "để mạc khải cho những người nghèo khó mầu nhiệm tình yêu của Người, qua việc rao giảng và viết sách Tin Mừng của thánh Luca." Thực vậy, qua những dụ ngôn và tường thuật, Tin Mừng của ngài mạc khải dung mạo nhân từ của Thiên Chúa và tỏ lộ Chúa Giêsu như bạn của các người thu thuế và tội lỗi (15,2). Vì thế thi hào Đantê diễn tả thánh Lu-ca như "Scriba mansuetudinis Christi," (Văn sĩ của của Chúa Kitô nhân từ). Đức Kitô đến trước tiên là vì những người nghèo mà Người tuyên bố là có phúc (6, 20): Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó . . . Và Người công bố trong hội đường ở Nazareth "Thần Khí Chúa ngự trên tôi . . . Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo" (4, 18). Cũng như Đức Maria hát trong bài Magnificat : "Đấng Toàn Năng nâng cao những người khiêm nhường, và ban của đầy dư cho người đói khát" (1, 49.52-53).

Cũng trong lời nguyện này, chúng ta xin Chúa ban cho các tín hữu được "tâm đầu ý hợp." Trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Luca thích mô tả cộng đoàn Kitô hữu ở Giêrusalem như chỉ có một lòng một trí (1, 14). Các tín hữu đầu tiên tập hợp chung tại một nơi (2,1), chuyên cần trong tình hiệp thông huynh đệ (2,42), họ sống hiệp nhất với nhau và chia sẻ cho nhau tất cả những gì họ có (2,44). Sau cùng, lời nguyện kết thúc bằng việc nài xin ơn cứu độ cho "mọi dân tộc trên thế giới." Thực vậy, thánh Luca chứng minh rõ ràng tính phổ quát của Tin Mừng, trong sách Công vụ, nhất là qua lời rao giảng và sứ mạng của thánh Phaolô, vị tông đồ đã đem Tin Mừng tới tận Rôma, giữa lòng Đế Quốc Rôma.

b. Lời Nguyện trên lễ vật, chúng ta xin sự "chữa lành và vinh quang". Cũng thế, bài đọc Tin Mừng của ngày lễ vẽ lại cho chúng ta cảnh Chúa Giêsu sai nhiều môn đệ đi truyền giáo, đặc biệt Người nói : "Các con vào thành nào . . . hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với dân chúng : Triều đại Thiên Chúa đã rất gần anh em" (Lc 10, 9). Về "vinh quang", phụng vụ rõ ràng lấy ý tưởng của thánh Phaolô : "Chính vì thế mà Thiên Chúa đã kêu gọi anh em nhờ Tin Mừng, để anh em được hưởng vinh quang của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (2 Tx 2, 14; xem Điệp ca 2 giờ Kinh Sáng). Chúa Giêsu kêu gọi các tín hữu chia sẻ vinh quang với Người, trong cùng một sự sống thần linh, được Chúa Thánh Thần là nguồn hoan lạc làm cho sinh động : "Còn các môn đệ mới gia nhập thì được tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần" (Cv 13, 52).
c. Lời Nguyện sau hiệp lễ khích lệ chúng ta "tin vững vàng hơn vào Tin Mừng mà thánh Luca đã truyền lại cho chúng ta". Tâm điểm của Tin Mừng –quyền năng của Thiên Chúa để cứu độ mọi kẻ tin (Rm 1,16)–, có Chúa Giêsu, Lời cuối cùng và hoàn hảo của Thiên Chúa, nơi cư ngụ của Thánh Thần mà Người đổ xuống trên các tông đồ. Thánh Luca muốn chứng tỏ rằng Tin Mừng được nhắm tới và loan báo cho toàn thế giới. Là bạn đồng hành của thánh Phaolô trong một phần của các hành trình truyền giáo và trong những giờ phút cuối cuộc đời của thánh Tông đồ (xem 2 Tm 4, 9), bản thân ngài đã rao giảng trước khi viết thành sách. Và ngài cho thấy Chúa Giêsu, sau khi sai mười hai môn đệ, còn sai nhiều môn đệ khác đi truyền giáo (Lc 10). Các bản văn thánh lễ và Các Giờ Kinh Phụng Vụ mừng việc loan báo Lời này: Đẹp thay bước chân người sứ giả trên những ngọn đồi loan tin hòa bình, người sứ giả loan Tin Mừng cứu độ (Ca Nhập lễ). Con cái ngươi sẽ rao truyền vinh quang của triều đại ngươi, loan báo cho mọi người những chiến công của ngươi, vinh quang và vẻ huy hoàng của triều đại ngươi . . . (Tv 144). "Hãy tường thuật cho muôn dân vinh quang của Chúa, cho muôn nước những kỳ công của Người." (Xướng đáp bài đọc Kinh Chiều).

Bài giảng của thánh Gregoire Cả được đề nghị trong Phụng vụ giờ Kinh Sách kể lại một đoạn rất hợp thời hôm nay: "Bây giờ chúng ta hãy nghe Người (Chúa Giêsu) nói với các môn đệ mà Người sai đi rao giảng : "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ sai thợ gặt tới đồng lúa Người." Thợ gặt thì ít đang khi lúa chín đầy đồng. Chúng ta không thể không lặp lại lời này mà không cảm thấy chua xót.

Kinh nguyện là một trong những chủ đề ưa thích của thánh Luca. Tin Mừng ngài trình bày Chúa Giêsu như người thờ phượng tuyệt hảo, luôn luôn cầu nguyện và trò chuyện với Cha (3, 21; 5, 16; 6, 12; 9, 28-29; 11, 1; 22, 40-46; 23, 46). Cũng vậy, sau khi Chúa Giêsu lên trời, các Tông đồ ở Giêrusalem, "tất cả đều một lòng một trí, chuyên cần cầu nguyện, cùng với mấy phụ nữ, trong số đó có Đức Ma-ri-a, mẹ Chúa Giê-su" (Cv 1, 14). Thánh Luca dành cho Đức Mẹ một chỗ đứng quan trọng.
Các chủ đề ưa thích khác của thánh Luca là lòng thương xót, Thập giá và sự từ bỏ, nhưng nhất là niềm vui. Hồng Y Martini viết : "Thánh Luca sử dụng 5 động từ khác nhau để diễn tả niềm vui trong 27 đoạn khác nhau của Tin Mừng ngài. Chúng ta có một ví dụ cảm động về đề tài này ở chương 15" gồm các dụ ngôn con chiên lạc, đồng tiền tìm lại được và đứa con hoang đàng.
ENZO LODI
(Lm hạt Xóm Chiếu dịch)
 
 

SUY NIỆM TÔNG ĐỒ ĐOÀN CỦA ĐỨC GIÊ-SU

Muốn Hội Thánh được phát triển, cần có nhiều môn đệ Đức Ki-tô đi làm việc Tông Đồ, để tập họp thêm nhiều người vào Hội Thánh. Vì việc Tông Đồ không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là của toàn thể giáo dân biết cộng tác với các chủ chăn của mình. Do đó, ông Lu-ca đã cho chúng ta nhận thức về sứ mệnh Tông Đồ của mọi Ki-tô hữu như sau :
1.      Mọi Ki-tô hữu phải làm Tông Đồ cho Chúa.
2.      Làm Tông Đồ là làm chứng cho sự thật.
3.      Làm Tông Đồ là kêu gọi đồng loại đến gặt lúa chín.
4.      Muốn làm Tông Đồ phải được Hội Thánh sai đi.
5.      Đường Tông Đồ là đường chông gai.
6.      Tông Đồ phải sống tinh thần nghèo khó.
7.      Làm Tông Đồ là đi cấp cứu người.
8.      Muốn được bình an phải loan báo Tin Mừng.
1/ MỌI KI-TÔ HỮU PHẢI LÀM TÔNG ĐỒ CHO CHÚA.
Đức Giê-su không chỉ muốn chọn 12 người đàn ông Do Thái làm môn đệ để họ làm việc Tông Đồ cho Ngài, mà Ngài còn muốn mời gọi muôn dân trên trái đất. Đó là lý do Ngài chọn 70 hay 72 môn đệ (x Lc 10,1a). Ta biết con số 70 (theo bản văn tiếng Hipri) hay số 72 (theo bản văn tiếng Hy-Lạp) môn đệ Đức Giê-su chọn là hình ảnh con cháu ông Noe sau lụt Hồng Thủy (x St 10), mà lụt Hồng Thủy là hình ảnh tiên báo về Bí tích Thánh Tẩy ; đồng thời số 72 cũng là dòng giống dân Israel (x Xh 1,5). Do đó những ai đã nhận Bí tích Thánh Tẩy đều là giống nòi của Israel mới, để có nhiều môn đệ cộng tác vào việc Nước Thiên Chúa, như thuở xưa một mình ông Mô-sê điều hành Israel không nổi, nhạc phụ ông đã khuyên nên chọn lấy 72 vị kỳ lão để tiếp tay với ông (x Xh 18,13t).
Vào thời Tân Ước, hàng giáo sĩ là hiện thân Nhóm 12 của Đức Giê-su chọn, cũng cần phải được nhiều giáo dân cộng tác. Bởi thế, trước khi Ngài lìa biệt Nhóm Mười Một về cùng Cha, Ngài truyền lệnh cho môn đệ đi khắp thế gian tập họp môn đệ cho Ngài bằng hai việc : Làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và  dạy họ tuân giữ những Lời Chúa Giê-su đã truyền (x Mt 28, 19-20), thì công việc Mục Vụ của Hội Thánh mới đạt được kết quả cao.
Vì thế giáo huấn Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy : “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế”. Cụ thể ông Luca chỉ là một giáo dân, nghề lương y, đã theo giúp ông Phao-lô. Ông đã điều tra cẩn thận về đời sống của Đức Giê-su cũng như giáo lý của Ngài, rồi ông viết lại cho chúng ta hai tác phẩm là sách Tin Mừng và sách Tông Đồ Công Vụ. Ông Phao-lô còn nói với môn đệ Ti-mô-thê : “Dẫn Mác-co đến với tôi, vì anh ấy rất hữu ích cho việc phục vụ của tôi ; còn anh Ty-khi-cô thì tôi đã sai đi Ê-phê-sô”. Loan báo Tin Mừng có khi phải trực tiếp, có khi gián tiếp cộng tác, giúp đỡ các chủ chăn. Đan cử : Ông Phao-lô nhờ ông Ti-mô-thê đến nhà ông Các-pô ở Trôa lấy giúp chiếc áo khoác ngoài cũng như các sách vở và những cuộn giấy da (x 2 Tm 4,10-17 : Bài đọc), để ông Phao-lô không mất thì giờ vào việc phụ, một chỉ lo chu toàn sứ mệnh ngôn sứ. Như vậy việc Tông Đồ là của tập thể ý thức cộng tác với nhau để làm ứng nghiệm Lời Kinh Thánh  : “Kẻ hiếu trung với Chúa, được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang” (Tv 145/144,12a : Đáp ca).
2/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT.
Đó là lý do Đức Giê-su sai từng hai người môn đệ đi làm việc Tông Đồ (x Lc 10,1b). Không phải chỉ nhằm để họ giúp đỡ nhau, mà “đôi chứng nhân” có ý nhấn mạnh : làm Tông Đồ là đi loan báo sự thật. Vì theo theo luật Do-Thái, một điều gọi là chân lý có gía trị, phải có ít là hai người chứng (x Dnl 19,15), hầu tất cả công việc được đoán định do miệng hai, ba nhân chứng (x Mt 18,16). Nhưng chứng của hai hay nhiều người có khi còn gia tăng sự gian ác, như các chứng gian trong phiên tòa xử Đức Giê-su ! Vậy “cặp chứng nhân’’ chỉ có gía trị khi người Tông Đồ của Chúa ý thức sống những điều sau :
·         Mến Chúa phải yêu người (x Mt 22,34).
·         Làm trước rồi dạy sau (x Mc 6,30).
·         Phá hủy để xây dựng (x Gr 1,10).
·         Đau khổ đến vinh quang (x Lc 24,26).
·         Nô lệ mới làm chủ (x Mc 10,35).
·         Lãnh nhận để dâng hiến (x Mc 10,28t).
·         Đời  này đạt đời sau (x Lc 19,9).
Sống được những đòi hỏi như trên là dọn chỗ tâm hồn đồng loại cho Đức Giê-su đến để ban phát ơn cứu độ (x Lc 10,1b).
3/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ KÊU GỌI ĐỒNG LOẠI ĐẾN GẶT LÚA CHÍN.
Đức Giê-su nói : “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2a).
Thợ gặt ít : Suốt ba năm Đức Giê-su chọn và huấn luyện các Tông Đồ (Nhóm 12). Thế mà khi Ngài về trời, chỉ còn 11 người được Ngài sai đi. Đấy là thiếu về lượng! Còn về phẩm chất Đức Tin, thiếu mới đáng lo, vì trong số những người Đức Giê-su sai đi, có kẻ còn hoài nghi! (x Mt 28,16-17)
Muốn thêm người tham gia việc Tông Đồ, muốn bớt hoài nghi về Đức Tin, ta cần phải tích cực loan báo Tin Mừng, để quy tụ thêm nhiều người đến gặt lúa Nước Thiên Chúa, tức là đón nhận ơn cứu độ từ Hy Tế của Chúa Giê-su thiết lập, như Lời Ngài nói : “Bốn tháng có qua, mùa màng mới đến ! Này : Ta bảo các ngươi hãy ngước mắt lên mà nhìn : đồng lúa đã chín vàng chờ gặt ! Rồi kìa thợ gặt lĩnh công và thu lượm hoa mầu cho sự sống đời đời, để cho kẻ gieo một thể cùng người gặt đều hoan hỷ. Vì đây lời tục ngữ cũng thật : Người này gieo kẻ khác gặt ! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi không vất vả làm ra ! Có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa hưởng công lao của họ” (Ga 4, 35-38).
Lý do Đức Giê-su nói : “Bốn tháng có qua mùa màng mới đến” là vì người Do Thái xuống giống vào tháng 11 đến 12 (mùa Giáng Sinh) ; mùa gặt vào giữa tháng 4 (mùa Phục Sinh). Thế thì từ mùa Giáng Sinh đến mùa Phục Sinh là bốn tháng, đây là thời gian Đức Giê-su thực thi chức Tư Tế của Ngài trên trần thế, rồi Ngài về ngự bên hữu Chúa Cha hằng chuyển cầu cho tất cả những ai đến tham dự Thánh Lễ mà Hội Thánh làm hiện tại hóa Hy Tế của Chúa Giê-su. Cho nên đi dự Lễ là gặt hái hoa trái cứu độ được Đức Giê-su cùng các thánh vất vả làm ra “mùa lúa chín vàng”.
Thế mà có mấy người biết quý trọng Thánh Lễ, đúng là mùa lúa chín  thiếu thợ gặt ! Thật là chua xót đối với Đức Giê-su, mới hơn 20 thế kỷ nay, những người mang danh là Công Giáo nhất là bên Âu Châu hầu hết bỏ dự Lễ và càng không quan tâm đến việc rước lễ, không gặt hái mùa lúa chín vàng do Đức Giê-su và bao nhiêu chứng nhân đã vất vả trồng hạt Lời, và tưới bón bằng máu thịt của mình, để có mùa lúa chín chờ người gặt.
4/ MUỐN LÀM TÔNG ĐỒ, PHẢI ĐƯỢC HỘI THÁNH SAI ĐI.
Đức Giê-su dạy : “Chúng con hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2b). Cụ thể qua đời sống thánh Phao-lô, là một Biệt phái rất nhiệt tâm thờ Chúa theo Luật Mô-sê, ông đã trở thành kẻ giết Chúa (x Cv 9,4). Nhưng khi được Chúa Giê-su chộp lấy, huấn luyện và sai ông đi làm vườn nho cho Ngài, ông mới ý thức về việc Tông Đồ Ngài trao cho Hội Thánh, ông nói :“Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi ?’’ (Rm 10,14-15a) Với lòng xác tín như trên, nên ông Phao-lô trước khi đi truyền giảng Tin Mừng, ông đã đến gặp các thủ lãnh của Hội Thánh để nhận quyền Sai Đi, bằng không việc phục vụ của ông trở nên vô ích (x Gl 2,1-2).
5/ ĐƯỜNG TÔNG ĐỒ LÀ ĐƯỜNG CHÔNG GAI.
Đức Giê-su dạy : “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (Lc 10,3). Niềm tin “ở hiền gặp lành” chỉ có thể thấy đúng trong thế giới Phục Sinh. Còn đời này phải biết rằng : “Ai càng thiết tha sống chân lý, càng gặp nhiều chống đối, nhiều kẻ ghét, và cuối cùng cô đơn !” Ta cứ nhìn vào mẫu gương sống của Đức Giê-su : Ai thánh thiện bằng Ngài ? Ai thương người bằng Ngài ? Thế mà Đức Giê-su làm Tông Đồ cho Chúa Cha chưa tròn 3 năm, thì chính những kẻ đã từng thụ ơn đã đồng lõa giết Ngài ! Trên thập gía, Ngài nhìn xuống tìm những người đã thụ ơn, họ đều trốn mất! Chỉ còn lại những kẻ chế diễu Ngài ! Ngài cất tiếng kêu cứu nơi Chúa Cha, Người lại im lặng! Đến nỗi Đức Giê-su phải thốt lên : “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của Con, sao Người bỏ rơi Con ” (Mt 27,46).
Thánh Phao-lô cũng nói lên sự cô đơn này : “Vì anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; da. A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ;  Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,10a.14a.16-17).
Phục vụ Tin Mừng có chấp nhận gian khổ mới thực sự phục vụ vì yêu, chứ không phải vì thương mại, và lời rao giảng đến đổ máu mới minh chứng điều mình công bố là chân lý quan trọng nhất.
Thánh Tông Đồ ý thức con đường theo Chúa là thế, nên ông đã nói : “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập gía Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!”  (Gl 6,14). Bởi đó nếu ta theo Đức Giê-su chỉ dừng chân ở thập giá thì ta là kẻ khốn nạn nhất trên đời (1Cr 15,19), nên ta phải hướng về mầu nhiệm Phục Sinh. Chính ông Gióp lúc quá khổ, không thể lý giải sự đau khổ của mình bằng lý luận loài người. Đau khổ của ông cũng như của loài người chỉ có thể hiểu lý do, ý nghĩa và hiệu quả trong thế giới Phục Sinh, nên ông nói : “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ.Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27).
Bởi vậy, chỉ trong mầu nhiệm Phục Sinh “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13).
6/ TÔNG ĐỒ PHẢI SỐNG TINH THẦN NGHÈO KHÓ.
Đức Giê-su dạy : “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,4a) Nghĩa là phải sống theo gương Đức Giê-su : “Ngài vốn dĩ là Đấng giàu có, nhưng vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có, nhờ sự  nghèo khó của Ngài !” (2 Cr 8,9) Thì người môn đệ của Đức Giê-su cũng phải cần cù làm việc để có thu nhập cao, đạt chỉ tiêu giàu có giống Đức Giê-su, nhưng vì phục vụ Tin Mừng mà ta trở nên nghèo để đồng loại được giàu có về Đức Tin ; còn người môn đệ chấp nhận nghèo khó như Thầy Giêsu không có nơi ngả đầu (x Lc 9, 58).
Vậy người môn đệ Đức Giê-su hãy sống nghèo cách cụ thể như Ngài dạy :
+  Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép! (x Lc 10,4a : Tin Mừng).
+  Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. (Lc 10, 7-8 : Tin Mừng).
+  Chính Chúa mới là gia nghiệp đời mình. (x Tv 16/15,5)
7/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ ĐI CẤP CỨU NGƯỜI.
Đức Giê-su dạy : “Đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10,4b). Lời căn dặn này nhắc lại cho ta chuyện ngôn sứ Ê-ly-sa sai đầy tớ là anh Ghêkhaji, cầm gậy của thầy chạy mau đến nhà bà lớn thành Shu-nem để đặt gậy lên xác con trai bà, làm cho cậu hồi sinh. Đó là việc cấp bách, nên ngôn sứ Ê-ly-sa dặn đầy tớ : “Đừng chào hỏi ai” (x 2V 4,18-37). Thế thì việc loan báo Tin Mừng là hành động cứu cấp đồng loại thoát tay tử thần, nên không còn để ý đến việc chào hỏi hay từ giã ai (x Lc 9, 61t). Nghĩa là không có gì làm bận tâm để phải trì hoãn việc loan báo Tin Mừng.
8/ MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG.
Đức Giê-su dạy : “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói : “Bình an cho nhà này !” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy ; bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em”(Lc 10, 5-6 : Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an : Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ ; bằng không sự bình an trở về cho sứ giả Tin Mừng. Nói cách khác, làm Tông Đồ  là đem bình an cho môi trường sống và phát sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Lời Chúa có sức mạnh ban ơn, như Chúa nói : “Mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55,10-11). Do đó thánh Phao-lô qủa quyết rằng : “Lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu.” (1Tx 2,13).

Sưu tầm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn