1
21:06 +07 Thứ bảy, 27/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 272

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 271


Hôm nayHôm nay : 32447

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 336569

Tổng cộngTổng cộng : 27890853

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » GIÁO LUẬT & THẦN HỌC

Giá trị của tình yêu và tình dục theo luân lý ki-tô giáo

Chủ nhật - 09/06/2013 21:25-Đã xem: 1779
Trong Thông điệp Humanae Vitae: “Sự sống con người” Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói rằng: “Nhờ Hôn nhân, Thiên Chúa đã kết hợp cách khôn ngoan hai trong những thực tại lớn lao của nhân loại: Sứ mạng truyền sinh sự sống và tình yêu hỗ tương hợp pháp của người nam và người nữ, qua đó họ được mời gọi để bổ túc cho nhau trong việc trao hiến không những về thể lý, nhưng nhất là tinh thần. hay nói cách khác, Thiên Chúa đã muốn làm cho đôi vợ chồng tham dự vào tình yêu của Ngài, của tình yêu riêng mà Ngài dành cho mỗi người và qua đó, Ngài mời gọi họ giúp đỡ lẫn nhau và trao hiến cho nhau để đạt đến sự sung mãn về đời sống riêng của họ, và của tình yêu mà Ngài mang đến cho nhân loại
Giá trị của tình yêu và tình dục theo luân lý ki-tô giáo

Giá trị của tình yêu và tình dục theo luân lý ki-tô giáo

CHƯƠNG TRÌNH TẬP HUẤN
BẢO VỆ SỰ SỐNG - CARITAS VIỆT NAM

Bài trình bày:
GIÁ TRỊ CỦA TÌNH YÊU VÀ TÍNH DỤC
THEO LUÂN LÝ KITÔ GIÁO
                                              
1.  Tình yêu và sự thân mật của đôi bạn:

2.      Trách nhiệm luân lý trong tình yêu hôn nhân:

Trong thời gian chuẩn bị cho việc kết hôn, các đôi bạn trẻ thanh niên nam nữ thường có một thời gian chuẩn bị, hay còn gọi là thời kỳ đính hôn. Động cơ để đưa hai người đến với nhau và xích lại gần nhau hơn thường là do hai người đã có một cảm tình về tình yêu với nhau, hay nói cách thông thường bình dân, là đã “hợp nhãn” với nhau rồi. Chỉ có duy nhất hai người khám phá ra những cái riêng của nhau từ sự cùng rung một nhịp đập của trái tim, điều đó khiến cho hai người thuộc về nhau.
Thời gian tìm hiểu và chuẩn bị cho cuộc hành trình hôn nhân mãi mãi và trọn đời chung thuỷ là vấn đề cần thiết và quan trọng, do vậy, đôi bạn trẻ cần có một sự chuẩn bị cho việc xây dựng một nền tảng vững chắc, cần có một lưu ý đến giáo lý tiền hôn nhân, có những sự tìm hiểu về tình yêu và những cung cách sống cho phù hợp. Tuy nhiên, thời gian này dù chỉ là giai đoạn tìm hiều nhưng cũng cần phải biểu lộ một tình thương, lòng chung thành và thẳng thắn đối với nhau.
Tính dục, hiểu theo một nghĩa rộng, đóng vai trò quan trọng và thiết yếu trong giai đoạn chuẩn bị, nó liên quan đến tâm linh và thể lý, nên không thể trao hiến cho nhau cách trọn vẹn ngay từ lúc ban đầu vừa mới quen biết nhau, nguy hiểm cho cả một quá trình sống trọn đời với nhau sau này. Đừng bao giờ nghĩ chúng mình sẽ là của nhau, rồi mãi là của nhau để tự cho nhau một sự thoả mãn, một cách tự do dễ dàng, nó gây đến một hậu quả thiếu lành mạnh, chán trường và nghi ngờ trong sự dại khờ và non dạ của thưở ban đầu.

3.  Trách nhiệm luân lý của tình yêu tính dục trong hôn nhân:

Mục đích của đời sống hôn nhân có một liên hệ chặt chẽ với các mục tiêu của tình yêu tính dục. Nhưng không phải chỉ là việc sinh sản con cái mà còn là việc giáo dục con người trưởng thành. Đồng thời, cùng hỗ trợ nhau trong mọi công việc tinh thần lẫn thể chất.
Mục tiêu truyền sinh của tình yêu tính dục là một mục tiêu căn bản của hôn nhân. Hiến chế Mục Vụ số 50 khẳng định: “Tự bản chất hôn nhân và tình yêu vợ chồng được tổ chức nhằm sinh sản và giáo dục con cái. Con cái đúng là một món quà cao quý nhất của hôn nhân, góp phần rất căn bản vào hạnh phúc của cha mẹ… Vì thé, tuy không coi nhẹ các mục tiêu khác của hôn nhân, nhưng sống tình yêu vợ chồng cách đích thực và tìm được ý nghĩa cho đời sống gia đình, tất cả đều nhằm mục tiêu ấy: vợ chồng phải sẵn sàng can đảm và cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hoá và Cứu Độ, đã dùng họ để ngày ngày mở rộng và làm giàu thêm cho gia đình của Ngài. Cha mẹ phải coi việc truyền sinh và giáo dục những người đã được mình truyền sự sống cho như sứ mạng của riêng mình”.
Quan hệ tính dục chỉ có giá trị hợp pháp trong khuôn khổ hôn nhân. Kinh Thánh đã giải thích ý định của Đấng Tạo Hoá một cách đúng đắn khi coi truyền sinh là một mục tiêu thiết yếu của hôn nhân. Hôn nhân thời nào cũng được bảo đảm là đưa tới sinh sản, vì chính Chúa đã chúc phúc cho cặp vợ chồng nhân loại đầu tiên rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất” (St 1, 28) như trình thuật sáu ngày sáng tạo cho thấy.

4.  Trưởng thành trong tình yêu nhân loại:

Theo một quy luật tự nhiên, sự thu hút nhau do bản năng tính dục của hai người nam nữ khi gặp gỡ nhau. Nhưng nếu việc kết hợp tính dục chỉ dựa theo bản năng này thì chưa phải là tình yêu nhân loại đúng nghĩa. Bên cạnh hay thậm chí trước cả khi có những biểu hiện của tình yêu tính dục ấy, quan hệ giữa các phái tính phải là một sự giao tiếp cá nhân, biết kính trọng, yêu thương và quan tâm đến nhau.
Tình yêu tính dục và đức Ái Kitô giáo hoàn toàn liên kết chặt chẽ không tách rời. Tính dục nơi con người có xu hướng nội tại là tỏ lòng yêu mến người khác, luôn muốn chăm sóc, phục vụ và bảo bọc người kia. Khuynh hướng đó ngày càng được tăng trưởng nơi các thanh niên nam nữ từ khi mới bắt đầu quen nhau cho đến ngày trở thành bạn đời trăm năm của nhau.
Đôi bạn nam nữ phải trưởng thành theo cách riêng của mỗi bên để dần dần trở thành đàn ông và đàn bà thực sự. Cho nên, việc hướng dẫn, giáo dục cho các bạn trẻ khi còn là thiếu niên và ở tuổi dạy thì là điều cần thiết, nhất là phải giáo dục về trưởng thành giới tính và ý thức về mối quan hệ lứa đôi, biết trân trọng, lịch sự khi tiếp xúc với nhau.
Hội Đồng Giám mục Đức cũng dạy rằng: “Người trẻ phải tập gặp gỡ người khác phái một cách thanh lịch, không khiêu dâm. Đương sự cần biết người khác phái một cách cá biệt để dần dần dẫn đến chỗ lựa chọn để sống suốt đời người sẽ kết hôn với mình hoặc để có thể tự mình quyết định từ chối đời sống hôn nhân. Cho dù có thể có nguy cơ những cuộc tiếp xúc ấy sẽ đưa hai người tới chỗ thân mật và giao kết với nhau quá sớm nhưng không phải vì thế mà ta bãi bỏ hay nhảy qua giai đoạn cần thiết ấy để đòi trưởng thành trong khả năng yêu thương”.
 
III. Tính dục theo Luân lý Kitô giáo:

Mỗi người đều sinh ra từ người khác. Sau lưng chúng ta là cả một gia đình, một người nam và một người nữ. Hai con người gặp trong trong quá trình hôn nhân và đến một khi nào đó, họ dẫn đến một sự thân mật thâm sâu, để nảy sinh ra một con người mới.
Khi nào thì có một sự sống xuất hiện? Thời điểm này là một Ân ban của Thiên Chúa, nên cha mẹ không ai có thể nói chắc được khi nào một sự sống mới xuất hiện. Mặc dù, ta cũng khẳng định rằng dù sự sống mới xuất hiện theo các quy luật không do con người làm ra, nhưng vẫn có thể nghiên cứu các quy luật ấy và có thể kiểm soát chúng ở một mức độ nào đó. Nhưng phải luôn xác định rằng, điều mãi mãi là kỳ công bất khả xâm phạm, nằm ngoài tầm kiểm soát của loài người: đó chính là con người vừa được sinh ra.
Có thể nói, giây phút một con người được sinh ra là một giây phút linh thiêng, biểu tỏ quyền năng vô hạn của Thiên Chúa, và duy chỉ Thiên Chúa mới quyết định được đứa trẻ đó là tôi chứ không là ai khác, còn cha mẹ giỏi lắm thì cũng chỉ muốn đứa này là con trai hay đứa kia là con gái, đó chính là quyền mà cha mẹ được trao ban trong việc cộng tác với Thiiên Chúa khi thụ thai, lúc sinh đẻ, và giáo duc con cái toàn diện.
Một con người mới chào đời là đã có sự âu yếm và tình yêu trọn vẹn của hai người là cha và mẹ. Tình yêu và hoa trái của tình yêu được xây dựng trên sự khác biệt của giới tính. Sự khác biệt của giới tính không chỉ quan trọng trong việc tạo ra sự sống mới, mà nó còn thâm nhập vào toàn bộ nhân cách của người ấy, luôn luôn và mãi mãi.

1.  Cơ cấu tính dục của con người:

Sự khác biệt giữa nam và nữ là một yếu tố làm nên hai bản tính con người. Hai giới tính khác nhau bên cạnh hệ thống các tuyến khác nhau, còn do toàn bộ cơ cấu của thân thể khác nhau. Chẳng hạn, thân thể của đàn ông chắc chắn và vóc dáng to khoẻ, đàn bà thì yếu hơn nhưng khung chậu và ngực nở nang hơn. Yếu tố tâm lý và điều kiện tâm linh cũng khác biệt. Sau đây là một số khác biệt của phái nam và phái nữ:
- Đàn ông hoạt động hướng ngoại và mạnh dạn chủ động hơn. Còn đàn bà thì thụ động, ưa tự vệ, có nghị lực để chịu đựng nhiều hơn.
- Đàn ông hướng đến sự vật, quan tâm đến mục tiêu khách quan. Đàn bà chú ý tới con người và sẵn sàng hiến thân cho nhữngngười mà mình thương bằng hết cả tâm hồn và con người của mình.
- Đàn ông mạch lạc trong trình bày, sắc bén trong lý luận. Đàn bà được hướng dẫn bởi tình cảm, nhạy bén, tinh tế và trực giác.
- Đàn ông làm việc theo nguyên tắc, còn đàn bà hành động do tình yêu.
Giới tính của mỗi giới đều có những điểm mạnh và điểm yếu, và cả hai đều bổ túc và hỗ trợ nhau để làm nên một điểm chung tốt đẹp. Nếu khinh thường một giới tính nào thì xét là coi thường Đấng tạo Hóa.
Tính dục là một năng lực sáng tạo rất kỳ diệu nơi con người, nhưng do sức mạnh của nó nên tính dục cũng là một điều đáng sợ. Một khi tách các ước muốn tính dục và sự thoả mãn sinh dục khỏi toàn bộ yếu tố là tình yêu của con người, ta sẽ thấy ẩn chứa những điều không ngờ được của sự dữ. Chỉ khi nó hoà nhập vào trong toàn thể hữu thể con người, tính dục mới trở thành điều tốt đẹp, đáng yêu và có giá trị xây dựng.
Sự khác biệt giới tính nam và nữ đòi hỏi ta phải bảo vệ và tạo cơ hội phát triển các điểm của mỗi giới. Bỏ qua hay coi nhẹ hai bổn phận này là không bình thường và làm hại tới tính dục của con người.

2.  Bản chất và mục tiêu của tính dục nơi con người:

Hai giới biểu lộ sự lôi cuốn và yêu thương nhau một cách thâm sâu, xác thịt và ngây ngất trong hành vi yêu thương của tính dục. Tự bản chất, tình yêu tính dục làm cho một người tìm cách trở thành kẻ đối ngẫu của người khác giới với mình. Mọi hình thức khác của việc hoạt động tính dục đều bất toàn, nếu không muốn nói là chưa trưởng thành hay là đồi bại. Con người: “Không bao giờ có thể làm cho tính dục hoạt động một cách có ý nghĩa, nếu chỉ coi đó là một giá trị chỉ quy về mình. Trái lại, con người phải nhìn tính dục trong thế giới tương quan với người khác”.
Bản năng tính dục cũng thúc đẩy con người tìm cách duy trì nhân loại như bản năng tự bảo tồn đã thúc đẩy con người duy trì sự sống của mình bằng cách ăn uống. Đấng tạo hoá đã cho khoái lạc đi kèm việc thoả mãn với các bản năng ấy. Tuy nhiên, khoái lạc không phải là mục tiêu và cứu cánh của việc thể hiện các bản năng, mà luôn luôn đặt khoái lạc tuỳ thuộc vào mục tiêu mà nó đã được quy định để thực hiện.
Mục tiêu hay cứu cánh của tình yêu hoặc tính dục theo như thần học luân lý truyền thống thì đều hướng tới vai trò truyền sinh của hành vi tính dục. Bất cứ mục tiêu nào khác mà con người nhắm tới khi thể hiện tình yêu vợ chồng, đều đặt bên dưới vai trò cơ bản ấy. Nhưng sau này, các nhà thần học thấy rằng, bên cạnh việc truyền sinh hành vi tính dục còn có mục tiêu khác, rất tốt và rất xứng đáng, đó là phương thế bày tỏ tình yêu của hai người đối với nhau.
Sinh sản con cái là mục tiêu của tính dục, mà thiên nhiên đã quy định. Hiến chế Mục vụ của Công đồng Vaticanô II cũng dạy rằng: “Do chính bản tính của mình, định chế hôn nhân và tình yêu vợ chồng tự chúng đã được quy hướng tới chỗ sinh sản và giáo dục con cái, coi con cái như phần thưởng cao quý nhất của hôn nhân và tình yêu gia đình” (Mv 48).
Tình yêu tính dục có khả năng tạo ra một cộng đoàn. Nó ràng buộc con người lại với nhau, thân xác và linh hồn càng tham gia vào tình yêu đó nhiều, thì khả năng ràng buộc của tình yêu đó càng lớn. Tình yêu ấy sẽ tạo ra một bầu khí yêu thương, gợi lên những tâm tình biết ơn, quảng đại và vui tươi.

3. Làm chủ tính dục và những điều nghịch lại trong sự việc này:

Luân lý Kitô giáo nhìn nhận thân xác và tính dục là những công trình của Đấng Tạo Hoá. Theo Kinh Thánh, thân xác và cơ cấu tính dục của thân xác không phải là một kết quả của một nguyên lý xấu, mà là do Thiên Chúa. Do đó là một điều tốt lành, xứng đáng và có giá trị, cần phải luôn tôn kính và quý trọng.
Tính dục có một sức mạnh sáng tạo, nhưng cũng như mọi sức lực tự nhiên mãnh liệt khác, tính dục cần phải được điều khiển cách đúng đắn, cần phải nhằm mục đích phục vụ cho con người chính đáng chứ không trấn áp con người. Nếu không thì tính dục sẽ trở thành nguồn phát sinh ra những sự nô lệ, thất vọng, chán nản, ích kỷ và phá hoại.
a/ Nhân đức đoan trang và những hành vi lỗi với nhân đức này:
Đoan trang là tôn trọng những đòi hỏi để tránh bị xấu hổ trong lãnh vực tính dục. Nhân đức luân lý giúp con người đáp lại những yêu cầu của cảm giác xấu hổ trong lãnh vực tính dục là đức đoan trang. Đó là sự sẵn sàng tránh các nguy hiểm đe doạ tới sự vẹn toàn về mặt tính dục của mình, những nguy hiểm phát xuất từ những hình ảnh tưởng tượng của mình, những câu nói, những cử chỉ bên ngoài. Nhân đức ấy giúp bảo vệ và giữ sự khiết tịnh cách tốt nhất.
Bỏ qua cảm giác xấu hổ này là vi phạm tới nhân đức đoan trang ấy. Những sự vi phạm này có thể chỉ là những thiếu sót hay những tội nhẹ, nhưng cũng có thể là tội nặng. Điều này con tuỳ ở khả năng xảy ra cho mình những kích thích tính dục và những hành vi lệch lạc, không được phép, cũng như tuỳ vào mức khiêu khích và khơi gợi có thể xảy ra cho người khác.
b/ Những hành vi lỗi với nhân đức đoan trang:
- Trò chuyện: Trò chuyện cách khiếm nhã và thô lỗ về các vấn đề tính dục đã là đi ngược lại với đức đoan trang và kính trọng cần có đối với nguồn gốc sự sống.
- Đọc sách báo khiêu dâm thường là có tội, trừ khi đó là đề tài cần để nghiên cứu. Cũng đôi khi có những sách báo được phép cho những người đã kết hôn lại không thích hợp cho những đối tượng khác, những người độc thân hay còn trẻ.
- Sử dụng các phương tiện giải trí Kịch nghệ, truyền thanh, phim ảnh và truyền hình một cách không phân biệt là một trong những nguy cơ lớn đặt ra cho đức đoan trang nết na hiện nay.
- Nhìn ngắm cách đặc biệt với phụ nữ mà cảm thấy bị kích dục khi bị người ta nhìn như một đối tượng tính dục. Bởi đó, thật là thiếu đoan trang khi nhìn ngắm một cách tò mò hay còn khiếm nhã hơn nữa khi chỉ thích ngắm những thân thể khoả thân, ăn mặc không kín đáo…
- Sờ mó, một cách bình thường đụng đến thân thể mình khi tắm rửa, nhưng khi đụng chạm đến cơ quan sinh dục của mình lúc không cần thiết thì có thể dẫn đến hành động thiếu đoan trang. Đối với thân thể người khác, đặc biệt là người khác phái, cần phải tôn trọng, dè dặt và khôn ngoan, chỉ khi công việc với đức ái đòi hỏi như chăm sóc bệnh nhân thì không có gì đáng lo lắng và ngại ngùng.
- Về ăn mặc thì cần phải tôn trọng và phát huy vẻ đẹp nhưng cần phải có chừng mực, ngay cả việc trang điểm hay làm đẹp ngoại hình cho mình là điều rất trân trọng, nhưng cần lưu ý đừng đi quá mức hay cố tạo một sự khêu gợi cảm xúc cho con mắt người khác, đó là điều lỗi đức khôn ngoan và làm gương mù gương xấu.
c/ Nhân đức khiết tịnh:
Khiết tịnh là một sức mạnh luân lý giúp ta giữ vững trật tự đời sống tính dục của con người. Trật tự này thế nào là do mục tiêu và bản chất của sinh hoạt tính dục.
Khiết tịnh không phải chỉ là tiết dục, mà còn là một thái độ bày tỏ sự kính trọng đối với mầu nhiệm sự sống và đối với phẩm giá của người bạn đời.
Đức khiết tịnh giúp uốn nắn và tổ chức khả năng tính dục của ta để nó có thể phục vụ quan hệ vợ chồng cũng như nhu cầu sinh tồn của cộng đoàn.
Lý tưởng khiết tịnh của Kitô giáo là một lý tưởng khá cao. Ta thường thấy đó không phải là điều mà con người sẽ chiếm lấy một lần là xong, nhưng đó phải là một đích điểm mà con người không ngừng hướng tới và đeo đuổi.

4. Những tư tưởng liên quan đến tính dục và thiếu đức trong sạch:

a/ Những sự tưởng tượng liên quan đến tính dục là những hình ảnh trong tâm trí, những sự mơ tưởng có bản chất khiêu dâm, cách ăn mặc, sự vuốt ve sờ mó… hay các hoạt động tính dục do chính mình bày kế ra, tưởng tượng ra.
Các sự tưởng tượng tính dục xét về mặt luân lý dựa trên hai tiêu chuẩn: Thứ nhất, đáng khiển trách vì chính nội dung của chúng là phi luân hoặc vì cường độ của chúng, có thể tạo ra phản ứng tính dục. Ngoài ra, cũng cần phải áp dụng các tiêu chuẩn khác tuỳ vào các bậc sống khác nhau của đương sự.
Những sự tưởng tượng tính dục có tội là do chính nội dung của chúng, một nội dung không thể chấp nhận được trên nguyên tắc. Chủ tâm thụ hưởng các hành vi phi luân (ngoại tình, loạn luân, thông dâm, đồng tính luyến ái), tán thành những sự lỗi phạm đức khiết tịnh trong quá khứ hay tiếc nuối vì đã không khai thác những cơ hội đó, ao ước làm việc ô uế, đó là những tội nội tâm đi ngược lại đức khiết tịnh.
Những sự tưởng tượng tính dục cũng có thể bị lên án, nếu chúng bỗng trở lên mãnh liệt đến nỗi tạo ra những phản ứng tính dục. Thường ta nên loại trừ nó trước khi chúng xuất hiện lên cao tới mức trở thành những sự kích thích thân xác mãnh liệt. Bởi khi tình trạng tính dục dâng cao thì ý chí và sự tự do sẽ dần dần trở nên yếu và khó làm chủ được bản thân mình.
b/ Vấn đề thủ dâm là việc làm tự chính mình kích thích cơ quan sinh dục để tự khoái cảm cho mình lên tới cực độ, nhằm thoả mãn tính dục cách trọn vẹn. hành vi này có thể tự chính mình dụng chạm vào bộ phận sinh dục, có thể bằng một hành vi khiếm nhã với người khác phái, đồng phái, không qua giao hợp. Thường thì chỉ sự thoả mãn bằng sự kích thích chính mình, người ta gọi đó là việc tự lạm dụng mình hay phạm tội một mình.
Vấn đề này thì cha giải tội có thể dựa vào những chỉ dẫn thực tiễn sau đây để phê phán tầm mức nặng hay nhẹ của một hành vi thủ dâm: “Nếu hối nhân đã có những nỗ lực nghiêm túc để sống đẹp lòng Chúa, nếu hối nhân đã thành tâm tìm kiếm cách khắc phục thói xấu ấy và xa tránh hành vi thủ dâm, nếu hối nhân đã tránh những cơ hội có thể tránh được, đã siêng năng lãnh nhận các Bí tích và chuyên chăm cầu nguyện, nhất là trong một cơ hội nhất định nào đó hối nhân đã không đầu hàng cơn cám dỗ khi chưa chiến đấu dai dẳng và cam go, thì cha giải tội nên khoan dung xét xử trường hợp ấy”.

5. Sự giao tiếp giữa các phái tính:

a/ Âu yếm và vuốt ve:

Phong tục và thói quen của mỗi nền văn hoá đóng vai trò rất lớn trong việc gặp gỡ tiếp xúc của hai người, bởi có điều thì không chấp nhận ở nền văn hoá này thì lại trở nên một sự bình thường của nền văn hoá khác.
Những biễu hiện tình cảm giữa hai người thường được gọi chung là âu yêm và vuốt ve, từ việc cầm tay, hôn hít cho đến việc đụng chạm vào thân thể người khác phái.
Những vuốt ve và những chiều chuộng tính dục quá sớm sẽ cản trở không cho ta phát huy được một tình yêu toàn diện, trưởng thành hơn nhưng cũng khó khăn hơn. Bởi vì, tình yêu toàn diện không dừng lại nơi sự luyến ái tính dục mà còn lại sự quan tâm đến người khác cách vô vị lợi và sống tình bạn một cách tận tuỵ.
b/ Vấn đề giao hợp trước hôn nhân:
Xưa nay, việc giao hợp trước hôn nhân vẫn bị đạo đức Kitô giáo coi là một tội nặng. Thế nhưng, đây lại là một hiện tượng khá phổ biến.
Giáo huấn trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân ước mạnh dạn lên án mọi hình thức gian dâm, coi đó như hành vi ngược lại sự công chính của Nước Trời
Giáo huấn của huấn quyền cũng liên tiếp bảy tỏ niềm tin vững chắc của mình rằng giao hợp trước hôn nhân là một tội nặng, cho dù huấn quyền không làm việc ấy qua một lời định tín bất khả ngộ nào.

6. Những tội nghịch với quan hệ tính dục của hai phái tính:

a/ Mại dâm: là hành vi dùng thân xác và quan hệ tính dục của mình như một nghề để kiếm tiền sống và thỏa mãn. Vấn đề này là một tội rất nặng, bởi tính dục chỉ đúng đắn dành cho hai con người yêu nhau.
Mại dâm là hành động không vì tình yêu, mà chỉ là một bên thoả mãn dục vọng và một bên thì tìm kiếm tiền cho nhu cầu sống.
b/ Ngoại tình: là giao hợp tính dục giữa hai người khác phái trong đó ít là một người đã kết hôn. Ngoài tội phạm đến đức khiết tịnh, ngoại tình còn là sự vi phạm tới đức công bằng và sự thuỷ chung.
Ngoại tình kéo theo những hậu quả nguy hại cho tình yêu, cho sự kết hợp ổn định trong gia đình của người đã kết hôn.
Ngoại tình còn xâm phạm đến sự trung thành mà đôi bên đã hứa với nhau khi kết hôn, đối với người Công giáo thì còn là việc xúc phạm đến sự thánh hiến dây hôn phối do bí tích hôn nhân đem lại.
Hai người có thể ngăn chặn được ngoại tình khi hai người không coi nhẹ tình yêu vợ chồng, và luôn quan tâm lo lắng đến nhau cách đặc biệt và bậc nhất. Ngoại tình rất khó xảy ra nếu hai vợ chồng luôn sống tình yêu chân thành.
c/ Cưỡng dâm: Hiếp dâm là giao hợp một cách bất hợp pháp với một phụ nữ ngược với ý muốn của phụ nữ ấy. Đó không những là tội nặng lỗi đức khiết tịnh mà còn là tội nặng đối với đức công bằng. Vì đã xâm phạm cách bất công đến thân thể của phụ nữ, làm cho người phụ nữ đó ra ô nhục trong xã hội, và rất nguy hiểm đến việc xây dựng hôn nhân và hạnh phúc tương lai.
d/ Loạn luân: là giao hợp giữa người có mối quan hệ huyết tộc và thân tộc rất gần. Sự loạn luân không chỉ lỗi đức trong sạch mà còn lỗi đến đức hiếu đễ trong gia đình, một sự xúc phạm cực kỳ nghiêm trọng khi diễn ra giữa ông bà cha mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau.

7.  Những lệch lạc về tính dục và về vấn đề loạn dâm đồng giới:

Những trường hợp loạn dâm đồng giới hiện nay trở nên khá phổ biến. Có quan hệ loạn dâm đồng giới là có những sinh hoạt giữa hai người đồng giới tính. Thường thì nó chỉ là một sự thoả mãn theo cách thức thủ dâm cho nhau, không thể giao hợp mà chỉ thỏa mãn qua những nơi khác trên thân thể người cùng giới.
Kinh Thánh và huấn quyền của Giáo hội luôn coi hành vi loạn dâm đồng giới là tội. Sự đồng dâm sẽ trái ngược với tự nhiên và không thoả mãn khát vọng tính dục sâu sa nhất của hai người. Đó chỉ là một sự thay thế không đủ sức đáp ứng các nhu cầu đích thực của bạn mình và vì thế không đủ làm dấu hiệu chân thực trong tình yêu.
Những quan hệ đồng dâm thường mang tính lưỡng giả. Hai bên vừa thấy bị những tình cảm yêu thương thu hút vừa cảm thấy những tình cảm bị nghi kỵ đẩy xa nhau. Quan hệ tính dục theo lối này rốt cuộc chỉ là một sự bù trừ, nghèo nàn, đáng thương thay cho tình yêu chân thực giữa hai người khác giới.

8.      Những hình thức lệch lạc tính dục khác:

a/ Thú dâm là giao hợp và mong thoả mãn với một con thú vật. đây là một hành động mà Kinh Thánh và huấn quyền Giáo hội lên án cực lực. Hành vi xấu xa ở chỗ có cảm xúc đồi bại và thiếu suy nghĩ, mất tư cách và phẩm giá con người. Hành vi này không biểu lộ tình yêu, không dẫn đến sự sống của một người khác, mà chỉ là thoả mãn sự căng thẳng trong tính dục.
b/ Những cách thức thoả mãn tính dục thái quá: Thoả mãn tính dục thái quá là tạo sự kích thích tính dục chỉ nhờ hay ít là chủ yếu nhờ những việc làm hoàn toàn xa lạ với đời sống tính dục: như bạo dâm, tìm sự kích dục bằng cách chịu hành hạ người khác; khổ dâm là tìm kích thích tính dục bằng cách chịu đựng những hành vi tàn bạo, nhục nhã có người khác; vật dâm là tìm kích thích tính dục qua những đồ vật, quần áo, giày dép, tóc… mà không liên hệ đến một người đặc biệt nào.
Những hành vi trên đây xấu xa về mặt luân lý thế nào hẳn ta đã thấy rõ. Mặc dù, hiểu về sự căng thẳng và rối loạn nặng nề về tâm lý. Nhưng, nếu có thể làm chủ được những cách biểu hiện của các xu hướng và dục vọng của mình, từ chối những cách thoả mãn bất hợp pháp, thì người bất bình thường về tính dục cũng phải làm thế, và càng phải làm hơn nữa khi những dục vọng ấy gây nguy hại cho người khác.
 
Kết luận:

Tình yêu và tính dục trong quan hệ vợ chồng là điều đáng trân trọng, bởi vì cùng cộng tác vào trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa, để tạo ra những mầm sống mới. Đó là một giá trị cao quý, một tặng phầm vô giá mà Thiên Chúa yêu thương ân ban cho con người. Nên mối quan hệ khởi đi từ sự yêu thương, chung thuỷ, quan tâm lo lắng cho nhau cách vô vị lợi. Tình yêu của họ luôn cần phải biểu hiện một tình yêu chân chính, phục vụ nhu cầu của nhân loại, phục vụ trong thánh ý Chúa để kế hoạch sáng tạo và cứu độ của Ngài được thực hiện cách hữu hiệu và trọn hảo. Tính dục luôn phải được thi hành trong mục đích và giá trị mà Thiên Chúa đã hướng đến cho việc truyền sinh và giáo dục con người mới, nhằm mang đến lợi ích tốt đẹp và cao quý cho con người qua mọi thời đại, và nâng cao phẩm giá của con người cách đích thực và ý nghĩa.

St
Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn