Đang truy cập : 317
•Máy chủ tìm kiếm : 2
•Khách viếng thăm : 315
Hôm nay : 48048
Tháng hiện tại : 438135
Tổng cộng : 27992419
Mười sai lầm không nên phạm khi giảng lễ
Trong tác phẩm của họ, “Và tôi, tôi nói cho bạn: hãy tưởng tượng! Nghệ thuật khó khăn của việc rao giảng” (E IO TI DICO: IMMAGINA! L’arte difficile della predicazione), các cha Dòng Tên Gaetano Piccolo, tổng thư ký ban tông đồ tri thức của Dòng và Nicolas Steeves, linh mục nhà thờ Thánh I-Nhã ở Paris, cả hai đều là giáo sư Đại học Gregoria, họ đưa ra một danh sách ít nhất là mười sai lầm đừng phạm để đứng làm cho giáo dân chán, và tệ hơn nữa là làm cho họ bỏ lễ.
Trong lời nói đầu, các tác giả nhắc lại, mục đích của việc rao giảng “không phải rao giảng cho mình, nhưng là để cứu những người nghe”. Một người đi giảng đều có điểm yếu điểm mạnh của mình, hoặc có một chủ đề mà họ thích trở lại một cách tự nhiên, trực tiếp hoặc gián tiếp trong tất cả bài giảng của mình. Đây không phải là việc trở nên siêu anh hùng rao giảng, nhưng đúng hơn là nhận diện các điểm yếu bị lặp đi lặp lại nhiều lần, có thể tạo nên vấn đề và tuyệt đối phải tránh.
Khác với sự đào tạo ở chủng viện, sai lầm xưa cổ đầu tiên là thiếu chuẩn bị bài giảng. Có cả ngàn lý do tốt, xấu để biện minh cho việc không chuẩn bị bài giảng: hội họp, diễn thuyết, có vấn đề cá nhân, quá nhiều việc. Nhưng các lý do này cho thấy sự hời hợt không tránh được, để rồi cuối cùng làm cho người nghe chán ngấy.
Sự thiếu chuẩn bị này thường kéo theo việc bài giảng không có chủ đề trọng tâm, mà khổ thay, đây cũng là vấn đề lớn xảy ra ngay cho cả bài giảng đã được chuẩn bị. Một trong các vấn đề thường gặp nơi người đi giảng là trước khi giảng, họ không ngồi xuống tịnh tâm tự hỏi: “Trong vài chữ, đâu là chủ đề tôi sẽ nói với tín hữu vào chúa nhật sắp tới?”. Nếu người giảng không có một ý chính nào trong đầu, thì chắc chắn sau bài giảng, người nghe cũng không biết người giảng muốn nói gì.
Một sai lầm thường gặp trong các bài giảng thiếu chuẩn bị là quá dài, thậm chí có thể nói là “dài quá đáng”, các bài giảng được chuẩn bị ít dài hơn nhưng nhiều khi cũng dài. Trong thời gian tập sinh, các chủng sinh Dòng Tên được dạy: “Ngày chúa nhật không dài quá 10 phút, trong tuần không dài quá 5 phút”. Người ta còn nói: “Năm phút đầu tiên, chúng ta lay động tâm hồn, thời gian còn lại thì những người ngồi sau lúc lắc”. Người ta còn ví von: “Bài giảng phải như chiếc váy ngắn: đủ dài để che cái cần phải che, nhưng khá ngắn để tạo hấp dẫn”.
Trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, Đức Phanxicô nhắc lại, bài giảng “không được như một màn văn nghệ giải trí; không đáp ứng theo kiểu các phương tiện truyền thông, nhưng phải mang lại sự sốt sắng và ý nghĩa của việc cử hành lễ” (EG 138). Dĩ nhiên phải tranh lời lẽ thô tục, xoàng xỉnh hay sở thích quá độ kiểu trình diễn giải trí. Rất hiếm khi các người rao giảng vừa giảng vừa dùng các vật dụng như (cờ, đèn..) mà không làm cho giáo dân xao nhãng trong sự gặp gỡ phải có của họ với Chúa.
Thật ra, bài giảng phải là “kinh nghiệm sâu đậm và hạnh phúc với Thần Khí, một cuộc gặp gỡ an ủi với Lời Chúa, nguồn liên tục làm mới lại và làm tăng trưởng” (EG 135). Bởi vì, đây đúng là “giây phút cao nhất của cuộc đối thoại giữa Chúa và dân của Ngài, trước khi rước Mình Thánh Chúa” (EG 137). Như thế, nếu người rao giảng kéo hết sự chú ý về phần mình thay vì đưa giáo dân đến cuộc đối thoại với Chúa, thì dù cho họ có nói những chuyện hấp dẫn nhất thế giới, bài giảng của họ sẽ không bao giờ là một bài giảng, bởi vì nó mất mục tiêu mà đáng lý phải có để trao truyền.
Bài giảng phải mời gọi tín hữu đáp ứng một cách cụ thể khởi đi từ khía cạnh huyền nhiệm của đời sống thiêng liêng hay chiêm niệm công việc tạo dựng. Bài giảng thường, nếu không muốn nói là phải, dự trù một phần luân lý, theo đó kêu gọi tín hữu làm điều tốt, sau phần đầu là phần làm cho giáo dân hiểu cái đẹp, cái đúng. Nhưng bài giảng không thể kê từ đầu đến cuối một danh sách những chuyện phải làm hay không nên làm.
Bài giảng không phải là lúc để dạy đời. Một vài bài giảng răn bảo đi theo hướng cánh hữu (luân lý về giới tính, nhắc lại luật lệ…), một vài bài giảng đi theo hướng cánh tả (kinh tế, môi sinh, công chính xã hội…): vấn đề không phải là tự chính nội dung của nó nhưng là sự mất quân bình giữa chiêm niệm và hành động. Dù bài giảng là nhắm đến việc khơi dậy nơi tín hữu kitô các cách đối xử tốt nhất, nhưng nó không thể chỉ thuần là người răn bảo về mặt chính trị-xã hội.
Bài giảng phải có gốc rễ cụ thể trong đời sống hàng ngày của tín hữu hay đời sống xã hội của họ, bài giảng không bay trên mây, khai thác các khía cạnh ngụy-thần nghiệm, mà thức chất nó không có tác động thật sự..
Duy trí là lỗi lầm gần với duy linh, nhưng nặng về mặt văn hóa và rất phổ biến. Vì sự đào tạo chặt chẽ và trí tuệ ở chủng viện, các tài liệu, các bài trình bày, các luận án là những hình thức diễn tả duy nhất được yêu cầu, nên đôi khi họ nghĩ, các tài liệu này là phương tiện tốt để trao truyền với tín hữu trong bài giảng. Khi đó, bài giảng trở thành bài chú giải lịch sử và phê phán hoặc bài kể chuyện như một bài học thần học về tín lý hay nền tảng.
Một sai lầm gần với duy trí là biến bài giảng thành bài giáo lý. Khuynh hướng này rất tinh tế, do một truyền thống đầu tiên hết trong Giáo hội: dạy dỗ tín hữu về các huyền nhiệm kitô giáo qua các bài giảng. Đó là trường hợp các bài giảng có tính cách giáo lý hay giáo lý khai tâm ở các thế kỷ đầu tiên. Các bài giáo lý của Cyrille de Jérusalem hay của Ambroise được tái khám phá trong những năm 50 vào thời kỳ của các tổ phụ, ca ngợi sự kiên nhẫn dạy dỗ của họ.
Rất nhiều giáo phận bây giờ triển khai một chương trình giáo lý khai tâm cho các dự tòng người lớn. Vấn đề liên hệ đến bài giảng ở đây là bài giảng trong thánh lễ không phải là lúc dạy giáo lý.
Vì thiếu tưởng tượng hay thiếu chuẩn bị, một vài nhà rao giảng nghĩ, để giảng, chỉ cần lặp lại bài phụng vụ vừa đọc theo chữ của mình. Khổ thay, cách làm này lại gây nhàm chán, vì nó chỉ lặp lại bài đã đọc mà không nêu bật lên chủ đề trọng tâm.
Giải thích dài dòng là đánh giá thấp tác động của lời trên đời sống giáo dân. Chính vì Lời Chúa không phải lúc nào cũng rõ ràng, nên Lời Chúa không phải chỉ đơn giản lặp lại nhưng phải được giải thích. Tốt hơn nên để công việc giải thích dài dòng này cho các học sinh còn nhỏ…
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nhiệm Vụ Thánh Hóa Của Giáo Hội
Phần I: Các Bí Tích
Thiên 3:
Bí Tích Thánh Thể
Ðiều 897: Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích cao trọng nhất, trong đó, chính Chúa Giêsu Kitô hiện diện, tự hiến và trở nên lương thực; nhờ đó, Giáo Hội tiếp tục được sống và tăng trưởng. Hy lễ Thánh Thể, tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa, tiếp diễn mãi mãi Hy Lễ Thánh Giá, là tuyệt đỉnh và nguồn suối của tất cả phụng tự và đời sống Kitô giáo. Nhờ Hy Lễ Thánh Thể, sự hiệp nhất của dân Chúa được biểu lộ và thể hiện, việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô được hoàn tất. Bởi đấy, các Bí Tích khác và mọi hoạt động tông đồ của Giáo Hội đều quy hướng về và liên kết chặt chẽ với Bí Tích Thánh Thể.
Ðiều 898: Các tín hữu phải hết sức tỏ lòng tôn kính Bí Tích Thánh Thể: tham dự tích cực vào việc cử hành Hy Lễ cực trọng này; siêng năng và sốt sắng nhận lãnh Bí Tích, lại hết lòng thờ phượng kính bái Thánh Thể. Trong khi giải thích đạo lý về Bí Tích Thánh Thể, các chủ chăn phải ân cần dạy cho các tín hữu về nghĩa vụ sùng kính này.
Chương I: Việc Cử Hành Thánh Thể
Ðiều 899: (1) Việc cử hành Thánh Thể là một tác động của chính Chúa Kitô và của Giáo Hội. Trong việc cử hành này, Chúa Giêsu Kitô, qua tác vụ của tư tế, hiện diện trót bản tính dưới hình thức bánh và rượu, dâng chính mình cho Ðức Chúa Cha, trao mình làm lương thực thiêng liêng cho các tín hữu kết hợp với lễ tế của Ngài.
(2) Trong cộng đoàn Thánh Thể, dưới sự chủ tọa của Giám Mục hay của một Linh Mục dưới quyền của Ngài, những kẻ làm hiện thân Chúa Kitô, dân Chúa được quy tụ làm một; tất cả các tín hữu hiện diện, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều góp phần tham dự tích cực, mỗi người theo cách thế riêng của mình, tùy theo sự khác biệt về chức thánh và phận sự phụng vụ.
(3) Việc cử hành Thánh Thể phải nhắm tới mục tiêu là làm sao để moị người tham dự đều lãnh nhận dồi dào những kết quả như Chúa Kitô mong muốn khi thiết lập Hy Lễ Thánh Thể.
Mục I: Thừa Tác Viên Bí Tích Thánh Thể
Ðiều 900: (1) Chỉ duy có tư tế đã được truyền chức hữu hiệu làm thừa tác viên hiện thân của Ðức Kitô, mới có khả năng cử hành Bí Tích Thánh Thể.
(2) Thánh Thể được cử hành hợp pháp do tư tế không bị cản trở giáo luật và giữ các quy định của những điều luật sau đây.
Ðiều 901: Tư tế được tự do chỉ lễ cho bất cứ người nào, còn sống hay đã qua đời.
Ðiều 902: Trừ khi ích lợi của tín hữu đòi hỏi hay khuyến khích cách khác, các tư tế có thể đồng tế Thánh Lễ. Tuy nhiên, mỗi người hoàn toàn tự do cử hành lễ Thánh Thể một mình, miễn là không cùng một lúc với lễ đồng tế trong cùng một nhà thờ hay nhà nguyện.
Ðiều 903: Một tư tế có thể được vị quản đốc nhà thờ nhận cho làm lễ tuy không phải là người quen biết, miễn là tư tế xuất trình chứng thư do Bản Quyền hay Bề Trên cấp chưa quá một năm, hoặc có thể nhận định cách khôn ngoan rằng không có gì ngăn trở tư tế ấy được dâng lễ.
Ðiều 904: Các tư tế nên luôn tâm niệm rằng công việc cứu chuộc hằng được tiếp tục thi hành trong mầu nhiệm Hy Lễ Thánh Thể; do đó, họ nên siêng năng dâng lễ. Hơn nữa, rất đáng mong ước các tư tế dâng lễ mỗi ngày, cả khi giáo dân không thể hiện diện, bởi lẽ Thánh Lễ là tác động của Ðức Kitô và của Giáo Hội; chính khi cử hành Thánh Lễ mà các tư tế chu toàn nhiệm vụ chính yếu của mình.
Ðiều 905: (1) Ngoại trừ những trường hợp giáo luật cho phép cử hành hay đồng tế Thánh Lễ nhiều lần trong một ngày, tư tế chỉ được quyền dâng lễ mỗi ngày một lần.
(2) Nếu thiếu tư tế, Bản Quyền sở tại có thể cho phép các tư tế, khi có lý do chính đáng, được làm hai lễ mỗi ngày; hơn nữa, khi nhu cầu mục vụ đòi hỏi, làm ba lễ các ngày Chủ Nhật và lễ buộc.
Ðiều 906: Nếu không có lý do chính đáng và hợp lý, tư tế không được cử hành lễ Thánh Thể nếu không có ít là một vài giáo dân tham dự.
Ðiều 907: Trong khi cử hành Thánh Lễ, Phó Tế và giáo dân không được phép đọc các lời nguyện, nhất là Kinh Nguyện Thánh Thể, hay làm những công việc chỉ dành riêng cho tư tế chủ lễ.
Ðiều 908: Cấm các tư tế Công Giáo đồng tế Thánh Lễ với các tư tế hay thừa tác viên của các giáo hội và các giáo đoàn không thông hiệp hoàn toàn với Giáo Hội Công Giáo.
Ðiều 909: Linh Mục không nên bỏ qua việc dọn mình xứng đáng trước khi dâng lễ, và cám ơn sau Thánh Lễ.
Ðiều 910: (1) Thừa tác viên thông thường cho rước lễ là Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế.
(2) Thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ là người lãnh tác vụ giúp lễ và tín hữu nào khác được chỉ định theo điều 230, triệt 3.
Ðiều 911: (1) Những người có bổn phận và quyền đem Mình Thánh như của ăn đàng đến cho người đau ốm là: Cha Sở, các cha phó xứ, các tuyên úy, các Bề Trên cộng đoàn của các dòng tu giáo sĩ hay tu đoàn tông đồ giáo sĩ đối với mọi người ở trong nhà.
(2) Trong trường hợp khẩn thiết, hoặc khi có phép, ít ra suy đoán, của Cha Sở, Cha tuyên úy hay Bề Trên tu viện, bất cứ Linh Mục hay thừa tác viên cho rước lễ nào cũng đều phải đem Mình Thánh như của ăn đàng cho bệnh nhân; nhưng sau đó, phải thông báo các người hữu trách nói trên.
Mục 2: Việc Tham Dự Thánh Thể
Ðiều 912: Bất cứ ai đã chịu phép Rửa Tội và không bị luật cấm, đều có thể và phải được nhận cho rước lễ.
Ðiều 913: (1) Ðể được rước lễ, các trẻ em phải có ý thức đầy đủ và được chuẩn bị chu đáo ngõ hầu các em nhận biết mầu nhiệm Chúa Kitô tùy theo khả năng của mình, và có thê� lãnh lấy Mình Chúa với lòng tin và sùng kính.
(2) Tuy nhiên, có thể cho trẻ em lâm cơn nguy tử rước lễ, nếu các em có thể phân biệt Mình Chúa Kitô khác với của ăn thông thường, và kính cẩn rước lễ.
Ðiều 914: Trước tiên là cha mẹ, rồi đến những người thay quyền cha mẹ và kể cả Cha Sở, có bổn phận lo cho các trẻ em đã đủ trí khôn dọn mình thích đáng để có thể, sau khi đã xưng tội, các em được bổ dưỡng nhờ của ăn thần linh này càng sớm càng tốt. Cha Sở cũng có bổn phận canh chừng không cho các trẻ em rước lễ khi chúng chưa đủ trí khôn hoặc chưa chuẩn bị đủ.
Ðiều 915: Không được nhận rước lễ: những người bị vạ tuyệt thông và cấm chế sau khi hình phạt đã tuyên kết hay tuyên bố; những người khác cố chấp trong một tội nặng công khai.
Ðiều 916: Ai ý thức mình phạm tội nặng và chưa xưng tội trước, thì không được làm lễ và không được rước lễ, trừ khi có lý do quan trọng và không có dịp tiện đi xưng tội. Trong trường hợp này, họ phải tâm niệm về bổn phận thống hối trọn vẹn, bao gồm lòng dốc quyết đi xưng tội sớm ngần nào có thể.
Ðiều 917: Ngoại trừ quy định ở điều 921, triệt 2, ai đã rước lễ rồi thì có thể rước lễ một lần nữa trong ngày đó, nhưng chỉ ở trong Thánh Lễ mà họ tham dự.
Ðiều 918: Hết sức khuyến khích các tín hữu rước lễ trong chính Thánh Lễ. Tuy nhiên, nếu có người xin với lý do chính đáng, thì có thể cho rước lễ ngoài Thánh Lễ, miễn là giữ các nghi thức phụng vụ.
Ðiều 919: (1) Ai muốn rước lễ phải kiêng ăn và uống, chỉ trừ nước lã và thuốc men, ít là một giờ trước khi rước lễ.
(2) Tư tế nào dâng lễ hai hay ba lần trong một ngày có thể ăn uống chút đỉnh trước lễ thứ hai hoặc lễ thứ ba, cho dù quãng cách thời gian không đủ một giờ.
(3) Những người cao niên, những người đau yếu và cả những người săn sóc họ, có thể rước lễ, cho dù đã ăn uống chút đỉnh trong vòng một tiếng đồng hồ trước đó.
Ðiều 920: (1) Mọi tín hữu, sau khi rước lễ vỡ lòng, buộc phải rước lễ ít nhất mỗi năm một lần.
(2) Mệnh lệnh ấy phải được chu toàn vào mùa Phục Sinh, trừ khi có lý do chính đáng, có thể chu toàn vào mùa khác trong năm.
Ðiều 921: (1) Các Kitô hữu lâm cơn nguy tử, dù vì bất cứ lý do nào, cần được bổ dưỡng bằng việc rước lễ như của ăn đàng.
(2) Cho dù ngày ấy họ đã rước lễ rồi, cũng rất nên cho họ rước lễ lần nữa nếu mạng sống của họ bị lâm nguy.
(3) Bao lâu cơn nguy tử kéo dài, nên cho họ rước lễ nhiều lần, vào những ngày khác nhau.
Ðiều 922: Không được khoan giãn việc đem của ăn đàng cho bệnh nhân. Các Chủ Chăn phải cẩn thận canh chừng để các bệnh nhân được bổ dưỡng khi còn tỉnh trí.
Ðiều 923: Các tín hữu có thể tham dự hy lễ Thánh Thể và rước lễ theo bất cứ lễ điển Công Giáo nào, miễn là giữ quy định của điều 844.
Mục 3: Nghi Lễ Và Nghi Thức Khi Cử Hành Thánh Thể
Ðiều 924: (1) Hy Lễ Thánh Thể phải được cử hành bằng bánh và rượu có pha chút nước.
(2) Bánh phải làm bằng bột mì tinh tuyền và còn mới để tránh nguy cơ hư mốc.
(3) Rượu phải là tự nhiên từ trái nho, và không bị hư chua.
Ðiều 925: Mình Thánh sẽ được trao chỉ dưới hình thức bánh, hay dưới cả hai hình thức, tùy theo quy luật phụng vụ; trong trường hợp cần thiết, cũng có thể chỉ dưới hình thức rượu.
Ðiều 926: Theo truyền thống lâu đời của Giáo Hội Latinh, khi cử hành Thánh Thể bất cứ ở đâu, tư tế phải dùng bánh không men.
Ðiều 927: Cho dù nhu cầu khẩn thiết tột độ, tuyệt đối cấm chỉ truyền phép một chất thể này mà không có chất thể kia, hoặc truyền phép cả hai chất thể ở ngoài Thánh Lễ.
Ðiều 928: Thánh Lễ được cử hành bằng tiếng Latinh hay bằng tiếng nào khác, miễn là các bản văn phụng vụ đã được phê chuẩn hợp lệ.
Ðiều 929: Tư Tế và Phó Tế khi cử hành Thánh Thể và khi giúp lễ phải mặc y phục thánh như chữ đỏ quy định.
Ðiều 930: (1) Tư Tế đau yếu và già cả, nếu không thể đứng được, có thể ngồi khi cử hành Thánh Lễ, nhưng luôn phải giữ các luật phụng vụ; tuy nhiên không được ngồi làm lễ trước mặt dân chúng nếu không có phép của Bản Quyền sở tại.
(2) Linh Mục mù lòa hay bị tật bệnh nào khác, vẫn có thể cử hành Thánh Thể hợp pháp, khi dùng bất cứ bản văn Thánh Lễ nào đã được phê chuẩn, với sự hiện diện, nếu cần, của một Tư Tế khác hay một Phó Tế hoặc một giáo dân đã được huấn luyện thích đáng để giúp.
Mục 4: Thời Gian Và Nơi Cử Hành Thánh Thể
Ðiều 931: Có thể cử hành Thánh Thể và trao Mình Thánh ngày nào và giờ nào cũng được; ngoại trừ những trường hợp luật phụng vụ không cho phép.
Ðiều 932: (1) Thánh Thể phải được cử hành ở nơi thánh, trừ khi, trong trường hợp riêng, nhu cầu đòi hỏi cách khác; dù vậy, trong trường hợp ấy, phải cử hành Thánh Thể ở một nơi xứng đáng.
(2) Hy Lễ Thánh Thể phải được cử hành trên một bàn thờ đã cung hiến hay đã làm phép; ở ngoài nơi thánh, có thể cử hành trên một bàn xứng đáng, nhưng phải luôn có khăn phủ bàn và khăn thánh.
Ðiều 933: Khi có lý do chính đáng và có phép minh thị của Bản Quyền sở tại, tư tế được phép cử hành Thánh Thể trong đền thờ của một Giáo Hội nào khác hay của một giáo đoàn không hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội Công Giáo; nhưng phải đề phòng mọi gương xấu.
Chương II: Việc Lưu Trữ Và Tôn Sùng Thánh Thể
Ðiều 934: (1) Thánh Thể:
1. phải được lưu trữ trong nhà thờ chính tòa hoặc nhà thờ tương tự, trong nhà thờ giáo xứ, trong nhà thờ hay nhà nguyện của một tu viện hoặc của tu đoàn tông đồ;
2. có thể được lưu trữ trong phòng nguyện của Giám Mục, và nếu có phép của Bản Quyền sở tại, trong các nhà thờ, nhà nguyện và phòng nguyện khác.
(2) Tại những nơi lưu trữ Thánh Thể, luôn luôn phải có người chăm nom và, trong mức độ có thể, một tư tế phải cử hành Thánh Lễ ít nhất mỗi tháng hai lần.
Ðiều 935: Không ai được phép giữ Thánh Thể trong mình, hoặc đem đi đường với mình; trừ khi nhu cầu mục vụ khẩn trương đòi hỏi, và phải giữ các chỉ thị của Giám Mục giáo phận.
Ðiều 936: Trong nhà của một Dòng Tu hay trong một nhà đạo đức nào khác, chỉ được lưu trữ Thánh Thể trong nhà thờ hay nhà nguyện chính gắn liền với nhà ấy; tuy nhiên, khi có lý do chính đáng, Bản Quyền có thể cho phép lưu trữ Thánh Thể cả ở trong nhà nguyện khác của cùng một nhà.
Ðiều 937: Nếu không có một lý do quan trọng ngăn trở, nhà thờ lưu trữ Thánh Thể phải mở cửa mỗi ngày ít ra một vài giờ, để giáo dân có thể cầu nguyện trước Mình Thánh.
Ðiều 938: (1) Thánh Thể thường chỉ được lưu trữ trong một nhà tạm của nhà thờ hay nhà nguyện.
(2) Nhà tạm lưu trữ Thánh Thể được đặt vào một vị trí cao trọng và dễ nhìn thấy trong nhà thờ hay nhà nguyện; lại phải được trang hoàng đẹp đẽ và thuận tiện cho việc cầu nguyện.
(3) Nhà tạm lưu trữ Thánh Thể thường xuyên phải bất di dịch, làm bằng chất liệu vững chắc, không nhìn qua được, và phải khóa cẩn thận để tránh tối đa nguy cơ xúc phạm.
(4) Vì lý do quan trọng, được phép lưu trữ Thánh Thể, nhất là ban đêm, trong một nơi khác xứng đáng và an toàn hơn.
(5) Người coi sóc nhà thờ hay nhà nguyện phải liệu giữ chìa khóa nhà tạm lưu trữ Thánh Thể thật chu đáo.
Ðiều 939: Phải giữ trong bình thánh đủ số Bánh Thánh cần thiết cho tín hữu; phải năng thay bánh mới, khi đã tiêu thụ hợp lệ hết bánh cũ.
Ðiều 940: Trước nhà tạm lưu trữ Thánh Thể, phải luôn luôn thắp một chiếc đèn đặc biệt, để ghi dấu và tôn kính sự hiện diện của Chúa Kitô.
Ðiều 941: (1) Trong các nhà thờ hay nhà nguyện được phép lưu trữ Thánh Thể, có thể đặt Bình Thánh hay Hào Quang ra ngoài để Chầu Mình Thánh; miễn là phải tuân giữ các quy luật phụng vụ.
(2) Ðang khi cử hành Thánh Lễ, không được phép đặt Mình Thánh ra chầu trong cùng một gian chính của nhà thờ hay nhà nguyện.
Ðiều 942: Trong các nhà thờ và nhà nguyện, khuyên nên tổ chức hàng năm một buổi chầu Mình Thánh trọng thể suốt một thời gian xứng hợp, cho dù không liên tục, ngõ hầu cộng đoàn địa phương suy niệm và thờ lạy mầu nhiệm Thánh Thể cách sâu xa hơn. Tuy nhiên, buổi chầu Mình Thánh như vậy chỉ nên tổ chức khi biết trước có đông giáo dân đến tham dự, và phải giữ trọn các quy luật đã ban hành.
Ðiều 943: Thừa tác viên đặt Mình Thánh ra chầu và ban phép lành Thánh Thể là tư tế hay phó tế. Trong những hoàn cảnh riêng, người đã lãnh tác vụ giúp lễ, thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ hay một người nào khác được Bản Quyền chỉ định cũng được phép đặt và cất Mình Thánh, nhưng không được ban phép lành; song phải tuân giữ các chỉ thị của Giám Mục giáo phận.
Ðiều 944: (1) Ở đâu Giám Mục giáo phận xét có thể được, nên tổ chức kiệu Mình Thánh qua các công lộ để tuyên chứng công khai lòng tôn kính Thánh Thể, đặc biệt trong ngày lễ kính trọng thể Mình và Máu Thánh Chúa Kitô.
(2) Giám Mục giáo phận có thẩm quyền ra những chỉ thị về việc kiệu Thánh Thể, hầu bảo đảm việc tham dự và tính cách trang nghiêm của cuộc rước.
Chương III: Bổng Lễ
Ðiều 945: (1) Theo tập tục đã được Giáo Hội công nhận, một tư tế cử hành hay đồng tế Thánh Lễ được phép nhận bổng lễ để áp dụng theo một ý chỉ rõ rệt.
(2) Hết sức khuyên nhủ các linh mục hãy dâng lễ theo ý chỉ của các tín hữu, nhất là những người nghèo, cả khi không có bổng lễ.
Ðiều 946: Khi dâng bổng lễ để Thánh Lễ được áp dụng theo ý chỉ của mình, các tín hữu đóng góp vào thiện ích của Giáo Hội; bằng việc dâng cúng ấy, họ góp phần nâng đỡ các thừa tác viên và các hoạt động của Giáo Hội.
Ðiều 947: Trong vấn đề bổng lễ, phải xa tránh hoàn toàn mọi hình thức buôn bán hay thương mại.
Ðiều 948: Phải áp dụng từng Thánh Lễ cho mỗi ý chỉ vì đó mà bổng lễ đã được dâng và nhận, cho dù bổng lễ đã nhận là bé nhỏ.
Ðiều 949: Ai có nghĩa vụ phải dâng lễ và áp dụng Thánh Lễ theo ý chỉ của người dâng bổng lễ vẫn còn trách nhiệm ấy cả khi bổng lễ bị mất không tại lỗi của mình.
Ðiều 950: Nếu người ta dâng một món tiền xin lễ mà không nói rõ số lễ phải làm, thì số ấy sẽ được chỉ định dựa theo giá bổng lễ hiện hành tại nơi người xin lễ cư trú, trừ khi có lý do phỏng đoán hợp lệ là họ có hảo ý khác.
Ðiều 951: (1) Khi tư tế dâng nhiều Thánh Lễ trong một ngày, có thể áp dụng mỗi Thánh Lễ theo một ý chỉ có bổng lễ dâng. Tuy nhiên, đừng kể ngày lễ Giáng Sinh, tư tế chỉ được hưởng một bổng lễ thôi, còn những bổng lễ khác phải nhường về các mục đích do Bản Quyền quy định, tuy rằng đương sự có thể nhận một phần thù lao vì danh nghĩa ngoại tại.
(2) Tư tế đồng tế Thánh Lễ thứ hai trong một ngày, không có quyền nhận bổng lễ nữa dưới bất cứ danh nghĩa nào.
Ðiều 952: (1) Công đồng tỉnh hay Hội Ðồng Giám Mục giáo tỉnh phải ra nghị định ấn định bổng lễ phải dâng để áp dụng Thánh Lễ trong toàn giáo tỉnh. Tư tế không được đòi bổng lễ cao hơn mức ấn định. Tuy nhiên, tư tế được phép nhận bổng lễ cao hơn khi người ta tự nguyện dâng cúng, cũng như cũng được phép nhận bổng lễ thấp hơn.
(2) Nơi nào không có nghị định đã nói, thì phải theo tập tục hiện hành trong địa phận.
(3) Các phần tử thuộc bất cứ dòng tu nào cũng phải giữ nghị định hay thói quen của địa phương nói ở triệt 1 và 2.
Ðiều 953: Không ai được phép nhận cho mình nhiều bổng lễ đến độ không thể chu tất trong vòng một năm.
Ðiều 954: Nếu tại những nhà thờ hay nhà nguyện người ta xin cử hành lễ quá số có thể cử hành ở đó, thì có thể cử hành ở nơi khác, trừ khi những người xin lễ minh thị bày tỏ ý định ngược lại.
Ðiều 955: (1) Ai muốn chuyển ý lễ cho những người khác, thì phải chuyển sớm ngần nào có thể cho các tư tế muốn lãnh nhận, miễn là biết chắc họ hoàn toàn đáng tín nhiệm. Lại phải chuyển y nguyên bổng lễ đã nhận, trừ khi biết chắc rằng số tiền trội hơn giá bổng lễ trong giáo phận là do thiện cảm cá nhân. Người chuyển ý lễ còn phải mang nghĩa vụ lo dâng lễ cho đến khi nào chắc chắn có người nhận nghĩa vụ dâng lễ và bổng lễ.
(2) Thời gian phải dâng lễ bắt đầu từ ngày tư tế nhận được ý lễ, trừ khi đã rõ cách nào khác.
(3) Ai chuyển ý lễ cho người khác, phải lập tức ghi vào sổ cả những ý lễ đã nhận lẫn những ý lễ đã chuyển cho người khác, cũng như phải ghi bổng lễ nữa.
(4) Mỗi linh mục phải ghi cẩn thận những ý lễ đã nhận sẽ làm và những ý lễ đã làm xong.
Ðiều 956: Tất cả và mỗi người quản trị các thiện ý hay có trách nhiệm nào đó về việc lo dâng lễ, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều buộc phải chuyển về Bản Quyền của mình những ý lễ không làm hết trong một năm, theo cách thế Bản Quyền đã ấn định.
Ðiều 957: Bổn phận và quyền lợi trông nom cho mọi ý lễ được chu toàn đối với các nhà thờ của giáo sĩ triều thì thuộc về thẩm quyền của Bản Quyền sở tại; còn đối với nhà thờ của dòng tu hay tu đoàn tông đồ thì thuộc các Bề Trên của họ.
Ðiều 958: (1) Cha Sở cũng như vị quản đốc nhà thờ hay cơ sở đạo đức khác, nơi quen nhận các bổng lễ, phải có cuốn sổ riêng, ghi chép cẩn thận số lễ phải làm, ý lễ, bổng lễ và nghĩa vụ đã chu toàn.
(2) Bản Quyền có bổn phận đích thân hay nhờ người khác, kiểm soát hằng năm các sổ sách đó.
(Nhóm Dịch Thuật Việt ngữ Bộ Giáo Luật)
Nói thêm về việc xin lễ và cầu nguyện cho các Linh Hồn Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn |
Trong hai bài trước đây, tôi đã có dịp trình bày về tội simonia, về ơn cứu độ, về việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội (purgatory) cũng như nói về cái gọi là “Hội Đời Đời” do một số người lập ra với mục đích cầu nguyện cho các linh hồn và “bảo hiểm” cho những người còn sống hoặc đã qua đời. Vì có một số độc giả thắc mắc nên tôi xin được nói thêm về vấn đề này. Truớc hết, tôi phải nhấn mạnh một lần nữa về nguyên tắc căn bản sau đây: Khi bàn cãi hoặc đề cập đến bất cứ vấn đề gì liên quan đến đức tin của người tín hữu Công giáo, nhất là liên quan đến Giáo Hội nói chung thì nhất thiết phải căn cứ vào những tiêu chuẩn căn bản như Thánh Kinh (Sacred Scripture), Thánh Truyền(Sacred Tradition), Giáo Lý (Doctrine), Tín Lý(Dogma), Giáo luật (Canon law), Văn kiện Công Đồng (Conciliar Documents), Tông Thư, Tông Huấn (Encyclical Letters) của các Đức Giáo Hoàng, chứ không thể dựa vào suy luận cá nhân hay căn cứ vào những tài liệu bên ngoài Giáo Hội để tham khảo được. Từ nguyên tắc này, chúng ta hãy tìm hiểu xem Giáo Hội dạy về việc cầu nguyện cho người sống và người chết như thế nào: A- Cầu nguyện cho người đã qua đời: Sách 2 Ma-ca-bê kể lại việc “Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền và gửi về Giêrusalem để xin dâng hy tế tạ tội ; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quí này vì cho rằng ngươì chết sẽ sống lại…Đó là lý do khiến ông xin dâng hy tế đền tội cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (x. 2 Macabê 12:43-46) Đây là nguồn gốc trong Kinh Thánh Cựu Ước về việc cầu nguyện cho người quá cố vì có niềm tin vào sự sống lại của kẻ chết. Niềm tin này đã được củng cố vững vàng hơn với biến cố lich sử về cuộc tử nạn và phục sinh của chính Chúa Kitô Giêsu như Kinh Thánh Tân Ước đã tường thuật tỉ mỉ (x. Mt 27-28; Mc 15-15, Lc 23-24; Ga 19-20). Từ đó, việc cầu nguyện cho kẻ chết đã trở thành truyền thống trong Giáo Hội cho đến nay vì niềm tin vào sự sống lại của kẻ chết và vì tín điều các Thánh Thông Công. Sách Giáo Lý mới của Giáo Hội đã khuyến khích việc cầu nguyện cho kẻ chết dựa vào niềm tin nói trên và vào lời dạy của Thánh Gioan Kim Khẩu (John Chrysostom:344-407) sau đây: “Chúng ta hãy cứu giúp và tuởng nhớ đến những ngươì đã qua đời. Nếu con cái Ông Job được thanh luyện nhờ sự hy sinh của Ông, thì tại sao chúng ta lại nghi ngờ rằng những việc hiến dâng của chúng ta sẽ đem lại an ủi cho các linh hồn ấy ? Vậy chúng ta đừng ngần ngại cứu giúp những người đã qua đời và cầu nguyện cho họ” (x. John Chrysostom, Hom. In 1 Cor 41, 5:PG 61, 361; cf. Job, 5) I-Luyện Tội (Purgatory) và hình phạt hữu hạn (temporal punishment) Theo Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thì tất cả những ai chết trong ơn phúc của Chúa đều được bảo đảm phần rỗi đời đời (eternal salvation). Nhưng nếu chưa được thanh sạch hoàn toàn sau khi chết thì phải được thanh luyện lần cuối cùng trong nơi gọi là Luyện tội (Purgatory) trước khi được vào hưởng niềm vui Thiên Đàng. (x. Sách Giáo Lý Công Giáo số 1030). Đây là lý do vì sao Giáo Hội khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi chốn thanh luyện cuối cùng này để giúp họ được mau vào vui hưởng Thánh Nhan Chúa. Cũng theo giáo lý của Giáo Hội thì có hai loại tội cần phân biệt: tội trọng (mortal sin) và tội nhẹ (venialsin) xét theo hậu qủa của tội gây thương tổn nhiều hay ít đến mối thân tình giữa Chúa và hối nhân cũng như giữa hối nhân và Cộng đồng Giáo Hội. Tội trọng phá tan đức ái và cắt đứt tức khắc mọi hiệp thông với Chúa. Vì thế, khi một người mắc tội trọng, nếu chết mà không kịp ăn năn và được tha thứ qua bí tích hoà giải thì sẽ bị án phạt đời đời trong nơi gọi là hoả ngục (hell). Ở nơi này, các linh hồn bị phạt sẽ đời đời lìa xa Thiên Chúa và Cộng đồng các Thánh (x. Sđd, số 1033). Tội nhẹ không phá hủy hoàn toàn đức ái nhưng cũng gây thương tổn phần nào cho sự hiệp thông với Chúa và với Giáo Hội nên cũng cần được tẩy xóa qua bí tích hoà giải. Tộị trọng và tội nhẹ đều có thể được tha thứ qua bí tích hoà giải –trừ tội phạm đến Đức Chúa Thánh Thần, tức là chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn (x. Mt 12,31). Sau khi đã được hoà giải với Chúa và với Giáo Hội, hối nhân phải làm việc “đền tội” (penance) cho mọi tội trọng và nhẹ đã được tha qua bí tích hoà giải. Đây là hình phạt hữu hạn (temporal punishment) mà hối nhân phải thi hành để “sửa lại những xáo trộn mà tội đã gây nên” theo lời dạy của Công Đồng Trentô (x. CĐ Trentô DS 1712). Việc “đền tội” này, nếu không được làm đầy đủ khi còn sống, thì phải được thanh luyện sau cùng trong Luyện Tội sau khi chết. Ở đây các linh hồn có thể trông cậy vào sự cứu giúp của Đức Mẹ, của các Thánh và của các tín hữu còn sống đang hiệp thông trong Giáo Hội lữ hành. Các linh hồn cũng có thể cầu bầu cho các tín hữu còn sống nhưng không thể tự giúp mình được vì thời giờ làm việc lành phúc đức đã hết. Các Thánh trên Thiên Đàng có thể nguyện giúp cầu thay cho các linh hồn trong luyện tội và cho các tín hữu còn sống nhưng không cần ai trợ giúp nữa vì đã được hưởng trọn vẹn Nhan Thánh Chúa rồi. Đây là tất cả ý nghĩa về Tín điều các Thánh thông công (communion of Saints) trong Giáo Hội Công Giáo. II- Các tín hữu còn sống có thể giúp gì cho các linh hồn nơi Luyện tội? Như đã giải thích ở trên, luyện tội là nơi thanh luyện cuối cùng cho những linh hồn đã chết đi trong ơn nghiã Chúa nhưng chưa đuợc thánh thiện đủ để được vào Thiên Đàng hưởng Nhan Thánh Chúa cùng các Thánh. Họ phải lưu lại nơi đây trong một thơì gian để được thanh luyện theo lượng từ bi và công bằng của Chúa đòi hỏi. Nhưng Luyện tội không phải là chốn các linh hồn phải xa Chúa đời đời như những linh hồn ở nơi gọi là hoả ngục. Vì thế không có vấn đề cầu nguyện đời đời cho các linh hồn nơi luyện tội vì họ không đời đời ở đó. Các tín hữu còn sống trên trần gian có thể giúp đỡ các linh hồn nơi luyện tội bằng những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, làm việc bác ái và nhất là xin dâng Thánh Lễ cầu cho họ. Sự giúp đỡ thiêng liêng này rất hữu ích nhưng không phải là yếu tố quyết định phần cứu rỗi cho một linh hồn nào. Yếu tố quyết định là chính tình thương của Chúa và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô cộng với phần đóng góp của cá nhân khi còn sống trên trần thế này. Khi còn sống, nếu một người đã tư ý chọn lựa xa cách Thiên Chúa, khước từ tình thương của Người để qui hướng đời mình hoàn toàn về những mục tiêu trần thế cho đến giờ chết thì chắc chắn Chúa không thể cứu được người đó vì họ đã tự ý chọn lựa từ chối Người trong suốt cuộc đời trên trần thế này rồi. Chúa không ngăn cản sự chọn lựa này vì Ngài tôn trọng ý chí tự do (free will) của con người. Trong trường hợp này mọi việc cứu giúp của chúng ta như cầu nguyện, xin Lễ v.v. sẽ là vô ích vì người ta đã chọn lựa khước từ Chúa và ơn cứu độ của Người khi còn sống rồi Tuy nhiên đây chỉ là nguyên tắc thần học phải suy luận và tin mà thôi. Trong thực hành, chúng ta không thể biết được ai đã thực sự rơi vào trường hợp này để khỏi phải cầu nguyện cho họ nữa. Chúng ta cũng không được phép phán đoán ai sẽ lên Thiên Đàng, ai phải xuống hoả ngục dù biết họ sống ra sao trên trần gian này. Vì thế, chúng ta cứ vì bác ái mà cầu cho mọi người đã qua đời ngay cả cho những người đã tự tử hay công khai sống “bê bối” trước khi chết. Chỉ có Chúa mới biết chính xác được lòng người và phán đoán công minh về phần rỗi của mỗi cá nhân. Bao lâu còn sống thì ta cứ cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết, không giới hạn thời gian, nhưng không thể nói cầu “đời đời” được vì chính mình cũng không sống vĩnh viễn ở đời này thì làm sao mà cầu “đời đời”cho ai được? B- Vấn đề xin “Lễ đời đời” và mua “Hậu” cho người còn sống hay đã qua đời Tôi phải đặc biệt nói thêm về vấn đề này vì thực chất sai trái giáo lý trầm trọng của những việc làm này đã và đang còn diễn ra ở một số nơi trong và ngoài Việt Nam. Như đã nói ở trên, việc cầu nguyện cho các người đã qua đời chỉ hữu ích cho các linh hồn thánh (holy souls) trong nơi luyện tội mà thôi, chứ tuyệt đối không ích gì cho những ai đã tự ý chọn lựa xa lìa Thiên Chúa và đang bị phạt ở nơi gọi là hoả ngục. Lý do: chỉ có sự hiệp thông giữa các Thánh trên Trời, các linh hồn nơi luyện tội và các tín hữu còn sống trên trần gian mà thôi, chứ không có sự hiệp thông nào vơí các linh hồn nơi hoả ngục. Vì thế, không có giáo lý nào của Giáo Hội dạy hay khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn trong hoả ngục cả vì họ đã lìa xa Chúa đời đời rồi. (x. Sđd. Số 1033-1036) Vậy xin Lễ đời đời để cầu cho ai ? Rõ ràng đây là một ý niệm mơ hồ không có căn bản giáo lý, tín lý nào vì như đã giải thích ở trên: các linh hồn trong luyện tôi không cần sự giúp đỡ “đời đời”, các Thánh trên Thiên Đàng không cần ai trợ giúp nữa, còn những linh hồn trong hoả ngục thì không thể giúp được vì không còn sự hiệp thông nào với nơi này. Hơn thế nữa, làm sao người nhận tiền xin Lễ đời đời có thể thực hành được điều này khi mà chính người đó hay Tu Hội, Cộng Đoàn nào làm việc này cũng không tồn tại “đời đời” trên trần thế này thì làm sao có thể cầu nguyện hay dâng lễ đời đời cho ai để hưởng số tiền to bây giờ của những người xin vì không am hiểu giáo lý? Việc “mua, bán hậu” lại càng vô lý và sai trái giáo lý hơn nữa. Trước hết là không hề có giaó lý nào cho phép làm việc này. Sau nữa, chủ đích của việc làm này hoàn toàn sai trái về mặt thần học, về ơn cứu độ vì lý do sau đây: Nói đến sống đời đời là nói đến hy vọng được hưởng ơn cứu độ của Chúa nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô. Mà muốn hưởng ơn này thì nhất thiết phải “hoán cải và tin vào Tin Mừng” như Chúa Giêsu đã đòi hỏi (x. Mc 1:15). Hoán cải hay sám hối để chừa bỏ tội lỗi và tin vào Tin Mừng có nghĩa là thực sự mến Chúa và yêu người. Đây chính là phần đóng góp cần thiết của mỗi cá nhân vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô để được hưởng ơn cứu độ của Người. Không ai có thể làm thay người khác trong việc quá hệ trọng này cũng như không thể dùng tiền bạc để đút lót cho ai lo hộ mình việc tối quan trọng này. Như vậy, “mua hậu” để làm gì ? có phải là bỏ nhiều tiền ra bây giờ để mua “bảo hiểm đời sau” cho cả người sống và người chết của một vài nơi đã và đang rao bán dịch vụ mại thánh (simony) này để lừa dối những người không am hiểu giaó lý về ơn cứu độ không ? Chúng ta phải xác tín rằng việc cứu rỗi không bao giờ có thể đổi chác hay mua được bằng tiền bạc hoặc của cải vật chất dù trị giá có thể cao đến đâu. Nếu sống mà không quyết tâm tìm Chúa và đi theo đường lối của Người thì có bỏ ra hàng trăm triệu đôla để mua hàng ngàn “cái hậu” cũng vô ích mà thôi vì tuyệt đối những thứ này không có chút giá trị cứu rỗi nào cho ai hết. Tôi quả quyết như vậy và thách đố ai trưng ra được căn bản thần học, giáo lý, Kinh Thánh nào khuyến khích hay cho phép làm việc này trong Giáo Hội. Là tín hữu, chúng ta chỉ được kêu gọi sống đức tin, đức cậy, và đức mến cách thích đáng nghiã là thực tâm tin, yêu Chúa và yêu mến tha nhân như Chúa đòi hỏi để được hưởng ơn cứu độ. Và đây mới thực sự là thứ “bảo hiểm” có giá trị nhất, hơn bất cứ loại “hậu hay bảo hiểm” nào khác mà một số người không am hiểu giáo lý đã và đang làm để trục lợi về tiền bạc và lừa dối người khác qua dịch vụ “buôn thần bán thánh” này trong cộng đồng Công giáo Việt Nam ở trong nước cũng như ở Mỹ này. Tóm lại, không có “cái hậu” nào có giá trị cứu rỗi, bảo đảm đời sau hơn chính nỗ lực của cá nhân cộng tác với ơn Chúa ngay trong cuộc sống này cho đến ngày giờ sau hết để được hưởng ơn cứu độ như giáo lý Công Giáo dạy. Vậy phải dứt khoát loại trừ những việc sai trái về cái gọi là “Lễ đời đời” và mua bán “hậu” đời sau nếu muốn thực hành đức tin cách chính đáng trong Giáo Hội. Đó là tất cả những điều tôi cần nói thêm về vấn đề cầu nguyện cho các linh hồn, về điều kiện để được cứu rỗi và về những sai trái quanh vấn đề này. |
Tinmung.net
MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA1
Kinh nguyện Thánh Thể được xếp vào một trong số những lời nguyện cao trọng và thánh thiện nhất của Hội Thánh. Vì thế, Hội Thánh hết sức cẩn trọng trong từng từ ngữ và cấu trúc của kinh nguyện này. Trừ ra những trường hợp hết sức họa hiếm như quyết định thêm tên thánh Giuse vào, bản văn và công thức được Giáo hội soạn ra trong các Kinh nguyện Thánh Thể không nên có bất kỳ một sự thêm thắt tự tiện nào khác và không được bỏ sót nêu tên Đức Giáo Hoàng và Giám mục giáo phận.2
Việc xướng đích danh tên của Đức Giáo Hoàng (lãnh đạo Hội Thánh phổ quát), Đức Giám mục giáo phận (lãnh đạo Hội Thánh địa phương) và có thể là tên của cả Đức Giám mục phó hay phụ tá trong mọi Kinh nguyện Thánh Thể nhằm 3 mục đích : Thứ nhất, tôn trọng một truyền thống rất xa xưa trong Hội Thánh; Thứ hai, để các tín hữu đồng tâm nhất trí với các ngài và cầu nguyện cho các ngài;3Thứ ba, không những thế, những lời này còn ít nhiều diễn tả dạng thức trung thành của cộng đoàn tín hữu đối với các vị lãnh đạo của họ. Lời cầu được tiếp nối bằng việc cầu nguyện cách chung cho “tất cả các giám mục”4 và cho “toàn thể hàng giáo sĩ khắp nơi”5(không nhắc tên đích danh) nhằm biểu hiện mối dây hiệp nhất của cộng đoàn tín hữu với các ngài là những vị mục tử trong Hội Thánh.6
Khi đọc Kinh nguyện Thánh Thể, các tư tế không nhân danh bản thân mình, nhưng là đại diện Chúa Kitô và Giáo hội. Trọn vẹn Kinh nguyện Thánh Thể mang âm hưởng hiệp thông, do đó, công thức này diễn tả một thực tại thần học sâu xa, trong đó tư tế và cộng đồng bày tỏ họ thuộc về Hội Thánh hoàn vũ qua sự hiệp thông theo phẩm trật với Đức Giáo Hoàng và Đức Giám mục giáo phận là những vị đã được tín thác cho nhiệm vụ dưỡng nuôi và củng cố sự hiệp nhất thâm sâu của Nhiệm thể Chúa Kitô.7 Đức Thánh Cha đại diện cho sự hiệp nhất này ở cấp độ hoàn vũ vì ngài là nguyên lý và nền tảng hữu hình, vĩnh cửu, là dấu chỉ và là người phục vụ sự hiệp thông giữa các giám mục cũng như giữa các tín hữu cả trên bình diện cơ cấu lẫn bình diện pháp lý và cai quản; còn Đức Giám mục giáo phận, ngài là nguyên lý và nền tảng hữu hình, là dấu hiệu và khí cụ cho sự hiệp nhất này ở cấp độ địa phương. Kinh nguyện Thánh Thể nhắc tới sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng, với Đức Giám mục giáo phận, với Giám mục đoàn, với toàn thể hàng giáo sĩ là cần thiết để thánh lễ cử hành mang tính Công giáo đích thực. Việc nêu đích danh tên của Đức Giáo Hoàng và Đức Giám mục giáo phận thực sự dựa trên khoa Giáo hội học về hiệp thông, tức là sau Đức Giáo Hoàng, sự hiệp thông Giáo hội được thiết lập qua Đức Giám mục giáo phận xét như ngài là Đại diện Đức Kitô (vicarius Christi), là chủ chăn của một phần Dân Chúa ở đó.8 Hơn nữa, sự hiệp thông với Giám mục giáo phận là điều kiện để mọi cử hành trong địa phận được hợp pháp.9
CÁCH THỨC NÊU TÊN ĐỨC GIÁM MỤC 10
1] Phải nêu tên
Cách chung, tư tế trước hết nêu danh hiệu của Đức Giáo Hoàng đương kim mà theo tập quán chỉ cần nêu tên ngài chứ không cần nêu con số. Tiếp đến, tư tế nêu danh tính của Đức Giám mục đang cai quản giáo phận (Bản quyền địa phương) hoặc Đức Giám mục giám quản giáo phận hoặc vị cùng đẳng cấp với Giám mục giáo phận theo luật. Nếu có thể, tư tế nêu thêm tên của Đức Giám mục phó hay phụ tá. Tại Rôma, chỉ nêu tên Đức Giáo Hoàng mà thôi vì ngài là Giám mục của giáo phận Rôma.
2] Không nêu tên
Cách chung, không nêu tên Đức Giám mục khi vị tư tế dâng lễ trên biển khơi hay những nơi không có Đức Giám mục cư trú. Cũng nên bỏ qua những tước hiệu danh dự như Hồng y. Trong thánh lễ đồng tế có nhiều vị giám mục tham gia cử hành, nguyên tắc là không nêu tên các Đức Giám mục ngoài giáo phận, dù một trong số các ngài làm chủ tế. Cũng không nêu tên Đức Giám mục về hưu (trừ khi ngài vẫn tiếp tục được chọn điều hành tạm thời giáo phận trong tư cách là giám quản giáo phận).11 Tốt nhất, nên cầu nguyện cho các ngài trong phần Lời nguyện Tín hữu.
Cụ thể hơn, Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma số 149 dạy rằng:
Vị tư tế tiếp tục Kinh nguyện Thánh Thể như chữ đỏ đã ghi trong mỗi kinh.
Nếu chủ tế là Đức Giám mục cử hành trong giáo phận của mình và chính ngài đọc thì sau những lời “cùng với Ðức Giáo hoàng T”, ngài thêm “và con là tôi tớ bất xứng của Chúa cùng toàn thể hàng giáo sĩ” - Kinh nguyện Thánh Thể II). Cũng áp dụng tương tự như vậy cho các Kinh nguyện Thánh Thể khác, chẳng hạn, đối với Kinh nguyện Thánh Thể III, Giám mục chủ tế đọc: “cùng với tôi tới Chúa là Đức Giáo hoàng T. và con là tôi tớ bất xứng của Chúa, cùng toàn thể hàng giám mục, giáo sĩ khắp nơi, và tất cả dân riêng Chúa”.
lNếu Đức Giám mục cử hành ngoài giáo phận của mình, sau những lời: “cùng với Ðức Giáo hoàng T.”, ngài thêm: “và con là tôi tớ bất xứng của Chúa và người anh em con là T., Giám mục giáo phận T. này”.
lĐức Giám mục giáo phận, hoặc vị cùng đẳng cấp với giám mục giáo phận theo luật (có thể là một vị linh mục), phải được xướng tên với công thức: “cùng với tôi tớ Chúa là Ðức Giáo hoàng T. và Ðức Giám mục T. (hoặc: đại diện, giám chức, phủ doãn, đan viện phụ)12 chúng con”.13
Trong Kinh nguyện Thánh Thể, có thể xướng tên các Đức Giám mục phó và phụ tá,14nhưng không cần xướng tên các Đức Giám mục khác có thể hiện diện trong buổi cử hành.15[Những lời kính trọng dành cho các ngài ở chỗ này là không phù hợp bởi vì cử hành thánh lễ tại một Giáo hội địa phương được cắm rễ sâu xa nơi chức tư tế của giám mục giáo phận xét vì là ngài là tiêu điểm và nguyên lý của sự hiệp nhất; hơn nữa, những lời chuyển cầu trong Kinh nguyện Thánh Thể cũng bao gồm việc cầu nguyện cho tất cả các giám mục].16
lKhi phải xướng tên nhiều vị, nên đọc theo một công thức chung: “Ðức Giám mục T. giáo phận chúng con và các Đức Giám mục cộng tác với ngài”.17
Trong mỗi Kinh nguyện Thánh Thể, phải thích ứng những công thức trên sao cho hợp với cấu trúc văn phạm.
(còn nữa)
Lm. Giuse Phạm Đình Ái, Dòng Thánh Thể (SSS)
(cgvdt.vn)
__________________________________________________________
1 Xc. Edward McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers” trong A Zenit Daily Dispatch, 17 Feb. 2009 - Notitiae 45 (2009) 308-320.
2 Xc. Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 22; Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 24; Huấn thị Bí tích Cứu độ (Redemptionis sacramentum), số 51, 56, 59.
3 Xc. Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 56; Edward McNamara, “Mentioning Bishops in the Eucharistic Prayers”;Notitiae 45 (2009) 308-320.
4Kinh nguyện Thánh Thể I; III; IV; Giao Hòa II; Cầu cho những nhu cầu khác nhau I, II, III, IV
5Kinh nguyện Thánh Thể II; III; IV; Cầu cho những nhu cầu khác nhau II, III, IV; Thánh lễ với trẻ em II, III.
6 Xc. Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 79g.
7 Xc. Barry Hudock, The Eucharistic Prayer – A User’s Guide ((Minnesota: A Pueblo, The Liturgical Press, 2010), 82.
8 Xc. Hiến chế Tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium = LG), số 22-23; Sắc lệnh về Nhiệm vụ Mục vụ của Giám mục (Christus Dominus), số 6; Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1369.
9 Xc. ĐGH Bênêđíctô XVI, Tông Huấn Sacramentum Caritatis, số 39.
10 Xc. Xc. Edward McNamara, “Inserts into Eucharistic Prayers” trong A Zenit Daily Dispatch (Rome – 19 May 2015).
11 Xc. Giáo Luật số 418#2: Trong trường hợp này, tư tế vẫn nêu tên ngài như công thức thông thường “cùng với Đức Giáo hoàng T., Đức Giám mục T. chúng con...” (Kinh nguyện Thánh Thể II).
12 Vị có quyền tài phán (jurisdiction) trên một lãnh thổ không gắn với bất cứ giáo phận nào.
13 Xc. Giáo Luật số 370-371; The Decree Cum de nomine, on the mention of the bishop’s name in the Eucharistic Prayer, October 9, 1972: Acta Apostolicae Sedis 64 [1972], 692-694 trong Documents on the Liturgy, 1963-1979, no. 1970).
14 Có thể xướng tên nếu vị tư tế muốn (Notitiae 45 (2009) 308-320.
15 Dù ngài đang chủ sự buổi cử hành phụng vụ.
16 Xc. Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 92; Edward Foley(ed),A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal (Minnesota: A Pueblo, The Liturgical Press, 2007), 250-251.
17Nghĩa là không nêu từng tên riêng biệt vì có những giáo phận mà số Đức Giám mục phụ tá là 3,4,5 hay thậm chí lên tới 9 vị.
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ VĂN BẢN LẬP PHÁP
TUYÊN BỐ
II. Về việc cho lãnh nhận Thánh Thể của tín hữu ly dị tái hôn
Bộ Giáo Luật quy định rằng:"Những người bị vạ tuyệt thông và những người bị cấm chế sau khi hình phạt đã được tuyên kết hay tuyên bố, cũng như những người ngoan cố sống trong tội trọng tỏ tường, không được nhận cho rước lễ" (đ. 915). Trong những năm cuối cùng này, có vài tác giả, dựa trên những lý lẽ khác nhau, cho rằng điều luật này không thể áp dụng cho những tín hữu ly dị tái hôn. Được biết rằng Tông Huấn Familiarris Consortio năm 1981 được nhắc lại, ở số 84, sự cấm đoán với những từ ngữ khó hiểu (inequivocabili), và rằng nó cũng được tái xác nhận lại nhiều lần trong cách thức rõ ràng, đặc biệt năm 1992 trong Sách GLCG số 1650, và năm 1994 trong Thư Annus internationalis Familiae của bộ Giáo Lý Đức Tin. Tuy vậy, những tác giả trên đưa ra những giải thích khác nhau về điều khoản nói trên tương ứng với việc loại trừ việc áp dụng điều luật này khỏi những tình trạng của những người ly dị tái hôn. Ví dụ, vì điều luật nói "tội trọng" (peccato grave ) ở đây cần phải có đủ tất cả những điều kiện, ngay cả chủ quan được đòi hỏi cho một tội chết (peccato mortale), mà thừa tác viên cho Rước lễ không thể xét định chung chung về nó từ bên ngoài (ab externo); ngoài ra, vì nói là cứ "ngoan cố" trong tội trọng đó, thì cần thấy có một thái độ thách thức của tín hữu sau khi đã được cảnh cáo hợp thức bởi Mục tử.
Trước sự viện lẽ tương phản giữa kỷ luật của bộ luật 1983 và sự giáo huấn kiên định của Giáo Hội trong vấn đề này, Hội Đồng Giáo Hoàng cùng với Bộ Giáo Lý Đức Tin và bộ Phụng Tự Bí Tích tuyên bố như sau:
|
1. Sự cấm trong điều luật nói trên, tự bản chất, xuất phát từ thiên luật và chuyển qua lãnh vực luật thiết định của Giáo Hội: những điều này không đưa đến sự thay đổi pháp lý làm trái ngược giáo thuyết của Giáo Hội. Bản văn Kinh Thánh mà truyền thống Giáo Hội luôn dựa vào là của Thánh Phaolô: "Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình."(1Cor 11, 27-29).
Bản văn này nói đến trước tiên là chính tín hữu và lương tâm luân lý của người ấy, và điều này được định thức trong Bộ Giáo Luật ở điều luật tiếp sau đó là 916. Nhưng sự bất xứng do ở trong tình trạng tội gây ra vấn đề pháp lý nghiêm trọng trong Giáo Hội: thật sự là từ ngữ "bất xứng" được nhắc tới trong điều khoản của bộ Giáo Luật Công Giáo Đông Phương song song với điều 915 của Bộ Luật Latin: "Những ai bất xứng công khai thì bị cấm không được nhận lãnh Thánh Thể" (đ. 712). Thực sự là, việc lãnh nhận Bí tích Thánh Thể của tín hữu ly dị tái hôn, sự vấp phạm (scandalo), được hiểu như là hành vi thúc đẩy người khác về điều xấu, ảnh hưởng đồng thời đến cả Bí Tích Thánh Thể cũng như đến sự bất khả phân ly của hôn nhân. Sự vấp ngã đó tồn tại ngay cả nếu hành vi đó, chẳng may mà không gây ra điều kinh ngạc: thực ra, nó chính là sự đối diện với việc làm méo mó lương tâm mà trở nên rất cần các mục tử hành động, với hết sức kiên nhẫn và kiên vững có thể, như là một sự bảo vệ cho sự thánh thiêng của Bí Tích và bảo vệ cho luân lý Kitô giáo, và cho sự đào tạo đúng đắn các tín hữu.
|
2. Bất cứ sự giải thích nào của điều 915 mà tự nó chống lại nội dung đích thực của điều này, như đã được tuyên bố một cách kiên định bởi Huấn Quyền và bởi kỷ luật Giáo Hội qua các thế kỷ, thì rõ ràng là sai lầm. Không được lẫn lộn những từ ngữ của luật (x. đ. 17) với việc sử dụng không đúng nghĩa của những từ này như những phương tiện để tương đối hóa những lời giáo huấn hay vô hiệu hóa nội dung đích thực của chúng.
Công thức "cũng như những người ngoan cố sống trong tội trọng tỏ tường" là rõ ràng và phải được hiểu trong một cách thức mà không làm lệch lạc ý nghĩa, khiến quy tắc luật không thể áp dụng được. Ba điều kiện cần thiết phải là:
a- "Tội trọng, được hiểu một cách khách quan, bởi vì thừa tác viên cho rước lễ không thể thẩm định được về sự quy tội chủ quan;
(il peccato grave, inteso oggettivamente, perché dell’imputabilità soggettiva il ministro della Comunione non potrebbe giudicare;)
b- "Ngoan cố, được hiểu như sự hiện hữu của một tình trạng khách quan của tội mà tồn tại trong thời gian và ý muốn của người tín hữu không muốn nó chấm dứt, không cần đòi hỏi có những yếu tố khác (thái độ thách thức, cảnh cáo trước…) để mà xác thực tình trạng trong sự nghiêm trọng nền tảng giáo hội";
(l’ostinata perseveranza, che significa l’esistenza di una situazione oggettiva di peccato che dura nel tempo e a cui la volontà del fedele non mette fine, non essendo necessari altri requisiti (atteggiamento di sfida, ammonizione previa, ecc.) perché si verifichi la situazione nella sua fondamentale gravità ecclesiale;)
c- Tính chất của tình trạng tội trọng thường xuyên được biểu lộ.
(il carattere manifesto della situazione di peccato grave abituale).
Tuy nhiên, không được xem những tín hữu ly dị tái hôn là ở trong tình trạng tội trọng thường xuyên, những người mà không thể, vì những lý do nghiêm trọng - như là giáo dục con cái - 'thực hiện sự buộc phải chia tay, đảm nhận nghĩa vụ sống hoàn toàn tiết dục, nghĩa là tránh những hành vi dàng riêng cho vợ chồng' (FC, 84), và những người mà dựa trên nền tảng của ý định như vậy (e che sulla base di tale proposito) đã lãnh nhận Bí Tích thống hối. Bởi vì sự kiện sống của những tín hữu đó không sống như vợ chồng (more uxorio) tự nó là kín đáo, trong khi tình trạng sống của những người ly dị tái hôn tự nó là biểu hiện, họ chỉ có thể đến lãnh nhận Thánh Thể remoto scandalo".
|
3. Dĩ nhiên, sự khôn ngoan mục vụ khuyên rằng nên tránh từ chối cho rước lễ cách công khai. Các mục tử phải cố gắng giải thích cho những tín hữu này ý nghĩa thật sự của nguyên tắc trong Giáo hội, trong cách thức mà họ có thể hiểu nó hoặc ít nhất là tôn trọng nó. Tuy nhiên, trong những tình trạng này, mà trong đó những phương pháp phòng ngừa không có hiệu quả hoặc không thể được, thừa tác viên cho Rước Lễ phải từ chối cho lãnh nhận đối với những ai bất xứng công khai. Thừa tác viên phải làm điều này với lòng bác ái rộng lớn, và tìm dịp thuận tiện giải thích những lý do khiến buộc phải từ chối. Tuy nhiên, họ phải thực hiện việc này với sự kiên định, ý thức rằng những dấu hiệu của sự kiên định đó mang lại điều tốt cho Giáo Hội và các linh hồn.
Sự biện phân các trường hợp sự loại trừ các tín hữu ra khỏi việc lãnh nhận Thánh Thể, trong các tình trạng đã nói, thì thuộc về vị linh mục có trách nhiệm với cộng đoàn. Những linh mục này sẽ chỉ dẫn cho các phó tế hoặc những thừa tác viên ngoại thường về cách thức đối xử trong những trường hợp cụ thể".
|
Trong tôn trọng bản chất của nguyên tắc đã nói (Cf. n. 1), không thẩm quyền nào của Giáo Hội có thể miễn chuẩn cho thừa tác viên bí tích Thánh Thể khỏi điều ràng buộc (l'obbligo) này trong bất cứ trường hợp nào cũng không được chỉ dẫn ngược lại với quy tắc đó. |
5. Giáo Hội tái xác định sự quan tâm lo lắng mẫu tử đối với những tín hữu trong tình trạng này hay tương tự khiến họ bị ngăn cản không được lãnh nhận bàn tiệc Thánh Thể. Những điều trình bày trong Tuyên Bố này thì không trái ngược với lòng ước muốn lớn lao là khuyến khích sự tham dự của những con cái này trong đời sống Giáo Hội, trong những hình thức thích hợp có thể được cho họ. Hơn nữa, để chỉ ra những điều kiện cần thiết cho sự hoán cải cần thiết, mà tất cả mọi người được Thiên Chúa mời gọi, trong một cách thế đặt biệt trong Năm Thánh Toàn Xá, cần phải lập lại sự bất khả cho nhận Thánh Thể là điều kiện việc mục vụ chân thật, sự quan tâm chính thống đối với điều tốt lành cho những tín hữu này và cho cả Giáo Hội.
Vatican, 24-6-2000.
Lễ Trọng Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả Julián Herranz Tổng Giám Mục hiệu tòa Vertata Chủ Tịch Bruno Bertagna Tổng Giám Mục hiệu tòa Drivasto Thư ký |
BẤM |
Giảng lễ là một nghệ thuật khó, nó có nhiều “bất trắc”, vì thiếu chuẩn bị, nó có thể làm cho người nghe chán, vì thiếu chủ đề trọng tâm, nó có thể làm cho tín hữu không đào sâu được đức tin…
Trong tác phẩm của họ, “Và tôi, tôi nói cho bạn: hãy tưởng tượng! Nghệ thuật khó khăn của việc rao giảng” (E IO TI DICO: IMMAGINA! L’arte difficile della predicazione), các cha Dòng Tên Gaetano Piccolo, tổng thư ký ban tông đồ tri thức của Dòng và Nicolas Steeves, linh mục nhà thờ Thánh I-Nhã ở Paris, cả hai đều là giáo sư Đại học Gregoria, họ đưa ra một danh sách ít nhất là mười sai lầm đừng phạm để đứng làm cho giáo dân chán, và tệ hơn nữa là làm cho họ bỏ lễ.
Trong lời nói đầu, các tác giả nhắc lại, mục đích của việc rao giảng “không phải rao giảng cho mình, nhưng là để cứu những người nghe”. Một người đi giảng đều có điểm yếu điểm mạnh của mình, hoặc có một chủ đề mà họ thích trở lại một cách tự nhiên, trực tiếp hoặc gián tiếp trong tất cả bài giảng của mình. Đây không phải là việc trở nên siêu anh hùng rao giảng, nhưng đúng hơn là nhận diện các điểm yếu bị lặp đi lặp lại nhiều lần, có thể tạo nên vấn đề và tuyệt đối phải tránh.
1/ Thiếu chuẩn bị
Khác với sự đào tạo ở chủng viện, sai lầm xưa cổ đầu tiên là thiếu chuẩn bị bài giảng. Có cả ngàn lý do tốt, xấu để biện minh cho việc không chuẩn bị bài giảng: hội họp, diễn thuyết, có vấn đề cá nhân, quá nhiều việc. Nhưng các lý do này cho thấy sự hời hợt không tránh được, để rồi cuối cùng làm cho người nghe chán ngấy.
2/ Thiếu chủ đề trọng tâm
Sự thiếu chuẩn bị này thường kéo theo việc bài giảng không có chủ đề trọng tâm, mà khổ thay, đây cũng là vấn đề lớn xảy ra ngay cho cả bài giảng đã được chuẩn bị. Một trong các vấn đề thường gặp nơi người đi giảng là trước khi giảng, họ không ngồi xuống tịnh tâm tự hỏi: “Trong vài chữ, đâu là chủ đề tôi sẽ nói với tín hữu vào chúa nhật sắp tới?”. Nếu người giảng không có một ý chính nào trong đầu, thì chắc chắn sau bài giảng, người nghe cũng không biết người giảng muốn nói gì.
3/ Bài giảng quá dài
Một sai lầm thường gặp trong các bài giảng thiếu chuẩn bị là quá dài, thậm chí có thể nói là “dài quá đáng”, các bài giảng được chuẩn bị ít dài hơn nhưng nhiều khi cũng dài. Trong thời gian tập sinh, các chủng sinh Dòng Tên được dạy: “Ngày chúa nhật không dài quá 10 phút, trong tuần không dài quá 5 phút”. Người ta còn nói: “Năm phút đầu tiên, chúng ta lay động tâm hồn, thời gian còn lại thì những người ngồi sau lúc lắc”. Người ta còn ví von: “Bài giảng phải như chiếc váy ngắn: đủ dài để che cái cần phải che, nhưng khá ngắn để tạo hấp dẫn”.
4/ Văn nghệ giải trí
Trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, Đức Phanxicô nhắc lại, bài giảng “không được như một màn văn nghệ giải trí; không đáp ứng theo kiểu các phương tiện truyền thông, nhưng phải mang lại sự sốt sắng và ý nghĩa của việc cử hành lễ” (EG 138). Dĩ nhiên phải tranh lời lẽ thô tục, xoàng xỉnh hay sở thích quá độ kiểu trình diễn giải trí. Rất hiếm khi các người rao giảng vừa giảng vừa dùng các vật dụng như (cờ, đèn..) mà không làm cho giáo dân xao nhãng trong sự gặp gỡ phải có của họ với Chúa.
5/ Kéo sự chú ý về mình
Thật ra, bài giảng phải là “kinh nghiệm sâu đậm và hạnh phúc với Thần Khí, một cuộc gặp gỡ an ủi với Lời Chúa, nguồn liên tục làm mới lại và làm tăng trưởng” (EG 135). Bởi vì, đây đúng là “giây phút cao nhất của cuộc đối thoại giữa Chúa và dân của Ngài, trước khi rước Mình Thánh Chúa” (EG 137). Như thế, nếu người rao giảng kéo hết sự chú ý về phần mình thay vì đưa giáo dân đến cuộc đối thoại với Chúa, thì dù cho họ có nói những chuyện hấp dẫn nhất thế giới, bài giảng của họ sẽ không bao giờ là một bài giảng, bởi vì nó mất mục tiêu mà đáng lý phải có để trao truyền.
6/ Bài diễn văn răn bảo
Bài giảng phải mời gọi tín hữu đáp ứng một cách cụ thể khởi đi từ khía cạnh huyền nhiệm của đời sống thiêng liêng hay chiêm niệm công việc tạo dựng. Bài giảng thường, nếu không muốn nói là phải, dự trù một phần luân lý, theo đó kêu gọi tín hữu làm điều tốt, sau phần đầu là phần làm cho giáo dân hiểu cái đẹp, cái đúng. Nhưng bài giảng không thể kê từ đầu đến cuối một danh sách những chuyện phải làm hay không nên làm.
Bài giảng không phải là lúc để dạy đời. Một vài bài giảng răn bảo đi theo hướng cánh hữu (luân lý về giới tính, nhắc lại luật lệ…), một vài bài giảng đi theo hướng cánh tả (kinh tế, môi sinh, công chính xã hội…): vấn đề không phải là tự chính nội dung của nó nhưng là sự mất quân bình giữa chiêm niệm và hành động. Dù bài giảng là nhắm đến việc khơi dậy nơi tín hữu kitô các cách đối xử tốt nhất, nhưng nó không thể chỉ thuần là người răn bảo về mặt chính trị-xã hội.
7/ Duy linh
Bài giảng phải có gốc rễ cụ thể trong đời sống hàng ngày của tín hữu hay đời sống xã hội của họ, bài giảng không bay trên mây, khai thác các khía cạnh ngụy-thần nghiệm, mà thức chất nó không có tác động thật sự..
8/ Duy trí
Duy trí là lỗi lầm gần với duy linh, nhưng nặng về mặt văn hóa và rất phổ biến. Vì sự đào tạo chặt chẽ và trí tuệ ở chủng viện, các tài liệu, các bài trình bày, các luận án là những hình thức diễn tả duy nhất được yêu cầu, nên đôi khi họ nghĩ, các tài liệu này là phương tiện tốt để trao truyền với tín hữu trong bài giảng. Khi đó, bài giảng trở thành bài chú giải lịch sử và phê phán hoặc bài kể chuyện như một bài học thần học về tín lý hay nền tảng.
9/ Giáo lý
Một sai lầm gần với duy trí là biến bài giảng thành bài giáo lý. Khuynh hướng này rất tinh tế, do một truyền thống đầu tiên hết trong Giáo hội: dạy dỗ tín hữu về các huyền nhiệm kitô giáo qua các bài giảng. Đó là trường hợp các bài giảng có tính cách giáo lý hay giáo lý khai tâm ở các thế kỷ đầu tiên. Các bài giáo lý của Cyrille de Jérusalem hay của Ambroise được tái khám phá trong những năm 50 vào thời kỳ của các tổ phụ, ca ngợi sự kiên nhẫn dạy dỗ của họ.
Rất nhiều giáo phận bây giờ triển khai một chương trình giáo lý khai tâm cho các dự tòng người lớn. Vấn đề liên hệ đến bài giảng ở đây là bài giảng trong thánh lễ không phải là lúc dạy giáo lý.
10/ Giải thích dài dòng
Vì thiếu tưởng tượng hay thiếu chuẩn bị, một vài nhà rao giảng nghĩ, để giảng, chỉ cần lặp lại bài phụng vụ vừa đọc theo chữ của mình. Khổ thay, cách làm này lại gây nhàm chán, vì nó chỉ lặp lại bài đã đọc mà không nêu bật lên chủ đề trọng tâm.
Giải thích dài dòng là đánh giá thấp tác động của lời trên đời sống giáo dân. Chính vì Lời Chúa không phải lúc nào cũng rõ ràng, nên Lời Chúa không phải chỉ đơn giản lặp lại nhưng phải được giải thích. Tốt hơn nên để công việc giải thích dài dòng này cho các học sinh còn nhỏ…
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn