1
17:24 +07 Thứ bảy, 27/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 202


Hôm nayHôm nay : 23442

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 327564

Tổng cộngTổng cộng : 27881848

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » CẦU NGUYỆN & MAN NA

Man Na Hằng Ngày

Thứ hai - 09/03/2020 09:28-Đã xem: 1016
Đúng 00 giờ ngày 04.03.2020, Tỉnh Vĩnh Phúc chính thức công bố quyết định tháo dỡ toàn bộ 12 chốt cách ly phòng chống dịch Covid 19 trên địa bàn xã Sơn Lôi sau 3 tuần phong tỏa để chống dịch. Đây là thông tin khiến nhiều người vui mừng, nhất là người dân xã Sơn Lôi vì họ sẽ được tự do đi lại, thoải mái tiếp xúc, an tâm sinh hoạt… khi xã mình không còn là “ổ dịch” nguy hiểm nữa. Để có được niềm vui này, người dân phải trải qua hơn 20 ngày “sống chậm”.



MAN NA HÀNG NGÀY 
--------------------------------------------------


Manna Lương Thực Hàng Ngày
Tuần 10 Thường niên

Thứ Hai tuần 10 Thường niên.

Thứ Ba tuần 10 Thường niên.

Thứ Tư tuần 10 Thường niên.

Thứ Năm tuần 10 Thường niên.

Thứ Sáu tuần 10 Thường niên.

Thứ Bảy tuần 10 Thường niên.

 

PHÚC THAY

Thứ Hai tuần 10 Thường niên

Lời Chúa: Mt 5, 1-12

Khi ấy, Đức Giêsu thấy đám dông dân chúng, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,

vì Nước Trời là của họ.

Phúc thay ai hiền lành,

vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.

Phúc thay ai sầu khổ,

vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

Phúc thay ai khát khao nên người công chính,

vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.

Phúc thay ai xót thương người,

vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,

vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Phúc thay ai xây dựng hoà bình,

vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,

vì Nước Trời là của họ.

Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại

và vu khống đủ điều xấu xa.

Anh em hãy vui mừng hớn hở,

vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.”

Suy niệm

Đức Đạt-lai Lạt-ma, vào mùa thu năm 1994 tại thủ đô nước Anh,

đã được mời chia sẻ về giáo huấn của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.

Một trong những bài chia sẻ đầu tiên là về các Mối Phúc.

Theo ngài các Mối Phúc dường như nói về nghiệp (karma), về nhân quả.

“Nếu bạn hành động như thế, thì bạn sẽ chịu hậu quả như thế.

Nếu bạn không hành động như thế, thì bạn cũng chẳng chịu hậu quả như thế.

Vậy rõ ràng nguyên lý nhân quả nằm ở trong giáo huấn của các Mối Phúc.”

Thật ra các Mối Phúc của Kitô giáo lại không bắt nguồn từ nguyên lý nhân quả,

dù mới đọc ta có cảm tưởng như vậy.

Các Mối Phúc bắt đầu bằng chữ “Phúc thay”,

kế đến nói lên ai là người được hưởng phúc ấy,

cuối cùng nêu lên lý do hay nền tảng của hạnh phúc ấy bằng chữ “vì”.

Hạnh phúc đích thật của người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên

do “nhân” là việc lành phúc đức của họ.

Dù sống tốt đến mấy đi nữa, thì “nhân” ấy cũng không thể sinh “quả” ấy được.

“Quả” hạnh phúc của Kitô giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người.

Điều này được diễn tả qua những lối dùng động từ ở thể thụ động:

“sẽ được ủi an, sẽ được no thỏa, sẽ được xót thương, sẽ được gọi.”

Trước khi giảng về các Mối Phúc, Đức Giêsu đã loan báo:

“Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 4, 17).

Nước Trời người Do thái mong đợi đã đến với sự hiện diện của Đức Giêsu.

Quà tặng nhưng không của Thiên Chúa đã được trao ban,

chẳng phải do công sức của con người.

Hãy mở lòng ra đón lấy Nước ấy bằng cách hối cải, bỏ đời sống cũ.

Nhưng hơn thế nữa, còn phải đón nhận một lối sống mới cho phù hợp.

Bài giảng trên Núi, và các Mối Phúc, cho thấy hướng sống

của những ai muốn đón nhận quà tặng Nước Trời với bao hạnh phúc kèm theo.

Để nhận được quà tặng vô giá ấy, để được hưởng hạnh phúc vô bờ ấy,

cần cung kính đưa hai tay để đón lấy với lòng khiêm hạ và biết ơn.

Sống theo các Mối Phúc là có thái độ trân trọng cung kính ấy.

Không đưa tay thì cũng chẳng được quà.

Nhưng không phải cứ đưa tay là có quà,

nếu Thiên Chúa không muốn cho trước khi ta xin.

Kitô giáo không dựa trên nguyên lý nhân quả.

Cung kính đưa tay là sống nghèo khó, cậy dựa vào Thiên Chúa,

là hiền lành, là chịu sầu khổ, chịu bách hại vì Đức Kitô.

Cung kính đưa tay là có lòng thương xót, có tinh thần xây dựng hòa bình,

là làm tất cả mọi sự với quả tim trong sáng, không chút vẩn đục.

Khi làm như thế chúng ta hy vọng được chạm đến Thiên Chúa,

thậm chí được nếm biết Nước Trời ngay từ đời này (cc. 3. 10).

Chúng ta có thể viết thêm những mối phúc mới

qua những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu.

Có bao niềm vui lớn nhỏ mỗi ngày mà ta cảm nhận khi sống lời dạy của Giêsu.

Chỉ khi ấy ta mói thấy thật sự lời của Ngài là Tin Mừng.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu thương mến,

xin ban cho chúng con

tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con

bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc

cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. Amen.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

 

 

MUỐI CHO TRÁI ĐẤT

Thứ Ba tuần 10 Thường niên

Lời Chúa: Mt 5, 13-16

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”

Suy niệm

Người ta thường định nghĩa Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô,

là người sống mầu nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa,

hay đơn giản là người bạn của Ngài.

Chẳng thể nào nói đến Kitô hữu mà không nói đến mối dây với Đức Kitô.

Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, khi nói chuyện với các môn đệ,

những người vừa được nghe các Mối Phúc,

Đức Giêsu lại đưa ra một định nghĩa khác về họ.

“Các con là muối cho trái đất” (c. 13).

“Các con là ánh sáng cho thế giới” (c. 14).

Thế giới này, trái đất này, nằm trong định nghĩa về người Kitô hữu.

Không có Kitô hữu sống lơ lửng giữa trời và đất.

Họ thuộc về trời và thuộc về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai sau.

Họ được sai vào thế giới này để phục vụ bằng cách biến đổi.

Muối có nhiều công dụng.

Muối dùng để bảo quản cho khỏi hư, để nêm nếm cho đậm đà, để bón phân.

Muối cần cho sự sống thường ngày con người.

Đức Giêsu dùng hình ảnh muối để áp dụng cho các môn đệ.

Họ cần cho trái đất này,

Như muối thấm vào đồ ăn, họ phải có ảnh hưởng tích cực trên trái đất.

Điều làm cho muối là muối, đó là vị mặn.

Muối trở nên nhạt thì đánh mất chính mình rồi, chẳng đáng gọi là muối nữa.

Đức Giêsu tự nhận mình là Ánh sáng cho thế giới (Ga 8, 12; 9,5; 12, 46).

Bây giờ Ngài mạnh dạn gọi các môn đệ là ánh sáng cho thế giới.

Thế giới hôm nay đã được điện khí hóa khắp nơi.

Nhưng bóng tối và bóng mờ thì chỗ nào cũng có.

Cả bên ngoài lẫn bên trong tim con người.

Bóng tối thật là một quyền lực đáng sợ mà con người phải đối diện.

Chỉ khi môn đệ mang Ánh sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng,

khi ấy họ mới có thể giúp thế giới này bừng sáng.

Thành thánh Giêrusalem ở trên núi, không sao giấu được.

Ngọn đèn được thắp lên cũng không để lấy thùng che lại.

Căn tính của người Kitô hữu cũng vậy.

Tự nó bừng sáng, tự nó quyến rũ, tự nó hồn nhiên tỏa hương.

Đừng sợ để người khác thấy điều tốt nơi mình,

nếu điều đó đưa người ta đến chỗ nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa.

Một phần ba thế giới là Kitô hữu,

bẩy phần trăm người Việt Nam là Công Giáo.

Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới hôm nay.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,

nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,

nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu,

nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,

thì thế giới này sẽ đổi khác,

Hội Thánh sẽ đổi khác.

Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.

Nếu khối bột chẳng được dậy lên,

thì là vì men đã mất phẩm chất.

Chúng con phải chịu trách nhiệm

về sự dữ trên địa cầu:

có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.

Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,

nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.

Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,

chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,

giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,

nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,

dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.

Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con,

và không cho chúng con được yên ổn.

Ước gì một tỉ người công giáo

chịu để Chúa chi phối đời mình

và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.

Như thế vũ trụ này

trở thành vũ trụ của Thiên Chúa. Amen.

 

 

ĐỂ KIỆN TOÀN

Thứ Tư tuần 10 Thường niên

Lời Chúa: Mt 5, 17-19

Khi ấy, Đức Giêsu nói với dân chúng rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.”

Suy niệm

Đã có thời người ta nghĩ rằng theo Công giáo là bất hiếu,

vì phải từ bỏ việc cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.

Nếu người chết cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống,

thì hiếu thảo đòi phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.

Nhiều người không dám theo đạo,

vì sợ theo đạo thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.

Vào thời thánh Mátthêu, một số người Do thái cũng có nỗi sợ tương tự.

Họ tin vào Đức Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài,

nhưng họ lại sợ làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do thái giáo.

Họ sợ giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê,

và không còn thuộc về dân Thiên Chúa nữa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định:

“Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.

Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (c. 17).

Luật Môsê thật ra là Luật của Thiên Chúa trao qua trung gian ông Môsê.

Môsê đã làm nhiệm vụ trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.

Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.

Bây giờ có một Đấng mới xuất hiện, là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.

Ngài biết rõ ý định của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.

Đức Giêsu không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê.

Nhưng Ngài sẽ giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa,

vì chẳng ai biết rõ ý Cha bằng Con.

Trong Bài Giảng trên núi mà ta sắp nghe trong những ngày tới,

ta sẽ thấy Đức Giêsu giải thích lại Luật Môsê như thế nào.

Hành vi đó được gọi là kiện toàn hay hoàn chỉnh.

Một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã được mở ra với Đức Giêsu.

Giai đoạn chung cục này vừa liên tục, vừa vượt quá giai đoạn cũ.

Đức Giêsu mời chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa đã ban,

nhưng theo cách giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.

Muốn trở nên hoàn thiện, muốn đón nhận Nước Trời do Ngài khai mở,

cần sống Luật Tôra đã được Ngài giải thích lại.

Người Kitô hữu gốc Do thái khi theo Đức Giêsu thì chẳng sợ mình bỏ đạo,

bỏ Lề Luật, bỏ các Ngôn sứ hay truyền thống của cha ông

Giáo huấn của Đức Giêsu đã chứa đựng cốt lõi tinh túy của Luật ấy rồi.

Làm thế nào để các Kitô hữu Á Châu cảm thấy đức tin của mình

không tạo ra sự xung đột hay đoạn tuyệt

với những giá trị của nền văn hóa mình đã lãnh nhận và đã sống?

Làm sao để mình sống viên mãn là một Kitô hữu, một người Công Giáo Rôma,

mà vẫn chẳng mất căn tính là người Việt Nam hay người Châu Á?

Chỉ cần một điều kiện, đó là thấy Kitô giáo không phá bỏ, nhưng kiện toàn

tất cả mọi giá trị cao quý có trong các nền văn hóa và tôn giáo khác.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,

Chúa đã muốn trở nên con của loài người,

con của trái đất, con của một dân tộc.

Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa

dù họ từ khước Tin Mừng

và đóng đinh Chúa vào thập giá.

Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,

một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu

sau những năm dài chiến tranh,

một quê hương đang mở ra trước thế giới

nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc

và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.

Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên

trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,

nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,

và làm một điều gì đó thật cụ thể

cho những đồng bào quanh chúng con.

Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước

bằng khối óc, quả tim và đôi tay.

Và ước gì chúng con biết khiêm tốn

cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.

 

 

CHỚ GIẾT NGƯỜI

Thứ Năm tuần 10 Thường niên

Lời Chúa: Mt 5, 20-26

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan tòa, quan tòa lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.”

Suy niệm

“Chớ giết người”, đó là một trong những giới luật quan trọng.

Dân Do thái đã nhận giới luật này từ Thiên Chúa

qua trung gian ông Môsê trên núi Xinai (Xh 20, 13; Đnl 5, 17).

Đức Giêsu không đến để bãi bỏ Luật Môsê.

Ngài nâng Luật này lên một tầng cao mới.

Không phải chỉ hành vi giết người mới là tội.

Ngay cả ai giận ghét anh em trong lòng

và biểu lộ ra bằng những lời nhục mạ, mắng chửi,

cũng phải chịu những hình phạt tương tự (c. 22).

Đức Giêsu đẩy giới răn này đến chỗ triệt để, tận căn.

Ngài tìm về cội nguồn của hành vi sát nhân nơi tâm con người.

Nếu lòng con người không còn giận ghét anh em,

và lời nói giữ được sự kính trọng, ôn hòa,

thì tội giết người hoàn toàn có thể tránh được.

Sống với nhau tránh sao khỏi những tranh chấp, cọ sát.

Đi làm hòa với người anh em trong cộng đoàn là điều khẩn trương.

Thậm chí phải để lại lễ vật sắp dâng trước bàn thánh

mà đi làm hòa với một người anh em đang bất bình với mình,

rồi sau đó mới trở lại dâng lễ vật cho Chúa (cc. 23-24).

Phải chăng người ta chỉ đến được với Chúa và được đoái nhận lễ vật

khi người ta đến được với anh em trong sự an hòa thứ tha?

Để đến được với người đang xích mích với mình,

cần khiêm hạ, ra khỏi mình và lên đường đến với người ấy.

Đi bước trước để đến với người khác, dù lỗi không thuộc về mình,

đó là cách làm hòa và làm lành những vết thương.

Hòa giải với tha nhân phải được coi là việc cần làm ngay

trước khi ta có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua việc dâng của lễ.

“Chớ giết người”, giới răn này xem ra bị coi nhẹ trong thế giới hôm nay,

một thế giới tự hào là văn minh, nhưng mạng sống con người bị rẻ rúng.

Những vụ phá thai, những tai nạn xe cộ mỗi ngày,

những cuộc chiến không ngừng giữa các quốc gia thù nghịch.

Bao cuộc khủng bố đã làm hàng ngàn người chết.

Những tội ác diệt chủng đã xóa sổ cả triệu con người.

“Chớ giết mình”, con người cũng không biết quý mạng sống mình.

Những vụ tự tử, những cái chết do sử dụng ma túy hay ăn chơi,

những bệnh tật do con người tự phá hoại thân xác mình.

Cain đã giết em là Abel vì ghen tương và giận dữ.

Tội ác đó vẫn xuất hiện mãi trên mặt đất cho đến nay.

Làm thế nào để ta biết trân trọng sự sống của người khác và của mình?

Làm thế nào để Thiên Chúa được nhìn nhận như Chủ Tể của sự sống?

Kitô hữu được mời gọi tôn trọng nhân vị của từng người,

trong trái tim, trong lời nói cũng như hành động.

vì mỗi người mang hình ảnh của chính Thiên Chúa.

Cầu nguyện

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,

xin dạy con biết phục vụ âm thầm.

Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,

xin dạy con biết yêu thương tự hiến.

Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,

xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.

Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,

xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi,

Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,

xin cho các Kitô hữu chúng con

trở thành tình yêu

cho trái tim khô cằn của thế giới.

Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,

biết sống nhờ và sống cho tha nhân,

biết quảng đại cho đi

và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh,

xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa

ở sâu thẳm lòng chúng con,

và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen.

 

 

NGOẠI TÌNH TRONG LÒNG

Thứ Sáu tuần 10 Thường niên

Lời Chúa: Mt 5, 27-32

Một hôm, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục. Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.”

Suy niệm

Bài Tin Mừng hôm nay hẳn gây sốc cho những ai nghe Đức Giêsu,

và nhất là cho chúng ta ở thế kỷ này nữa.

Đòi hỏi của Đức Giêsu mang tính tận căn, vượt quá Luật Môsê.

Không phải chỉ là tránh ngoại tình trong hành động,

mà còn phải tránh cả ngoại tình trong tư tưởng, trong trái tim,

khi nhìn người phụ nữ bằng cái nhìn thèm muốn chiếm đoạt.

Phụ nữ ở đây hẳn là người đã có chồng, đầu tóc được che khăn.

Thèm muốn ở đây không phải chỉ là một rung động tự nhiên trước vẻ đẹp,

nhưng muốn nói đến một dục vọng xác thịt được nuôi dưỡng kéo dài,

nhắm đến một tương quan bất chính với người phụ nữ ấy.

Thèm muốn này có tính chiếm đoạt.

Điều này đã được nói đến ở giới răn thứ mười:

chớ thèm muốn vợ người khác (Xh 20, 17).

Đàn ông hôm nay thấy khó tránh cái nhìn thèm muốn, chiếm đoạt.

vì phụ nữ hôm nay biết cách lôi kéo cái nhìn của họ.

Nhiều phụ nữ coi “gợi cảm” và “gợi tình” là điều cần nhắm tới.

Các quán bán cà phê đều cần những cô “có ngoại hình”.

Trong các tạp chí và trên mạng thiếu gì những hình ảnh tươi mát, dâm ô.

Chúng ta đã quen với một nền văn hóa tiếp thị bằng hình ảnh như thế.

Từ nhìn đến thèm muốn cháy bỏng, rồi dẫn đến sa ngã thực sự.

Nạn mãi dâm, ngoại tình, đổ vỡ trong gia đình vẫn là chuyện nhức nhối.

Từ đó phát sinh bao bệnh tật và tệ nạn trong xã hội.

Đức Giêsu muốn ngăn chặn cái xấu từ trong gốc rễ.

Bà Evà đã nhìn, đã thèm muốn, rồi cuối cùng đã hái trái cấm.

Từ mắt đến tim và đến tay: đó vẫn là con đường bình thường của cám dỗ.

Đức Giêsu đã dùng lối ngoa ngữ để nói lên đòi hỏi tận căn của Ngài.

Nếu mắt hay tay làm dịp cho chúng ta phạm tội về xác thịt,

thì thà mất mắt phải hay tay phải mà vào Nước Trời

còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục.

Chúng ta không hiểu theo nghĩa đen để rồi chặt tay hay móc mắt,

vì làm thế cũng chẳng khiến ta hết dục vọng.

Nhưng chúng ta hiểu mình cần phải chịu những hy sinh đau đớn

mới có thể giữ mình thanh khiết để xứng đáng với Nước Trời.

Làm sao để cái nhìn của tôi được trong sáng ngay giữa một thế giới ô uế?

Làm sao để tôi không coi người khác phái chỉ là đối tượng của dục vọng xác thịt?

Làm sao tôi có thể quay đi và nhắm mắt để được tự do?

Cầu nguyện

Như đóa sen trong đầm lầy,

xin giữ tâm hồn con thanh khiết.

Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,

xin gìn giữ mắt con.

Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,

xin dạy con biết trân trọng thân xác.

Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,

xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.

Xin nâng con lên cao

vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,

để biết tự hiến trong yêu thương.

Xin đừng để con phung phí sức lực

vào những chuyện tình cảm chóng qua,

nhưng giúp con tự rèn luyện mình

để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.

Như đóa sen trong đầm lầy,

xin giữ thân xác con thanh khiết. Amen.

 

 

CÓ THÌ NÓI CÓ

Thứ Bảy tuần 10 Thường niên

Lời Chúa: Mt 5, 33-37

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Ðức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Ðừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Ðừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Ðừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Ðức Vua cao cả. Ðừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hóa trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”

Suy niệm

Việc thề vẫn có trong các nền văn hóa nhân loại.

Người ta thề để người khác tin lời của mình hơn,

vì nếu không giữ lời thề sẽ bị các thần minh nguyền rủa.

Người Do thái từ xa xưa cũng đã có thói quen thề.

Thề là nại đến Thiên Chúa để làm chứng cho điều mình nói.

Hêrôđê Antipas đã thề hứa với cô bé con bà Hêrôđia (Mt 14, 7).

Lời thề của một người lãnh đạo như ông đã khiến ông bị kẹt.

Phêrô đã chối Thầy kèm theo những lời thề thốt (Mt 26, 72. 74),

vì ông sợ người ta không tin lời ông nói.

Đức Giêsu biết chuyện Luật Môsê cấm bội thề,

và phải giữ trọn điều đã hứa với Đức Chúa (c. 33).

Nhưng quan điểm của Ngài trong Bài Giảng trên núi là không thề gì cả.

Không cần thề để xin Đức Chúa làm chứng cho lời ta nói,

vì mọi lời ta nói, Ngài đều biết và làm chứng.

Vì những sơ xuất trong việc giữ lời thề

có thể làm Thánh Danh Đức Chúa bị xúc phạm, nên khi thề,

người Do thái thường thay Danh Chúa bằng một vật gì đó (Mt 23, 16-22).

Tương tự như ở Việt Nam, họ dùng trời hay đất để thề.

Họ cũng thề nhân danh Đền thờ Giêrusalem hay chính đầu của mình

Đối với Đức Giêsu, điều đó cũng chẳng làm nhẹ tội chút nào,

vì trời, đất, Đền Thờ, hay đầu của chúng ta cũng đều thuộc về Chúa.

Trời quan trọng vì là ngai của Thiên Chúa.

Đất quan trọng vì là bệ dưới chân Người.

Đền thờ quan trọng vì là thành của Đức Vua cao cả.

Đầu cũng chẳng thuộc quyền con người,

vì màu trắng hay đen của sợi tóc nằm ngoài tầm chi phối của họ (cc. 34-36).

Khi kêu gọi chúng ta đừng thề chi cả,

Đức Giêsu muốn lời nói của ta tự nó phải mang sức mạnh của sự thật,

tự nó chắc chắn, đáng được mọi người tin cậy.

Thánh Giacôbê đã nhắc lại giáo huấn của Đức Giêsu khi viết:

“Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không,

như thế anh em sẽ không bị xét xử” (Gc 5, 12).

Mọi thêm thắt đều do ác thần (c. 37).

Giáo hội sơ khai đã giữ lệnh truyền này một cách nghiêm túc.

Nhưng từ đầu thời Trung cổ, Giáo hội đã dùng các hình thức tuyên thệ.

Giáo sư trong các chủng viện vào đầu năm học, phải tuyên thệ

trung thành giảng dạy giáo lý chính thống của Giáo hội.

Các lời khấn của tu sĩ cũng là những lời thề hứa sống như Giêsu.

Dù sao chúng ta cũng là những con người mong manh, hay thay đổi.

Thề, hứa, khấn, tuyên thệ trọn đời, đều là những việc vượt sức con người.

Trung tín với điều mình đoan nguyện là bắt đầu đi vào vĩnh cửu.

Chỉ xin sự trung tín của Thiên Chúa nâng đỡ sự trung tín của chúng ta.

Cầu nguyện

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi Cầu nguyện:

Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi

mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên

để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang

để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường

để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,

hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai

để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề

để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.

Tagore

(Đỗ Khánh Hoan dịch)





TUẦN 2 MÙA CHAY

HÃY CÓ LÒNG NHÂN

Thứ Hai tuần 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Lc 6, 36-38

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Ðấng nhân từ. Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, đừng kết án để khỏi bị kết án, hãy tha thứ thì sẽ được tha thứ, hãy cho thì sẽ được cho lại. Người ta sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.

 

Suy niệm

Lòng nhân có chỗ đứng quan trọng trong Khổng giáo.

Sách Luận Ngữ coi lòng nhân là nét đặc trưng của con người.

Phật giáo cũng đề cao tinh thần từ bi hỷ xả.

Lấy ân báo oán, oán sẽ tiêu tan.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời các môn đệ

“Hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (c. 36).

Như thế nhân từ là nét đặc biệt nơi Thiên Chúa.

Nhân từ nằm ở nơi khuôn mặt và ngay nơi trái tim của Ngài.

Như tín đồ của các tôn giáo khác, Kitô hữu phải sống lòng nhân.

Nhưng hơn nữa, ở đây, Đức Giêsu mời gọi chúng ta

bắt chước lòng nhân từ của chính Thiên Chúa,

một lòng nhân từ không bị giới hạn bởi bất cứ ngăn cách nào.

Lòng nhân được diễn tả bằng bốn mệnh lệnh của Đức Giêsu,

hai mệnh lệnh tiêu cực và hai mệnh lệnh tích cực.

Các mệnh lệnh này đều ngắn gọn và nhịp nhàng.

Phần sau của mỗi mệnh lệnh đều ở thể thụ động,

nhằm nói lên hành động của Thiên Chúa.

“Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, đừng kết án để khỏi bị kết án,

hãy tha thứ thì sẽ được tha thứ, hãy cho thì sẽ được cho lại.”

Xét đoán ở đây không có ý nói đến hành động xét xử của vị quan tòa.

Nó chỉ muốn nói đến khuynh hướng hay phê bình, chỉ trích người khác.

Cần để ý đến tam giác giữa Thiên Chúa, tha nhân và chúng ta.

Thái độ của ta đối với tha nhân thế nào,

ta sẽ bị Thiên Chúa đối xử lại như vậy.

Nói cách khác, ta muốn được Thiên Chúa đối xử với mình ra sao,

ta hãy đối xử với tha nhân như vậy.

Càng cho nhiều và tha thứ nhiều, càng bớt xét đoán hay kết án,

ta càng được hưởng lòng nhân từ của Thiên Chúa.

Thiên Chúa đong lại cho chúng ta bằng đấu của chúng ta,

không phải vì Ngài thiếu quảng đại hay rộng lượng.

Nhưng vì giống như người đi múc nước bằng một chiếc thùng nhỏ,

người ấy sẽ chỉ lấy được ít nước thôi.

Thiên Chúa muốn ban cho ta nhiều hết sức,

nhưng điều đó còn tùy vào sức chứa của ta.

Có khi chính ta lại tự giới hạn khả năng đón nhận của mình.

Mùa Chay là thời gian để ta sống lòng nhân của Thiên Chúa.

Hãy thay đổi cái đấu ta thường dùng để đong cho người khác,

chúng ta sẽ thấy mình giàu có hơn xưa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

xin cho con quả tim của Chúa.

Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,

nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa

vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường

để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,

mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,

không một biến cố nào làm xáo trộn,

không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công,

cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.

Xin cho quả tim con đủ lớn

để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở

để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.

 

NÓI MÀ KHÔNG LÀM

Thứ Ba tuần 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 23, 1-12

 

Khi ấy, Ðức Giêsu nói với đám đông và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “rápbi”. Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “rápbi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Ðức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”

Suy niệm

Bài Tin Mừng hôm nay được đọc trong Mùa Chay

không phải để chúng ta nghiền ngẫm thói hư của một số người Pharisêu,

nhưng để chúng ta soi gương họ mà nhận ra mình.

Chẳng có thói đạo đức giả nào của họ mà ta được miễn nhiễm.

Đạo đức giả đơn giản là một sự mâu thuẫn, thiếu thống nhất nơi lòng người.

Nói rất hay, giảng rất đúng, nhưng lại chẳng sống điều mình nói hay giảng.

Có một khoảng cách thật xa giữa ngôn và hành.

Chất trên vai người khác gánh nặng của luật lệ với những đòi hỏi chi li,

nhưng chính mình lại không muốn chia sẻ chút nào gánh nặng đó.

Vẫn là khoảng cách giữa nói và làm, giữa mình với người khác.

Đeo trên trán hay cánh tay những hộp kinh thật to, đính những tua áo thật dài:

các cử chỉ này lẽ ra để bày tỏ tình yêu đối với Lời Chúa, qui hướng về Chúa,

thì lại trở nên những cử chỉ qui về mình,

nhằm làm cho người ta thấy mình, thấy sự đạo hạnh của mình, để tìm tiếng khen.

Người đạo đức giả không thực sự tìm Chúa.

Chúa chỉ là phương tiện để họ tự đánh bóng mình trước mặt người đời.

Háo danh là điều họ khó dứt bỏ trong cuộc sống:

ưa ngồi chỗ nhất, ưa chiếm ghế đầu, thích được chào là rabbi…

Cộng đoàn Kitô hữu của Matthêu là một cộng đoàn huynh đệ.

Trong cộng đoàn ấy hẳn có những vị thầy dạy.

Có những bậc thầy cao niên được gọi một cách trân trọng là rabbi.

Có những đấng sáng lập cộng đoàn được gọi một cách kính cẩn là cha.

Nhưng bất chấp điều đó, Đức Giêsu khẳng định:

“Tất cả anh em đều là anh em với nhau” (c.8).

Mọi thành viên trong cộng đoàn đều lệ thuộc như nhau

vào một vị Thầy duy nhất là Đức Giêsu Kitô,

vào một người Cha duy nhất là Cha trên trời.

Các Kitô hữu gọi nhau là anh, là chị, là em,

và đối xử với nhau như anh chị em, con một Cha, học trò một Thầy.

“Đừng để ai gọi mình là thầy, đừng gọi ai là cha…”

Lời của Đức Giêsu vẫn là một lời cảnh giác cho Giáo hội mọi thời.

Càng lớn mạnh theo thời gian, Giáo hội càng cần một cơ cấu tổ chức,

bao gồm nhiều chức vụ lãnh đạo có uy quyền.

Làm sao để tinh thần phục vụ khiêm hạ của Đức Kitô thấm vào mọi cơ cấu?

Làm sao để mọi vị thầy của Giáo hội không che khuất Đấng là vị Thầy duy nhất?

Làm sao để các người cha thiêng liêng múc được tình phụ tử dịu hiền

từ Người Cha duy nhất là chính Thiên Chúa?

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

khi đến với nhau,

chúng con thường mang những mặt nạ.

Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.

Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt

dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa,

chúng con cũng thường mang mặt nạ.

Có những hành vi đạo đức bên ngoài

để che giấu cái trống rỗng bên trong.

Có những lời kinh đọc trên môi,

nhưng không có chỗ trong tâm hồn,

và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,

chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,

tự ru ngủ và đánh lừa mình,

mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.

Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,

đã ăn sâu vào da thịt chúng con,

để chúng con thôi đánh lừa nhau,

đánh lừa Chúa và chính mình.

Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,

để chúng con được lớn lên trong bình an. Amen.

 

ANH EM KHÔNG ĐƯỢC NHƯ VẬY

Thứ Tư tuần 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 20, 17-28

 

Lúc sắp lên Giêrusalem, Đức Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi riêng với mình, và dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và, ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy.” Bấy giờ bà mẹ của các con ông Dêbêđê đến gặp Đức Giêsu, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều. Người hỏi bà: “Bà muốn gì?” Bà thưa: “Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy.” Đức Giêsu bảo: “Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: “Thưa uống nổi.” Đức Giêsu bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.” Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó. Nhưng Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.”

Suy niệm

Ghế tượng trưng cho chức vụ và chức vị.

Chính vì thế bình thường người ta ai cũng thích ghế.

Ghế trong tôn giáo cũng như ghế ngoài đời.

Tìm cách có ghế, giữ ghế hay tìm cách lên một ghế cao hơn,

đó vẫn là điều khiến nhiều người vất vả,

và đó cũng là điều khiến thế giới loạn lạc và xung đột.

Bài Tin Mừng kể cho chúng ta chuyện tranh cãi giữa nhóm Mười Hai.

Vẫn là chuyện những cái ghế.

Quan trọng nhất là hai ghế nằm hai bên tả hữu của Thầy

khi Thầy vào vinh quang trong Nước Thiên Chúa.

Chỉ tiếc là chuyện tranh cãi này lại xảy ra ngay sau khi

Thầy Giêsu tâm sự riêng với các môn đệ về cuộc Khổ Nạn của mình.

Chẳng rõ có phải Gioan và Giacôbê đã nhờ mẹ mình xin giùm không.

Từ chối lời xin ngây thơ của một người mẹ thương con là điều không dễ.

Thầy Giêsu có bực mình không khi phải chịu một áp lực như thế?

“Các người không biết các người xin gì!”

Điều các người xin xa lạ với con đường Thầy sắp đi.

Điều các người mơ ước lại là điều Thầy sắp phải quyết liệt từ bỏ:

quyền lực, tiếng tăm, vinh dự…

“Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”

Như thế Thầy Giêsu thách đố nhóm Mười Hai

về khả năng chia sẻ cuộc Khổ Nạn với Ngài,

khả năng dám uống chung một chén đắng mà Ngài sắp uống.

Chỉ những ai dám cùng chịu đau khổ mới được chung phần vinh quang.

Chẳng rõ các môn đệ có lường được cái giá phải trả không,

nhưng họ đã vội trả lời là uống nổi.

Thầy Giêsu xác nhận chọn lựa của họ,

nhưng Ngài lại không hứa cho họ ngồi hai bên tả hữu của mình,

đơn giản là vì điều đó thuộc quyền của Cha.

Chuyện tranh cãi giữa các môn đệ là cơ hội để Thầy Giêsu vạch ra

cách hành xử cho những nhà lãnh đạo tương lai của Giáo Hội.

Chắc chắn nó khác với lối lãnh đạo ngoài đời,

khi người ta dùng quyền uy để thống trị và làm bá chủ (c. 25).

“Giữa anh em thì không được như vậy,” anh em không được theo thói đời.

Thầy Giêsu dạy các môn đệ điều ngược đời:

kẻ làm lớn, làm đầu phải làm đầy tớ phục vụ cho anh em mình (cc. 26-27).

Tấm gương lớn nhất là tấm gương Thầy phục vụ (c. 28).

Cuộc Khổ nạn sắp đến là việc phục vụ khiêm hạ nhất của Thầy.

Lần đầu tiên Đức Giêsu cho biết ý nghĩa cái chết sắp đến của mình,

cái chết như giá chuộc để cứu độ muôn người (c. 28).

Mười môn đệ khác có còn ghen tức hai anh em con ông Dêbêđê nữa không

nếu họ biết rằng ngồi ghế cao chính là để thấy rõ mà dễ phục vụ hơn?

Cầu nguyện

Lạy Thầy Giêsu,

Thầy không gọi chúng con là tôi tớ,

Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ.

Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy,

vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con

những điều riêng tư thầm kín nhất

trong tương quan giữa Thầy với Cha.

Hơn nữa, sau Phục Sinh,

Thầy đã gọi các môn đệ là anh em.

Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng

đứng đầu một đoàn em đông đúc.

Xin cho chúng con

luôn thi hành ý muốn của Cha

để trở nên những người em

cùng huyết nhục với Thầy.

Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên

làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy.

Còn Thầy lại hạ mình xuống

phục vụ chúng con như người tôi tớ,

rửa chân cho chúng con như một nô lệ

và chết thay cho chúng con trên thập giá.

Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy

và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.

 

CÓ MỘT VỰC THẲM

Thứ Năm tuần 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Lc 16, 19-31

 

Một hôm, Ðức Giêsu nói với những người Pharisêu rằng: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: ‘Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!’ Ông Ápraham đáp: ‘Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bấy giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được’. Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!’ Ông Ápraham đáp: ‘Chúng đã có ông Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó’. Ông nhà giàu nói: ‘Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối’. Ông Ápraham đáp: ‘Ông Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu’.”

 

Suy niệm

Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới

còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.

Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất.

Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu

cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh

cho cả thế giới trong một thời gian dài.

Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô,

chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.

Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị,

giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.

Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực.

Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc.

Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày,

vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.

Ông nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô,

nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời.

Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín.

Ông sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không gian riêng.

Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.

Không cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em.

Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.

Hỏa ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được.

Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước.

Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau

là do chính con người đã tạo ra từ đời này.

Ông nhà giàu bị phạt, không phải vì ông đã bóc lột ai,

nhưng vì ông không bị sốc chút nào

trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.

Từ sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.

Nhiều nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo,

nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.

Các nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công,

và bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết.

Ông nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều,

nhưng vì ông đã không san sẻ những gì mình nhận.

Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.

Có bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.

Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm:

Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ,

bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.

Chúng ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác:

giàu kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng,

giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.

Hãy tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.

Chia sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.

Ước gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải,

để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô

nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm…

Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta

cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí

bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi

dựa trên nỗi đau của người khác,

có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công

chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm

về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,

vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo

là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

 

SINH HOA LỢI

Thứ Sáu tuần 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 21, 33-43.45-46

 

Khi ấy Đức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ lão trong dân rằng: “Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: ‘Chúng sẽ nể con ta’. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: ‘Ðứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!’ Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” Họ đáp: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.” Ðức Giêsu bảo họ: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao: ‘Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc. Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta’ Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.” Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ đám đông, vì đám đông cho Người là một ngôn sứ.

 

Suy niệm

Trong Mùa Chay, Giáo Hội cho chúng ta nghe dụ ngôn những tá điền.

Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình,

để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi.

Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc.

Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh.

Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi

các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (c. 35).

Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (c. 36).

Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền.

Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ.

Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.

Khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu muốn nói mình chính là người con ấy,

người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.

Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình

bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời.

Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ

là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Israel trong dòng lịch sử.

Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con.

Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết.

Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử,

không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Israel, mà còn của cả nhân loại.

“Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.

Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 42).

Giáo Hội sơ khai thích dùng trích dẫn trên đây của thánh vịnh 118, 22

để nói về việc Đức Giêsu bị loại trừ và được tôn vinh (x. Cv 4,11; 1Pr 2,7).

Bị loại bỏ là việc độc ác của con người,

còn trở nên viên đá góc là việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa.

“Thu hoa lợi”, “nộp hoa lợi”, “sinh hoa lợi” (cc. 34, 41, 43).

Hoa lợi là điều mà ông chủ nhắm tới khi ông đầu tư cho vườn nho.

Ông đã không thu được hoa lợi gì từ những tá điền độc ác,

bởi đó ông đã lấy vườn nho lại, cho người khác làm để lấy hoa lợi.

Vườn nho bây giờ được hiểu là Nước Thiên Chúa.

Nước này không còn nằm trong tay giới lãnh đạo dân Do thái nữa,

nhưng được trao cho một dân biết sinh hoa lợi (c. 43).

Dân mới ấy chính là Giáo Hội phổ quát,

trong đó gồm cả dân ngoại và những người Do thái tin Đức Giêsu.

Chúng ta thuộc về Giáo Hội, thuộc về đoàn dân mới.

Chúng ta hãnh diện vì được trao phó vườn nho là Nước Thiên Chúa,

và lo lắng trước trách nhiệm phải sinh hoa lợi cho xứng ở đời này.

Làm thế nào để Giáo Hội nộp hoa lợi đúng mùa cho Chủ?

Làm thế nào để chúng ta không rơi vào tội của các tá điền đi trước?

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

con thường thấy mình không có thì giờ,

nhưng đồng thời cũng thấy mình

lãng phí bao thời gian quý báu.

Nhiều khi con tự hỏi

mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.

Xin cho con biết quý trọng từng giây phút

đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.

Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,

để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.

Xin cho con luôn làm việc như Chúa:

hăng say, tận tụy và vui tươi,

vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.

Vì quá khứ thì đã qua,

và tương lai thì chưa đến,

nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.

Xin cho con thấy Chúa

lúc này đang ở đây bên con,

và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài

bằng những hành động cụ thể.

Con xin hiến dâng Chúa giây phút này

như một hy lễ,

với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.

Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại

để hiện tại đưa con vào vinh cửu của Chúa. Amen.

 

ĂN MỪNG

Thứ Bảy tuần 2 Mùa Chay

Lời Chúa: Lc 15, 1-3.11-32

 

Khi ấy, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.” Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Và họ bắt đầu ăn mừng. Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.” Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”

 

Suy niệm

Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng,

qua đó Đức Giêsu cho thấy tại sao Ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân.

Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.

Người cha nhân hậu là người tôn trọng tự do của đứa con thứ,

người đã chia một phần ba gia sản cho nó ngay khi ông còn sống.

Ông đã không tìm con, như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất.

Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ.

Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy.

Không cầm lòng được vì thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn.

Người con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.

Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con.

Việc duy nhất phải làm ngay là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32).

Khi con cả giận dỗi, không chịu vào nhà chung vui với cha và em,

một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ (c. 28).

Ông chấp nhận ở thế yếu vì ông không muốn mất một đứa con nào.

Ông không thể yên tâm ở trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.

Hoán cải bao giờ cũng khó.

Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha.

Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm?

Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại?

Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào,

vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải,

vào nhà là phải chấp nhận sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30).

Cả hai người con đều cần hoán cải.

Người con cả cũng hỗn hào với cha không kém gì đứa em (c. 30).

Em bỏ nhà ra đi nên đói, còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị đói.

Anh phục vụ cha rất tốt nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c. 29).

Anh ở gần cha, nhưng thực sự trái tim lại xa cha.

Khi cha vui vì em trở về thì anh lại buồn giận.

Mùa Chay là thời gian trở về với Cha, trở lại với anh em.

Người con thứ đã đứng lên trở về nhà cha và tìm được hạnh phúc.

Không rõ người con cả có vào nhà cha và ôm lấy em mình không?

Cầu nguyện

Lạy Cha,

người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.

Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,

khi coi Cha

như người cản trở hạnh phúc của chúng con.

Chúng con thèm được tự do bay nhảy

ngoài vòng tay Cha,

nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.

Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.

Như người con thứ,

chúng con bỗng thấy mình tay trắng,

rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.

Lạy Cha đầy lòng bao dung,

xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,

giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.

Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui

vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.

Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,

thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.

Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,

chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân. Amen.

 

 

TUẦN 1 MÙA CHAY
--------------------------------------

LÀM CHO CHÍNH TA

Thứ Hai tuần 1 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 25, 31-46

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” Ðể đáp lại, Ðức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Rồi Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom.” Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc là trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.” Thế là họ sẽ ra đi, bọn này để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính, để hưởng sự sống muôn đời.

Suy niệm

Thi hào Tagore trong tập thơ Gitanjali, bài số 50,

có kể chuyện một người ăn xin, tình cờ gặp nhà vua đi trên cỗ xe.

Anh đầy tràn hy vọng khi cỗ xe dừng lại gần anh, và nhà vua bước xuống.

Anh cứ nghĩ nhà vua sẽ cho anh thật nhiều, nhưng ngài lại chìa tay xin anh.

Người hành khất biết lấy gì mà cho, anh chỉ dâng ngài một hạt lúa nhỏ xíu.

Đến lúc chiều về, khi đổ những thứ trong bị ra, anh thấy một hạt vàng rất nhỏ.

Anh khóc vì tiếc mình đã không cho ngài tất cả những gì mình có.

Có khi nào nhà vua giàu có ngửa tay xin một người ăn mày không?

Hơn nữa, có khi nào Đức Kitô ẩn mình dưới dạng một người ăn xin không?

Trên chuyến xe lửa đi về vùng Darjeeling ở chân núi Hy-mã-lạp-sơn, năm 1946,

Chị Têrêsa Calcutta đã nhận được một ơn gọi thứ hai, dù chị đang tu ở dòng Loreto.

“Chính trong chuyến xe lửa đó, tôi đã nghe tiếng gọi bỏ tất cả

và theo Ngài vào khu ổ chuột – phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất.”

Chị đã viết như thế, và chị còn giải thích thêm:

“Thiên Chúa gọi tôi để làm giảm cơn khát của Đức Giêsu

bằng cách phục vụ Ngài nơi người nghèo nhất trong số các người nghèo.”

Chị Têrêsa được ơn gặp Đức Giêsu Kitô đang đói khát, đang ở khu ổ chuột.

Chị đã cho Ngài tất cả và chị không bao giờ phải ân hận về chuyện đó.

Bài Tin Mừng hôm nay hẳn đã chi phối đời của thánh Têrêsa Calcutta.

Bài này cũng hợp với Mùa Chay, mùa chia sẻ, mùa làm việc bác ái.

Hơn nữa bài này vén mở cho ta thấy một lối hiện diện khác của Đức Giêsu.

Ngài không chỉ hiện diện nơi tấm bánh thánh, nơi tâm hồn ta, nơi Giáo hội,

mà Ngài còn ở nơi những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù.

Khuôn mặt của Ngài xem ra chẳng có gì cao quý, uy nghi, sáng láng,

nhưng đầy nét đau khổ, nhục nhằn, phiền muộn.

Đức Giêsu ở đây không phải là người ban phát đầy quyền năng,

mà là người ăn xin yếu đuối ngửa tay cần ta giúp đỡ.

“Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây,

là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (c. 40).

Ngài gọi những người khốn cùng trong xã hội là anh em nhỏ nhất của Ngài.

Làm cho họ là làm cho chính Ngài, chối từ họ là chối từ chính Ngài.

Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu.

Hôm nay ta có thể gặp Đức Giêsu ở nhà thương, nhà tù, nơi trại tỵ nạn,

nơi gần một tỷ người bị đói trên thế giới, nơi bao người thiếu nước sạch để dùng.

Hãy kính trọng trao cho Ngài những gì mình đã chắt chiu.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí

bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi

dựa trên nỗi đau của người khác,

có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công

chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm

về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,

vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo

là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

 

 

BIẾT RÕ ANH EM CẦN GÌ

Thứ Ba tuần 1 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 6, 7-15

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhậm lời. Ðừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin. Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này: Lạy Cha chúng con là Ðấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày; xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con; xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.”

Suy niệm

Mùa Chay là thời gian tăng cường việc cầu nguyện.

Nhưng vấn đề là cầu nguyện như thế nào theo đúng ý của Đức Giêsu.

Ngài đã cảnh báo về một thứ cầu nguyện có tính phô trương, tìm mình.

Ngài mời ta cầu nguyện một cách kín đáo (Mt 6, 6).

Cầu nguyện là gặp Cha, Đấng ở nơi kín ẩn và Đấng thấy ở nơi kín ẩn.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng

cầu nguyện không phải là dùng những lời kinh như một thứ ma thuật,

để lèo lái hay cưỡng bách Thiên Chúa phải theo ý mình.

Cầu nguyện là mềm mại để uốn mình theo ý Chúa.

Sức mạnh của cầu nguyện không nằm ở chỗ lắm lời,

vì không phải cứ nói nhiều là được ưng nhậm (c. 7).

Cầu nguyện cũng không phải là thông tin cho Ngài biết về tình trạng của ta,

sợ rằng nếu ta không nói thì Ngài không biết (c. 8).

Thật ra, Thiên Chúa đã biết trước nhu cầu của từng người rồi.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần bày tỏ để có tương quan với Thiên Chúa,

thổ lộ với Ngài cách đơn sơ hồn nhiên như con thơ nói với cha.

Qua kinh Lạy Cha, Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện.

Ngài dạy họ gọi Thiên Chúa là Cha, Abba.

Họ được phép gọi như Ngài đã gọi và chia sẻ chức vị làm Con của Ngài.

Một lời cầu nguyện có tính tập thể: “Lạy Cha chúng con.”

Chính vì Cha là Cha của chúng con nên chúng con là anh chị em với nhau.

“Cha ở trên trời”, vì thế Cha lại thấy hết mọi người và ở bên từng người.

Cha thật siêu việt vì Cha ở trên trời cao thẳm;

nhưng Cha lại thật gần gũi,

vì Cha lo cho từng con chim sẻ, từng bông hoa ngoài đồng,

Cha cho mặt trời mọc lên và mưa rơi xuống trên mặt đất.

Ba lời xin đầu tiên của kinh Lạy Cha hướng đến Thiên Chúa Cha.

Hẳn chúng diễn tả tâm tình chủ yếu của Đức Giêsu trong suốt đời.

Bốn lời xin tiếp theo hướng đến nhu cầu của nhóm môn đệ.

Xin bánh mỗi ngày, xin ơn tha thứ, ơn thắng được cám dỗ và sự dữ.

Có khi lời nguyện của chúng ta quá qui về mình, loay hoay với cái tôi,

với những ước mơ tính toán, những âu lo cho nhu cầu vật chất.

Hãy xin Chúa những điều lớn lao cho Nước Chúa trên trần gian,

còn mọi sự khác nho nhỏ, Ngài sẽ ban thêm cho ta.

Cầu nguyện

Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,

xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha

trong vũ trụ vô cùng lớn,

trong những hạt tử vô cùng nhỏ,

và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.

Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín,

mầu vàng mặt trời xế chiều.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.

Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,

tiếng gió rì rào qua kẽ lá.

Cha từ ái biết bao

khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.

Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,

hương thơm của nắng xuân dìu dịu.

Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha

khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,

sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,

sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,

và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.

Dưới lòng đất, trên núi cao,

giữa biển sâu, trong rừng vắng,

chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.

Xin cho chúng con

biết chung sống với thiên nhiên này

như một người bạn, một quà tặng Cha ban,

biết giữ gìn ngôi nhà trái đất

để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,

và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.

Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này

và muôn loài Cha đã dựng nên

được cùng với cả nhân loại chúng con

vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.

 

 

CON NGƯỜI SẼ LÀ MỘT DẤU LẠ

Thứ Tư tuần 1 Mùa Chay

Lời Chúa: Lc 11, 29-32

Khi ấy, thấy đám đông tụ họp đông đảo, Ðức Giêsu bắt đầu nói: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; họ xin dấu lạ. Họ sẽ không được ban một dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna. Quả thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salômôn; mà đây thì còn hơn vua Salômon nữa. Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giôna nữa.”

Suy niệm

Khi đọc chuyện ông Giôna người Galilê, ai cũng nhớ ông đã bị cá nuốt ba ngày.

Sau đó ông lại được cá khạc ra trên đất liền mà vẫn còn sống.

Nhưng điều đáng nhớ hơn là sau kinh nghiệm đó Giôna đã biết vâng phục Chúa.

Ông chấp nhận đi giảng cho dân Ninivê, một dân ngoại ở vùng là Irắc bây giờ.

Thật không ngờ, lời rao giảng của ông đã kéo cả nước vào một cuộc hoán cải,

Từ vua đến dân, thậm chí cả súc vật, đều ăn chay, sám hối việc mình làm.

Thái độ của họ đã làm Đức Chúa đổi ý, không đoán phạt nữa.

Đức Chúa không muốn trừng phạt, Ngài chỉ mong con người sám hối.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nỗi buồn của Đức Giêsu

khi dân chúng đòi dấu lạ, dù họ đã thấy nhiều phép lạ của Ngài.

Dấu lạ ở đây phải hiểu là một điềm báo hoành tráng từ trời

để chứng thực về con người và sứ mạng của Ngài.

Khi bị cám dỗ trong hoang địa, Ngài đã không nhảy xuống từ nóc Đền thờ.

Ngài không muốn mua lòng tin của con người bằng một cử chỉ ngoạn mục.

Bây giờ Ngài cũng dứt khoát từ chối:

“Họ sẽ không được ban một dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna.”

Dấu lạ ông Giôna không phải là chuyện ông bị cá nuốt mà còn sống.

Dấu lạ là chính con người của ông với việc rao giảng của ông.

Dân Ninivê đã sám hối khi nghe Giôna giảng,

nhưng thế hệ đương thời với Đức Giêsu đã từ khước ngài.

Họ là một thế hệ gian ác (c. 29) vì không chịu sám hối.

“Đây còn hơn Giôna, đây còn hơn Salômôn” (cc. 31-32).

Đức Giêsu đã không thành công bằng hai ông này.

dù lời giảng của ngài còn khôn ngoan hơn lời của vua Salômôn

và thuyết phục hơn lời giảng của ngôn sứ Giôna.

Dân Ninivê và nữ hoàng Shêba sẽ kết án thế hệ này vì sự cứng cỏi của họ.

Mùa Chay là thời gian đọc lại những chuyện lạ Chúa đã làm cho đời mình.

Có những chuyện bề ngoài tưởng là chuyện tự nhiên hay ngẫu nhiên.

Chỉ ai biết nhìn mới thấy lạ.

Có khi chúng ta vẫn thèm Chúa làm một cái gì đó thật kinh khủng

để ta mạnh mẽ đổi đời và từ bỏ hoàn toàn nếp sống cũ.

Làm sao để lòng sám hối đến từ việc nhận ra những chuyện nhỏ bé

mà Chúa vẫn làm cho ta mỗi ngày nhiều lần?

Cầu nguyện

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân

với những yếu đuối và khuyết điểm,

những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con

cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,

thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa

chiếu dãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.

 

 

BAN NHỮNG CỦA TỐT LÀNH

Thứ Năm tuần 1 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 7, 7-12

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Hãy xin thì anh em sẽ được cho, hãy tìm kiếm thì anh em sẽ tìm thấy, hãy gõ thì sẽ được mở cho anh em. Vì hễ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm kiếm thì sẽ tìm thấy, ai gõ thì sẽ được mở cho. Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Ðấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người. Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó.”

Suy niệm

“Hãy xin thì anh em sẽ được cho, hãy tìm kiếm thì anh em sẽ tìm thấy,

hãy gõ thì sẽ được mở cho anh em.

Vì hễ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm kiếm thì sẽ tìm thấy,

ai gõ thì sẽ được mở cho” (cc. 7-8).

Biết bao người đã tin vào lời này của Đức Giêsu và đã cầu xin.

Nhiều người đã được nhận lời, nghĩa là đã được như lòng mình ao ước.

Nhiều người khác tuy không được điều mình xin,

nhưng lại được ơn vui vẻ chấp nhận tình trạng của mình,

ơn nhận ra ý nghĩa của nó, ơn có sức chịu đựng điều không thể chịu đựng nổi.

Những người này cũng coi là mình đã được nhận lời.

Tuy nhiên, một số người khác vẫn đau khổ vì thấy không được nhận lời.

Họ xin những điều rất bình thường như có một người yêu, một đứa con…

Họ xin những điều rất tự nhiên, rất hợp lẽ,

như cho con bỏ ma túy, cho chồng bỏ vợ bé, cho có công ăn việc làm.

Bao người Do thái đã cầu nguyện khi 6 triệu đồng bào của họ bị tàn sát.

Bao người Việt Nam đã cầu nguyện trong cơn bách hại dưới các triều vua.

Có Chúa không? Chúa ở đâu? Sao Chúa lặng thinh và khoanh tay?

Chúa có lòng thương xót không? Chúa có toàn năng không?

Những câu hỏi đớn đau khiến một số người mất đức tin, trở nên vô thần.

Đức Giêsu khẳng định: xin sẽ được cho, tìm thì sẽ thấy, gõ sẽ được mở.

Thiên Chúa luôn luôn đáp trả mong đợi của con người,

nhưng không nhất thiết Ngài phải cho con người đúng điều nó muốn,

vào đúng lúc và theo đúng cách con người muốn.

Con người phải tập đào sâu và thanh luyện ao ước của mình,

tập uốn ý mình theo ý của Thiên Chúa.

Rồi cuối cùng, con người cũng thấy mình được cho, được thấy, được mở.

Ai kiên trì cầu xin đều thấy mình dần dần được biến đổi.

Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chỉ ban cho con cái Ngài những điều tốt.

Nhưng đâu là điều tốt thật sự?

Đối với ta, đó là giàu sang, sống lâu, danh tiếng, thành công hay mạnh khỏe.

Đối với Chúa, không hẳn luôn là như vậy.

Điều Ngài thấy là tốt, đôi khi ta coi là hòn đá hay con rắn.

Và ngược lại, điều ta coi là tốt bây giờ thật ra là điều nguy hại mai sau.

Với cái nhìn của người cha, Thiên Chúa biết ta thực sự cần gì.

Hãy phó thác chuyện đời mình cho tình yêu quyền năng của Ngài,

dù khi còn sống ở đời này, ta không hiểu hết được tại sao.

Cầu nguyện

Lạy Cha là Chúa trời đất,

Cha là Cha toàn năng, nhưng Cha lại không phải là nhà độc tài.

Cha không quyết định một cách vô lý và độc đoán.

Cha đã cho con người được chia sẻ tự do của Cha,

và Cha luôn tôn trọng tự do ấy,

dù con người đã lạm dụng tự do để làm điều xấu.

Lạy Cha toàn năng,

khi trao cho loài người chúng con tự do,

Cha đã muốn tự giới hạn phần nào sự toàn năng của Cha.

Bởi đó sự dữ có sức mạnh tung hoành trong thế giới này.

Khi lòng độc ác của một số người đã treo Con Cha lên,

chúng con hiểu Cha có đủ quyền năng để đưa Ngài xuống.

Nhưng Cha đã muốn Con Cha chia sẻ cái chết bất công

của bao người thấp cổ bé miệng.

Và Cha muốn cái chết ô nhục trên thập giá

trở nên dấu chỉ của tình yêu cao nhất, đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.

Lạy Cha toàn năng và khiêm hạ,

chúng con tin Cha vẫn đang làm việc để phục vụ chúng con.

Cha vẫn trao ban bánh và cá cho nhu cầu hàng ngày.

Cha vẫn mở cửa khi nghe tiếng gõ rụt rè của chúng con.

Chúng con tin vào tình yêu Cha dành cho từng người ngay giữa sóng gió.

Và chúng con biết mình không bao giờ thất vọng. Amen.

 

 

LÀM HÒA

Thứ Sáu tuần 1 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 5, 20-26

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan tòa, quan tòa lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.”

Suy niệm

Ngày 5-2-2009, trong một cuộc gặp gỡ thường niên có tính tôn giáo,

Tổng thống Mỹ Barack Obama đã chia sẻ với các tham dự viên:

“Dù chúng ta chọn niềm tin nào, hãy nhớ rằng

chẳng có tôn giáo nào lấy căm thù làm giáo lý chủ yếu cho mình…

Chẳng có Thiên Chúa nào lại dung túng

chuyện cướp đi mạng sống của một người vô tội.”

Trên núi Sinai, ông Môsê đã nhận được giới răn “Ngươi chớ giết người.”

Đức Giêsu cho thấy uy quyền của mình trong việc giải thích giới răn ấy.

“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”

Ngài đã đẩy giới răn này đi xa hơn nhiều, vào tận trái tim con người:

“Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa” (c. 22).

Tình cảm nóng giận có thể dẫn đến nhiều chuyện không hay.

Nó khiến người ta dùng lời nói mà lăng mạ, làm nhục người khác.

Giận mất khôn, nóng giận thậm chí có thể đưa đến chỗ giết người.

Nhưng Đức Giêsu không muốn loại trừ thứ nóng giận chính đáng,

như ta thấy có nơi Ngài (x. Mc 3,5; Mt 23,17).

Mùa Chay là thời gian dành cho việc làm hòa với người anh em.

Đây là công việc vừa quan trọng, vừa cấp bách.

Quan trọng đến nỗi đòi ta để của lễ lại trước bàn thờ

và đi làm hòa với người anh em đó, rồi mới trở lại dâng của lễ.

Tương quan với Thiên Chúa cần được diễn ra trong bầu khí hòa thuận.

Chúa chỉ nhận lễ vật khi trái tim ta bình yên.

Điều đáng lưu ý là chúng ta phải đi làm hòa

với các anh em đang có điều bất bình với ta,

phải đi bước trước làm hòa dù ta chẳng phải là người gây chuyện.

Nhưng cũng phải làm hòa với cả thù địch của mình (c. 25).

Trên đường bị đưa đến cửa công, cần mau mau dàn xếp cho ổn thỏa.

Cần trả ngay món nợ chưa thanh toán, kẻo bị kết án và tống ngục.

Làm sao thời gian Mùa Chay vừa là thời gian ta làm hòa với Chúa,

vừa là thời gian ta làm hòa với một người đang sống gần bên.

Đó là thời gian người con cả thôi đứng ngoài cổng,

nhưng vào nhà để chung vui với cha và ôm lấy người em.

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau

để làm thành một vòng tròn khép kín.

Sau đó chúng con hiểu rằng

cần phải buông tay nhau

để nhận những người bạn mới,

để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng

và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng

cần phải nối vòng tay lớn

xuyên qua các đại dương và lục địa.

vòng tay người nối với người,

vòng tay con người nối với Tạo Hóa.

Chúng con thích Chúa

đứng chung một vòng tròn

với tất cả loài người chúng con,

nắm lấy tay chúng con

và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá

giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau

và nhận nhau là anh em. Amen.

 

 

YÊU KẺ THÙ

Thứ Bảy tuần 1 Mùa Chay

Lời Chúa: Mt 5, 43-48

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện.”

Suy niệm

“Tại sao anh lại bắn tôi khi cả hai chúng ta đều tin

vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất.”

Đó là một câu trong lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định gửi

cho anh Ali Agca, người đã ám sát ngài vào ngày 13-5-1981 tại Rôma.

Nhưng ngài đã đích thân thăm anh trong tù năm 1983, và đã tha thứ cho anh.

Vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá.

Điều đáng nói là anh đã chẳng bao giờ công khai xin ngài tha lỗi.

“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43).

Thật ra Luật Môsê không dạy ghét kẻ thù,

nhưng ghét kẻ thù của Thiên Chúa là chuyện có trong các thánh vịnh.

“Lạy Chúa kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét?…

Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng,

chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139, 21-22).

Đức Giêsu dạy các môn đệ yêu kẻ thù (c. 44),

Nhưng vào sau năm 70, kẻ thù của các môn đệ là ai?

Là quân xâm lược Rôma, là thế giới dân ngoại đang bắt đạo (Mt 10, 22).

Là những người đồng hương thuộc hội đường đang ngược đãi các Kitô hữu.

Là những ai không phải là anh em, nghĩa là những ai không tin Đức Giêsu.

Đức Giêsu mời ta vượt qua khuynh hướng tự nhiên là chỉ yêu kẻ yêu mình.

Tình yêu Kitô vươn đến cả những kẻ ghét và làm hại mình nữa.

Hãy yêu kẻ thù, nhưng yêu lại không phải là một tình cảm tự nhiên.

Yêu là một thái độ của lòng nhân được diễn tả bằng những hành động cụ thể.

Yêu là cầu nguyện cho kẻ bách hại, là chào hỏi và chúc bình an cho họ.

“Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”,

Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố như thế sau khi hồi phục.

Yêu kẻ thù làm chúng ta được ơn trở nên con cái Cha trên trời (c. 45),

trở nên giống Cha là Đấng ban mặt trời và mưa cho kẻ bất chính.

Trở nên con cái Cha là tiến trình dài một đời,

xuyên qua những hành vi yêu thương vượt trên tự nhiên.

Cha yêu mọi người chẳng trừ ai bằng một tình yêu vô điều kiện.

Chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha

nhờ yêu kẻ thù như Cha đã yêu họ (c. 48).

Kẻ thù cũng là anh em tôi, vì họ cũng là con được Cha yêu như tôi.

Chúng ta nên nghĩ đến những kẻ thù của mình, ở rất gần mình,

những người mình không muốn chào hỏi hay nhìn mặt, chỉ muốn nguyền rủa.

Tôi sẽ làm gì để bày tỏ tình yêu tha thứ đối với họ trong Mùa Chay này?

Cầu nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

đón nhận những người khác

là điều vượt quá sức con,

vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày

con không thể nào kính trọng kẻ khác được,

vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con

có những ngày

mà yêu mến người khác

làm cho tim con đau nhói,

vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau

và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con

trong những ngày khó khăn đó,

xin hãy nhắc cho con nhớ rằng

tất cả chúng con đều là con cái Chúa

và đừng để con quên lời Chúa nói:

“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất

là làm cho chính Ta.” Amen.

(Trích trong PRIER)

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn