1
04:03 +07 Thứ tư, 15/05/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 118

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 117


Hôm nayHôm nay : 6694

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 494793

Tổng cộngTổng cộng : 28614041

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa nhật IV Mùa chay năm A

Thứ bảy - 29/03/2014 08:40-Đã xem: 1297
Anh em thân mến, xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng bây giờ, anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật. Anh em hãy nhận biết điều gì làm đẹp lòng Chúa, và đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích gì, nhưng phải tố cáo thì hơn. Vì chưng, việc chúng làm cách thầm kín, dầu có nói ra cũng phải hổ thẹn.
Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa nhật IV Mùa chay năm A

Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa nhật IV Mùa chay năm A

PHÚC ÂM: Ga 9, 1-41 (bài dài) 

"Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" Chúa Giêsu đáp: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Đấng đã sai Ta. Đêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian". Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa" (chữ Silôê có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.

Những người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Đó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Đúng hắn!" Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây". Họ hỏi anh: "Làm thế nào mắt anh được sáng?" Anh ta nói: "Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy". Họ lại hỏi: "Ngài ở đâu?" Anh thưa: "Tôi không biết".

Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt? Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Đó là một tiên tri".

Nhưng người Do-thái không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi hai ông bà: "Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy?" Cha mẹ y thưa rằng: "Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy". Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Chính vì lý do này mà cha mẹ anh ta nói: "Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó".

Lúc ấy người Do-thái lại gọi người trước kia đã mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi". Anh ta trả lời: "Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy". Họ hỏi anh: "Người đó đã làm gì cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?" Anh thưa: "Tôi đã nói và các ông đã nghe, các ông còn muốn nghe gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?" Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: "Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môsê, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến". Anh đáp: "Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.

Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người. Chúa Giêsu liền nói: "Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù". Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người: "Thế ra chúng tôi mù cả ư?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói 'Chúng tôi xem thấy', nên tội các ngươi vẫn còn". Đó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài vắn này: Ga 9, 1. 6-9. 13-17. 34-38

Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa" (chữ Silôe có nghĩa là được sai)". Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.

Những người láng giềng và kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Đó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Đúng hắn". Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây".

Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt. Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Đó là một Tiên tri". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.

Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người.  Đó là lời Chúa.       

 

Suy Niệm Chúa Nhật IV Mùa Chay A (2014)

Như Chúa Nhật trước, Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay này giúp chúng ta hiểu bí tích Thánh Tẩy, mà các tân tòng được chuẩn bị lãnh nhận vào lễ Đêm Phục Sinh.
1Sm 16: 1, 6-7, 10-13
Bài đọc I muốn trình bày việc Đa-vít được tuyển chọn và được xức dầu phong vương thay thế cho vua Sa-un, đó là công việc của chính Thiên Chúa, phù hợp với những dự định của Ngài. Từ đây, vua Ít-ra-en là người được Chúa chọn, mặc một tính chất thánh thiêng và tràn đầy Thánh Linh. Vua Ít-ra-en nầy là hình ảnh của Đức Ki-tô, Đa-vít của thời đại mới.
Ep 5: 8-14                       
Trong Thư gởi cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô, thánh Phao-lô khuyên những Kitô hữu hãy ăn ở sao cho phù hợp với “con cái ánh sáng”.
Ga 9: 1-41
Tin Mừng Gioan tường thuật việc người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Bài tường thuật nầy thuộc giáo lý bí tích Thánh Tẩy, vì người mù, sau khi rửa trong hồ Si-lô-ác, mắt liền được mở ra đón nhận ánh sáng, anh là tiền trưng của người lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.

BÀI ĐỌC I (1Sm 16: 1, 6-7, 10-13)
Bản văn nầy đưa chúng ta trở về những năm tháng đầu tiên của thể chế vương quyền Ít-ra-en (1020-1010 BC). Sau một thời gian dài do dự (Đức Chúa không là vị vua duy nhất của dân đó sao?) và vì những hoàn cảnh đòi buộc, dân Ít-ra-en thử nghiệm thể chế quân chủ. Kinh nghiệm đầu tiên nầy không thuận buồm xuôi gió: vì vua Sa-un bất tuân, Thiên Chúa đã quyết định phế bỏ vua. Ông Sa-mu-en, người của Đức Chúa, nhận sứ mạng đi tìm kiếm một vị vua mới.

1. Cách thức tuyển chọn lạ lùng của Thiên Chúa:
Tình tiết câu chuyện xảy ra ở Bê-lem. Câu chuyện nầy đặc biệt mặc khải cách thức Thiên Chúa chọn lựa những tôi trung ưu ái của Ngài: “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Quả thật, Bê-lem là một vùng quê nhỏ bé không tên tuổi đến nổi ngôn sứ Mi-kha nói “ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa” (Mk 5: 1); hơn nữa, Đa-vít là con út trong gia đình của ông Gie-sê.

Sự chọn lựa của Thiên Chúa luôn luôn gây kinh ngạc. Để bày tỏ niềm ưu ái đối với những kẻ bé mọn và khiêm hạ, Ngài chọn những người con út hơn là những con cả. Xưa kia, Thiên Chúa đã chọn ông Ghít-on để giải phóng Ít-ra-en khỏi sự áp bức của người Ma-đi-an. Ấy vậy, ông là cậu con trai út trong gia đình thuộc bộ tộc “nhỏ bé nhất ở Mơ-na-se.”Ông Mô-sê cũng được nhìn nhận là “người khiêm tốn nhất trong số con cái loài người”. Lịch sử đã cho chúng ta biết bao ví dụ như thế.

2. Đa-vít, cậu bé chăn chiên:
Vùng Bê-lem nhỏ bé nầy nơi cậu bé Đa-vít xuất thân từ một cậu bé chăn và cũng là nơi mà ngàn năm sau đó Đức Giê-su sẽ chào đời. Những người chăn chiên Bê-lem sẽ là những người đầu tiên đến tôn thờ Ngài. Việc Đấng Mê-si-a giáng sinh ở nơi nầy sẽ là một trong những dấu hiệu về Đấng Mê-si-a thuộc “dòng dõi Đa-vít”.

3. Khung cảnh phong vương Đa-vít:
Khi đến Bê-lem, Sa-mu-en hiến tế một con bò cái tơ lên Đức Chúa. “Ông thanh tẩy ông Gie-sê và các con trai ông ấy và mời họ đến dự hy lễ.” (1Sm 16: 5b). Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “Chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi Đa-vít tới đây.” Vị ngôn sứ đã hiểu rằng chính cậu út Đa-vít là người Thiên Chúa chọn. Chính trong bữa ăn thánh thiêng nầy mà Đa-vít được xức dầu phong vương.

4. Xức dầu phong vương.
Xức dầu là nghi thức thánh hiến, thường nhất là nghi thức phong vương. Được người của Thiên Chúa xức dầu tấn phong, vị tân vương trở thành một con người thánh thiêng. Dầu tăng sức mạnh thân thể là biểu tượng sức mạnh của Thiên Chúa, thần lực nầy đến ở với vua: “vua đầy tràn Thần Khí Thiên Chúa”. Thuật ngữ “Đấng được xức dầu” theo tiếng Do thái: “Mê-si-a” và tiếng Hy lạp: “Christos”, được phiên âm “Ki-tô”. Những lời loan báo về Đấng Mê-si-a trước hết là Đấng Mê-si-a vương đế.

Có một truyền thống khác liên quan đến vương quyền Đa-vít. Đa-vít trung thành phục vụ vua Sa-un và đã đạt được uy tín lẫy lừng nhờ chiến công cũng như những nhân cách của ông. Sau khi vua Sa-un tử trận, Đa-vít được xức dầu tấn phong làm vua tại Khép-rôn (x. 2Sm 2: 4; 5: 1-4).

Truyền thống thứ hai nầy có tính lịch sử hơn trong khi truyền thống thứ nhất (1Sm 16) có tính thần học hơn: nhấn mạnh chính Đức Chúa đích thân chọn Đa-vít làm vua.

BÀI ĐỌC II (Ep 5: 8-14)
Thánh Phao-lô viết thư gởi các tín hữu Ê-phê-sô từ Rô-ma, trong cảnh lao tù, giữa những năm 61-63. Thư này được gởi đến các cộng đoàn Kitô hữu miền Tiểu Á, chủ yếu là những Kitô hữu gốc lương dân. Bức thư gồm hai phần: phần thứ nhất thuộc đạo lý (1: 3-3: 21): thánh Phao-lô giải thích mầu nhiệm cứu độ phổ quát được ban cho dân Do thái cũng như dân ngoại ở nơi Đức Kitô. Phần thứ hai thuộc luân lý (4: 1-6: 20) : thánh nhân khuyên các tín hữu hãy sống theo những giá trị Ki tô giáo. Đoạn văn hôm nay được trích từ phần thứ hai này.

Thánh nhân vừa mới nêu lên những chủ đề và hình ảnh khác nhau, rất quen thuộc với khoa giáo lý bí tích Thánh Tẩy của Giáo Hội tiên khởi, như là “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát…và phải mặc lấy con người mới, đó là con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa…Ở đây, thánh nhân tập trung sự chú ý vào chủ đề ánh sáng.

1. Người Kitô hữu là ánh sáng:
“Xưa kia anh em đã từng là bóng tối, nhưng bây giờ, nhờ kết hợp với Chúa, anh em lại là ánh sáng.”

Bí tích Thánh Tẩy được đề cập đến một cách mặc nhiên. Bí tích Thánh Tẩy được gọi là “ơn soi sáng”, người chịu phép Thánh Tẩy là “người được ơn soi sáng” và giếng nước Thánh Tẩy được gọi rất ý nghĩa: “nơi lãnh nhận ơn soi sáng”. Ngược lại là bóng tối. Việc đối lập ánh sáng và bóng tối, một chủ đề Kinh Thánh rất xưa và rất phổ biến như gặp thấy trong những bản văn của cộng đoàn Qum-rân. Chủ đề nầy được thánh Phao-lô và đặc biệt thánh Gioan lấy lại.

Với cặp tương phản ánh sáng và bóng tối nầy, thánh Phao-lô kêu gọi những Kitô hữu gốc lương dân ý thức rằng cuộc sống của họ đã được biến đổi sâu xa biết bao, họ đã trở nên khác biệt biết mấy; cuộc sống của họ phải làm chứng điều nầy : “Hãy vạch trần những công việc của bóng tối”. Chắc chắn phải hiểu rằng cách ăn nếp ở của người Kitô hữu có thể khiến cho những tội nhân thay đổi cách sống, bởi vì, ánh sáng chiếu soi vào bóng tối và làm cho bóng tối tan: “tất cả những gì đã bị vạch trần, đều lộ ra ánh sáng; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng” .

2. Người Kitô hữu chỗi dậy từ bóng tối sự chết:
Qua bí tích Thánh Tẩy, người Kitô hữu “chỗi dậy” từ bóng tối sự chết. Thánh Phao-lô trích dẫn vài câu chắc chắn từ một bài thánh thi về phép Thánh Tẩy của Giáo Hội tiên khởi, và phải là khá phổ biến. Chúng ta gặp thấy bài thánh thi nầy, khá đầy đủ hơn, trong tác phẩm của Giáo Phụ Clément thành A-lê-xan-ri-a (vào cuối thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên)
“Hãy tỉnh giấc đi, hỡi người đang ngủ.
Hãy chỗi dậy đi từ những vong nhân.
Và Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi.
Ngài là ánh sáng Phục Sinh,
được sinh ra trước khi sao mai xuất hiện;
Ngài ban sự sống bởi ánh quang rạng ngời của Ngài” (Protriptique 9, 84, 2)
Bài thánh thi nầy minh chứng hùng hồn đạo lý phép Thánh Tẩy mà thánh Phao-lô không ngừng nhắc đi nhắc lại: chết cho tội lỗi và tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh. Hơn nữa, bài thánh thi đậm đà hương vị Kinh Thánh, gợi nhớ vài hình ảnh của các ngôn sứ như:
“Nầy những kẻ nằm trong bụi đất,
hãy trỗi dậy, hãy reo mừng!
Vì lạy Chúa, sương Người ban là sương ánh sáng,
và đất sẽ cho các âm hồn được hồi sinh” (Is 26: 19)
Hay:
“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của Người đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa,
vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60: 1-2)

Đoạn thư này giúp chúng ta hiểu rõ hơn địa vị Ki-tô hữu của chúng ta. Mỗi ngày chúng ta được mời gọi sống hơn nữa những giá trị Ki tô giáo. Đành rằng ơn cứu độ là công trình của Thiên Chúa, nhưng chỉ trở nên hiệu lực khi nào chúng ta mở rộng cõi lòng mình cho Đấng chúng ta tin.

TIN MỪNG (Ga 9: 1-41)
Bài tường thuật này gợi lên nhiều điểm tương tự với bài tường thuật Đức Giê-su chữa lành người bất toại (Ga 5 : 9-11) : Đức Giê-su chỉ xuất hiện vào lúc bắt đầu câu chuyện để thực hiện « dấu lạ » và xác định ý nghĩa của nó (9 : 1-7), và vào lúc kết thúc câu chuyện để long trọng tuyên bố bản án (9 : 35-41). Giữa thời gian ấy, Đức Giê-su rút lui vào hậu trường để hoàn toàn nhường sân khấu cho một bài tường thuật bóng bẩy, linh hoạt, đầy biến động về những phản ứng khác nhau của những hạng người khác nhau trước dấu lạ của Ngài. Tuy nhiên, với tính hồn nhiên, cởi mở, thông hiểu và dũng cảm: ăn miếng trả miếng của mình, anh mù đã trổi vượt lên trên người bại liệt thụ động và kém linh hoạt.

1. Dẫn nhập (9 : 1-7):
1.1- Vấn đề tội lỗi:
“Vấn đề tội” đóng chức năng như đóng khung toàn bộ câu chuyện : vào đầu câu chuyện, chính các môn đệ nêu lên : “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người nầy sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” (9 : 2) và ở cuối câu chuyện, chính Đức Giê-su nói với các người Biệt Phái : « Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng : ‘Chúng tôi thấy’, nên tội của các ông vẫn còn đó” (9 : 41).

Câu hỏi về nhân quả của tội mà các môn đệ nêu lên dường như chỉ nhằm tạo cơ hội để Đức Giê-su thực hiện dấu lạ và ban giáo huấn. Tuy nhiên, câu hỏi nầy nói lên tâm thức của thời đại. Người Do thái tin rằng nguyên nhân của những bất hạnh như tai ương hay bệnh tật là do tội : kể cả tội trước khi sinh ra hay còn trong bào thai. Vì thế, sự bất hạnh của người mù từ lúc mới sinh là án phạt vì tội của cha mẹ mình. Tuy nhiên, sách Gióp đã nêu lên vấn đề người công chính phải chịu đau khổ, nhưng không cho câu trả lời thỏa đáng nào, ngoài trừ ý định khôn dò của Thiên Chúa. Sau này, sách Tô-bi-a đã bước thêm một bước hơn nữa: thiên sứ đã mặc khải cho ông Tô-bi-a cha, một người công chính hay làm những việc lành phúc đức, rằng Thiên Chúa để cho ông bị cảnh mù lòa là để thứ thách ông (Tb 12: 13).

Đức Giê-su bác bỏ quan niệm nhân quả của tội. Ngài tách biệt rõ ràng điều bất hạnh và sự trừng phạt, sự đau khổ và tội. Sự mù lòa của anh mù không là do tội của anh hay tội của cha mẹ anh, nhưng là cơ hội để Ngài bày tỏ quyền năng của Ngài qua việc cho anh mù được sáng mắt. Từ đó, Đức Giê-su sẽ công bố mình là « ánh sáng thế gian ». Như vậy, được giả sử trước ở đây, sự mù lòa duy nhất cấu thành tội chính là sự mù lòa của sự cố chấp không chịu tin.

1.2- Một ngày của Đức Giê-su:
Đức Giê-su sánh ví sứ vụ của Ngài với một ngày. Sứ vụ của Đức Giê-su sắp kết thúc: “đêm đến,” nghĩa là giờ của bóng tối, giờ của những kẻ thù địch của Ngài. Trong khi chờ đợi giờ của bóng tối, phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Ngài bao lâu trời còn sáng, bởi vì bao lâu Ngài còn ở thế gian, Ngài là ánh sáng thế gian. Để minh chứng “bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”, Ngài sẽ cho người mù từ lúc mới sinh được thấy ánh sáng, cả ánh sáng thể lý lẫn ánh sáng tâm linh (x. Is 42: 6-7).

1.3- Dấu lạ:
Dấu lạ chỉ được mô tả chỉ trong hai câu (9: 6-7), bởi vì người kể chuyện chú trọng hơn đến những cuộc tranh luận do dấu lạ gây nên và những hậu quả mà anh mù được sáng mắt phải gánh chịu.
“Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù”.
Theo niềm tin dân gian phổ biến vào thời đó, nước miếng có hiệu lực chữa bệnh. Trước đây rồi, Đức Giê-su đã dùng nước miếng của Ngài để chữa lành người câm điếc (Mc 7: 32) và người mù ở Bết-xai-đa (Mc 8: 23). Nhưng ở đây, Đức Giê-su hòa nước miếng với đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù. Phải chăng Đức Giê-su muốn họa lại cử chỉ sáng tạo, qua đó muốn nói rằng Ngài sẽ làm cho người mù thành một con người hoàn toàn mới? Hay đơn giản hơn, phải chăng sự kiện xức bùn hòa với nước miếng vào mắt và đòi hỏi anh mù đến rửa ở hồ Si-lô-ác là một hành vi đức tin, một yếu tố cần thiết để đón nhận phép lạ? vì hiệu quả chỉ xuất hiện sau khi người mù đi đến rửa trong nước hồ Si-lô-ác.

Nước hồ được xem là thánh thiêng. Vào lễ Lều, vị tư tế phải đến múc nước ở đây để dùng cho các nghi thức thanh tẩy. Nước nầy bắt nguồn từ suối Gi-bon và được dẫn đến hồ Si-lô-ác qua một lạch ngầm dưới đất (2V 20: 20; 2Sb 32: 30; Hc 48: 17). Ngay cả tên của hồ này cũng mang ý nghĩa biểu tượng: Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai đi”. Dường như thánh ký muốn nhắc lại ý nghĩa của tên Si-lô-ác, vì ông muốn quy chiếu đến tác giả đích thực của việc chữa lành, chính là Đức Giê-su, Đấng được Chúa Cha sai đi. Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giê-su thường dùng tước hiệu « Đấng được sai đi », để chỉ về chính mình.

2. Hai thái độ: (9: 8-34)
Trong phần nầy, Đức Giê-su vắng mặt, tuy nhiên Ngài vẫn là tác nhân chính yếu của những phản ứng của đủ hạng người. Việc người mù được sáng mắt sẽ nêu bật hai thái độ tương phản mà sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế gian đòi hỏi con người phải chọn lựa.

2.1- Thái độ của người mù được sáng mắt:
Đây là một con người có lương tri và ngay thẳng vẫn một mực trung thành với sự thật, biết sử dụng sự mĩa mai, thậm chí châm biếm, lại còn biết phi bác tri thức thông thái của những người Pha-ri-sêu: “Chúng tôi biết rằng…” (9: 29) bằng nguyên tắc thông thường: “Như mọi người điều biết…” (9 : 31-32; x. I s 1: 15; Tv 66: 18; 109: 7; Cn 15: 29, vân vân) và cuối cùng bày tỏ tâm trí rộng mở trước ánh sáng khác, ánh sáng đức tin.

Con đường đức tin của người mù là con đường tiệm tiến: mỗi một lời tra hỏi từ phía những người láng giềng cho đến những lời chất vấn của những người Pha-ri-sêu, căn tính của Đức Giê-su càng lúc càng sáng tỏ hơn ở nơi anh. Khởi đầu, anh bày tỏ một sự hiểu biết mơ hồ về một người đã thi ân giáng phúc cho mình: “một người tên là Giê-su” (9: 11), đoạn, anh bắt đầu nhận ra ở nơi người ấy: “một ngôn sứ” (9: 17) và tiếp đó: “Đấng được Thiên Chúa sai đến” (9: 33). Cuối cùng, khi đối diện với Đức Giê-su, Đấng tự bày tỏ mình ra cho anh, anh tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Ngài, tôi tin” (9: 38) và thờ lạy Ngài.

2.2- Thái độ của những người Biệt Phái:
Trong khi sự kiện dần dần được chứng thực: những người láng giềng, cha mẹ của người mù và chính đương sự, thái độ của những người Biệt phái càng lún sâu hơn vào những tà ý, cố chấp, từ chối ánh sáng và để lộ ra mình là những người mù đích thật.

Trong câu chuyện nầy, xin được nêu ra hai chi tiết đáng chú ý do hậu cảnh lịch sử của chúng : trước tiên những bất đồng giữa những người Pha-ri-sêu về vấn đề Đức Giê-su:“Thế là họ đâm ra chia rẽ”. Về sự kiện nầy các sách Tin Mừng và sách Công Vụ cung cấp nhiều ví dụ khác nữa : trong số những người Pha-ri-sêu có vài người có tinh thần rộng mở, họ âm thầm gắn bó với Đức Kitô. Ở đây, chính thành phần cố chấp một mực nhắm mắt trước sự thật. Trong con mắt của những con người ngoan cố nầy, Đức Giê-su đã vi phạm ngày sa-bát, vì vậy là một con người tội lỗi; và một con người tội lỗi không thể nào thực hiện phép lạ như thế. Vì thế, họ không chỉ chối từ phép lạ nhưng cả căn tính của Đức Giê-su. Do đó, họ buộc người mù phải thú nhận sự sai lầm của mình vì đã tuyên xưng ông Giê-su này là một ngôn sứ. Thái độ cố chấp đến mù quáng của những con người nầy cốt ở nơi việc đòi buộc Đức Kitô phải thực thi đúng y như lời loan báo của Cựu Ước mà không thấy rằng Ngài đến không chỉ để thực hiện nhưng còn để kiện toàn Cựu Ước.

Ngoài ra, đối với đọc giả Tin Mừng Gioan, việc anh mù bị trục xuất ra khỏi Hội Đường vang dội tính thời sự của cộng đoàn Gioan. Các tông đồ và các môn đệ của thế hệ thứ nhất đã giảng dạy trong các hội đường ; đoạn Kitô giáo sẽ được phát triển bên ngoài Do thái giáo. Những người Do thái tin vào Đức Kitô trở thành đối tượng của những quấy nhiễu và gây rối. Việc họ bi trục xuất ra khỏi hội đường là một biện pháp chính thức. Việc người mù được chữa lành bị trục xuất xuất hiện ở đây loan báo trước hoàn cảnh của Giáo Hội sau nầy.

3. Đoạn kết (9 : 35-41)
Đức Giê-su lại xuất hiện và bày tỏ thái độ của Ngài đối với người mù được sáng mắt và đối với những người Pha-ri-sêu cố chấp.

3.1- Thái độ của Đức Giê-su đối với người mù được sáng mắt:
« Sau khi nghe nói họ đã trục xuất anh, Đức Giê-su đến gặp anh. » Đức Giê-su bày tỏ tấm lòng của người Mục Tử nhân lành : không muốn để con chiên không có người chăn dắt. Đối với những ai chịu đau khổ vì làm chứng cho Ngài, dù không nhận biết Ngài, Ngài sẽ mặc khải căn tính của Ngài, như anh mù được sáng mắt hôm nay. Sau khi đã mở đôi mắt xác thịt của anh để anh thấy ánh sáng, Ngài mở đôi mắt tâm hồn anh để anh khám phá Mặc Khải.

3.2- Thái độ của Đức Giê-su đối với những người Pha-ri-sêu cố chấp:
“Tôi đến thế gian nầy chính là để xét xử : cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại đui mù”. Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa. Thiên Chúa bày tỏ mình cho những ai mở rộng tâm trí sẵn sàng đón nhận ánh sáng của Ngài. Những ai tìm cách ngăn chận những kẻ tin vào Ngài, bằng cách tín thác vào ánh sáng của riêng mình, người đó trở nên đui mù.

Đối với những người Pha-ri-sêu nhạo báng Ngài khi hỏi Ngài phải chăng Ngài nghĩ rằng họ đều đui mù hết cả sao, Chúa Giê-su đưa ra một bài học thâm thúy: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn đó”. Những lời này cho thấy thần học xét xử của Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su không xét xử ai cả, chính mỗi người tự xét xử mình, hoặc mở mắt ra mà tin nhận Đức Giê-su hoặc khép mắt bịt tai lại mà không nghe không thấy những điều Ngài nói và những việc Ngài làm để khỏi tin vào Ngài. Đó chính là tội cố chấp và bản án đã có sẵn ở đây rồi, và bây giờ chứ không phải đợi đến ngày chung thẩm.

Câu chuyện mở ra với lời công bố rằng sự mù lòa thể lý không có tội và đóng lại với lời công bố rằng sự mù lòa tinh thần mới có tội.

 


BƯỚC NHẢY NIỀM TIN

Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương:

Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời.
Để nhìn đời và để làm duyên.
Mẹ cho em đôi mắt màu đen.
Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn.
Là bài thơ hay nhất.
Là lời ca không dứt.
Là tuyệt tác của thiên nhiên.

Đôi mắt là cửa ngõ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.

Thi sĩ Lưu trọng Lư viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:

“Mắt em là một dòng sông,
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em” .

Trong bài viết “Đôi mắt”, Linh mục Nguyễn Tầm Thường suy niệm về đôi mắt mù lòa của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đến chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới, đó là mắt đức tin. Xin được mượn tư tưởng của ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: “Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh”.

Đôi mắt là cửa sổ và là cửa chính của tâm hồn cũng như của thân xác. Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu, sách Sáng Thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng.” (St 3,4 -7). (x.Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 -71)

Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:

  – Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.

  – Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.

  – Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam, Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù lòa chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.

Chúa Kitô đã đến trần gian chữa lành sự mù lòa ấy, hàn gắn lại vết thương thuở sa ngã của Nguyên Tổ.

Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù lòa của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt đức tin.

Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Niềm tin vào Chúa Giêsu của người mù tăng dần theo với thử thách.

Thánh Gioan kể có bốn cuộc thử thách.

- Thử thách lần thứ nhất (Ga 9,8-12), những người láng giềng và những người trước kia thường thấy anh ta ăn xin chất vấn: “hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”. Người mù xác nhận: “Tôi đi, tôi rửa, tôi nhìn thấy”. Anh không biết Chúa là ai: “Ông ấy ở đâu, tôi không biết”. Anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi“.

- Thử thách lần thứ hai (Ga 9,12-17), những chất vấn của giới Pharisiêu và lời nhạo báng: “một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?”. Trước sức ép của họ, anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng “Ngài thật là vị tiên tri”.

- Thử thách lần thứ ba (Ga 9,18-23), họ gọi cha mẹ của anh ta đến để làm chứng, nhưng hai người sợ hãi nên nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. Anh mù trực tiếp trả lời về nguồn ánh sáng đã đón nhận.

- Thử thách lần thứ tư (Ga 9,24-34), người Pharisiêu dùng đến Lề Luật. Người mù không cần biết đến Luật. Anh ta dựa vào cảm nghiệm cá nhân đã gặp Đức Kitô. Cuộc tra vấn của giới chức tôn giáo khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”.

Khi bị trục xuất ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu gặp lại anh và mạc khải cho biết Ngài là Con Thiên Chúa, anh liền tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy, tôi tin” (Ga 9,37). Niềm tin của người mù tăng triển qua ba giai đoạn. Từ không biết ông ấy ở đâu cho đến ông ấy là một tiên tri, rồi sấp mình thờ lạy Ngài. Sự tiến triển niềm tin qua những lần thử thách. Càng gặp thử thách niềm tin càng sáng lên. Thử thách càng cao đức tin càng mạnh. Người mù trung thành với cảm nghiệm của mình. Đức tin lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.

Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào Lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh : “Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy”. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: ”Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?”, anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”. Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin”. Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thuở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù lòa của nhân loại, với một điều kiện: Tin vào Ngài.

Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù lòa tâm hồn. Người mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9,1 -10). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7,36 -50). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23,32 – 43)…

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xóa tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. 

“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12). Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngõ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Ðức Giêsu là một ngôn sứ. Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.

Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.
Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen

Sưu tầm
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn