1
17:46 +07 Thứ bảy, 27/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 191

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 190


Hôm nayHôm nay : 24297

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 328419

Tổng cộngTổng cộng : 27882703

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » CÁC ĐỀ TÀI TỔNG HỢP

Chương trình học hỏi về Thượng hội đồng Giám mục 16

Thứ sáu - 17/12/2021 09:40-Đã xem: 544
Nguồn cội sâu xa của sự hiệp thông trong Dân Chúa phát xuất từ tình yêu và sự hợp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính Chúa Kitô đã hoà giải chúng ta với Chúa Cha và hợp nhất chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Vì thế, tất cả chúng ta đều có vai trò của mình trong việc phân định và thực hiện lời Chúa kêu gọi dành cho dân Ngài.
Chương trình học hỏi về Thượng hội đồng Giám mục 16

Chương trình học hỏi về Thượng hội đồng Giám mục 16

 

CHƯƠNG TRÌNH HỌC HỎI

VỀ THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THỨ XVI, 2023

 

GIỚI THIỆU

Chúng ta sẽ cùng nhau học hỏi chủ đề Hướng đến một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ của Thượng Hội Đồng Giám Mục XVI, 2023. Chương trình học hỏi gồm các bài học do Nhóm Hiệp Hành Giáo Phận soạn dựa trên hai tài liệu chính: 1/ “Tài liệu chuẩn bị”; 2/ “Cẩm nang” thực hành. Đây là hai tài liệu Toà Thánh gởi cho các giáo phận nghiên cứu, học hỏi để góp ý cho THĐGM: các bài 2-13: dựa trên “Cẩm nang” thực hành; các bài 14-16: dựa trên “Tài liệu chuẩn bị”;

Ước mong những bài học ngắn gọn này sẽ giúp anh chị em trong giáo phận Long Xuyên chúng ta hiểu được ý nghĩa sâu xa của chủ đề THĐGM và góp ý tích cực cho THĐGM.

(Nhóm Hiệp Hành Giáo Phận)

 

BÀI 3

MỤC ĐÍCH VÀ CHỦ ĐỀ CỦA THĐGM XVI

 

1. Mục đích Thượng Hội đồng này nhắm đến. Các mục tiêu của Tiến trình hiệp hành

a. Mục đích

- Thúc đẩy những trải nghiệm sống động về sự phân định, tham gia và đồng trách nhiệm, là nơi quy tụ mọi loại ân sủng khác nhau để phục vụ cho sứ mạng của Hội thánh trên toàn thế giới.

- Tạo niềm hứng khởi để con người mơ về một Hội thánh mà chúng ta được mời gọi trở thành, là làm cho niềm hy vọng được nảy nở, là khơi dậy niềm tin, là băng bó các vết thương, là tạo nên những mối tương quan mới mẻ và sâu sắc hơn, là học hỏi lẫn nhau, là xây dựng những nhịp cầu, là thắp sáng tâm trí, là sưởi ấm cõi lòng và phục hồi sức mạnh cho đôi tay để phục vụ sứ mạng chung của chúng ta (PD, 32).

- Canh tân não trạng và cơ cấu Giáo hội.

- Con đường hiệp hành nhằm phục vụ cho cuộc đối thoại của Thiên Chúa với nhân loại.

b. Mục tiêu

- Tạo cơ hội cho toàn Dân Chúa cùng nhau phân định cách tiến bước trên con đường trở thành một Hội thánh mang tính hiệp hành hơn trong tầm nhìn dài hạn.

- Lắng nghe những gì Chúa Thánh Thần đang nói với Hội thánh, bằng cách cùng nhau lắng nghe Lời Chúa trong Kinh thánh và Truyền thống sống động của Hội thánh, bằng cách lắng nghe nhau, đặc biệt là những người bên lề, và phân định các dấu chỉ thời đại.

2. Chủ đề của Thượng Hội Đồng Giám Mục XVI: Hướng tới một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ mạng.

Những từ khoá của chủ đề Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ mạng. Ba chiều kích này có mối quan hệ mật thiết với nhau, một tương quan năng động. Chúng làm phong phú và định hướng cho nhau. Cần hiểu rõ mối tương quan này cùng với ba chiều kích của nó.

Hiệp Thông: Nguồn cội sâu xa của sự hiệp thông trong Dân Chúa phát xuất từ tình yêu và sự hợp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính Chúa Kitô đã hoà giải chúng ta với Chúa Cha và hợp nhất chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Vì thế, tất cả chúng ta đều có vai trò của mình trong việc phân định và thực hiện lời Chúa kêu gọi dành cho dân Ngài.

Tham Gia: Kêu gọi tất cả những ai thuộc về Dân Chúa: giáo dân, người được thánh hiến và giáo sĩ tham gia vào tiến trình hiệp hành, càng nhiều càng tốt, đặc biệt là những người ở bên lề. Sự tham gia này chính là tập lắng nghe nhau cách chân thành và tôn trọng, để từ đó, cùng nhau lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần. Tất cả các tín hữu đều có đủ tư cách và ân ban để phục vụ lẫn nhau và tham gia vào sứ mạng của Giáo hội.

Sứ mạng: Hội thánh hiện hữu để loan báo Tin Mừng. Sứ mạng của tất cả chúng ta là làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa toàn thể gia đình nhân loại.

Tiến trình hiệp hành mang chiều kích truyền giáo rõ nét. Mục đích của tiến trình này là giúp Hội thánh làm chứng cho Tin Mừng cách hữu hiệu hơn, đặc biệt với những người sống ở vùng ngoại vi của thế giới chúng ta xét về mặt tâm linh, xã hội, kinh tế, chính trị, địa lý và hiện sinh. Theo cách này, hiệp hành là con đường qua đó Hội thánh có thể hoàn thành cách hiệu quả hơn sứ mạng loan báo Tin Mừng cho thế giới, như nắm men làm cho nước Thiên Chúa mau đến.

 

Câu hỏi ôn bài:

1. Mục đích của THĐGM XVI là gì?

2. Mục tiêu của “tiến trình hiệp hành” là gì?

3. Tương quan của ba chiều kích: Hiệp thông, tham gia và sứ mạng là gì?


 
Ý NGHĨA LOGO CHÍNH THỨC

CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VỀ CON ĐƯỜNG HIỆP HÀNH 

 

1. Hình cây

 

Đây là cây to lớn, hùng vĩ, tràn đầy khôn ngoan và ánh sáng, đang vươn lên trời cao. Nó là dấu chỉ của sức sống và niềm hy vọng sâu xa, biểu trưng cho thánh giá Chúa Kitô. Cây này mang Thánh Thể đang chiếu sáng như mặt trời. Đồng thời, các nhành cây được mở rộng theo chiều ngang như đôi tay hoặc đôi cánh, gợi lên hình ảnh Chúa Thánh Thần.

2. Dân Chúa

Dân Chúa không đứng yên nhưng đang tiến bước. Điều này liên hệ trực tiếp đến từ “Thượng hội đồng - Synod”, có nguyên nghĩa là “bước đi cùng nhau”. Dân Chúa được liên kết với nhau bởi cùng có động lực chung, động lực này được Cây Sự Sống truyền vào trong họ, và cũng từ động lực này mà họ cất bước.

15 bóng người khái quát toàn bộ nhân loại trong sự đa dạng về hoàn cảnh sống, thế hệ và nguồn gốc. Điều này được mô tả bằng sự đa dạng của các màu sắc tươi sáng, vốn biểu trưng cho niềm vui. Không có tính chất phẩm trật giữa những người này, họ cùng bước đi trên một mặt đường phẳng: trẻ, già, nam, nữ, thiếu niên, trẻ em, giáo dân, tu sĩ, cha mẹ, người sống đời vợ chồng, người sống đời độc thân; giám mục và tu sĩ không đi trước mặt họ, nhưng ở giữa họ. Một cách hoàn toàn tự nhiên, trẻ em và thanh thiếu niên là những người mở đường cho họ, điều này liên hệ tới những lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”. (Mt 11,25)

3. Chủ đề

Đường chân ngang của logo với chủ đề: "Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ" chạy từ trái sang phải theo hướng của cuộc hành trình, nhằm tăng cường và củng cố nó, và kết thúc với tiêu đề "Thượng hội đồng 2021 - 2023", là sự kiện đỉnh cao tổng hợp toàn bộ hành trình.

Tải về file Logo tiếng Việt tại đây!

Tải về file Logo ngôn ngữ khác tại đây!

Văn Việt chuyển ngữ từ synod.va

WHĐ (26.11.2021)


 

Lạm bàn về từ Hiệp Hành

Để chuẩn bị cho Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục vào tháng 10 năm 2023, văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục đã ban hành cuốn cẩm nang “Hướng đến một Hội thánh hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ”. Tài liệu này đã được Hội đồng Giám mục Việt Nam dịch và phổ biến bằng tiếng Việt. Đã có một số tranh luận liên quan đến vài từ khóa được sử dụng trong bản dịch. Trong phạm vi bài viết này tôi chỉ xin bàn đến từ “hiệp hành”.

Trước hết, chúng ta thấy rằng “hiệp hành” là một từ hoàn toàn mới, và vì nó mới nên nghe rất lạ. Bản thân tôi cũng lần đầu tiên nghe đến từ này. Ngôn ngữ là công cụ để biểu đạt ý nghĩa, vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu xem người ta muốn nói đến điều gì khi dùng từ “hiệp hành”. Từ “hiệp hành” được dịch từ từ “synodal” trong tiếng Anh, danh từ của nó “synodality” (“tính hiệp hành”). Tuy nhiên, tiếng Anh cũng chỉ là một trong nhiều ngôn ngữ, nó vẫn là công cụ để biểu đạt ý nghĩa. Một lần nữa, chúng ta sẽ phải tìm hiểu xem người ta muốn nói gì khi dùng chữ “synod”, “synodal” hay “synodality”. “Synod”, “synodal” hay “synodality” có nguồn gốc từ từ Hy Lạp “σύνοδος synodos” và từ La-tinh “synodus”. “Syn” có nghĩa là “cùng với nhau” và “hodos” là “con đường”. Như vậy, từ “hiệp hành” được dùng để diễn đạt ý nghĩa “cùng đi với nhau”. “Cùng đi với nhau” chính là đặc tính thuộc căn tính của Giáo hội. Mục đích của Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới cũng chính là để cổ võ việc thể hiện căn tính này một cách rõ nét hơn trong toàn Giáo hội.

Điều thú vị là tuy hầu như mọi người đều đồng ý với nhau về ý nghĩa “cùng đi với nhau” nhưng lại không thống nhất về từ ngữ dùng để diễn đạt hàm ý này. Theo tôi được biết thì tính tới thời điểm hiện tại chữ “synodal” có các cách dịch là “hiệp hành”, “đồng hành”, “đồng nghị”, “đồng đoàn”. Các từ “đồng hành”, “đồng nghị”, “đồng đoàn” được các dịch giả thâm niên sử dụng. Chắc chắn họ có lý do để dịch như thế. Ở đây tôi chỉ nêu quan điểm cá nhân vì sao tôi không đồng tình với họ. Trước hết, từ “đồng hành” rất gần với nghĩa “cùng đi với nhau”. Rất tiếc “đồng hành” là một động từ, không phải tính từ mà ta muốn tìm để chỉ về Giáo hội. Hơn nữa, nói “Giáo hội đồng hành” sẽ dễ gây hiểu lầm Giáo hội là một thực thể tách biệt với đối tượng mà Giáo hội “đồng hành”. Đúng ra Giáo hội được cấu thành bởi những người đồng hành trong đức tin. Hai từ “đồng nghị” (cùng nhau bàn bạc) và “đồng đoàn” (cùng nhau tụ họp) có nghĩa gần giống nhau, diễn tả sự hiệp nhất trong Giáo hội. Tuy nhiên, theo lời một dịch giả, hai từ này đúng mà chưa thỏa đáng, vì chúng chỉ nói lên yếu tố “với nhau” thôi chứ làm nổi bật được việc “cùng đi”.

Trở lại với từ “hiệp hành”, như tôi đã nói ngay từ ban đầu, đây là một từ được chế ra để diễn tả tính chất “cùng đi với nhau” của Giáo hội. Khi chế ra một từ thì phải đảm bảo có người hiểu nó; và để từ đó được sử dụng rộng rãi thì phải có nhiều người hiểu nó. Có một cha Dòng Tên người Tây Ban Nha khá giỏi tiếng Việt. Cách sử dụng tiếng Việt của ngài có đặc điểm là khá nhiều từ được ngài tự chế ra. Những từ này đọc lên nghe lạ tai nhưng người ta hiểu ý ngài muốn nói. Tôi xin đưa ra thêm một ví dụ khác về việc chế từ. Vợ chồng đứa cháu tôi là người Việt ở Mỹ. Họ có hai con nhỏ và cố gắng dạy chúng sử dụng tiếng Việt khi ở nhà. Có lần người mẹ dạy đứa lớn không được làm điều này điều kia, vì như vậy là hư. Thế là một hôm đứa lớn tới mách mẹ là em nó còn “hư-er” nó nữa. Người mẹ hiểu ngay đứa bé muốn nói gì, vì “hư-er” là kiểu sử dụng tiếng Việt nhưng lại áp dụng cấu trúc so sánh hơn trong tiếng Anh. Tất nhiên các “từ chế” của vị linh mục hay của đứa bé kia sẽ không tồn tại lâu nếu không được người ta sử dụng phổ biến. Từ “hiệp hành” cũng theo nguyên tắc đó.

Có dịch giả tranh luận rằng từ “hiệp hành” là sai quy tắc ghép từ, vì từ “hiệp” luôn phải có một danh từ đi phía sau như hiệp nhất, hiệp lực, hiệp lòng, hiệp ý, hiệp định, hiệp hội, hiệp ước… còn ở đây “hành” lại là động từ. Điều này làm tôi nhớ lại tình huống một người khá am hiểu về tiếng Việt đâm đơn kiện công ty bảo hiểm về vụ việc liên quan đến từ “bị liệt” được ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Theo người ấy thì từ “liệt” luôn là động từ, không thể là tính từ được. Do đó, hợp đồng quy định việc bồi thường trong trường hợp “bị liệt” là sai về mặt ngôn ngữ, phải ghi là “bị bại liệt” mới đúng. Tôi không nhớ rõ chi tiết vụ việc và kết quả kiện cáo như thế nào, nhưng rõ ràng là rất khó thể thuyết phục người ta rằng ghi “bị liệt” là sai quy tắc ngôn ngữ. Cũng vậy, theo thiển ý của tôi thì “hiệp hành” (hay bất cứ các “từ chế” nào khác) không cần phải tuân theo những quy tắc ghép từ nào (nếu có). Điều quan trọng là chúng ta hiểu được rằng người ta dùng từ “hiệp hành” (“hiệp” – hiệp nhất, kết hiệp; “hành” – đi) để diễn tả tính chất “cùng đi với nhau” của Giáo hội.

Câu hỏi đặt ra là vì sao lại buộc người ta phải làm quen với một từ lạ hoắc như “hiệp hành”. Lý do là bởi vì chưa có từ nào khác diễn tả thỏa đáng ý nghĩa mà chúng ta muốn truyền đạt. Dẫu sao thì “hiệp hành” là một từ đã được sử dụng trong văn bản chính thức của Giáo hội. Vấn đề quan trọng nhất lúc này là giúp nhiều người hiểu được ý nghĩa của từ này. Trong khi chúng ta tìm ra một từ nào khác chính xác hơn để thay thế thì từ “hiệp hành” vẫn có chỗ đứng của nó. Ước mong các dịch giả hay các chuyên gia ngôn ngữ Công giáo khi tranh luận về từ ngữ thì vẫn luôn giữ được tinh thần “hiệp hành” (hay gì gì đó tương tự). Có thể chúng ta sẽ mãi không “thống nhất” về ngôn ngữ nhưng điều quan trọng là chúng ta sống “hiệp nhất”. Hiệp nhất trong đa dạng cũng chính là đặc nét của Giáo hội.

Giuse Lê Đắc Thắng, SJ(dongten.net)


 
CHÚNG TA LÀ GIÁO HỘI

Xây dựng Giáo Hội đồng nghị: hiệp thông, tham gia và sứ mệnh


Thế kỷ 21 là thế kỷ của người giáo dân, nhưng người giáo dân ở Việt Nam vẫn còn đang im hơi lặng tiếng. Có lẽ do ảnh hưởng của Nho giáo: tôn kính các đấng các bậc, mà đa số người giáo dân Việt Nam vẫn sống thụ động, chờ các đấng các bậc bảo gì làm nấy, không có tính sáng tạo, không tham gia tích cực vào các sinh hoạt chung của Giáo hội. Đây là một thiếu sót lớn, mà trách nhiệm trước tiên thuộc về hàng giáo sĩ. Bởi vì cũng do ảnh hưởng của Nho giáo mà hàng giáo sĩ nhiều khi coi thường giáo dân, không giao trách nhiệm cho họ, không chú tâm đạo tạo họ trở thành những người cộng tác, cùng chia sẻ trách nhiệm với mình.

Trong Giáo Hội, mọi người đều có phẩm giá ngang nhau, dù chức năng có khác nhau: “Chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một Phép Rửa, một dân riêng của Thiên Chúa, cùng chung một phẩm giá của những chi thể đã được tái sinh trong Đức Kitô, cùng có một ân huệ làm con cái Thiên chúa, một ơn gọi nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia. Vì thế trong Đức Kitô và trong Giáo hội không có sự hơn kém về nguồn gốc hay dân tộc, vì địa vị xã hội hoặc vì nam nữ.” (LG 32).

“Giáo hội chưa được thiết lập thực sự, chưa sống đầy đủ, cũng chưa là dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Ki-tô giữa loài người nếu như chưa có hàng giáo dân đích thực và nếu hàng giáo dân này chưa cùng làm việc với hàng Giáo phẩm. Thật vậy, Phúc âm không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân. Do đó, ngay khi thiết lập, Giáo hội phải hết sức chú tâm đến việc đào tạo một hàng giáo dân Ki-tô giáo trưởng thành.” (AG 21).

Công đồng Vaticanô II còn đề cao vai trò của người giáo dân trong sứ mệnh loan báo Tin mừng: “Người giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo hội sẽ không trở thành muối của thế gian. Như thế, vì những ân huệ đã lãnh nhận, mọi giáo dân vừa là chứng nhân vừa là dụng cụ sống động cho chính sứ mệnh của Giáo hội.” (LG 33) Công đồng khẳng định: “Thánh Linh không chỉ thánh hóa và huớng dẫn Dân Thiên Chúa bằng các bí tích và các thừa tác vụ, cùng trang bị họ bằng các nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát các ân sủng đặc biệt cho mọi cấp bậc các tín hữu ‘phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài’ (1Cr 12, 11), khiến người lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo hội.” (LG 12b).

Tông huấn Giáo hội tại Á Châu cũng nhấn mạnh: “Hơn ai hết, họ chính là những người được mời gọi biến đổi xã hội, cộng tác với các Giám mục, linh mục và tu sĩ, bằng cách đưa ‘tinh thần của Chúa Kitô’ vào trong não trạng, tập quán, luật lệ và cơ chế của thế giới mà trong đó họ đang sống.” (EA 22). 

 

Trong Giáo hội Châu Á ngày nay, Chúa Thánh Thần đang thúc giục những môn đệ của Chúa Kitô sống và làm chứng về sự hiệp nhất trong Giáo hội địa phương, đặc biệt là tại lãnh vực giáo xứ, xây dựng một Giáo hội tham gia mà trong đó các Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân cùng hiệp thông, chia sẻ, hợp tác và đồng trách nhiệm trong sứ vụ loan báo Tin mừng. [1] “Cần phải thay đổi não trạng, trước hết là cái nhìn về người giáo dân, từ chỗ coi họ là cộng tác viên của hàng giáo sĩ đến chỗ chấp nhận họ là những người đồng trách nhiệm thật sự trong việc thể hiện và trong hoạt động của Giáo hội, thúc đẩy một hàng ngũ giáo dân trưởng thành và nhiệt thành theo chiều hướng này.” [2]

Hợp tác và đồng trách nhiệm ở đây được hiểu là những người ngang hàng, cùng nhau bàn bạc, cùng nhau thực hiện. Giáo hội tại Á Châu phải là Giáo hội tham gia (Participatory Church) mà trong đó không ai cảm thấy bị loại trừ (x. EA 45). Toàn bộ Giáo hội được sai đi để loan báo và phục vụ nước Thiên Chúa. Tất cả các thành viên của Giáo hội đều có trách nhiệm xây dựng Giáo hội và chia sẻ toàn bộ sứ vụ của Chúa Kitô. Thật vậy, chúng ta là Giáo hội. Đó là cộng đoàn con cái Thiên Chúa, cùng là môn đệ của Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Vì vậy, sự hiệp thông trong cộng đoàn và sứ vụ phải liên kết và thúc đẩy lẫn nhau.

Vậy, làm thế nào để cho người giáo dân tham gia tích cực vào các sinh hoạt của Gíao hội? Rút ra từ những kinh nghiệm của các Giáo hội khác, cách hay nhất là khuyến khích người giáo dân thành lập các Cộng đoàn Giáo hội cơ bản (Basic Ecclesial Community, viết tắt: BEC).  Trong Giáo hội Việt Nam, thường thì việc gì cũng xuất phát từ hàng giáo sĩ mới được coi là quan trọng, trong khi ở các Cộng đoàn Giáo hội cơ bản thì phần chủ động là chính những người giáo dân. Cộng đoàn Giáo hội cơ bản (CĐGHCB) chính là Một cách thức mới để thể hiện Giáo Hội (A new way of being Church), một cách thức mới để người giáo dân tham gia tích cực vào mọi sinh hoạt của Giáo hội. Cộng đoàn Giáo hội cơ bản là một cách hữu hiệu để đưa đạo vào đời, để thực thi huấn lệnh yêu thương, liên đới và chia sẻ. Nó mời gọi sự tham gia của mọi thành viên và vận dụng tất cả các kỹ năng và đặc sủng của mỗi thành viên. Nó cung cấp cho người giáo dân cảm giác thuộc về Giáo hội, khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động của Giáo hội, giúp họ nhận ra sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống hằng ngày của họ. Họ tập họp cùng nhau trong những nhóm nhỏ, cử hành Lời Chúa và Thánh Thể để họ có thể nuôi dưỡng ý thức về cộng đoàn và tông đồ. Đó chính là chất men làm biến đổi thế giới của chúng ta. [3]  

Các Cộng đoàn này đã xuất hiện từ thập niên 60 ở khắp các châu lục, nhất là tại Mỹ châu La tinh và Á châu với các tên gọi khác nhau, và nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của hàng giáo phẩm các nơi. Trong Tông huấn Giáo hội tại Á châu, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã khẳng định: “Trong bối cảnh ấy và dựa trên kinh nghiệm mục vụ của mình, các Nghị Phụ nhấn mạnh tới giá trị của các Cộng đoàn Giáo hội Cơ bản như một phương thế hữu hiệu để cổ võ mọi người sống hiệp thông và tham gia trong các giáo xứ và giáo phận, và như một sức mạnh thật sự cho công cuộc Loan báo Tin Mừng. Những tập thể nhỏ bé ấy sẽ giúp các tín hữu sống thành những Cộng đoàn Đức Tin, Cầu Nguyện và Yêu Thương như các Kitô hữu đầu tiên (x. Cv 2, 44-47; 4, 32-35). Các tập thể này còn giúp các thành viên sống Tin Mừng trong tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó trở thành điểm khởi hành vững chắc để xây dựng một xã hội mới, biểu hiện một nền Văn Minh Tình Thương. Cùng với Thượng Hội đồng, tôi khuyến khích Giáo hội tại Châu Á, chỗ nào có thể được, hãy coi các Cộng đoàn Cơ bản ấy như một nét tích cực trong công việc Loan báo Tin Mừng của Giáo hội. Nhưng các cộng đoàn ấy chỉ thực sự hữu hiệu, khi biết hiệp thông với Giáo hội địa phương và Giáo hội toàn cầu, hiệp thông từ trong tâm hồn với các vị chủ chăn và huấn quyền của Giáo hội, biết dấn thân cho việc truyền giáo mở rộng, không rơi vào tình trạng cô lập và không để cho một ý thức hệ nào lợi dụng khai thác” (số 25).

Các giáo xứ chính là các Cộng đoàn Giáo hội cơ bản, nhưng các giáo xứ đã trở thành quá đông, không cho phép chúng ta thiết lập và vun xới những mối tương quan hàng ngang để sống tình hiệp thông đích thực giữa các thành viên trong cộng đoàn giáo xứ, chưa nói đến việc cùng đảm nhận sứ mạng trong tư cách là một cộng đoàn. Trong các giáo xứ hiện nay cũng có các đoàn thể, nhưng cũng còn có nhiều người không tham gia vào các đoàn thể này. Hơn nữa các đoàn thể này không đáp ứng được nhu cầu của một Giáo hội tham gia. Nguyên tắc là một CĐGHCB phải là một cộng đoàn nhỏ để mọi người có thể biết nhau, quan tâm đến nhau, có thể gặp gỡ thường xuyên, có thể cùng nhau cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa và thảo luận về các công việc. Phạm vi hành động của họ bao trùm toàn bộ cuộc sống. Họ giúp đỡ những người túng thiếu, viếng thăm và an ủi những người đau yếu già cả, giúp hoà giải các gia đình bất hoà, cùng đưa ra những sáng kiến để đẩy lùi tệ nạn xã hội, quan tâm đến việc học tập và giải trí của trẻ em và thanh thiếu niên... Họ có thể chia phiên để phục vụ và hướng dẫn phụng vụ trong Thánh Lễ. Mỗi CĐGHCB thường có một đại diện trong ban Mục vụ giáo xứ để nắm bắt những nhu cầu, sinh hoạt của giáo xứ. Nói chung, họ làm bất cứ gì để Nước Thiên Chúa được tỏ hiện nhiều hơn nơi khu xóm mình. [4]

Tóm lại, mỗi Kitô hữu nhận được một ân sủng của Thánh Thần vì lợi ích chung (x. 1Cr 12, 7). Những đặc sủng này cần được khơi dậy, cần được khuyến khích để xây dựng Giáo hội. Chúng ta thường chú trọng đến Giáo hội như là một cơ cấu phẩm trật, nhưng Giáo hội cũng là một cơ cấu đặc sủng hoặc cơ cấu Thần khí. Chính Thần khí làm cho Giáo hội sinh động. Giáo hội như một toàn khối liên kết với nhau và sống động nhờ các đặc sủng.

 

THÀNH LẬP CỘNG ĐOÀN GIÁO HỘI CƠ BẢN

 Người Việt Nam rất qúi trọng tình làng nghĩa xóm, nên khi sống xa quê hương họ thường lập ra những hội đồng hương để đáp ứng nhu cầu tình cảm này. Con người ai cũng muốn được người khác coi trọng, được quan tâm, được chia sẻ, được góp phần vào công việc chung. Hơn nữa, đối với người Công giáo, nhu cầu này càng thúc bách hơn. Qua thực tế tại các giáo xứ, chúng ta thấy rằng phần đông người giáo dân chỉ gặp gỡ nhau mỗi tuần một lần tại nhà thờ. Nhưng những cuộc gặp gỡ này thường chỉ là ngồi gần nhau, chứ không ai quan tâm đến ai. Lễ xong, ai lại về nhà nấy. Người ta sống cô đơn, lẻ loi, vô danh ngay giữa đám đông. Các Cộng đoàn Giáo hội Cơ bản (CĐGHCB) chính là nơi đáp ứng những nhu cầu này của con người.

I. Mục đích của Một Cộng Đoàn Giáo Hội Cơ Bản

1. Tổ chức các cuộc họp mặt luân phiên tại các gia đình: Mỗi CĐGHCB bao gồm khoảng 20- 30 gia đình (có thể ít hơn). Những gia đình này sống gần gũi nhau. Nhưng họ cũng có thể sống rải rác trong một khu xóm hay khu phố, xen lẫn với các gia đình ngoại giáo. Sống giữa những người ngoại giáo, các CĐGHCB mới thấy rõ mình là men trong bột, là muối cho đời. Họ gặp nhau mỗi tháng một hoặc hai lần (hoặc có thể nhiều hơn, tùy nheo nhu cầu của mỗi nhóm). Họ thay phiên giữ vai trò tổ chức buổi họp mặt.

2. Chia sẻ Lời Chúa và Thánh Thể: Chính Lời Chúa qui tụ họ lại với nhau, chứ không phải vì thích nhau hay hợp gu với nhau. Do đó, đời sống của một CĐGHCB được đặt nền tảng trên Lời Chúa. Họ thường xuyên chia sẻ Lời Chúa, nhất là theo Phương Pháp 7 bước hay Phương Pháp Xem-Xét-Làm. Qua việc suy tư và chia sẻ Lời Chúa, họ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình, thắt chặt thêm mối dây huynh đệ. Họ cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau nhìn lại đời sống và nêu quyết tâm thực hành cụ thể hàng tháng dưới ánh sáng Lời Chúa (nên hướng việc chia sẻ Lời Chúa và việc thảo luận trong các buổi họp mặt này về những quan tâm đến đời sống hàng ngày ở gia đình, khu xóm, khu phố, chứ không chỉ quanh quẩn ở các việc đạo đức truyền thống mà thôi). Họ cùng nhau qui tụ cử hành Thánh Thể để nuôi dưỡng đời sống đức tin, sự hiệp thông và hoạt động tông đồ của cộng đoàn. Đối với họ, "thể hiện Giáo Hội” không chỉ là đọc kinh, tham dự Thánh lễ, mà trước hết là biểu lộ đức tin trong cuộc sống hằng ngày. 

 3. Cùng phục vụ nhau và cùng nhau phục vụ: Đây là đặc điểm hành động của một CĐGHCB. Đức tin không việc làm là đức tin chết. Đức tin phải được thể hiện qua cuộc sống. Việc chia sẻ Lời Chúa thúc đẩy các thành viên đến một quyết tâm hành động cụ thể, như thái độ đáp trả đối với sứ điệp Lời Chúa trong môi trường mình đang sống. Họ phục vụ tùy theo kinh nghiệm sống đức tin của Nhóm và ơn đoàn sủng mà mỗi người lãnh nhận được. Họ liên đới và giúp đỡ lẫn nhau trong tinh thần đồng trách nhiệm. Họ giúp đỡ những người nghèo, an ủi những người sầu khổ, viếng thăm những người đau yếu già cả trong khu xóm mình, góp phần vào việc giáo dục thanh thiếu niên, cùng nhau dọn dẹp vệ sinh môi trường, cùng nhau xây dựng khu xóm mình ngày càng tốt đẹp hơn,

 4. Liên kết với giáo xứ, giáo phận, và Giáo hội phổ quát:

Để khỏi bị cô lập hóa và bị các ý thức hệ lèo lái, cũng như để bảo toàn tính cách  giáo hội của mình, các CĐGHCB cần phải duy  trì mối giây hiệp thông với các chủ chăn trong Hội Thánh. Một trong các phương tiện hết sức hiệu lực để củng cố niềm hiệp thông ấy là việc huấn luyện liên tục cho những người lãnh đạo trong các cộng đoàn (x. Evangelii nuntiandi, 58). Mọi CĐGHCB đều được nối kết với các CĐGHCB khác, với giáo xứ, giáo phận và Giáo Hội phổ quát. Các CĐGHCB của cùng một giáo xứ thường xuyên thăm viếng nhau, không ngừng hỗ trợ và củng cố nhau. Họ có thể chia phiên để chuẩn bị và hướng dẫn phụng vụ trong Thánh Lễ Chúa Nhật. Thỉnh thoảng họ qui tụ nhau để cùng chia sẻ kinh nghiệm. Mỗi CĐGHCB thường có một đại diện trong ban mục vụ giáo xứ. Những người làm công tác mục vụ toàn thời gian thường xuyên thăm viếng các CĐGHCB, để những cộng đoàn này có thể thắt chặt mối liên kết của họ với giáo xứ và với toàn thể Giáo Hội. Những khoá huấn luyện, những khoá tĩnh tâm cũng là cơ hội tốt cho việc củng cố mối liên kết này.

 II. Thành Lập Các CĐGHCB

 1. Chuẩn bị

- Người phụ trách (cán sự, người lãnh đạo) CĐGHCB đóng một vai trò hết sức quan trọng. Người phụ trách thúc đẩy sự cởi mở chia sẻ, khả năng đối thoại, và thái độ quan tâm của các thành viên. Người phụ trách đóng vai trò điều phối và bảo đảm CĐGHCB của mình luôn ở trong mối hiệp thông mật thiết với giáo xứ, giáo phận và Giáo Hội phổ quát.

- Linh mục chính xứ có tầm quan trọng đặc biệt trong việc khai sinh các CĐGHCB. Không có sự điều phối của linh mục chính xứ, các CĐGHCB khó phát triển khởi sắc được. Các chuyên viên, các cán sự, các tu sĩ không thể thay thế được vai trò của linh mục chính xứ. Linh mục chính xứ cần hiện diện cụ thể trong các cuộc họp mặt của các CĐGHCB, nhất là vào giai đoạn mới hình thành.

- CĐGHCB nhắm đến các mối tương quan, không quá chú trọng đến các hoạt động. Vì thế, không nên tổ chức các hoạt động chỉ để cho có hoạt động. Các hoạt động phải nhằm đáp ứng các nhu cầu và hoàn cảnh thực tế của cộng đoàn.

- Thành lập Ban Cán sự giáo xứ đặc trách việc hỗ trợ xây dựng các CĐGHCB. Những vị này có khả năng lãnh đạo, có khả năng vận động quần chúng, có thể tham dự khoá học tập dành cho nhóm cán sự ở giáo xứ, và có thể tổ chức khoá học tập cho việc chuẩn bị thành lập các CĐGHCB.

 2. Tiến trình hình thành Các CĐGHCB

Có hai cách để thành lập các CĐGHCB:

Cách 1: Thành lập một số CĐGHCB mẫu trước. Sự thành công của một số CĐGHCB mẫu này sẽ tạo điều kiện và khích lệ việc thành lập các CĐGHCB khác.

Cách 2: Thành lập đồng loạt các CĐGHCB trong toàn giáo xứ. Những giáo xứ có đông người Công Giáo tương đối tập trung, không có cách biệt lớn về địa dư, có thể thực hiện theo cách này.

- Khi vận động, cần chú tâm vào nhu cầu xây dựng một cộng đoàn (gặp gỡ nhau, thăm hỏi lẫn nhau, củng cố đời sống đức tin, quan tâm, chia sẻ trong tình huynh đệ), không nhắm trước hết đến những hoạt động. Khi mọi người đã có ý thức tương đối về nhu cầu xây dựng một cộng đoàn, mời họ tham dự một khoá học tập về định hướng CĐGHCB do nhóm cán sự của giáo xứ tổ chức. Chỉ những ai tham dự khoá này (ít nhất là đại diện của gia đình) mới trở thành thành viên của CĐGHCB. Khoá định hướng nói trên sẽ kết thúc với việc bầu chọn ban lãnh đạo CĐGHCB: người phụ trách, phó phụ trách, người đặc trách phụng vụ, thủ quĩ... Không nên bầu chọn quá nhiều chức danh để tránh cồng kềnh. Về sau, sẽ bầu chọn thêm cho các chức vụ khác khi thực sự có nhu cầu.

- Bước khởi đầu của các nhóm CĐGHCB sẽ là các buổi họp mặt đều đặn (ví dụ, mỗi tháng một lần), mỗi lần khoảng 60- 90 phút, để cử hành Thánh Thể, chia sẻ Lời Chúa và để cùng nhau định hướng sống. Các thành viên được khích lệ cởi mở đối thoại và quan tâm tới nhau. Người phụ trách mời và thông báo cho các thành viên về thời gian và địa điểm họp mặt. Linh mục chính xứ và cán sự của giáo xứ (được phân bổ) sẽ hiện diện trong buổi họp mặt đầu tiên này.

- Sau mỗi 3 tháng, tổ chức những buổi hội thảo rút kinh nghiệm thực tế và những khoá bồi dưỡng nhằm: điều phối kịp thời những gì cần thiết để định hướng xây dựng CĐGHCB được rõ nét hơn; từng bước nâng cao hiểu biết Thánh Kinh và hoàn thiện phương pháp chia sẻ Lời Chúa; hun đúc tinh thần và vun xới khả năng lãnh đạo nơi những người phụ trách các CĐGHCB.

- Tổ chức những khoá bồi dưỡng định kỳ cho Ban Lãnh đạo các CĐGHCB và, nếu được, cho tất cả các thành viên cộng đoàn. Nội dung những khoá này được phác hoạ theo kinh nghiệm rút ra từ chính tiến trình.

Nói tóm lại, các Cộng đoàn Giáo hội cơ bản xuất hiện là kết quả của một quá trình trở về nguồn của Kitô giáo (làm sống lại Cộng đoàn của Đức Giêsu với các môn đệ trong Phúc Âm và Cộng đoàn tín hữu đầu tiên ở Giêrusalem trong Sách Tông đồ Công vụ) dưới tác động của Thánh Thần và của luồng gió đổi mới của Công đồng Vatican II.  Là “một cách thức mới để thể hiện Giáo Hội,” các cộng đoàn này đại diện giáo xứ tại khu vực của mình và thể hiện sự sống động của Giáo Hội nơi sự sống động của mình. CĐGHCB mời gọi sự tham gia của mọi thành viên và vận dụng tất cả các kỹ năng và đặc sủng của mỗi thành viên.  Nó là một cách hữu hiệu để đưa đạo vào đời, để sống cụ thể huấn lệnh yêu thương, liên đới và chia sẻ.

Lm. JB. Trần Hữu Hạnh, csf


[1] X. UCAN News, Ucan Commentary - The Role of Religious amid the Asian Crisis, http://www.ucanews.com/html/uca/index.html.

[2 ] Huấn từ của ĐTC vào ngày 7/3/2010, x.www.hdgmvietnam.org

[3] X. FABC, Franz-Josef Eilers, ed.,  For All the People of Asia, Vol 3 (Quezon City: Claretian Publications, 2002), tr. 3, 4,  36, 91, 108, 115.

[4] Nguyễn Văn Nội, www.thanhlinh.net.

 

Tài Liệu Tham Khảo

- Giêrônimô Nguyễn Văn Nội, Giáo dân Xây dựng Cộng đoàn Giáo hội Cơ bản, 2004 (sách Lưu hành nội bộ).

- FABC, Franz-Josef Eilers, ed.,  For All the People of Asia, Vol 1, 3 (Quezon City: Claretian Publications, 2002).

- Lm Giuse Lê Công Đức,  http://dunglac.org



 

KINH CẦU CHO THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC 2023

 

Lạy Chúa Thánh Thần là Ánh sáng Chân lý vẹn toàn,

Chúa ban những ân huệ thích hợp cho từng thời đại,

và dùng nhiều cách thế kỳ diệu để hướng dẫn Hội Thánh,

này chúng con đang chung lời cầu nguyện cho các Giám mục

và những người tham dự Thượng Hội đồng Giám mục thế giới.

 

Xin Chúa làm nên cuộc Hiện Xuống mới trong đời sống Hội Thánh,

xin tuôn tràn trên các Mục tử ơn khôn ngoan và thông hiểu,

gìn giữ các ngài luôn hiệp thông với nhau trong Chúa,

để các ngài cùng nhau tìm hiểu những điều đẹp ý Chúa,

và hướng dẫn đoàn Dân Chúa thực thi những điều Chúa truyền dạy.

 

Các giáo phận Việt Nam chúng con

luôn muốn cùng chung nhịp bước với Hội Thánh hoàn vũ,

xin cho chúng con

biết đồng cảm với nỗi thao thức của các Mục tử trên toàn thế giới,

ngày càng ý thức hơn về tình hiệp thông,

thái độ tham gia và lòng nhiệt thành trong sứ vụ của Hội Thánh.

 

Nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria,

Nữ Vương các Tông đồ và là Mẹ của Hội Thánh,

chúng con dâng lời khẩn cầu lên Chúa,

là Đấng hoạt động mọi nơi mọi thời,

trong sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con,

luôn mãi đến muôn đời. Amen

 

Huế, ngày 8 tháng 11 năm 2021.

IMPRIMATUR

(đã ấn ký)

+ GIUSE NGUYỄN CHÍ LINH

TỔNG GIÁM MỤC TGP HUẾ

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM


HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

Văn phòng thư ký
72/12 Trần Quốc Toản, phường 8, quận 3, Tp Hồ Chí Minh

 




 THÔNG BÁO
Tiến trình tham gia Thượng Hội Đồng Giám Mục tại các Giáo phận 

 

Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới lần thứ XVI sẽ họp Đại hội vào tháng 10 năm 2023 với chủ đề Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông – tham gia – sứ vụ. Để toàn thể Dân Chúa tham gia tích cực vào sinh hoạt của Hội Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị tiến hành Thượng Hội Đồng Giám Mục theo ba giai đoạn: Giáo phận, Châu lục, Hoàn vũ. Giai đoạn Giáo phận kéo dài từ tháng 10/2021 - tháng 8/2022.

Đáp ứng lời kêu gọi của Vị Cha chung, trong cuộc họp trực tuyến ngày 03 tháng 11 năm 2021, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam quyết định:

1/ Thánh Lễ khai mạc: Tất cả các Giáo phận sẽ cử hành Thánh Lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục cấp Giáo phận, do Giám mục Giáo phận chủ sự, vào Chúa nhật I Mùa Vọng, ngày 28 tháng 11 năm 2021.

2/ Chủ đề mục vụ năm 2022: Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông – tham gia – sứ vụ.

3/ Logo của Năm 2022: Logo chính thức của Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục (sẽ gửi đến các Tòa giám mục).

4/ Tùy theo tình hình cụ thể của các địa phương, mỗi Giáo phận sẽ tiến hành việc gặp gỡ, lắng nghe, phân định theo hướng dẫn của Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục.

5/ Các Giáo phận sẽ gửi bản đúc kết của Giáo phận về Văn phòng thư ký Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vào cuối tháng 8 năm 2022.

Xin anh chị em cầu nguyện cho Thượng Hội Đồng Giám Mục mang lại những hoa trái phong phú như lòng Chúa ước mong.

Ngày 10 tháng 11 năm 2021
Tổng thư ký HĐGMVN

(đã ký)

Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm

 

______________________
 

Thượng Hội đồng giám mục lần thứ XVI (2021 - 2023)
Hướng đến một Hội Thánh hiệp hành:

Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ

Tài liệu Chuẩn bị


1. Hội thánh của Thiên Chúa được triệu tập trong Thượng Hội đồng. Với tên gọi “Hướng đến một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ”, con đường này sẽ khai mạc trọng thể vào các ngày 9-10 tháng 10 năm 2021 tại Rôma và vào ngày 17 tháng 10 sau đó tại mỗi Giáo hội đặc thù. Kỳ Đại Hội Thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng giám mục, vào tháng 10 năm 2023[1], sẽ là giai đoạn cơ bản và được tiếp nối bởi giai đoạn do các Giáo hội địa phương thực hiện (x. EC, 19-21). Với việc triệu tập này, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi toàn thể Giáo hội suy tư về một chủ đề mang tính quyết định đối với đời sống và sứ vụ của mình: “Con đường hiệp hành này chính là con đường Thiên Chúa mong đợi nơi Giáo hội của thiên niên kỷ thứ ba”[2]. Hành trình này, theo ý hướng “canh tân” Giáo hội được Công đồng Vaticanô II khởi xướng, chính là một ân phúc mà cũng là một nhiệm vụ: bằng cách cùng nhau cất bước hành trình và cùng nhau suy nghĩ về hành trình đã thực hiện, Hội thánh sẽ có thể học biết, qua kinh nghiệm của mình, đâu là những tiến trình có thể giúp Hội thánh sống hiệp thông, thực hiện sự tham gia và mở ra cho việc thi hành sứ vụ. Quả thực, việc chúng ta “cùng nhau cất bước hành trình” là điều thể hiện và chứng tỏ rõ nhất bản chất của Hội thánh như là dân Chúa lữ hành và truyền giáo.

2. Câu hỏi căn bản thúc đẩy và hướng dẫn chúng ta là: Hiện nay việc “đồng hành cùng nhau” này đang diễn ra thế nào tại các bình diện khác nhau (từ bình diện địa phương đến bình diện hoàn vũ), cho phép Hội thánh loan báo Tin Mừng đúng theo sứ vụ Hội thánh được ủy thác; và Chúa Thánh Linh mời gọi chúng ta thực hiện những bước nào để thăng tiến như một Hội thánh hiệp hành? Để cùng nhau giải đáp được câu hỏi này đòi hỏi chúng ta phải lắng nghe Chúa Thánh Thần là Đấng như gió “thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu” (Ga 3,8), phải mở ngỏ cho những điều lạ lùng mà Chúa Thánh Thần chắc chắn sẽ chuẩn bị cho chúng ta trên suốt hành trình. Như thế, một sức năng động được khơi dậy cho phép chúng ta bắt đầu thu hoạch một số hoa trái của cuộc hoán cải hiệp hành, sẽ dần dần chín mùi. Đây là những mục tiêu hết sức quan trọng đối với phẩm chất của đời sống Hội thánh và đối với việc hoàn thành sứ vụ loan báo Tin Mừng mà tất cả chúng ta đều tham gia nhờ Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Chúng tôi xin nêu ra ở đây những nguyên tắc chính, làm cho tính hiệp hành được thể hiện nơi hình thức, phong cách và cơ cấu của Giáo hội:

- Nhắc nhở cách thức trước đây, trong lịch sử Chúa Thánh Thần đã mở đường dẫn lối cho Giáo hội và ngày nay kêu gọi chúng ta cùng nhau làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.

- Sống tiến trình Giáo hội mang tính tham gia và quy tụ, vốn cống hiến cho mọi người - đặc biệt những người, vì những lý do khác nhau, cảm thấy mình là những kẻ ngoài lề - cơ hội tự bày tỏ và được lắng nghe hầu góp phần vào việc xây dựng dân Thiên Chúa.

- Nhận biết và trân quý tính đa dạng phong phú của những ân huệ và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần rộng rãi tặng ban vì lợi ích của cộng đoàn và toàn thể gia đình nhân loại.

- Thử nghiệm những cách thức thi hành trách nhiệm chung trong việc loan báo Tin Mừng và nỗ lực xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn và đáng sống hơn.

- Xem xét cách thức thể hiện trách nhiệm và quyền bính trong Giáo hội cũng như các cơ cấu kiểm soát chúng, vạch trần và ra sức hoán cải các định kiến cùng những thực hành lệch lạc không phát xuất từ Tin Mừng.

- Làm cho cộng đồng Kitô giáo thành một chủ thể đáng tín nhiệm và là một đối tác đáng tin cậy trong hành trình đối thoại xã hội, chữa lành, hòa giải, liên kết và tham gia, tái thiết nền dân chủ, cổ vũ tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội.

- Canh tân và củng cố những mối tương quan giữa các thành viên trong cộng đồng Kitô hữu cũng như giữa các cộng đồng và các nhóm xã hội khác, chẳng hạn những cộng đồng tín hữu của các tông phái và tôn giáo khác, những tổ chức xã hội dân sự, những phong trào quần chúng, v.v…

- Cổ vũ việc đề cao và thủ đắc những thành quả kinh nghiệm hiệp hành mới đây trên bình diện thế giới, khu vực, quốc gia và địa phương.

3. Tài liệu Chuẩn bị này nhằm phục vụ cho hành trình hiệp hành, đặc biệt như một công cụ tạo thuận lợi cho giai đoạn đầu tiên của việc lắng nghe và thỉnh ý dân Chúa trong các Giáo hội đặc thù (tháng 10 năm 2021 – tháng 4 năm 2022), với hy vọng giúp khơi gợi các ý tưởng, thúc đẩy năng lực và óc sáng tạo của tất cả những ai sẽ tham gia vào hành trình này, và nhờ thế, làm cho việc chia sẻ thành quả các nỗ lực của họ được thuận lợi. Nhắm mục đích này, Tài liệu 1/ bắt đầu bằng cách phác thảo một số đặc điểm nổi bật của bối cảnh đương thời, 2/ giải thích ngắn gọn các nguồn tài liệu tham khảo thần học căn bản giúp hiểu biết và thực hành đúng đắn về tính hiệp hành, 3/ đề xuất một số đoạn Kinh Thánh làm chất liệu cho việc nguyện ngắm và sự suy tư cầu nguyện trong suốt hành trình, 4/ minh thị một số viễn tượng để từ đó đọc lại những kinh nghiệm sống tinh thần hiệp hành, 5/ trình bày một số cách thức khai triển việc đọc lại các kinh nghiệm này trong cầu nguyện và chia sẻ. Để hướng dẫn cụ thể cách tổ chức các việc trên, Tài liệu này còn được kèm theo một Cẩm nang mang tính phương pháp luận và có sẵn trên trang mạng dành cho Thượng Hội đồng này[3]. Trang mạng này cống hiến một số nguồn tài liệu để đào sâu chủ đề về tính hiệp hành, cũng như nguồn hỗ trợ cho Tài liệu Chuẩn bị này; trong số những nguồn tài liệu đó, chúng tôi xin lưu ý hai nguồn đã nhiều lần được nhắc đến: Diễn từ Mừng kỷ niệm 50 năm ngày thiết lập Thượng Hội đồng giám mục, được Đức Thánh Cha Phanxicô phát biểu vào ngày 17 tháng 10 năm 2015, và văn kiện Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh, do Ủy ban Thần học Quốc tế soạn thảo và ấn hành năm 2018.

I. LỜI KÊU GỌI CÙNG NHAU CẤT BƯỚC HÀNH TRÌNH

4. Con đường hiệp hành diễn ra trong bối cảnh lịch sử được ghi dấu bởi những biến chuyển lớn trong xã hội và bởi một giai đoạn then chốt trong đời sống Giáo hội không thể bỏ qua được: chính trong những biến động phức tạp của bối cảnh này cùng những căng thẳng và những mâu thuẫn của nó, chúng ta được mời gọi “tìm hiểu tường tận các dấu chỉ của thời đại và giải thích những dấu chỉ ấy dưới ánh sáng Tin Mừng” (GS, 4). Chúng ta phác họa ở đây một vài yếu tố chủ yếu của khung cảnh toàn cầu có nối kết chặt chẽ nhất với chủ đề của Thượng Hội đồng, nhưng sự mô tả này phải được phong phú hóa và hoàn tất ở bình diện địa phương tùy theo bối cảnh tại đó.

5. Thảm kịch toàn cầu như đại dịch Covid-19, “có lúc đã khơi lại rõ ràng cái cảm thức chúng ta là một cộng đồng thế giới đang chèo chống trên cùng một con thuyền, ở đó điều gây tổn hại cho người này cũng gây tổn hại cho người khác. Phải nhớ rằng nếu có được cứu, thì tất cả cùng được cứu, chứ chẳng có chuyện chỉ riêng ai đó được cứu” (FT, 32). Đồng thời, đại dịch đã phơi bày rõ nét những bất bình đẳng và bất công vốn đã hiện hữu: nhân loại dường như càng bị chao đảo bởi những tiến trình đại chúng hóa và phân mảnh; thân phận bi thảm của các di dân trên khắp mọi miền thế giới chứng tỏ những hàng rào phân rẽ gia đình nhân loại duy nhất vẫn sừng sững dương cao. Thông điệp Laudato si’ và Fratelli tutti cho thấy rõ những thương tích hằn sâu ngang dọc thân mình nhân loại, và chúng ta có thể tìm đọc những phân tích này để nghe thấy tiếng kêu than của những người nghèo và của trái đất cũng như nhận ra những hạt mầm hy vọng và tương lai, nhờ Chúa Thánh Thần, vẫn tiếp tục đâm chồi nảy lộc ở thời đại chúng ta: “Đấng Tạo Hoá không bỏ mặc chúng ta. Ngài không bao giờ bỏ dở kế hoạch yêu thương của Ngài. Ngài không hối tiếc vì đã tạo dựng nên chúng ta. Nhân loại vẫn có khả năng cùng hợp tác xây dựng ngôi nhà chung” (LS, 13).

6. Tình trạng này, bất kể nhiều dị biệt rất lớn, liên can đến toàn thể gia đình nhân loại, thách thức khả năng của Hội thánh trong việc đồng hành cá nhân và cộng đồng để nhìn lại những kinh nghiệm tang thương, qua đó cho phép chúng ta vạch trần vô số những an toàn giả tạo và vun trồng niềm hy vọng và tin tưởng nơi lòng nhân hậu của Đấng Tạo Hóa và sự tốt lành trong công trình tạo dựng của Ngài. Tuy nhiên, chúng ta không thể che dấu một thực tế rằng Hội thánh đang phải đương đầu với sự thiếu đức tin và suy đồi của chính mình. Cách riêng, chúng ta không thể quên nỗi đau khổ mà các trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương phải chịu “do việc lạm dụng tình dục, lạm dụng quyền bính và lạm dụng lương tâm của nhiều giáo sĩ và người thánh hiến”[4]. Chúng ta không ngừng bị chất vấn “trong tư cách là dân Chúa, phải gánh lấy nỗi đau của các anh chị em mình đã bị thương tổn trong thân xác và tinh thần”[5]. Đã quá lâu, Hội thánh không biết lắng nghe cho đủ tiếng kêu than của các nạn nhân ấy. Đây là những vết thương trầm trọng khó chữa lành, vì thế chúng ta không bao giờ cầu xin tha thứ cho đủ; và những vết thương này là những chướng ngại, đôi khi rất lớn, ngăn cản chúng ta tiến lên theo hướng “cùng nhau cất bước hành trình”. Toàn thể Hội thánh được mời gọi giải gỡ gánh nặng của nền văn hóa thấm nhiễm chủ nghĩa giáo sĩ trị do lịch sử để lại, cùng với những thói tục thi hành quyền bính để mọi thứ lạm dụng khác (quyền lực, kinh tế, lương tâm, tình dục) có cơ hội bám vào. Không thể có chuyện “hoán cải hoạt động của Hội thánh mà lại không có sự tham gia tích cực của tất cả mọi thành phần dân Chúa”[6], vì thế chúng ta hãy cùng nhau cầu xin Chúa ban “ơn hoán cải và xức dầu bên trong để có thể biểu lộ sự hối lỗi trước tội lạm dụng này, và can đảm quyết tâm chống lại những tội ác đó”[7].

7. Bất chấp những bất trung của chúng ta, Chúa Thánh Thần tiếp tục hoạt động trong lịch sử và biểu lộ quyền năng tác sinh của Ngài. Chính trong những dấu vết khắc sâu bởi đủ mọi thứ khổ đau mà gia đình nhân loại và dân Chúa phải hứng chịu, những cách diễn tả mới của đức tin và những hành trình mới đang được triển nở, chúng không những có khả năng giải thích các biến cố theo quan điểm thần học, mà còn có khả năng khám phá trong thử thách những lý do để tái thiết con đường sự sống của Kitô hữu và Hội thánh. Thực tế có không ít Giáo hội đã bắt đầu thực hiện những cuộc gặp gỡ và đưa ra những tiến trình ít nhiều mang hình thức thỉnh ý dân Chúa. Đây là lý do để hy vọng, tràn trề hy vọng. Ở đâu có dấu ấn của phong cách hiệp hành, ở đó cảm thức về Hội thánh triển nở, và sự tham gia của tất cả mọi người đem lại cho đời sống Hội thánh một sức năng động mới. Ước muốn trở nên những thành tố chính trong lòng Giáo hội từ phía giới trẻ và yêu cầu đánh giá đúng hơn về vai trò phụ nữ, cũng như để họ có không gian tham gia vào sứ vụ của Giáo hội, vốn đã được các Thượng Hội đồng 2018 và 2019 lưu ý, đều đã được xác nhận. Cũng theo hướng này, mới đây đã có việc thiết lập thừa tác vụ Giáo lý viên cho giáo dân cũng như thừa tác vụ Đọc sách và Giúp lễ cho phụ nữ.

8. Chúng ta không thể không biết đến những hoàn cảnh đa dạng của các cộng đồng Kitô giáo sinh sống tại những vùng khác nhau trên thế giới. Bên cạnh những quốc gia nơi Giáo hội tiếp nhận phần lớn dân số và là đại diện tham chiếu văn hóa cho toàn xã hội, còn có những quốc gia khác, ở đó người Công giáo là thiểu số; trong một số quốc gia đó, tín hữu Công giáo cùng với những Kitô hữu khác phải chịu những sự bách hại đôi khi rất tàn bạo, và nhiều khi phải tử đạo. Nếu, một đàng, não trạng thế tục hóa thống trị có xu hướng loại trừ tôn giáo khỏi không gian công cộng, thì đàng khác, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo vốn không tôn trọng tự do của những người khác, lại nuôi dưỡng những hình thức bất bao dung và bạo lực, cũng có thể thấy những hình thức này nơi cộng đồng Kitô giáo và trong những mối tương quan của cộng đồng này với xã hội. Không hiếm khi những Kitô hữu có các thái độ y như thế, cũng xúi giục chia rẽ và chống đối, ngay cả trong Giáo hội. Cũng phải để ý đến cách thức trong đó những chia rẽ len lỏi khắp xã hội, dội lại trong Giáo hội và trong những tương quan của Giáo hội với xã hội, là những chia rẽ gây ra bởi những lý do sắc tộc, chủng tộc, giai cấp hoặc các hình thức phân tầng xã hội khác hoặc bạo lực văn hóa và cơ cấu. Những cảnh trạng này tác động sâu xa đến ý nghĩa của diễn ngữ “cùng nhau cất bước hành trình” và những khả năng cụ thể thực hiện điều này.

9. Trong bối cảnh này, hiệp hành được coi là con đường chính dành cho Hội thánh, vốn được kêu gọi canh tân dưới tác động của Chúa Thánh Thần và nhờ lắng nghe Lời Chúa. Khả năng hình dung ra một tương lai khác cho Giáo hội và cho các định chế của Giáo hội xứng tầm sứ vụ mà Giáo hội nhận lãnh, tùy thuộc phần lớn vào quyết định khởi động những tiến trình lắng nghe, đối thoại và biện phân cộng đồng, trong đó tất cả và mỗi người đều có thể tham gia và góp phần. Đồng thời, sự chọn lựa “cùng nhau cất bước hành trình” là một dấu hiệu mang tính tiên tri đối với gia đình nhân loại, đang cần một dự án chung có khả năng mưu cầu thiện hảo cho tất cả mọi người. Một Hội thánh có khả năng hiệp thông, có tình huynh đệ, có sự tham gia và bổ trợ, trung thành với những gì Hội thánh công bố, sẽ có thể đến bên người nghèo và người bé mọn cũng như cất lên tiếng nói thay cho họ. Để “cùng nhau cất bước hành trình”, chúng ta cần để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn, nhờ đó có được tinh thần hiệp hành thực sự, bằng cách can đảm và tự do dấn bước vào tiến trình hoán cải vốn là điều thiết yếu cho “cuộc đổi mới liên tục mà [Giáo hội] luôn cần đến bao lâu Giáo hội còn là một định chế nhân loại ở trần gian này” (UR, 6; x. EG, 26).

II. MỘT HỘI THÁNH HIỆP HÀNH TỪ NỀN TẢNG

10. “Con đường hiệp hành này là chính con đường Thiên Chúa mong đợi nơi Hội thánh của thiên niên kỷ thứ ba. Điều Chúa yêu cầu chúng ta, theo một nghĩa nào đó, hoàn toàn đã bao hàm trong chính hạn từ ‘Synod’”[8], vốn “là một từ cổ kính trong Truyền thống của Giáo hội, ý nghĩa của nó được rút ra từ những nội dung sâu xa nhất của Mạc khải”[9]. Chính “Chúa Giêsu tự giới thiệu Ngài là ‘con đường, sự thật và sự sống’ (Ga 14, 6)” và “các kitô hữu, những người đi theo Ngài, ban đầu được gọi là ‘những môn đệ của Con Đường đó’ (x Cv 9, 2; 19, 9.23; 22,4; 24, 14.22)”.[10] Trong viễn tượng này, tính hiệp hành không chỉ là việc cử hành các cuộc gặp gỡ trong Giáo hội và các cuộc hội họp của giám mục, hay chỉ là vấn đề quản trị nội bộ của Giáo hội; hiệp hành còn “chỉ phương cách sống và hành động (modus vivendi et operandi) đặc trưng của Giáo hội, dân Thiên Chúa, vốn biểu lộ và thực hiện cách cụ thể bản chất hiệp thông của mình khi mọi thành viên của Giáo hội đồng hành cùng nhau, tập hợp lại trong đại hội và cùng tham gia tích cực vào sứ vụ phúc âm hóa của Giáo hội”.[11] Như thế, các trụ cột của một Hội thánh hiệp hành, như tiêu đề của Thượng Hội đồng đề ra thì nối kết với nhau: hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Trong chương này, chúng ta sẽ giải thích ngắn gọn một số tham chiếu thần học cốt yếu làm nền tảng cho quan điểm đó.

11. Trong thiên niên kỷ thứ nhất, “cùng nhau cất bước hành trình”, vốn có nghĩa là thực hiện hiệp hành, là cách thức hành động thông thường của Giáo hội - được hiểu như “Dân được tập hợp lại trong sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”[12]. Đối lập với những người phân rẽ nhiệm thể Giáo hội, các Giáo phụ đã nêu lên sự hiệp thông của các Giáo hội khắp đó đây trên thế giới, điều mà Thánh Augustinô gọi là “concordissima fidei conspiratio”[13] nghĩa là “sự đồng tâm nhất trí trong đức tin của tất cả những người đã chịu phép Rửa”. Đây chính là nguồn cội của việc thực hành rộng rãi tính hiệp hành ở mọi cấp độ của Hội thánh – địa phương, giáo tỉnh và hoàn vũ – mà Công đồng Chung là sự thể hiện rõ nét nhất của nó. Trong viễn cảnh Hội thánh này, được gợi hứng bởi nguyên tắc mọi người được tham gia vào sinh hoạt của Giáo hội, Thánh Gioan Kim khẩu dám nói rằng: “Hội thánh và Synod là hai từ đồng nghĩa”.[14] Ngay cả trong thiên niên kỷ thứ hai, khi Giáo hội nhấn mạnh hơn vào chức năng phẩm trật, cách thức tiến hành này vẫn không bị mai một: nếu, ở thời Trung cổ và ở thời Cận đại, bên cạnh việc tiến hành các Công đồng Chung, việc tiến hành các Công nghị giáo phận và giáo tỉnh cũng đã được chứng thực rõ ràng, thì khi cần phải xác định những chân lý phải tin, các vị giáo hoàng đều mong muốn tham khảo ý kiến các giám mục để biết đức tin của toàn thể Hội thánh, nại đến thế giá của cảm thức đức tin (sensus fidei) của toàn thể dân Chúa, vốn “không thể sai lầm khi tin” (infallibile in credendo) (EG, 119).

12. Công đồng Vaticanô II, vốn gắn bó với truyền thống năng động này, nhấn mạnh rằng “Thiên Chúa muốn thánh hoá và cứu độ con người không như những cá nhân riêng rẽ không chút liên đới với nhau, nhưng Ngài muốn làm cho họ thành một dân tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong thánh thiện” (LG, 9). Các thành viên của dân Chúa hợp nhất bằng phép Thanh tẩy và “mặc dù theo ý Đức Kitô, một số người được đặt làm thầy dạy, làm người phân phát các mầu nhiệm, và làm mục tử, vì lợi ích của những người khác, nhưng tất cả mọi người đều thực sự bình đẳng về phẩm giá và về hoạt động chung của toàn thể các tín hữu, trong việc xây dựng thân mình Đức Kitô” (LG, 32). Do đó, tất cả những người đã chịu phép Thanh tẩy, những người tham gia vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Đức Kitô, “khi thi hành các đặc sủng đa dạng và phong phú Chúa ban cho theo ơn gọi và tác vụ của họ”[15], đều là những chủ thể tích cực loan báo Tin Mừng, trong tư cách cá nhân cũng như với tư cách toàn thể dân Chúa.

13. Công đồng nhấn mạnh cách thế qua đó, nhờ được xức dầu Thánh Thần khi chịu phép Rửa, toàn thể các tín hữu “không thể sai lầm trong đức tin, họ biểu lộ thuộc tính đặc biệt này qua cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi ‘từ các giám mục cho đến những người bé mọn nhất trong các tín hữu’ đều đồng thuận về những điều liên quan đến đức tin và phong hóa” (LG, 12). Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn các tín hữu “tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13). Nhờ tác động của Ngài, “truyền thống phát xuất từ các Tông đồ được tiếp nối trong Giáo hội”, để dân Thiên Chúa có thể lớn lên vì “các sự việc và lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, hoặc nhờ sự chiêm niệm và học hỏi của những tín hữu đã luôn suy tưởng các điều ấy trong lòng (x. Lc 2,19.51), hoặc nhờ sự thông hiểu về những cảm nghiệm thiêng liêng, hoặc nhờ sự giảng dạy của những người đã lãnh nhận cách chắc chắn đoàn sủng về chân lý cùng với việc kế vị các Tông đồ trong chức giám mục” (DV 8). Quả thực, dân Chúa, được các mục tử tập hợp lại, gắn bó với kho tàng thánh thiêng Lời Chúa được ủy thác cho Hội thánh, kiên trì không ngừng trong giáo huấn của các Tông đồ, trong tình hiệp thông huynh đệ, trong việc bẻ bánh và trong lời cầu nguyện, “đến nỗi có sự đồng tâm nhất trí lạ lùng giữa các mục tử và tín hữu đối với việc gìn giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin đã được truyền lại” (DV, 10).

14. Các mục tử, được Thiên Chúa cắt đặt như “những người bảo vệ, giải thích và chứng nhân đích thực cho đức tin của toàn thể Hội thánh”[16], nên không sợ lắng nghe đoàn chiên được giao phó cho mình. Việc thỉnh ý dân Chúa không hàm ý là Hội thánh  tiếp thu những trào lưu dân chủ dựa trên nguyên tắc đa số, bởi lẽ lý do của việc tham gia vào mọi tiến trình hiệp hành là niềm khao khát được chia sẻ sứ vụ loan báo Tin Mừng, chứ không phải là những xung đột lợi ích. Nói khác đi, đây là một tiến trình mang tính Hội thánh vốn chỉ có thể được thực hiện “giữa lòng một cộng đồng có cấu trúc phẩm trật”[17]. Chính trong mối liên hệ tích cực giữa cảm thức đức tin của dân Chúa và chức năng giáo huấn của các mục tử mà sự đồng tâm nhất trí trong cùng một đức tin của toàn thể Hội thánh được thể hiện. Mọi tiến trình hiệp hành, trong đó các giám mục được mời gọi phân định những gì Chúa Thánh Linh nói với Hội thánh, không phải chỉ có các ngài đơn độc, nhưng bằng cách lắng nghe dân Chúa vốn “cũng tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Đức Kitô” (LG, 12), đều là hình thức hiển nhiên của việc “cùng nhau cất bước hành trình”, nhờ đó Hội thánh lớn mạnh. Thánh Biển Đức lưu ý rằng: “Chúa thường mạc khải con đường khôn ngoan nhất phải theo”[18] cho những ai không nắm giữ chức vụ quan trọng trong cộng đoàn (trong trường hợp này, là người trẻ nhất). Như vậy, các giám mục nên quan tâm tiếp cận với hết mọi người, để trong lúc tuần tự thực hiện tiến trình hiệp hành, điều Thánh Phaolô Tông đồ khuyến cáo các cộng đoàn được thể hiện: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy” (1 Tx 5,19-21).

15. Ý nghĩa cuộc hành trình mà tất cả chúng ta được mời gọi thực hiện, trước hết, chính là ý nghĩa hành trình tái khám phá khuôn mặt và hình thức của một Hội thánh hiệp hành, trong đó “mỗi người đều có điều gì đó để học biết. Giáo hữu, giám mục đoàn, giám mục Rôma: tất cả đều lắng nghe nhau, và tất cả đều lắng nghe Chúa Thánh Thần, ‘Thần Khí sự thật’ (Ga 14,17), để biết ‘điều Thần Khí nói với các Hội Thánh’ (Kh 2,7)”[19] Vị Giám mục Rôma, như nguyên lý và nền tảng sự hiệp nhất Giáo hội, yêu cầu tất cả các giám mục và tất cả các Giáo hội địa phương - trong và từ Giáo hội địa phương này mà có một Giáo hội Công giáo duy nhất (x. LG, 23) - tự tin và can đảm dấn bước trên con đường hiệp hành. Trong hành trình “cùng nhau cất bước hành trình” này, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta khám phá ra rằng việc hiệp thông, vốn kết hiệp các ân ban, đặc sủng, và tác vụ khác nhau lại, là để thi hành sứ vụ: Hội thánh hiệp hành là Hội thánh “ra đi”, Hội thánh truyền giáo là “Hội thánh luôn mở rộng cửa” (EG, 46). Điều này bao hàm lời mời gọi làm sâu sắc thêm mối tương quan với các Giáo hội và các cộng đoàn Kitô hữu khác mà chúng ta được liên kết bởi một phép Rửa duy nhất. Đàng khác, viễn tượng “cùng nhau cất bước hành trình” thì rộng rãi hơn và bao trùm toàn thể nhân loại, trong đó chúng ta cùng chia sẻ “vui mừng và hy vọng, u sầu và lo âu của con người ngày nay” (GS, 1). Hội thánh mang tính hiệp hành là dấu chỉ tiên tri, nhất là cho cộng đồng các quốc gia không có khả năng đề xuất một dự án chung cho phép theo đuổi thiện ích của mọi người: ngày nay đối với Hội thánh, thực hành tính hiệp hành là phương thức hiển nhiên nhất để trở thành “bí tích phổ quát của ơn cứu độ” (LG, 48), “dấu chỉ và phương tiện hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và hợp nhất với toàn thể nhân loại” (LG, 1).

III. LẮNG NGHE KINH THÁNH

16. Thần Khí Thiên Chúa soi sáng và ban sức sống cho việc “cùng nhau cất bước hành trình” của các Hội thánh cũng chính là Thần Khí hoạt động trong sứ vụ của Đức Giêsu, được hứa ban cho các Tông đồ và các thế hệ môn đệ hằng biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Theo lời hứa của Chúa Giêsu, Thần Khí không chỉ xác nhận tính liên tục của Tin Mừng Chúa Giêsu, mà còn làm sáng tỏ những chiều sâu luôn mới mẻ trong mạc khải của Ngài và soi dẫn các quyết định cần thiết để trợ lực Hội thánh trên cuộc hành trình này (x. Ga 14,25-26; 15,26-27; 16,12-15). Do đó, thật thích đáng khi tiến trình xây dựng Hội thánh hiệp hành được truyền cảm hứng bởi hai “hình ảnh” trong Kinh Thánh. Hình ảnh đầu tiên hiện lên rõ nét khi diễn ra “khung cảnh cộng đồng” vốn luôn gắn liền với hành trình loan báo Tin Mừng; còn hình ảnh kia lại đề cập đến kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần, nhờ đó Phêrô và cộng đồng sơ khởi nhận ra được nguy cơ của việc đặt ra những hạn chế phi lý trong việc chia sẻ đức tin. Kinh nghiệm hiệp hành của việc cùng nhau cất bước hành trình, khi theo Chúa Giêsu và vâng phục Thần Khí, sẽ có thể nhận được nguồn cảm hứng mạnh mẽ qua việc suy niệm hai thời điểm này của mạc khải.

Chúa Giêsu, đám đông, các Tông đồ

17. Theo cách thức Chúa Giêsu vẫn thường tự mạc khải như toàn bộ Tin Mừng cho biết, ta thấy hiện ra một khung cảnh độc đáo trong cấu trúc cơ bản của mạc khải, khi Chúa Giêsu loan báo sự xuất hiện của Nước Thiên Chúa. Khung cảnh này chủ yếu bao gồm ba tuyến nhân vật (và một tuyến nhân vật thêm vào). Tuyến nhân vật trước tiên, đương nhiên là Chúa Giêsu, nhân vật chủ đạo tuyệt đối có vai trò khởi xướng, Ngài rao giảng lời và tỏ lộ những dấu chỉ cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến, “không thiên vị người nào” (x. Cv 10, 34). Bằng nhiều cách, Chúa Giêsu đặc biệt chú ý đến những người “xa cách” Thiên Chúa và những người bị cộng đồng “loại trừ” (người tội lỗi và người nghèo, nói theo ngôn ngữ Tin Mừng). Bằng lời nói và hành động của mình, nhân danh Chúa Cha và trong quyền năng Chúa Thánh Thần, Ngài ban ơn giải thoát khỏi sự dữ và ơn hoán cải mang lại niềm hy vọng. Mặc dầu những lời mời gọi của Chúa và những đáp trả của con người rất đa dạng, nhưng ta thấy có đặc điểm chung này: đức tin luôn nâng cao giá trị con người. Thật vậy, lời cầu xin của họ được lắng nghe, những khó khăn của họ nhận được sự trợ giúp, tấm lòng quảng đại sẵn sàng của họ được đề cao, phẩm giá của họ được Thiên Chúa nhìn nhận và được cộng đồng phục hồi.

18. Trên thực tế, người ta sẽ không thể hiểu được công cuộc loan báo Tin Mừng và sứ điệp cứu độ nếu Chúa Giêsu không kiên trì mở ra những cuộc đối thoại với lượng thính giả đông đảo nhất có thể, mà các sách Tin Mừng gọi là đám đông, nghĩa là toàn bộ những ai đi theo Ngài và đôi khi, ngay cả đeo đuổi Ngài với hy vọng được một dấu lạ và một lời cứu độ: đó chính là tuyến nhân vật thứ hai của khung cảnh mạc khải. Tin Mừng không chỉ được công bố cho một số ít người được soi sáng hoặc tuyển chọn. Những người đối thoại với Chúa là “dân chúng” trong đời thường, là “bất cứ ai” mang thân phận con người, được Ngài cho trực tiếp gặp gỡ ân phúc của Thiên Chúa và lời gọi đến hưởng ơn cứu độ. Bằng cung cách khiến cho những người chứng kiến phải ngạc nhiên và đôi khi công phẫn, Chúa Giêsu chấp nhận đối thoại với hết những ai thuộc về đám đông đó: Ngài lắng nghe lời phản bác tha thiết của người phụ nữ Canaan (x. Mt 15,21-28), không chấp nhận bị loại trừ vì không được Chúa thi ân; Ngài chẳng ngại bắt chuyện với người phụ nữ Samari (x. Ga 4,1-42), bất chấp thân phận của nàng vốn bị coi là chẳng ra gì về mặt xã hội cũng như tôn giáo; Ngài thôi thúc người mù từ bẩm sinh biểu lộ hành vi đức tin cách tự do và với lòng biết ơn (x. Ga 9) trong khi tôn giáo chính thức đã kể anh thuộc hạng người vô phúc.

19. Một số người theo Chúa Giêsu cách minh nhiên hơn, sống đúng ý nghĩa của từ “môn đệ”, trong khi những người khác lại được khuyên trở về với cuộc sống đời thường: tuy nhiên, tất cả đều làm chứng rằng chính sức mạnh đức tin đã cứu chữa họ (x. Mt 15, 28). Trong số những người theo Chúa Giêsu, nổi bật nhất là các Tông đồ, những người ngay từ đầu Ngài đã đích thân kêu gọi, rồi giao nhiệm vụ làm trung gian đầy uy thế giữa đám đông dân chúng với mạc khải và sự xuất hiện của Nước Thiên Chúa. Tuyến nhân vật thứ ba xuất hiện ở khung cảnh này không nhờ việc chữa lành hay hoán cải, nhưng vì đáp ứng lời kêu gọi của Chúa Giêsu. Việc tuyển chọn các Tông đồ không phải là đặc ân phong ban một chức quyền với lãnh địa riêng có tính phân tán mà là ân sủng của một thừa tác vụ ban phúc lành và tình huynh đệ có tính quy tụ. Nhờ ân huệ Thánh Thần của Chúa Phục Sinh, họ sẽ bảo toàn địa vị của Chúa Giêsu mà không thay thế Người: không đặt các lăng kính để lọc bớt sự hiện diện của Người nhưng làm cho việc gặp gỡ Người được trở nên dễ dàng.

20. Chúa Giêsu, đám đông đủ mọi hạng người, các Tông đồ: đây là hình ảnh và là mầu nhiệm mà Hội thánh phải không ngừng chiêm ngắm và đào sâu để có thể trở nên chính mình ngày một hơn. Không một ai trong ba tuyến nhân vật này có thể rời khỏi khung cảnh mạc khải này. Nếu Đức Giêsu vắng mặt và ai khác thế chỗ, Giáo hội sẽ trở thành một thứ giao kèo giữa các Tông đồ và đám đông, để rồi cuộc đối thoại của họ sẽ kết thúc bằng những âm mưu của trò chơi chính trị. Nếu không có các Tông đồ, là những người được Chúa Giêsu trao quyền và Chúa Thánh Thần chỉ dạy, thì mối tương quan với chân lý Tin Mừng sẽ bị phá vỡ và đám đông sẽ chỉ còn thấy Chúa Giêsu như một huyền thoại hoặc như một ý thức hệ, cho dù họ có đón nhận hay bác bỏ Ngài. Nếu không có đám đông, mối tương quan giữa các Tông đồ và Chúa Giêsu sẽ suy thoái thành một thứ tôn giáo mang hình thức giáo phái và tự quy ngã, đồng thời việc loan báo Tin Mừng sẽ mất đi ánh sáng của nó, vốn chỉ đến từ Thiên Chúa, Đấng tự tỏ mình cho nhân loại và từng người để ban ơn cứu độ cho họ.

21. Cũng còn một tuyến nhân vật phản diện “thêm vào”, mang đến khung cảnh này sự chia rẽ quỷ quyệt giữa ba tuyến nhân vật kia. Trước cảnh gây vấp ngã của thập giá một số môn đệ bỏ đi, còn đám đông thì nay thế này mai thế khác. Âm mưu gây chia rẽ - và do đó cản trở con đường chung - cũng bộc lộ dưới những hình thức nghiêm nhặt của tôn giáo, bó buộc của luân lý còn gắt gao hơn cả lệnh truyền của Chúa Giêsu, hoặc dưới những hình thức quyến rũ của một thứ khôn ngoan chính trị thế gian, tự cho là hữu hiệu hơn sự biện phân các thần trí. Để thoát khỏi các mưu chước lừa dối của “tuyến nhân vật thứ tư” này, cần phải thường xuyên hoán cải. Biểu trưng cho vấn đề này là câu chuyện về viên đại đội trưởng Cornêliô (x. Cv 10), xảy ra trước “Công đồng” Giêrusalem (x. Cv 15) vốn là điểm tham chiếu chủ yếu cho Hội thánh hiệp hành.

Một động năng kép của sự hoán cải: Phêrô và Cornêliô (Cv 10)

22. Đoạn này trước hết tường thuật lại việc hoán cải của Cornêliô, thậm chí ông còn nhận được một loại “truyền tin”. Cornêliô là người ngoại giáo, dường như là dân Rôma, một viên bách quản (sĩ quan cấp bậc thấp) của đội quân chiếm đóng, vốn hay sử dụng bạo lực và lạm quyền. Thế mà ông lại chuyên cần cầu nguyện và hay bố thí, nghĩa là vun trồng mối tương quan với Thiên Chúa và chăm lo cho người chung quanh. Một thiên sứ bất ngờ đã đến tư gia, gọi đích danh ông và thúc giục ông sai phái – động từ chỉ sứ vụ! – gia nhân của mình tới Giaphô để gọi mời – động từ chỉ ơn gọi! – Tông đồ Phêrô. Câu chuyện sau đó trở thành trình thuật về việc hoán cải của Tông đồ này. Chính ngày hôm đó, ông Phêrô đã nhận được một thị kiến: có tiếng nói ra lệnh cho ông giết và ăn các con vật, trong đó có những loài bị coi là  không thanh sạch. Phêrô trả lời dứt khoát: “Lạy Chúa, không thể được!” (Cv 10, 14). Ông nhận ra chính Chúa đang nói với mình, nhưng ông vẫn kiên quyết từ khước, vì lệnh này phá bỏ những điều luật của Torah, vốn là phần cốt yếu đối với căn tính tôn giáo của ông, đồng thời thể hiện cách hiểu về sự tuyển chọn tạo sự khác biệt, hàm ý phải tách khỏi và loại trừ các dân tộc khác.

23. Trong khi Tông đồ Phêrô đang hết sức bối rối và tự hỏi những điều vừa xảy ra có ý nghĩa gì, thì gia nhân của Cornêliô vừa kịp đến, Thần Khí cho Phêrô biết họ là những kẻ chính Ngài đã sai đến. Câu Phêrô trả lời họ làm gợi nhớ lời của Chúa Giêsu ở Vườn Dầu: “Tôi đây chính là người các ông đang tìm” (Cv 10, 21). Đây là một cuộc hoán cải thực sự, một cuộc vượt qua đau đớn nhưng mang lại vô vàn hoa trái, ra khỏi những phạm trù văn hóa và tôn giáo của bản thân. Tông đồ Phêrô chấp nhận ăn chung với dân ngoại thứ thức ăn mà trước đây ngài đã luôn coi là bị cấm, vì đã nhận ra đó một phương tiện sống và hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân. Chính trong sự gặp gỡ tha nhân, tiếp đón họ, đồng hành với họ, bước vào nhà họ mà ngài nhận ra ý nghĩa của thị kiến của mình: không có người nào là bất xứng dưới mắt Thiên Chúa, và sự khác biệt do được tuyển chọn không hàm ý một sự ưu tiên mang tính loại trừ, nhưng là việc phục vụ và trở nên chứng tá ở tầm mức toàn thế giới.

24. Cornêliô và Tông đồ Phêrô, cả hai cùng lôi kéo người khác vào hành trình hoán cải của mình, làm họ trở thành bạn đồng hành với mình. Hoạt động tông đồ hoàn thành thánh ý Thiên Chúa bằng cách tạo ra những cộng đồng, phá bỏ các hàng rào và thúc đẩy các cuộc gặp gỡ. Lời nói giữ vai trò trung tâm trong cuộc gặp gỡ giữa hai nhân vật chính. Cornêliô khởi đầu bằng cách chia sẻ kinh nghiệm mình đã trải qua. Tông đồ Phêrô lắng nghe ông và, đến lượt mình, lại lên tiếng để tường thuật lại những gì đã xảy ra cho mình, làm chứng sự gần gũi của Chúa, Đấng đến gặp gỡ từng người để giải thoát họ khỏi những gì cầm giữ họ trong sự dữ và làm băng hoại nhân tính họ (x. Cv 10, 38). Cung cách thông đạt này cũng tương tự cung cách Tông đồ Phêrô dùng khi ở Giêrusalem, khi những tín hữu thuộc giới cắt bì trách cứ ông và tố cáo ông đã vi phạm những quy định truyền thống, là điều có vẻ họ hết sức lưu ý trong khi chẳng lưu tâm gì đến sự tuôn đổ của Thần Khí: “Ông đã vào nhà những kẻ không cắt bì và cùng ăn uống với họ!” (Cv 11, 3). Vào thời khắc xung đột đó, Tông đồ Phêrô kể lại những gì đã xảy đến với ông và những phản ứng hoang mang, bối rối và chống đối của ông. Chính điều này đã giúp cho những người đang đối thoại với ông, thoạt đầu rất hung hăng và cố chấp, chịu lắng nghe và đón nhận những gì đã xảy ra. Ở đây Kinh Thánh sẽ góp phần giải thích ý nghĩa của sự kiện này, cũng như sau đó ở “Công đồng” Giêrusalem, qua một quá trình biện phân mà điều cốt yếu là cùng nhau lắng nghe Chúa Thánh Thần.

IV. HIỆP HÀNH BẰNG HÀNH ĐỘNG: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THỈNH Ý DÂN CHÚA

25. Nhờ Lời Chúa soi dẫn và dựa vào Truyền thống, con đường hiệp hành bén rễ sâu vào đời sống cụ thể của dân Chúa. Trên thực tế, nó cho thấy một đặc điểm và cũng là một nguồn lực lạ thường: chính tính hiệp hành vừa là mục đích vừa là phương pháp của con đường hiệp hành này. Nói cách khác, nó thiết lập một loại công trường hoặc kinh nghiệm dò đường để có thể bắt đầu thu hoạch ngay những hoa trái của sự năng động mà việc hoán cải tiệm tiến theo hướng hiệp hành mang lại cho cộng đoàn Kitô hữu. Mặt khác, con đường này chỉ có thể cậy dựa vào những kinh nghiệm hiệp hành đã trải qua, ở những bình diện khác nhau trong Giáo hội và với những mức độ cảm xúc khác nhau: những điểm mạnh và thành tựu cũng như những giới hạn và khó khăn của các kinh nghiệm này mang lại những yếu tố có giá trị cho việc biện phân hướng đi để tiếp tục lên đường. Dĩ nhiên, ở đây, chúng ta muốn nói đến những kinh nghiệm do hành trình hiệp hành hiện tại mang lại, nhưng cũng muốn nói đến tất cả những kinh nghiệm trong đó các hình thức “cùng nhau cất bước hành trình” đã và đang được trải nghiệm trong đời sống hàng ngày, ngay cả khi thuật ngữ hiệp hành này không được biết đến hoặc không được sử dụng.

Câu hỏi căn bản

26. Như đã đề cập ở phần đầu, dưới đây là câu hỏi căn bản hướng dẫn việc thỉnh ý dân Chúa: 

Hội thánh hiệp hành “cùng nhau cất bước hành trình”, khi loan báo Tin Mừng: Việc “cùng nhau cất bước hành trình” hiện đang diễn ra thế nào trong Giáo hội địa phương của anh chị em? Để Hội thánh được lớn lên trong việc “cùng nhau cất bước hành trình”, Thần Khí đang mời gọi chúng ta thực hiện những bước đi nào?

Để trả lời, anh chị em được mời gọi:

a) hãy tự vấn: câu hỏi căn bản trên gợi nhớ những kinh nghiệm nào trong Giáo hội địa phương của anh chị em;

b) hãy đọc lại ý nghĩa sâu xa của những kinh nghiệm này: Chúng đã gợi lên niềm vui nào? Chúng gặp những khó khăn và trở ngại nào? Chúng phơi trần những thương tích nào? Có thể học được điều gì từ các kinh nghiệm này?

c) hãy thu thập các thành quả để chia sẻ: Tiếng Chúa Thánh Thần vang dội nơi đâu qua những kinh nghiệm này? Người đang yêu cầu chúng ta điều gì? Đâu là những điểm phải khẳng định, những viễn cảnh nên thay đổi, các bước cần thực hiện? Chúng ta ghi nhận được sự đồng thuận ở những nơi nào? Những nẻo đường nào đang mở ra cho Giáo hội địa phương của chúng ta?

Các biểu hiện khác nhau của tính hiệp hành

27. Trong cầu nguyện, suy tư và chia sẻ được câu hỏi căn bản gợi ý, nên ghi nhớ ba bình diện, trên đó tính hiệp hành được biểu hiện như một “chiều kích cấu thành Giáo hội”[20].

- Bình diện phong cách, với phong cách này hằng ngày Giáo hội sống và làm việc, qua đó thể hiện bản chất của mình là dân Chúa đang cùng đồng hành và tập họp trong cộng đoàn do Chúa Giêsu quy tụ nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng. Phong cách này được thấy rõ qua “việc cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể, tình hiệp thông huynh đệ, tinh thần đồng trách nhiệm và sự tham gia của toàn thể dân Chúa trong đời sống và sứ vụ, trên mọi cấp độ và sự khác biệt giữa các thừa tác vụ và các vai trò”[21];

- Bình diện những cơ cấu của Giáo hội và những quy trình trong Giáo hội, cũng được xác định theo quan điểm thần học và giáo luật, trong đó bản chất hiệp hành của Giáo hội được diễn tả theo hướng định chế ở các cấp độ địa phương, vùng miền và hoàn vũ;

- Bình diện những diễn trình và sự kiện hiệp hành trong đó Giáo hội được triệu tập bởi vị hữu trách có thẩm quyền, theo những thủ tục cụ thể do kỷ luật của Giáo hội xác định.

Mặc dù xét về quan điểm luận lý, chúng có khác biệt, nhưng ba bình diện này liên kết với nhau và phải có sự nhất quán với nhau, nếu không sẽ gây ra và lan truyền những thứ phản chứng khiến cho sự khả tín của Giáo hội bị xói mòn. Trên thực tế, nếu các cơ cấu và các tiến trình trong Giáo hội không mang phong cách hiệp hành, thì phong cách này dễ dàng biến chất từ bình diện ý định và ước muốn thành bình diện khoa trương, trong khi nếu các diễn trình và sự kiện không được sinh động hóa bởi một phong cách thích hợp, thì chúng sẽ hóa ra những thủ tục trống rỗng.

28. Hơn nữa, khi đọc lại kinh nghiệm, cần ghi nhớ rằng có thể hiểu việc “cùng nhau cất bước hành trình” từ hai viễn tượng khác nhau vốn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Viễn tượng thứ nhất là nhìn vào đời sống nội bộ của Giáo hội địa phương và mối tương quan giữa các thành phần tạo thành Giáo hội này (trước hết và trên hết là giữa các tín hữu và các mục tử, đồng thời qua những tổ chức và hội đoàn hiện hành được giáo luật quy định, bao gồm cả công nghị giáo phận) và các cộng đồng (đặc biệt là cộng đồng giáo xứ) nơi có những tổ chức và hội đoàn này. Tiếp đến là nhìn đến các mối tương quan giữa các giám mục với Giám mục Rôma, đồng thời qua các cơ cấu trung gian mang tính hiệp hành (các Công nghị của các Giáo hội Đông phương và Tổng giáo miền chính, các Hội đồng Giáo chủ và Đại hội Giáo phẩm của các Giáo hội tự trị [sui iuris], các Hội đồng giám mục, với các biểu thức quốc gia, quốc tế và lục địa của họ). Sau đó mở rộng đến những cách thức mà mỗi Giáo hội đặc thù dung hợp nơi mình những đóng góp từ các hình thức khác nhau của đời sống đan sĩ, tu sĩ, và đời sống thánh hiến, của các hiệp hội và phong trào giáo dân, của nhiều loại cơ sở của Giáo hội (trường học, bệnh viện, trường đại học, các cơ sở, các tổ chức từ thiện và trợ giúp, v.v…). Cuối cùng, viễn tượng này cũng bao gồm các mối tương quan và sáng kiến chung với các anh chị em thuộc các hệ phái Kitô giáo khác mà chúng ta chia sẻ với họ cùng một hồng ân phép Rửa.

29. Viễn tượng thứ hai là xem xét cách thức dân Chúa cùng đồng hành với toàn thể gia đình nhân loại. Vì vậy, chúng ta sẽ tập trung quan sát tình trạng các mối tương quan, đối thoại và các sáng kiến chung có thể có với tín đồ các tôn giáo bạn, với những người xa rời đức tin, cũng như với các môi trường và nhóm xã hội cụ thể, với các thể chế xã hội (chính trị, văn hóa, kinh tế, tài chính, lao động, công đoàn và hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và xã hội dân sự, các phong trào quần chúng, các nhóm thiểu số, người nghèo và người bị loại trừ, v.v…).

Mười chủ đề cốt lõi cần được khám phá

30. Để làm nổi bật các kinh nghiệm và để việc thỉnh ý nhận được nhiều đóng góp hơn, chúng tôi trình bày dưới đây mười chủ đề chính nêu rõ các khía cạnh khác nhau của việc “sống tinh thần hiệp hành”. Chúng nên được thích ứng với sự đa dạng của các bối cảnh địa phương và đôi khi, được phối hợp, giải thích, đơn giản hóa và đào sâu, với sự chú ý đặc biệt đến những người gặp khó khăn trong việc tham gia và phản hồi: Sổ tay đi kèm với Tài liệu Chuẩn bị này cung cấp các công cụ, lộ trình và gợi ý để các nhóm câu hỏi khác nhau có thể mang lại những ý tưởng cụ thể cho những khoảnh khắc cầu nguyện, huấn luyện, suy tư và trao đổi.

I. CÁC BẠN ĐỒNG HÀNH

Trong Giáo hội và xã hội, chúng ta sát cánh bên nhau trên cùng một nẻo đường. Trong Giáo hội địa phương của anh chị em, ai là những người “cùng nhau cất bước hành trình”? Khi chúng ta nói: “Giáo hội của chúng ta”, Giáo hội này bao gồm những thành phần nào? Ai yêu cầu chúng ta đồng hành với nhau? Ai là những người đồng hành trên đường, kể cả những người ở bên ngoài vành đai Giáo hội? Những người hoặc nhóm nào hiển nhiên hay trên thực tế bị bỏ lại bên lề?

II. LẮNG NGHE

Lắng nghe là bước đầu tiên, đòi hỏi khối óc và con tim rộng mở, không thành kiến. Giáo hội đặc thù của chúng ta “cần lắng nghe” ai? Làm thế nào để thành phần giáo dân, đặc biệt là giới trẻ và phụ nữ, được lắng nghe? Làm thế nào để đón nhận sự đóng góp của những người nam và nữ thánh hiến? Đâu là chỗ để những nhóm thiểu số, những người bị loại bỏ và bị loại trừ cất lên tiếng nói của họ? Chúng ta có nhận ra những định kiến và khuôn mẫu cản trở chúng ta lắng nghe hay không? Bối cảnh xã hội và văn hóa trong đó chúng ta đang sống được chúng ta lắng nghe thế nào?

III. PHÁT BIỂU

Mọi người đều được mời gọi can đảm và mạnh dạn (parrhesia) lên tiếng, nghĩa là, phải bao gồm cả sự tự do, chân lý và bác ái. Làm thế nào để thúc đẩy trong cộng đồng và các tổ chức của nó một phong cách trao đổi tự do và đích thực, không giả dối và cơ hội chủ nghĩa? Và trong mối tương quan với xã hội mà chúng ta là thành phần? Khi nào và cách nào để chúng ta nói lên được những gì là quan trọng đối với chúng ta? Mối tương quan với hệ thống truyền thông (không chỉ truyền thông Công giáo) thì thế nào? Ai nói thay cho cộng đồng Kitô hữu, và họ được chọn ra sao?

IV. CỬ HÀNH

Chỉ có thể “cùng nhau cất bước hành trình” khi cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể. Làm thế nào để việc cầu nguyện và cử hành phụng vụ gợi hứng và hướng dẫn chúng ta “cùng nhau cất bước hành trình”? Làm thế nào để những việc này truyền cảm hứng cho các quyết định quan trọng nhất? Các tín hữu được khích lệ ra sao để tích cực tham dự phụng vụ và thi hành chức năng thánh hóa? Đâu là chỗ dành cho việc thi hành các thừa tác vụ đọc sách và giúp lễ?

V. ĐỒNG TRÁCH NHIỆM TRONG SỨ VỤ

Sự hiệp hành là để phục vụ sứ mạng của Hội thánh, mọi thành viên trong Hội thánh đều được mời gọi tham gia vào sứ mạng này. Vì tất cả chúng ta đều là môn đệ truyền giáo, mỗi người đã lãnh phép Rửa được kêu gọi trở thành chủ thể tích cực trong sứ vụ này như thế nào? Làm thế nào để cộng đồng hỗ trợ các thành viên của mình dấn thân phục vụ xã hội (công tác xã hội và hoạt động chính trị, nghiên cứu khoa học và giảng dạy, thúc đẩy công bằng xã hội, bảo vệ nhân quyền và chăm sóc ngôi nhà chung, v.v…)? Anh chị em giúp họ thế nào trong việc sống những dấn thân này theo đòi hỏi của sứ vụ? Sự biện phân các lựa chọn liên quan đến sứ mạng được thực hiện như thế nào và ai tham gia vào đó? Theo quan điểm của một chứng tá Kitô hữu đích thực, các truyền thống khác nhau mang phong cách hiệp hành, vốn tạo nên di sản của nhiều Giáo hội, đặc biệt là các Giáo hội Đông phương, được hội nhập và thích nghi như thế nào? Sự cộng tác diễn ra như thế nào trong các lãnh thổ có sự hiện diện của các Giáo hội tự trị [sui iuris] khác nhau?

VI. ĐỐI THOẠI TRONG GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI

Đối thoại là con đường kiên trì bao gồm cả những lúc im lặng và chấp nhận đau khổ, nhưng lại có khả năng thu thập kinh nghiệm của con người và các dân tộc. Đâu là nơi chốn và phương thức đối thoại trong Giáo hội địa phương của chúng ta? Những khác biệt về quan điểm, những xung đột, và những khó khăn được giải quyết như thế nào? Làm thế nào để thúc đẩy sự cộng tác với các giáo phận lân cận, với và giữa các dòng tu trong khu vực, với và giữa các hiệp hội và phong trào giáo dân, v.v…? Đối với các tín đồ của các tôn giáo khác và với những người ngoại đạo, chúng ta có những kinh nghiệm nào về đối thoại và dấn thân chia sẻ? Làm thế nào để giáo hội đối thoại với và học hỏi từ các bộ phận khác trong xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội dân sự, người nghèo…?

VII. VỚI CÁC HỆ PHÁI  KITÔ GIÁO KHÁC

Cuộc đối thoại giữa những Kitô hữu thuộc các tín phái khác nhau, được liên kết bởi cùng một phép Rửa, có một vị trí đặc biệt trong hành trình hiệp hành. Chúng ta có những mối liên hệ nào với anh chị em của các tông phái Kitô giáo khác? Họ quan tâm đến lĩnh vực nào? Chúng ta đã từng rút ra được những thành quả nào từ việc “cùng nhau cất bước hành trình”? Có những khó khăn nào?

VIII. THẨM QUYỀN VÀ THAM GIA

Hội thánh hiệp hành là Hội thánh tham gia và đồng trách nhiệm. Làm thế nào để chúng ta xác định được mục tiêu phải theo đuổi, cách thức đạt được chúng và các bước cần thực hiện? Giáo hội địa phương của chúng ta hành xử quyền bính như thế nào? Cách làm việc theo nhóm và tinh thần đồng trách nhiệm được thực hiện ra sao? Các thừa tác vụ giáo dân và việc đảm nhận trách nhiệm của các tín hữu được thúc đẩy như thế nào? Các tổ chức hiệp hành hoạt động như thế nào ở cấp giáo hội địa phương? Chúng có phải là một kinh nghiệm hữu hiệu không?

IX. BIỆN PHÂN VÀ QUYẾT ĐỊNH

Theo phong cách hiệp hành, các quyết định có được qua việc biện phân, dựa trên sự đồng thuận xuất phát từ lòng vâng phục Thần Khí của cả cộng đoàn. Chúng ta cùng nhau biện phân và đưa ra quyết định bằng những thủ tục và phương pháp nào? Có thể cải thiện chúng như thế nào? Chúng ta thúc đẩy sự tham gia vào diễn trình đưa ra quyết định trong các cộng đồng có cơ cấu phẩm trật như thế nào? Làm thế nào để chúng ta nối kết giai đoạn thỉnh ý với giai đoạn thảo luận, diễn trình ra quyết định với thời điểm lấy quyết định? Chúng ta thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm giải trình thế nào và bằng những công cụ nào?

X. TỰ ĐÀO TẠO TRONG TIẾN TRÌNH HIỆP HÀNH

Linh đạo cùng nhau cất bước hành trình cần trở thành nguyên tắc giáo dục để huấn luyện con người nhân bản và con người Kitô hữu, con người của gia đình và con người của cộng đồng. Phải đào tạo ra sao, đặc biệt là những người gánh vác trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, để họ có thêm khả năng trong việc “cùng nhau cất bước hành trình”, lắng nghe nhau và tham gia đối thoại? Chúng ta đào tạo thế nào để giúp họ biện phân và thực thi quyền bính? Những công cụ nào giúp chúng ta nhận biết tính năng động của nền văn hóa đang bao trùm chúng ta và tác động của chúng đối với phong cách của Giáo hội chúng ta?

Đóng góp cho cuộc thỉnh ý

31. Giai đoạn đầu tiên của hành trình hiệp hành nhằm thúc đẩy một diễn trình thỉnh ý rộng rãi để thu thập vô số các kinh nghiệm trong việc sống tinh thần hiệp hành, theo những cách trình bày và khía cạnh khác nhau của chúng, liên quan đến các mục tử và tín hữu của các Giáo hội đặc thù trên mọi bình diện khác nhau, thông qua những phương thế thích hợp nhất tùy theo thực tế địa phương: cuộc thỉnh ý, do giám mục điều phối, được triển khai đến “các linh mục, phó tế và giáo dân trong các Giáo hội [địa phương], hoặc theo tư cách cá nhân hoặc trong các hiệp hội, không bỏ qua sự đóng góp quý giá mà những người nam và nữ thánh hiến có thể cống hiến”(EC, số 7). Đặc biệt yêu cầu sự đóng góp của các tổ chức và hội đoàn hiện hành trong các Giáo hội [địa phương] nhất là của hội đồng linh mục và hội đồng mục vụ, từ sự đóng góp đó “có thể [thực sự] bắt đầu hình thành một Hội thánh hiệp hành”.[22] Sự đóng góp của các thực thể giáo hội khác mà Tài liệu Chuẩn bị sẽ được gửi đến, cũng như của những người muốn gửi trực tiếp ý kiến của mình sẽ có giá trị ngang nhau. Cuối cùng, điều quan trọng cơ bản là những người nghèo và người bị loại trừ cũng được cất lên tiếng nói của mình, chứ không chỉ những người có vai trò hoặc trách nhiệm nào đó trong các Giáo hội [địa phương].

32. Bản tổng hợp mà mỗi Giáo hội đặc thù soạn thảo khi kết thúc công cuộc lắng nghe và biện phân này chính là sự đóng góp của mỗi Giáo hội [địa phương] cho diễn trình hiệp hành của Giáo hội hoàn vũ. Để các giai đoạn tiếp theo của tiến trình này được dễ dàng và bền vững hơn, điều quan trọng là phải cô đọng các thành quả của sự cầu nguyện và suy tư trong tối đa mười trang giấy. Nếu cần phải trình bày bối cảnh và giải thích chúng rõ hơn, có thể đính kèm các văn bản hỗ trợ hoặc bổ sung khác. Hãy nhớ rằng mục đích của Thượng Hội đồng, và do đó của cuộc thỉnh ý này, không nhằm tạo ra các tài liệu, mà là “để gieo mầm ước mơ, rút ra các lời tiên tri và thị kiến, cho phép hy vọng nảy nở, khơi dậy niềm tin, băng bó các vết thương, cùng nhau đan kết các mối tương quan, đánh thức bình minh hy vọng, học hỏi lẫn nhau và mang lại một khả năng sáng tạo giúp khai mở trí tuệ, sưởi ấm trái tim, tiếp thêm sức mạnh cho đôi tay”.[23]

Bản dịch của nhóm dịch thuật HĐGMVN

WHĐ (18.10.2021)


Sưu tầm

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn