Đang truy cập : 145
•Máy chủ tìm kiếm : 52
•Khách viếng thăm : 93
Hôm nay : 3503
Tháng hiện tại : 370788
Tổng cộng : 36325014
Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật V Mùa Chay
20 Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp.21 Họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su.”22 Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su.23 Đức Giê-su trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.26 Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”
27 “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.28 Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.” Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa! “29 Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: “Đó là tiếng sấm! ” Người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy! “30 Đức Giê-su đáp: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người.31 Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!32 Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.”33 Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
1- Ngữ cảnh
Câu truyện này nằm trong bối cảnh thời gian và thần học là tuần lễ cuối cùng trong sứ vụ của Đức Giêsu, tuần lễ Vượt Qua (x. Ga 12,1.12; 13,1; 18,28; 19,31) mà cuộc hy sinh của Đức Kitô, là Con Chiên Vượt Qua, sẽ biến thành lễ Vượt Qua mới và vĩnh viễn có sức giải phóng tất cả mọi người. Việc xức dầu ở Bêtania (12,1-11) chính là mở đầu mang tính tiên tri. Hành vi của Maria, chị của Ladarô, xức chân Đức Giêsu bằng dầu thơm cam tùng quý giá, đã loan báo việc mai táng Người (12,7). Quả thật, người ta không xức dầu lên chân một người sống như thế, mà thường xức cho một thi hài vào lúc làm nghi thức tắm rửa. Ta ghi nhận rằng theo TM Mc (14,3-9), người phụ nữ chỉ đã xức dầu lên đầu Đức Giêsu, và đấy là cử chỉ tiêu biểu trong việc xức dầu tấn phong ai làm vua và tấn phong đấng Mêsia.
Hôm sau, khi Đức Giêsu vào Giêrusalem (12,12-19), dân chúng đã tung hô Người như là “vua Israel”. Tác giả TM IV coi việc dân chúng cầm nhành lá thiên tuế hoan hô reo hò như là mức độ cuối cùng của sự sai lầm của dân chúng và Đức Giêsu im lặng để sửa chữa những niềm hy vọng thiên sai lầm lạc. Người cỡi lên một con lừa nhỏ vào lúc ấy – chứ không ngay từ đầu như trong các TMNL –, Đức Giêsu muốn cho họ thấy là giống như ông hoàng khiêm tốn mà ngôn sứDacaria đã loan báo (Dcr 9,9-10), Người hoàn toàn không có một mưu đồ chính trị nào. Cuộc Vượt Qua sắp tới của Người, tức cuộc Thương Khó, cái Chết, cuộc Phục Sinh, sẽ cho thấy rõ ràng kiểu “vinh quang” Người đang theo đuổi. Chỉ sau kinh nghiệm này các môn đệ mới nắm được bản chất đích thực của cuộc khải hoàn của Đức Giêsu (c. 16).
Đám đông thì vẫn không hiểu (cc. 17-18). Nhưng những lời hoan hô của họ khiến người Pharisêu phải phản đối và tranh luận với nhau: “Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!” (c. 19b). Ở đây, tác giả TM IV vẫn vận dụng khả năng khôi hài quen thuộc của ngài. Nỗi lo sợ của người Pharisêu là thật hơn họ tưởng: cả người ngoại cũng đã xuất hiện (cc. 20-23).
Nhận định của người Pharisêu (c. 19b) khiến ta nghĩ ngay đến nhận định của thượng tế Caipha: “Các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân…” (11,50). Chính ông này cũng đã nói tiên tri mà không biết: trong tư cách là thượng tế, ông đã nói tiên tri là Đức Giêsu phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác (11,52).
Sự kiện mấy người ngoại đến xin gặp Đức Giêsu là một đỉnh cao trong cấu trúc văn chương và thần học của các ch. 11–12 của TM IV: kế hoạch cứu độ phổ quát, thậm chí ra ngoài biên giới dân tộc Do Thái, đang bắt đầu được thực hiện, ít nhất ở dạng mầm mống. Tất cả những điều đó chứng tỏ rõ ràng là giờ của cuộc Thương Khó đã được loan báo, giờ đưa tới vinh quang.
2- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Người Hy Lạp đến gặp (12,20-22);
2) Đức Giêsu công bố về Giờ và dạy về thân phận của Người và của các môn đệ ([“Đã đến giờ”], 12,23-26);
3) Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 12,27-30);
4) Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 12,31-33).
3- Vài điểm chú giải
- mấy người Hy Lạp (20): Những lời mỉa mai ở c. 19 được ứng nghiệm tức khắc. Đây không phải là những người Do Thái Hải ngoại (diaspora; x. Ga 7,35), đã di cư ra khỏi Paléttina và bị phân tán trong các vùng dân ngoại, nhưng là những người ngoại giáo không cắt bì, thuộc về hạng người “kính sợ Thiên Chúa” (x. Cv 10,2.22.35; 13,16.26), tin vào vị Thiên Chúa duy nhất và tuân giữ đức công bình. Họ đã đến Giêrusalem không phải để du lịch mà là để hành hương, vì bị thúc đẩy bởi thao thức tìm ra chân lý.
- Họ đến gặp ông Philípphê (21): Họ ngỏ ý muốn với Philípphê bởi vì ông này nói tiếng Hy Lạp (tên Philípphê và tên Anrê là hai tên Hy Lạp), và cũng như họ, ông là người Bếtxaiđa, là vùng có đa số dân cư là người ngoại.
- Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu (21): dịch sát là “muốn được thấy”, có nghĩa là “nói với Đức Giêsu”, trò chuyện với Người, để biết Người, khám phá ra chân tính của Người.
- Giờ (23): Đây là giờ Thương Khó, Chết và Phục Sinh, để Con Người được tôn vinh. “Giờ” đây là đỉnh cao của sứ mạng của Người và cũng là lúc kết án “thế gian” này với thủ lãnh của nó.
- tôn vinh (23): “Vinh quang” (doxa) là sự tỏa rạng sự hiện diện của Thiên Chúa, là ánh huy hoàng, vừa đáng sợ vừa thu hút, của Hữu thể thần linh. Vinh quang này ở trong Ngôi Lời nhập thể, nhưng tính khiêm hạ của mầu nhiệm Nhập Thể đã chế giảm đi ánh huy hoàng của vinh quang này, cho dù các lời nói và các công việc của Đức Giêsu lại là “dấu chỉ” đầu tiên của vinh quang này (x. 2,11). Cuộc Thương Khó, thay vì che phủ vinh quang này, lại vén mở cho thấy vinh quang này ở mức viên mãn: kể từ khi cái vỏ bọc nhân loại bị phá vỡ, sự hiện diện thần linh, như được giải phóng, mới xâm nhập tất cả nhân tính của Ngôi Lời để làm cho nhân tính này sống lại và lên trời.
- nếu hạt lúa gieo vào lòng đất (24): Câu này được vọng lại trong 1 Cr 15,36. Rất có thể đây là một câu tục ngữ quen thuộc tác giả đã dùng để áp dụng cho trường hợp Đức Giêsu: chỉ cái chết của Đức Giêsu mới có thể đưa lại ơn cứu độ cho người khác.
- Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất (25): Câu này trở đi trở lại ở nhiều dạng (x. Lc 9,24 so sánh với Mc 8,35 và Mt 16,25; Mt 10,39 so sánh với Lc 17,33). Các TMNL áp dụng câu này cho những đau khổ và mất mát của đời môn đệ. Hẳn là tác giả TM IV cũng đang nghĩ tới những đau khổ của cộng đoàn của ngài (x. 15,18-21).
- Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó (26): Sự đồng nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ sẽ được nêu bật hơn trong các diễn từ cáo biệt (x. 13,13.16; 15,20). Phần kết “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” lại xuất hiện trong ngôn ngữ tình yêu trong các diễn từ cáo biệt (14,23; 16,27). Xem Mc 8,38; Mt 10,32 so sánh với Lc 12,8.
- Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến (27): Tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Đức Giêsu hấp hối tại Vườn Ôliu, nhưng đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác. Cũng như trong cácTMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (tetaraktai, c. 27a). “Tâm hồn” (psychê) đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh vớiLc 22,43-44).
- Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha (28): x. Lc 11,2. Câu này diễn tả sự duy nhất trong kế hoạch của Đức Giêsu với ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu sẽ tôn vinh Thiên Chúa trên thập giá và cũng sẽ được Chúa Cha tôn vinh (x. 13,31-32; 17,4).
- có tiếng từ trời (28): Dân chúng không thể “nghe” được lời Thiên Chúa đáp lại Đức Giêsu, nên họ nghĩ đó là tiếng một thiên thần. Giống như trong truyện Ladarô, việc Đức Giêsu cầu nguyện cũng là một tấm gương cho họ.
- Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa (28): Hành vi “tôn vinh” đầu quy về những “dấu lạ” Đức Giêsu đã làm và nhờ đó đã làm chứng về Chúa Cha, khi tôn vinh Ngài nơi Đức Giêsu. Hành vi “tôn vinh” thứ hai quy về cái chết và cuộc tôn vinh Đức Giêsu.
- mà vì các người (30): Như thế, tác giả đã biến truyền thống về “cơn hấp hối riêng tư” của Đức Giêsu thành một cuộc bày tỏ công khai công việc phục vụ vì vâng lời của Đức Giêsu.
- Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này (31): Cuộc phán xét (x. 3,18-19) lên cao điểm với cuộc đóng đinh. Tiếng sấm trong lời Thiên Chúa nói trong câu trước báo trước việc Thiên Chúa sẽ đến uy hùng mà tống “thủ lãnh của thế gian này” ra ngoài. Ở đây, tác giả dùng từ ngữ “thế gian” không phải để chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương, như trong 3,16, nhưng như một biểu tượng cho tất cả những gì là không tin và thù nghịch với Thiên Chúa (x. 8,24; 15,18-19; 16,8-11). Satan như là thủ lãnh của “thế gian” ở trong thế đối lập với Thiên Chúa, là một hình ảnh quen thuộc của nền văn chương khải huyền Do Thái. Nhưng tác giả chỉ dùng hình ảnh Satan để giải thích việc Giuđa phản bội thôi (6,70; 13,2.27) và trong những câu nói loan báo chiến thắng của Đức Giêsu (14,30; 16,11).
- một khi được giương cao lên khỏi mặt đất (32): Các truyền thống Kitô giáo tiên khởi coi việc Đức Giêsu bị đóng đinh như là việc Người được tôn lên bên hữu Thiên Chúa và coi đây là nền tảng cho quyền chủ tể của Người trên vũ trụ (x. Pl 2,9-11). Rất có thể cặp từ ngữ “được tôn vinh – được giương cao” của tác giả được lấy từ Is 52,13, nơi mà Người Tôi Tớ của Đức Chúa được “vươn cao”, và “được suy tôn”.
4- Ý nghĩa của bản văn
Câu chuyện chúng ta đọc hôm nay xảy ra chỉ vài ngày trước các biến cố thuộc lễ Vượt Qua cuối cùng của Đức Giêsu.
* Người Hy Lạp đến gặp (20-22)
Một vài người Hy Lạp đã muốn gặp Đức Giêsu, không phải chỉ để nhìn thấy Người, nhưng là để biết Người, khám phá ra “căn cước” của Người. Câu 20 dường như cho hiểu rằng những người ngoại quốc kia đang thực hiện một hành trình thiêng liêng dài, và bây giờ cần “gặp” Đức Giêsu. Hành trình vào dịp lễ Vượt Qua đã đưa họ đến Giêrusalem không phải như du khách, mà là để cầu nguyện, để gặp Thiên Chúa, để khám phá ra điều Thiên Chúa muốn họ làm. Họ cảm thấy là Thiên Chúa muốn họ đến nói chuyện với Đức Giêsu. Họ không đến gặp Đức Giêsu trực tiếp, trước hết họ đến gặp các môn đệ, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để có thể gặp Đức Giêsu. Họ ngỏ lời với Philípphê, ông này lại nói với Anrê, và cả hai đã đến thưa với Đức Giêsu. Những người kia đã ngỏ lời với Philípphê vì ông (cũng như Anrê) có tên gọi Hy Lạp và phát xuất từ vùng giáp ranh của Galilê với thế giới Hy Lạp. Philípphê và Anrê đã ở trong số những môn đệ đầu tiên, vì muốn biết Đức Giêsu, đã đến với Người và đã là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những người khác đến với Người (1,35-46). Trong truyện này, ta thấy được bổn phận họ phải chu toàn trong đời sống: làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp Đức Giêsu.
Chúng ta không biết là sau đó chuyện gì đã xảy ra, những người Hy Lạp đã gặp Đức Giêsu, hay đã về nhà mà vẫn chưa được gặp Người. Bản văn chỉ cho thấy Đức Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với họ. Nhưng bây giờ, chỉ còn ít ngày nữa trước khi Người chịu chết và bởi vì những người này đã đến với Người, Người xác định tầm quan trọng và hiệu năng của cái chết của Người trên thập giá và gửi đến dân Do Thái lời kêu gọi cuối cùng.
Như vậy, ta hiểu việc người ngoại đi tìm một trung gian dường như có một ý nghĩa biểu tượng. Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Đức Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Đức Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Đức Giêsu và việc “gặp” Đức Giêsu, tức đi vào Vương quốc nhờ lời rao giảng của các tông đồ, còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Đức Giêsu, tức “giờ” của Người (c. 23). Chỉ khi đó mọi hàng rào được dựng lên bởi các chủ trương đặc thù bè phái mới đổ hết. Cũng chỉ khi đó mới bắt đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân chính vào Đức Kitô hằng sống, vào Đức Kitô “Đức Chúa” (x. Ga 20,18.20.28.29; 21,7.12.17), là những kinh nghiệm không thể có được trước Phục Sinh (Vượt Qua).
Lời thỉnh cầu của những người ngoại vô tình lại là một cử chỉ đón tiếp khải hoàn. Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận, như trong cuộc đón tiếp của người Do Thái khi Người vào Giêrusalem. Nhưng trước hết, Người phải điều chỉnh ý tưởng lệch lạc đám đông Giêrusalem có về vinh quang và cuộc khải hoàn của Người (x. 12,12-16). Việc người Hy Lạp đến như thế giống như một bài học biểu tượng, bổ túc cho truyện đi vào Giêrusalem. Lời Đức Giêsu nói (cc. 23-26) là một trả lời gián tiếp cho nguyện vọng được những người ngoại ấy diễn tả ra: chính là nhờ cuộc Thương Khó của Người mà Đức Kitô, một khi đã bị sát tế, sẽ dễ dàng cho họ gặp được.
* Đức Giêsu công bố về Giờ và về thân phận của Người và của các môn đệ (“đã đến giờ”, 23-26)
Kể từ câu 23, tác giả TM IV chẳng còn nói gì đến những người ngoại kia nữa, hay đến thỉnh nguyện của họ có được thoả mãn hay không nữa. Ta gặp kiểu viết tương tự trong cuộc gặp gỡ Nicôđêmô: đến một lúc nào đó, bài tường thuật thôi nói về ông, để nhường chỗ cho những lời nói của Đức Giêsu và những suy tư của tác giả.
Sự xuất hiện của những người ngoại giáo và thỉnh nguyện của họ khiến Đức Giêsu hiểu rằng giờ mà Người hằng mong đợi, mà TM IV cho thấy đang đến gần (2,4; 7,6.8.30; 8,20), thực sự đã đến. Đây là giờ của “Con Người”, giờ Đức Giêsu chiến thắng bằng cách đi qua thập giá, giờ Người được “tôn vinh” (x. 3,14; 8,28; 12,32). Cái chết của Đức Giêsu không phải chỉ là kết quả của sự tàn bạo của loài người và cũng không phải là kết thúc ô nhục của Đức Giêsu. “Giờ” của Người đã được Chúa Cha quyết định.
Đức Giêsu, Con Người, sẽ được tôn vinh bằng chính cái chết của Người. Cái chết này minh chứng một cách sáng ngời và thuyết phục rằng Con Thiên Chúa được liên kết với Chúa Cha bằng một dây vâng phục dù phải trải qua thử thách nào và rằng Người hiến mình cho chúng ta không dè giữ. Cái chết của Người cho thấy tình yêu vô biên của Người, bởi vì Người sống hoàn toàn cho Chúa Cha và hoàn toàn cho loài người chúng ta.
Sự phong phú của công trình của Người tùy thuộc cái chết của Người; và Người buộc các môn đệ Người hành động như chính Người đã hành động. Đức Giêsu nhắc lại kinh nghiệm sống mỗi ngày: thiên nhiên không sản sinh ra gì cả nếu trước đó không có một cái chết nào đó. Chỉ khi một hạt lúa mì bị hủy đi, nó mới trở thành một khối lượng lúa lớn. Chính là vì Người đã chịu cái chết và đã tỏ chính mình ra trong cái chết, mà Đức Giêsu sẽ quy tụ lại quanh Người một đoàn người đông đảo (x. 12,32). Đã chết rồi, Người không biến mất khỏi loài người, nhưng lại trở thành trung tâm của một cộng đoàn mênh mông. Người không ra sức bám lấy cuộc sống của Người. Cuộc sống trần thế đối với Người không phải là một sự thiện tối cao phải cứu lấy bằng mọi giá. Chỉ những ai liên kết với Người khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau này. Chỉ kẻ nào đã theo Đức Giêsu trong cuộc sống, mới sẽ đạt tới mục tiêu và mới có phần phúc khi được Chúa Cha nhìn nhận.
* Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 27-30)
Phân đoạn này nhắc tới hoạt cảnh Vườn Ghếtsêmani trong các TMNL (chẳng hạn Mc 14,34-36). Rõ ràng tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Vườn Ôliu. Tuy nhiên, ngài đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác, ngài giải thích hoạt cảnh ấy và sửa chữa đôi chút. Cũng như trong cácTMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (27a). “Tâm hồn” đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống, mạng sống mà người ta phải “ghét” và chịu mất để cứu được; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
Nhưng rồi từ đó tác giả triển khai các điểm theo cách riêng. Câu hỏi: “Thầy biết nói gì đây?” cho thấy là Đức Giêsu bị đăt vào thế lưỡng nan là xin Cha Người: “Xin cứu con khỏi giờ này” hay là: “xin tôn vinh Danh Cha”. Và Người chọn tức khắc cách cầu nguyện thứ hai. Ngoài ra, trong TM IV, Đức Giêsu luôn “năng động [tích cực]” trong cuộc Thương Khó của Người. Người làm chủ tình hình (x. Ga 18,6), Người ý thức trọn vẹn về vai trò Người đảm nhận, Người hoàn tất tuyệt vời sứ mạng Cha Người đã giao: hy sinh mạng sống để cứu độ toàn thể thế giới. Ở tại ngưỡng cửa cuộc Khổ Nạn, ta không thể tưởng tượng ra một lời cầu nguyện nào khác trên môi Đấng được Thiên Chúa sai đến, ngoài lời này: “Xin tôn vinh Danh Cha” (x. Ga 17,4). Nếu Người trốn “giờ” này (hiểu là “những gì sẽ xảy ra vào lúc ấy”)[1][1], giờ mà Người hết sức mong mỏi và cuối cùng nay đã tới, hẳn sẽ là phá hủy tất cả tầm mức gồm tóm trong mầu nhiệm Nhập Thể: khi đó Chúa Con đã nhận lấy nơi mình cuộc sống trần thế với tất cả chiều sâu của nó và đặc tính bi thảm của nó, để sống trọn cuộc sống này cho tới chết, không phải cho bản thân Người mà là cho những người khác. Khi Đức Giêsu chấp nhận “giờ” này, Người đã tôn vinh Chúa Cha, bởi vì như thế, dự phóng cứu độ toàn thế giới cuối cùng được bày tỏ trọn vẹn, và dự định đó, cuộc Thương Khó, cái Chết và cuộc Phục Sinh của Con Cha sẽ thực hiện.
Cũng như trong tất cả các Tin Mừng, ở đây cũng vậy, khi đứng trước cái chết, Đức Giêsu quay ra cầu nguyện với Chúa Cha (x. Mc 14,32-42). Người ý thức về ý nghĩa của cái chết của Người, nhưng không vì thế mà Người đi đến đó hoàn toàn vô cảm. Cũng như mọi con người, chính Người cũng sợ hãi tránh né cái chết, cũng bị rúng động bởi định mệnh phải chết của mình. Vì Người có sự nhạy cảm của loài người, hẳn là Người cầu xin Chúa Cha cất cho Người bước đường này. Nhưng Người không chịu thua ước muốn của riêng mình, Người muốn tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Cha, nên đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (c. 28). Như thế Người đồng ý về ý nghĩa của định mệnh của Người, như Thiên Chúa đã thiết định, nên Người lấy điều này làm mục tiêu của lời cầu nguyện.
Như thế, cái chết của Đức Giêsu cho thấy rõ những gì nằm ở trong tên “Cha” và cho thấy Chúa Cha đã nghiêng quá mức thế nào về phía con người, nên mới ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài (x. 3,16). Đức Giêsu không thua Chúa Cha trong tình yêu, Người cầu xin để tình yêu của Chúa Cha có thể trở nên hiển nhiên, cho dù Người biết rằng điều này đòi hỏi cái giá là mạng sống Người.
* Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 31-33).
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá cũng là chiến thắng vĩnh viễn của Người trên ma quỷ. Nó sẽ bị tống ra ngoài, và không còn có một vị trí quyền lực nào nữa. Công việc ma quỷ làm là nhắm chia lìa con người khỏi Thiên Chúa, làm mờ tối cái nhìn của họ khiến họ không thấy được Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu lại là mạc khải cao độ nhất về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người và về dây vâng phục nối kết bất khả phân ly Đức Giêsu với Thiên Chúa. Như thế, ý đồ của ma quỷ hoàn toàn thất bại. Với cái chết của Người, Đức Giêsu cũng khởi sự hoạt động phổ quát của Người, liên hệ tới toàn thể nhân loại. Được giương cao trên thập giá như là biểu tượng của tình yêu của Thiên Chúa (x. 3,14-17) và được nâng lên đến Chúa Cha trong quyền lực thiên đình của Người, Đức Giêsu tới với cả nhân loại, đón nhận họ vào trong tình yêu huy hoàng của Người. Như thế, Người cũng được giương cao cho người Hy Lạp nữa, là những người muốn gặp Người.
+ Kết luận
Trong bản văn này, tác giả nêu bật điểm chú ý là “giờ” của Đức Giêsu, cả trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Theo quan điểm Kitô học, “giờ” này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực hiện. Sứ mạng này tiêu biểu cho trọn cuộc sống của Đức Kitô, vì cuộc sống của Người hướng về đó. Khi đó sẽ xảy ra cuộc “phán xét” (krisis) nhân loại. Khi đó sẽ xảy ra giữa loài người một cuộc “tách biệt” (krima) do người ta tin hay không tin vào mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và được tôn vinh. Sự chọn lựa này đảm bảo cho một số người được cứu độ và được sống muôn đời, và lôi kéo án phạt và cái chết đến cho những người khác.
5- Gợi ý suy niệm
1. Như Philípphê và Anrê, chúng ta cũng có nhiệm vụ làm trung gian giúp kẻ khác gặp được Đức Giêsu. Nhưng muốn thế, chính chúng ta đã phải gặp Đức Giêsu và có kinh nghiệm về Người rồi. Chúng ta cũng ghi nhận những tương quan giữa các môn đệ để giúp người ta gặp Đức Giêsu: người Hy Lạp đến gặp Philípphê, có lẽ vì quen biết ông hơn. Nhưng Philípphê lại cần có Anrê để có thể mạnh dạn đi gặp Đức Giêsu…
2. Những người Hy Lạp đây đại diện cho tất cả những người ngoại ước muốn biết Đức Giêsu. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không có một môn đệ của Đức Kitô nói cho biết về Người, và giới thiệu với Người về họ.
3. Vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu, tuy vẫn là một ân ban nhưng-không của Thiên Chúa, vẫn cần có sự cộng tác của chúng ta. Chỉ những ai đã liên kết với Đức Giêsu khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau này trong vinh quang thiên quốc. Có trung thành bước theo Người hôm nay, sau này chúng ta mới mong được thông phần gia nghiệp với Người.
4. Đức Giêsu đã đến thế gian như là ánh sáng cho mọi người (1,9). Khi Người đã được giương cao trên thập giá, từ nơi Người sẽ phát ra ánh sáng chói chang huy hoàng nhất, cho thấy mọi sự trong tính chân thật nhất: Thiên Chúa trong tình yêu vô biên của Ngài; Con Người trong việc hiến mình không dè giữ và trong hoạt động bao trùm toàn nhân loại; ma quỷ bị thua trong quyền lực của nó. Trong ánh sáng này, chúng ta phải chọn lựa cuộc sống chúng ta như là con đường bước theo Đức Kitô.
5. Tất cả những ai muốn đưa lại ơn ích cho người khác, cũng phải chấp nhận thân phận “hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi”. Mọi Kitô hữu đều được kêu gọi sống Giờ của Đức Giêsu: trước tiên, người Kitô hữu không thể tránh giết chết trong mình những gì chống lại sự sống đích thực (= sự từ bỏ chính mình); đồng thời phải sống một mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh và hân hoan (= niềm vui thiêng liêng).
Đoạn này kéo dài điều đã được nói về Chúa Giêsu từ chương 11. Giờ tôn vinh của Chúa Con được loan báo trong 11, 4 đang trở thành hiện thực. Trong 11,51-52 Gioan tuyên bố rằng cái chết của Chúa Giêsu sẽ dẫn tới việc mở rộng sứ vụ của Chúa đến với mọi người. Đó là ý nghĩa sự kiện mấy người Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu.
Phần dẫn: Những Người Hy Lạp (12, 20-22)
Những người Hy Lạp ở đây không phải là những người Do Thái sinh sống ở Hy Lạp hay nói tiếng Hy Lạp. Từ ngữ này chỉ những người ngoại giáo mới theo đạo (những người thiện cảm với đạo Do Thái nhưng không muốn chịu phép rửa). Lần đầu tiên những người không phải Do Thái này tiếp cận Chúa Giêsu được khéo léo sắp xếp như là dấu hiệu loan báo giờ đã đến. Những người xuất thân từ đa thần giáo này trước hết đã chọn Thiên Chúa của Israel. Họ chuẩn bị cho một bước chuyển tiếp mà theo thánh sử là đi từ Do Thái giáo đến Chúa Giêsu là đích điểm. Họ muốn “gặp” Chúa Giêsu, chắc chắn theo nghĩa mạnh của việc “tin vào Người” (12,45; 14,9). Ông Philipphê, một môn đệ thường được Gioan nhắc đến (12 lần), làm người trung gian (như trong 1,45; 6,5). Sự môi giới của ông có liên quan gì đến tên Hy Lạp của ông không? Xuất thân từ một miền đất đa phần còn ngoại giáo, ông có khả năng nói tiếng Hy Lạp. Việc ông đi nói với ông Anrê (người cùng làng Betsaiđa với ông) càng tăng thêm tầm quan trọng của sự môi giới để đến gặp Chúa Giêsu.
Theo thói quen của mình, Gioan tăng nhiều chi tiết kể chuyện ở phần đầu bài trần thuật, như là để níu chân độc giả. Sau đó tất cả đều dừng lại: còn kết quả việc mấy người Hy Lạp gặp Chúa Giêsu như thế nào, chúng ta không biết gì hết. Từ nay thánh sử tập trung bài trần thuật của mình vào Chúa Giêsu.
Giờ (12, 23-26)
Giờ, còn trì trệ cho đến lúc này, cuối cùng đã đến. Việc anh Ladarô sống lại biểu hiện trước giờ này: việc mấy người Hy Lạp tìm đến tỏ rõ giờ được thực hiện. Các người Hy Lạp không được Chúa Giêsu trả lời trực tiếp. Người nói với các môn đệ và điều Người nói bao gồm trước hết các môn đệ được gọi sau này nên truyền đạt cho người ngoại giáo hiểu rằng trong cái chết của Chúa Giêsu, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người.
Sự mặc khải được long trọng nhấn mạnh bằng hai lần: “Thật, Thầy bảo thật anh em”. Giờ, vừa là sự chết vừa là sự tôn vinh. Để diễn tả từ sự phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Chúa Giêsu đi từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát đi để mang lại nhiều hoa trái. Sự tương phản mà Chúa Giêsu đưa ra, ở giữa chết hoặc sống ít hơn là ở giữa chết hay mang lại nhiều hoa trái. Cũng như hạt giống, Chúa Giêsu cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa trái cho mọi người.
Cái chết của Chúa Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua để tiến đến vinh quang, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển Giáo Hội. Cái chết của Chúa Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô hữu, bởi vì “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12,26). Quả vậy các câu 25-26 nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Chúa Giêsu. Ai yêu quý mạng sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, thế gian này, sự vinh quang riêng mình.
Ở đây nữa vẫn là vấn đề đức tin, dù nó không rõ ràng như trong Nhất Lãm, ở đó nhấn mạnh mối tương quan với Chúa Giêsu: “Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Tương quan với Chúa Giêsu được nêu rõ qua câu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”. Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Chúa Giêsu đi, nghĩa là cũng như Người đi vào cái chết để dự phần vinh quang. Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã nói: “Cha Ta sẽ tôn vinh nó”.
GIỜ
Từ “giờ” được sử dụng 26 lần trong Tin Mừng của Gioan, thường thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, giờ này còn chưa đến. Thân mẫu của Chúa Giêsu, khi muốn cậy nhờ đến con mình, được nghe trả lời rằng “Giờ của con chưa đến” (2,4). Việc tìm bắt Chúa Giêsu không thực hiện được cũng vì lý do đó (7,30; 8,20). Nhiều lần Chúa Giêsu tiên báo tình trạng sắp xảy ra vào một giờ mà từ đó mọi sự sẽ trở nên rõ ràng hơn (16,25). Việc thờ phượng sẽ ở trong Thần Khí (4,21-23), sự sống sẽ chiến thắng sự chết (5,25).
Sự hồi hộp được khéo léo khơi dậy khi, đối diện với những người ngoại giáo muốn gặp Người. Chúa Giêsu loan báo rằng cuối cùng giờ đã đến (12,23). Bước vào cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cuối cùng giờ tôn vinh đã đến (13,1; 17,1). Dụng ngữ này cũng xuất hiện trong các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 14,35.41). chỉ có mình Gioan đã gieo vãi xuyên suốt Tin Mừng của mình những quy chiếu vào một biến cố của lịch sử. Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá. Thời điểm này không thuộc vào niên đại kỷ. Một lần xảy ra, nó luôn luôn hiện thực và kéo dài hiệu quả nhằm lợi ích của tất cả những ai gắn bó với Lời.
Tâm trạng xao xuyến, tiếng từ trời và lời mặc khải (12, 27-36)
Giờ đang xảy đến cùng với sự chôn vùi trong cái chết, tất phải có sự kinh qua đau thương mà nỗi xao xuyến và sầu não không thể không có. Trong khi trình thuật cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, Gioan loại bỏ những gì quá chú ý của Người, như cơn hấp hối. Thế nhưng ông lưu giữ lại một vài yếu tố và phân tán chúng đây đó trong Tin Mừng của mình. Ở đây ông trích dẫn những từ ngữ và những dụng ngữ như nhắc lại sự xao xuyến của Chúa Giêsu, hoặc lời Người nói về Giờ: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”, cần xuất phát từ đó (ta có thể so sánh đoạn này với Mc 14,33-36). Việc Chúa Giêsu vâng phục Chúa Cha được đặc biệt nhấn mạnh và lời Người: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” vang dội như lời tóm tắt “kinh Lạy Cha” (không có trong Gioan). Chúa Giêsu là người đầu tiên, từ bỏ mình để lắng nghe Chúa Cha.
“Có tiếng từ trời vang xuống” (c. 28). Lần đầu tiên trong Gioan (trái với hai lần trong Nhất Lãm, vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa và biến hình, x. Lc 9,28-36), Chúa Cha lên tiếng nói cùng Chúa Con. Hơn nữa đoạn của Gioan không có liên quan gì đến biến cố biến hình ở đó sự biểu lộ vinh quang của Chúa Giêsu đi kèm với cuộc đối thoại về cuộc Xuất hành của Chúa Giêsu (nghĩa là cái chết của Người). Luca cũng nghĩ đến sự tiếp gần cơn hấp hối khi “một thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Người” (Lc 22,43). Trong cả hai trường hợp, có thể có những điểm giống nhau giữa hai truyền thống Tin Mừng. Thế nhưng Gioan hành xử cách sáng tạo, tuyển chọn và tái tạo các dữ kiện của truyền thống cho mục tiêu thần học của mình.
Do đặc tính duy nhất và vị trí ở vào cuối năm phần thứ nhất của Tin Mừng, sự can thiệp này của Chúa Cha xuất hiện như sự long trọng chứng thực của Chúa Cha về Chúa Giêsu như là Chúa Con và là Đấng Thiên Sai. Đó là cách phê chuẩn đầy vinh quang, được ban cho một phần ngay từ lúc này đây còn một phần nữa được hứa trong tương lai. Cuộc Thương Khó đối với Người quả là một thử thách đầy vinh quang.
Cũng như Chúa nhật trước, thánh Gioan đề nghị chúng ta suy niệm về thập giá.
Trong số những người lên Giêrusalem thờ phụng Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philipphê, người Bétsaiđa, miền Galilê, và thưa rằng: “Thưa ông chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” .
Đây là Lễ Vượt Qua cuối cùng Đức Giêsu tham dự. Xét theo bản văn thánh Gioan, trang Tin Mừng mà ta đọc hôm nay, đi liền sau trình thuật tiến vào thành Giêrusalem vinh hiển của Đức Giêsu, ngày Lễ Lá. Sau sự thành công trước quần chúng trên đây, các người Pharisêu đã nói với nhau. “Các ông thấy không, các ông sẽ chẳng làm được gì hết . Hãy coi đó, thiên hạ bắt đầu theo hắn cả rồi!”. Nhận xét của nhóm Pharisêu được minh chứng ngay, qua sự kiện những người “Hy Lạp”, xa lạ nhưng lại có thiện cảm với dân tộc Do Thái, đến xin “gặp” Đức Giêsu. Như thế, đang khi những người quyết định giết hại Người, cố gắng xiết gọng kìm và bầu khí chống đối của nhóm Pharisêu đang trở nên nặng nề, thì đột nhiên, vào đầu tuần lễ cuối cùng của Người tại dương thế, Đức Giêsu có thể nhìn thấy sứ vụ cứu độ của Người đang bành trướng rộng khắp.
Những người “Hy Lạp” này đang báo trước, các dân ngoại sẽ gia nhập Giáo Hội, và thực ra công cuộc cứu độ đang lan rộng, vượt qua ranh giới của Israel: Đức Giêsu sắp nói, Người nhìn thấy cái chết của Người sẽ mang lại sự phong phú phi thường như thế nào! “nó mang lại nhiều hoa trái”; “Nó lôi cuốn mọi người”. Chúng ta lưu ý thêm, những người nước ngoài đang trao đổi với Philipphê. Ong này mang một tên gọi Hy Lạp ông xuất thân từ Bétsaiđa (miền vãng lai, có nhiều người nước ngoài cư trú!). Ong Philipphê này hẳn là biết được một ít tiếng Hy Lạp đủ để ông tiếp xúc trao đổi. Chúng ta có chú ý đến những người xa lạ, để hướng dẫn họ đến với Đức Giêsu không?
Đức Giêsu trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”.
Chúng ta có thể chấp nhận lời mạc khải đó không?
“Giờ của Đức Giêsu”, đó là giờ thập giá của Người: Và cũng chính là giờ vinh quang của Người? Thật là đáng tiếc, chúng ta vẫn tiếp tục chờ đợi một giờ khác, một biểu lộ khác của Thiên Chúa. Ta cần phải thú nhận rằng, chúng ta thường mơ tưởng một thứ vinh quang khác cho Thiên Chúa cũng như cho chúng ta. Thế mà, Đức Giêsu cứ lập lại cho ta: “Này đây, giờ đã đến” (Ga 12,23.27-31). Cho tới lúc này, giờ đó chưa đến, nhưng Đức Giêsu thường nói về giờ đó (Ga 2,4; 4,21-23; 5,25; 7,30; 8,20). Giờ “ưu việt” đó chính là giờ thập giá: Giờ “tôn vinh” Chúa Cha và Chúa Con (Ga 23-28); giờ “xét xử và cứu độ” thế gian (Ga 13, 1-2). Một vài ngày nữa, Đức Giêsu sẽ bước vào Cuộc Thụ Khổ của Người.
Bề ngoài, hình như Đức Giêsu không lạ việc các người “Hy Lạp” đến xin “gặp” Người. Nhưng thật sự, Người đã thỏa mãn ước muốn của họ: “Đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh”; ‘giờ cho tôi gặp Người’ tới gần; giờ giúp ta nhận ra Thiên Chúa. Ta không thể gặp được Thiên Chúa, Đức Giêsu, dưới ánh sáng nào khác, ngoài ánh sáng của thập giá: Đó là giờ của tình yêu tuyệt đối. Lạy Chúa, xin giúp con biết nhìn lên thập giá, luôn chiêm ngắm thập giá: Đó là giờ mạc khải quan trọng nhất về Thiên Chúa. Tất cả những gì triết gia bàn đến, tất cả những gì các tôn giáo dò dẫm kiếm tìm, thì không đáng kể gì và chưa đủ: “Và đây xuất hiện thập giá”. Vượt qua những lời nói, những suy luận, tôi hãy chiêm ngắm những hình ảnh đó, “hình tướng” về Thiên Chúa.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
Vâng, giờ của Đức Giêsu, chính là giờ “chết” của Người, nhưng cũng đồng thời là giờ sự sống của Người, được nhân thừa lên. Đức Giêsu sắp ở một mình trên thập giá. Nhưng trên đó, một cách vô hình Người đang được bao quanh bởi hàng tỷ người nam nữ được cứu độ, nhờ sự hy sinh của Người. Con người thuộc mọi thời đại, thuộc mọi nền văn hoá minh tinh màn bạc về cái chết và cố khám phá ra mầu nhiệm của nó. Còn Đức Giêsu, qua một câu nói hoàn toàn đơn giản trên đây, Người đã nói cho ta niềm xác tín riêng của Người. Người không lý luận. Một cách đầy hiện thực. Người nói, Người đương đầu trước cái chết như thế nào: Đó là cách gieo hạt giống. Suốt mùa đông dài hạt giống bị vùi sâu trong lòng đất tưởng như chết mục, bỗng đâu mùa xuân đến nó đã mọc cao và trở thành bông lúa trĩu hạt trong một vài tuần sau, hứa hẹn một mùa gặt phong phú. Đức Giêsu đã nhìn thấy mùa gặt.
Ai quý trọng mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời.
Như thế theo Đức Giêsu, cần phải chết đi để có sự sống đích thực! Và Người không nói điều gì, chỉ vì thích diễn tả nghịch lý. Nhưng trong một kiểu nói bí ẩn, Người cố gắng gợi lên cho ta một chân lý không tất nhiên rõ ràng, nhưng hiển nhiên cho mọi tâm hồn yêu mến: Cái chết thật không phải là cái chết thể lý, nhưng là sự từ chối hiến thân, là tự đóng kín nơi mình không mở rộng đến kẻ khác! Để bước vào sự sống đích thực, cần phải chết đi. Đó là điều Thiên Chúa thể hiện vì chúng ta; bởi vì Người là “Tình yêu tuyệt đối”. Người mất mạng sống vì chúng ta! Luật của đời sống, là tình yêu; một hạt lúa nhỏ nhất cũng nhắc cho ta điều đó.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi tính vị kỷ khô cằn mà có khi chúng con đã gọi là “sống” cuộc đời mình. Xin dạy chúng con biết hiến mạng sống như Chúa.
Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy và Thầy ở đâu, kẻ phục Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy.
Cuộc phiêu lưu của hạt lúa mì, lúc đầu không đáng kể gì nhưng tới mùa gặt mang kết quả dồi dào phong phú: Đó là cuộc phiêu lưu của nước Thiên Chúa (Mc 4,1-20).
Nhưng đối với thánh Gioan, tất cả mầu nhiệm của nước Thiên Chúa đều tâp trung nơi con người Đức Giêsu: Cuộc phiêu lưu của hạt lúa chìm ẩn dưới lòng đất, để lại mọc lên thành cây, cũng là cuộc phiêu lưu của Đức Giêsu, chịu chết để sinh sản ra nhiều hoa trái.
Nhưng cuộc phiêu lưu đó không chỉ có Đức Giêsu thực hiện, nó còn được trao ủy cho chúng ta. Chính trong cuộc sống mạo hiểm này, Đức Giêsu đã được vinh quang của Người, vinh quang của tình yêu “phục vụ” đến cùng, thì chúng ta cũng có thể sống cuộc mạo hiểm đó. Số phận của “hạt lúa” cũng trở nên số phận của chúng ta: Chết đi để mang lại hoa trái: “Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ ban cho họ vinh quang”.
Rồi Đức Giêsu thưa cùng với Chúa Cha: “Bây giờ tâm hồn con xao xuyến. Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Niềm xác tín vào hiệu quả phong phú nhờ sự hy sinh của mình, không tránh cho Đức Giêsu khỏi phải cảm nghiệm sự lo âu trước cái chết. Tư tưởng về số phận hạt lúa chết đi để sống lại, đã làm Đức Giêsu thổn thức không nguôi. Vào những thời điểm khác, ba thánh sử kia đều nói cho ta biết rằng Đức Giêsu bị “thử thách” muốn sử dụng thần tính của mình để khỏi phải chấp nhận thân phận con người: Đó là cơn cám dỗ lúc đầu đời công khai của Chúa. Tại hoang địa (Mt 4,11), đó là cơn cám dỗ lúc Chúa hấp hối ở vườn cây Dầu (Mc 14,32). Nhưng trước mỗi cơn thử thách, Đức Giêsu đều kiên quyết thoát khỏi để luôn trung thành với Chúa Cha trọn tình con thảo. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta có thể phải giao động trước nỗi khổ đau.
Nhưng không, chính vì giờ này mà Con đã đến đây, lạy Cha, xin tôn vinh Cha.
Đối với chúng ta cũng vậy, việc tuân phục đức tin hệ tại thái hộ chấp nhận thân phận con người phải chết của chúng ta, và gán cho nó một ý nghĩa dưới ánh sáng Cuộc Thụ Khổ và vinh quang của Đức Giêsu: Chết đi để trao ban hoa trái. Thư gửi tín hữu Do Thái, mà ta đọc Chúa nhật hôm nay, cũng cho rằng thái độ vâng phục của Đức Giêsu đã tạo cho cái chết của Người có một ý nghĩa sâu sắc: ”Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà vâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người, vì Người đã tôn kính Thiên Chúa. Dầu là con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản thân tới lúc thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai tùng phục Người (Dt 5, 7-9).
Cái chết vẫn là một sự dữ. Đau khổ vẫn còn là một sự dữ. Và Đức Giêsu không phải mất công trả lời những vấn nạn thuộc phạm vi triết học mà là vấn đề về sự ác đặt ra. Một cách đơn giản, Người đón nhận cái chết như một sự vâng phục thân phận làm người, vì tình yêu. Và như thế, Người đã thay đổi ý nghĩa của cái chết.
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Thánh Gioan không thuận lại cuộc Biến Hình, cũng như bất cứ một cuộc Thần hiện vinh quang nào. Đối với ông, như ta đã thấy Chúa Nhật vừa qua, thì “Giờ của thập giá” là giờ Vinh Quang. Trên Thập Giá Người được “giương cao”, nghĩa là vừa “bị đóng đinh”, vừa “được tôn dương”: Loài người làm việc thứ nhất, còn Thiên Chúa thực hiện thứ hai.
Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài .
Đó là hai mặt của cùng một thực tại: “Phán xét” và “Cứu độ”.
Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người phải chết cách nào.
Đó là lúc sự dữ bị đánh bại, “thủ lãnh của thế gian này” bị tống ra ngoài, và con người được cứu độ! Phải, chính thập giá đã tạo nên một sự hấp dẫn mới, lôi cuốn mọi người! Đó là lời nói mầu nhiệm, cần phải đón nhận trong đức tin và chúng ta phải tạ ơn vì lời nói đó. Cuối cùng đó cũng là cách trả lời đích thực cho những người “Hy Lạp” đã xin “gặp gỡ “ Đức Giêsu. Lời nói này là một trong những lời nói cuồi cùng mà Đức Giêsu đã thốt ra trong thời gian thử thách sứ vụ cách công khai của Người. Và không ai đã hiểu lời đó (Ga 12,34). Thánh Gioan tường thuật tiếp: Lúc đó “Đức Giêsu lánh đi, không cho họ thấy” (Ga 12,36). Người không còn gì để nói nữa.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Dân ngoại tiến đến
Bài Phúc âm Chúng ta đọc hôm nay nằm trong chương bản nối hai chủ đề lớn của Sách Tin Mừng Gioan: chủ đề “những dấu chỉ” (từ phép lạ Cana cho đến phép lạ Lagiarô sống lại) và chủ đề “Giờ của Chúa” (tức là cuộc khổ nạn, chết và sống lại).
Đức Giêsu đã long trọng tiến vào thành đô Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua lần cuối cùng mà cũng sẽ là chuyến từ giã thế gian này mà về cùng Cha Người.
Trong khuôn viền Đền thờ, “có mấy người Hy lạp” muốn tìm gặp Chúa. Họ không phải là những người Do thái nói tiếng Hy Lạp nhưng là dân ngoại có cảm tình với Do Thái giáo. Họ lên Giêrusalem thờ phụng Thiên Chúa dịp lễ Vượt Qua? Việc họ tìm đến với Chúa mang giá trị biểu tượng: là dấu chỉ báo trước sự lên đường của những người thuộc muôn dân sẽ đến với Đức Kitô sau này, là dấu chỉ loan báo giờ ơn cứu độ ban tặng cho hết thảy mọi người đã điểm.
Họ tìm “gặp Đức Giêsu”, không phải chỉ để trông thấy Người mà thôi, muốn vậy họ đâu cần nhờ đến ai. Nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, để đàm đạo với Người. Họ đang trên con đường đức tin rồi đấy.
Họ “lại gần ông Philipphê”, chắc bụng vì ông này với cái tên Hy Lạp, sinh trưởng ở một vùng đông dân ngoại nói tiếng Hy Lạp có thể giúp làm môi giới cho họ được.
“Ông Philipphê đi nói với ông Anrê” cùng sinh trưởng như ở ông Bétsaiđa và cũng mang tên Hy lạp như ông.
“Và hai Ông đến thưa với Đức Giêsu”. Như vậy, cũng giống như ở 1, 35-51 (Phúc âm Chủ nhật 2 Thường niên) Gioan, một lần nữa, nêu bật tầm quan trọng trong vai trò môi giới của con người giúp đi đến với Đức Giêsu.
2) Dấu chỉ loan báo giờ của Chúa
Thay cho câu trả lời, Đức Giêsu tuyên bố: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh? Giờ mà việc hồi sinh của Ladarô đã báo trước Giờ báo hiệu những người Hy lạp tìm đến đã gần kề: đó là giờ Chết-Sống Lại của Đức Giêsu sẽ mở ra cho mọi người ơn cứu độ.
Để diễn tả cái chết sắp tới của mình là nguồn ơn phong phú đem lại muôn vàn hoa trái, Đức Giêsu nhập đề cách trịnh trọng: “Thật Thầy bảo thật anh em” cho một dụ ngôn nhỏ mà giới nhà nông hiểu dễ dàng: dụ ngôn hạt lúa mì với hai ý đối chọi nhau “trơ trọi một mình” và “sinh được nhiều hạt”. Để có thể sinh nhiều bông hạt, hạt lúa mì nhất thiết phải chết đi: đó là quy luật của sự sống. Đối với Đức Giêsu cũng vậy: cái chết của Người là quá trình bắt buộc để Người tiến vào vinh quang, là điều kiện để Hội Thánh được sinh ra, nhân lên gấp bội. Với các môn đệ Chúa cũng sẽ như vậy thôi: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất, Chúa Giêsu nói tiếp, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.
X. Léon-Dufour quảng giải thêm: “Cuộc sống có thể được coi như là “của tôi”, và tôi có thể dập tắt đi hay giữ nó lại như thể sự tồn tại hay tàn lụi của nó là tuỳ ở tôi, cái báu vật duy nhất cần phải bảo vệ bằng mọi giá ấy, cái tài sản chỉ tuỳ thuộc vào tôi ấy. Nếu thế cuộc sống sẽ như giòng nước đang chảy xiết sẽ vuột khỏi tay tôi, khi tôi cố giữ nó lại mà không chế ngự được dòng chảy của nó. Ngược lại nếu tôi không cố bám víu vào cuộc sống này, nếu tôi chấp nhận mở ra với AI đó, cũng là chết đi cho những gì khiến tôi co cụm lại, thì này đây sự “chết” ấy không có gì khác là một sự “xuất thần”, và một khi cuộc sống tôi mở ra như thế sẽ giữ lại được như lời Chúa nói, cho sự sống đời đời”. Như ta biết theo thánh Gioan, sự sống đời đời là sự hiệp thông với chính Thiên Chúa vậy” (Lecture de l’evangile selon Jean”, quyển II, Seuil, trang 464).
3) Giờ chôn vùi xuống cũng là giờ nâng cao lên.
Vẻ nghịch lý mà từ đầu trình thuật vốn nối kết giờ chết với giờ vinh hiển, còn diễn ra ở phần hai. Trong phần này, Gioan chỉ mượn và sử dụng theo chủ đích của mình một số yếu tố trong những câu chuyện kể lại trong Phúc âm nhất lãm như: một bên là cảnh Chúa hấp hối trong vướng Giếtsêmani, và bên kia là sự kiện Chúa Hiển dung trên núi Taborê.
Thực vậy, Gioan sẽ không tường thuật lại cơn hấp hối của Đức Giêsu, nhưng ở đấy Gioan có ý báo trước rằng Giờ bị chôn vùi trong sự chết đang đến, giờ ấy sẽ phải là một quá trình đau thương mà nỗi xao xuyến và buồn sầu sẽ choán hết. Thế nên lời “Thầy xao xuyến” cũng như lời nguyện cùng Cha “Lạy Chúa, xin cứu con khỏi giờ này” được tiếp theo ngay bằng tâm tình hoàn toàn phó thác nơi Cha của Người: “Nhưng không, chính vì Giờ này mà Con đã đến! Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha!”. Một kinh nguyện, như A. Marchadour nhận xét: vùng lên như một bản tóm lược “kinh Lạy Cha” vậy (kinh này không có trong Tin Mừng Gioan). Đức Giêsu quả là người đầu tiên từ bỏ chính mình để vâng nghe lời Chúa Cha” (O.C. trang 169) .
Gioan cũng chẳng kể lại câu chuyện ‘Chúa Hiển Dung’, nhưng ở đây ngài nhắc đến “có tiếng phán từ trời”. Một tiếng nói mà những người chứng kiến giải thích khác nhau: Người thì cho rằng “đó là tiếng sấm”, người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy”. Tiếng nói đó tuyên bố cho mọi người biết rằng lời Đức Giêsu cầu xin cũng như việc dâng hiến mạng sống Người đã được Chúa Cha đoái nghe và đón nhận, sẽ sinh nhiều hoa trái. Tác giả kết luận: “Bởi tính chất độc đáo của sự việc, lại nằm cuối phần thứ nhất của sách Tin Mừng, nên sự can thiệp này của Chúa Cha coi như Đức Giêsu được Cha Người long trọng xác nhận là Con và là đang được sai đi. Đó là một sự phê chuẩn có tính tôn vinh một phần cho lúc này, một phần hứa cho tương lai. Cuộc khổ nạn đối với Đức Giêsu đúng là một thử thách vinh quang vậy” (idem).
Buổi đầu khi thi hành sứ vụ, ở Cana, Đức Giêsu đã nói với Mẹ Người rằng: “Giờ Con chưa đến”, thế mà Người cũng “đã tỏ vinh quang” Người cho các môn đệ. Giờ đây, “Giờ đã đến” lúc vinh quang này sẽ được tỏ ra trên khắp thế giới. “Khi làm những dấu lạ đầu tiên” ở Cana, các môn đệ “đã tin vào Người? Từ nay khi được “giương cao lên khỏi đất”, một kiểu nói ám chỉ cùng một trật, Người sẽ phải chết cách nào và được Chúa Cha đem lên vinh quang, Đức Giêsu sẽ “kéo mọi người lên theo với Người” và sẽ mở cho họ con đường đến với Chúa Cha.
X. Léon Dufour hỏi để kết luận Đức Giêsu có đã đáp ứng lòng mong đợi của những người Hy lạp muốn “gặp” Người không?
Không có lời đối đáp nào được kể lại, ông trả lời, thế nhưng bài diễn từ đã cho thấy rằng muốn gặp Đức Giêsu, thì ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng-bị-đóng-đinh-được-tôn-vinh. Nói một cách tổng quát, ta đã được tỏ cho biết rằng, người ta chỉ có thể đến với Đức Giêsu tại thế, nhờ nhận ra Đức Giêsu được nâng lên cao, có nghĩa là mọi nhận thức, mỗi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ta ra với Lời và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng muốn hoàn toàn tự lập, mà người ta tiến đến “sự sống”. Đi theo Đức Giêsu là phải có tinh thần phục vụ. Phục vụ cốt tại ở cái gì, thì bài diễn từ giã biệt sẽ nói cho ta hay. Điều cốt yếu là để cho Chúa Con lôi kéo ta đi. (O.C. trang 478).
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Người thời nay mải mê với những vấn đề căn bản”
(Các Giám mục Pháp, trong trình bày đức tin trong xã hội hiện nay. Thư gởi các tín hữu Pháp. Cerf, trang 40-41).
“Nhiều dấu chỉ cho thấy rằng người thời nay nếu không đang đi tìm tòi những điều cốt lõi, thì cũng đang mải mê với những vấn đề căn bản, như: Kinh nghiệm yêu thương trong thời điểm nóng bỏng của Sida, ý nghĩa của hiện hữu con người, nhất là khi cuộc sống bị thử thách, đâu là cái giá của nhân vị con người đứng trước vô vàn những vận dụng kỹ thuật hay kinh tế mà đối tượng là nhân vị con người.
Sẽ không có cơ may đối thoại với người thời nay nếu chúng ta không phải là những người có đầu óc cấp tiến. Vậy chúng ta có điều cốt lõi nào để trao đổi với người ta?
Phải xuất phát từ đòi hỏi đi đến cốt lõi ân ban của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, mới hiểu được điều chúng tôi gọi là đề nghị đức tin trong xã hội hiện nay.
Chúng tôi không có tham vọng trình bày điều gì mới lạ, mà: chỉ muốn nhìn nhận những điều kiện mới mà ta phải sống và loan báo Tin Mừng. Trong những điều kiện mới này, mặc dầu vẫn là những người có quyền thụ hưởng gia sản mà ta đã lãnh nhận, ta phải trở thành những “người đề nghị” đức tin. Để đạt mục đích đó, chính chúng ta đều được mời gọi phô diễn sự mới lạ của ân huệ Thiên Chúa, như được tỏ ra trong Đức Giêsu Kitô, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Bởi vậy hai điều không thể tách biệt nhau là ta vừa phải chửng tỏ tính thời sự của mầu nhiệm đức tin, vừa phải tạo nên một Hội Thánh rao giảng Tin Mủng bằng cách sống mầu nhiệm ấy và bằng cách đáp lại lời mời gọi của Chúa mình: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 16).
2) Phục vụ đời sống con người theo cách thế của Đức Giêsu, người Tôi Tớ (idem trang 95-96).
Không thể cử hành mầu nhiệm đức tin đúng theo chân lý, nếu chỉ quan tâm đến hành vi phụng tự. Bởi lẽ Thiên Chúa cứu độ đến với ta trong Đức Giêsu Kitô đã đồng hoá mình với người nghèo khổ và kẻ bé mọn. Vì thế có một mối tương quan không thể tách rời giữa phượng tự Kitô giáo và đời sống con người, không gì mong manh và bị de doạ hơn đời sống ấy. Ta không thế phục vụ và yêu mến Thiên Chúa Đấng ta không trông thấy mà lại không tôn kính Người hiện diện trong những anh em hẩm hiu nhất của ta. Tác vụ của các phó tế đặc biệt nhắc nhở ta mối tương quan cơ bản này, tương quan giữa việc phục vụ Thiên Chúa và phục vụ con người.
Giới Công giáo Pháp hôm nay có sự quan tâm đặc biệt đối với những người nghèo và người bị loại trừ được coi như “bí tích của Đức Kitô”. Sự quan tâm có tính Tin Mừng này khơi gợi nên rất nhiều dấn thân cá nhân cũng như cộng đoàn. Những con người đang bắt tay vào việc được tăng thêm xác tín rằng họ đang chu toàn ơn gợi Kitô hữu và đang rao giảng Tin Mừng bằng cách phục vụ con người như thế.
Để tôn vinh sứ mạng cao cả này, Hội Thánh đang tìm cách gởi những thành viên có những hoàn cảnh sống cụ thể, khuyến khích họ nhận lãnh trách nhiệm đối với giới được uỷ thác cho họ, giúp họ biết sống tinh thần liên đới và sáng kiến cần có theo tinh thần ấy. Để làm công việc này, các phong trào, đặc biệt là phong trào Công giáo Tiến hành đều phải chuẩn bị cho các thành viên của mình biết sống và hành động theo tinh thần Tin Mừng khi họ phải chăm lo cho đời sống cá nhân và xã hội của con người, giúp họ gây một ảnh hưởng tập thể trên nếp sống của con người.
Cùng lúc đó, Hội Thánh cũng sử dụng những phương tiện của riêng mình để khơi gợi, nâng đỡ và ngay cả điều phối hoạt động của giới công giáo trong việc phục vụ cộng đồng nhân loại, nhờ vào các cơ quan như Tổ chức Cứu trợ Công giáo (secours Catholique) hoặc CCFD (tổ chức chống đói và giúp phát triển), cũng nhờ vào những tổ chức y tế và học đường hoặc những phong trào giáo dục và từ thiện nữa.
3) Sức năng động của lời Chúa
(Kỷ yếu của CCFD)
Ngày nay ở Pháp cũng như trên toàn thế giới, người ta nhận thấy LỜI CHÚA có tính năng động và khả năng biến đổi lòng người.
Lời Chúa mở rộng trí khôn để biết phải hành động ở đâu và thế nào hầu giúp cho các xã hội được công bằng hơn (lấy các dự án-đèn pha làm thí dụ).
Lời Chúa giải phóng óc sáng tạo để tìm ra những con đường mới (cứ nhìn vào con số những hiệp hội được thành lập mỗi năm). Điều này không phải không gặp trắc trở khó khăn trong một số quốc gia.
Lời Chúa kích thích những con người mà người ta nghĩ là quá nghèo và trình độ quá kém, biết đảm nhận lấy những trách nhiệm. Mọi người đều không biết rằng tính năng động kia, sự phát triển kia, và tinh thần liên đới ấy đều xuất phát từ Đấng là “chủ tể của thế gian này đã bị ném ra ngoài”. Họ vui sướng hành động, nhưng không nhận ra Đấng ban sự sống. Họ hân hoan hoạt động cho sự hoà giải, nhưng lại không biết gì về Mầu nhiệm Thập giá.
Hiệp cùng với các anh em dự tòng; những người đã nhận ra Đấng đang lôi kéo mọi người đến với Ngài, Đấng đang khắc ghi lề luật của Ngài vào đáy lòng người, Đấng hứa cho những tôi tớ Ngài sẽ được ở bên cạnh Ngài, chúng ta hãy cảm tạ vì đức tin đã được lãnh nhận và vì những tấm lòng đang rộng mở. Trong bánh và rượu đã kết hợp lao công, đau khổ và sướng vui của mọi người. Quyền năng Chúa Thánh Thần đang tác động trên lễ vật của chúng ta như Người đang tác động trên khắp thế giới, đó là: thánh hoá mọi sự, quy tụ dân Người, ban sự sống và biến chúng ta thành của lễ thực sự làm vinh danh Chúa (xem PE số 3).
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Ai ghét sự sống mình nơi thế gian này”: Có lẽ phải dịch như bản TOB: ai thôi bám chặt sự sống mình đời này. Vì theo cách nói sêmita, động từ đùng ở đây, khi đối lại với chữ yêu, thì thường có nghĩa là yêu mến ít hơn, là không xem như một giá trị tuyệt đối (St 29,31-33; Đnl 21,15; Mt 6,24; Lc 16,13; 14,26).
“Ta đã tôn vinh Danh Ta và sẽ còn tôn vinh nữa”: Chữ “tôn vinh” thứ nhất ở đây quy về các “dấu chỉ” Chúa Giêsu đã thực hiện để làm chứng cho Chúa Cha. Chữ “tôn vinh” thứ hai ám chỉ đến cái chết và việc giương cao Chúa Giêsu (vì tôn vinh Ngài trong chính mình).
“Dân chúng bảo đó là một tiếng sấm”: Khó mà hiểu được tại sao một tiếng nói lại có thể phát ra vì lợi ích của những kẻ đã không hiểu nó cũng như không biết ai đã nói ra nó (“tiếng ấy phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi”). Có thể Gioan đã nghĩ đến một nhóm thứ ba (các môn đồ chẳng hạn) là những người, trong thực tế, đã nhận ra được nguồn gốc và ý nghĩa của tiếng nói trên.
“Chính bây giờ là cuộc phán xét thế gian này”: Giờ của Chúa Giêsu đánh dấu một giai đoạn quan trọng và quyết định đối với toàn thể nhân loại. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt, cuộc sáng tạo mới bắt đầu (Việc đi từ cuộc sáng tạo cũ sang sáng tạo mới không phải và một hiện tượng vật lý đơn thuần, nhưng là một sự tiến triển luân lý và thiêng liêng). Số phận mỗi người tùy thuộc vào biến cố này và vào việc người ta có chấp nhận nó bằng đức tin hay không. Giờ Chúa Giêsu là giờ phán xét (krisis), giờ phân chia: ai từ chối Chúa Giêsu vào “giờ” này thì bị liệt vào phe của “đầu mục thế gian”, đối thủ lợi hại của Chúa Giêsu, và bị luận phạt như nó (x. 3,18).
“Chính bây giờ đầu mục thế gian này sẽ bị đuổi ra ngoài”: Chúa Giêsu nói đến Satan như nói đến một bạo chúa thất trận, bị truất phế. Nhiều bản văn mà một số có nguồn gốc Kitô giáo (Ep 2,2; 6,12) đồng ý gán cho Satan tước hiệu “đầu mục thế gian này”. Các giáo sĩ cũng gọi nó là “sar ha olam”
Chính ma quỷ gán cho mình quyền thống trị trên mọi sự “thế gian” (Mt 4,9). Khi nói như thế, nó chỉ khoe khoang hão, tuy nhiên hãy biết rằng trong Tin Mừng, tội nhân bị gọi là tội và ngay cả con cái của nó (Ga 8,34.44; Cv 8,10), rằng Thiên Chúa đã đặt nó thi hành các việc công lý của Ngài (Mt 5,25-26; G 2,6; Dcr 5,5), rằng kinh nghiệm xưa nay cho thấy ma quỷ rất khéo léo trong việc phỉnh gạt, làm khổ nhân loại. “Và Ta, một khi Ta được giương cao khỏi đất”: Hãy so sánh với lối chơi chữ của St 40,13 và St 40,19 về chữ “nâng đầu lên”: đầu của viên chánh chước tửu sẽ “được nâng lên cao” và ông sẽ được ân xá; còn đầu của viên chánh ngự thiện cũng “được nâng lên cao” nhưng ông ta sẽ bị treo cổ. Trong Is 52, 13 thì bảo người Tôi tớ Gioan “được nhắc cao” và “được tôn dương”. Có lẽ đây là nguồn gốc chữ “được tôn vinh” và “được giương cao” trong Gioan.
KẾT LUẬN
Trong đoạn này, chính “giờ” của Chúa Giêsu là trọng tâm xét trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Về phương diện Kitô học, “giờ” này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mệnh mặc khải và cứu chuộc thế gian. Nó đặc trưng tất cả cuộc đời Chúa Kitô, vốn luôn quy hướng về nó. Vì chính lúc bấy giờ xảy ra cuộc “phán xét” (krisis) nhân loại, xảy ra sự phân chia (krisml) những kẻ tin hay từ chối tin mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn và được tôn vinh. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống, còn ai từ chối tin thì bị luận phạt và phải chết muôn đời.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu thường nói đến “giờ” của Người. Đó là lúc người đạt đến cao điểm sứ mệnh cứu chuộc, tức là Chết và Phục sinh. Không nên tách rời hai yếu tố này. Cái chết là cuộc vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, nhưng sự phục sinh sẽ ban cho nó một ý nghĩa khi tôn dương và làm nẩy sinh sự sống. Giờ Chúa Giêsu vừa là thứ Sáu thánh vừa là Chúa nhật phục sinh, và giờ này hôm nay cứu tiếp tục trong mỗi Kitô hữu là con người vừa chịu đựng đinh vừa được sống lại.
2) Ở đây Chúa Giêsu lợi dụng dịp vài người ngoại giáo đến gặp để nói đến giờ của Người. Lương dân “Hy lạp” này là những kẻ có cảm tình với đạo Do thái. Họ hành hương đến Giêrusalem dù không phải là con dân Abraham. Chúa Giêsu bảo Giờ của người, nghĩa là ơn cứu chuộc, cũng liên hệ tới họ. Liên hệ như thế nào? Người giải thích bằng cách đưa ra hình ảnh hạt lúa mì chết đi trong lòng đất và mọc lên sai hoa lắm quả. Hạt lúa mì mục nát chính là Người. Các hạt sinh sôi là tất cả mọi dân tộc, tất cả loài người, tất cả “lương dân” sẽ trở thành tín hữu.
3) Mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống Giờ của Chúa Giêsu. Cần lưu ý là trong bản văn thánh Gioan, các chữ “vinh quang” và “sự chết” rất gần nhau và hầu như được liên kết với nhau. Điều này cho thấy hai điểm. Trước hết Kitô hữu phải biết tiêu diệt trong mình những gì chống lại với sự sống đích thực. Phép rửa của họ đưa họ vào mầu nhiệm chết. Họ không thể ở trên Thầy của họ. Họ phải chết về phương diện thể lý, nhưng cũng phải vượt qua bằng một cái chết thiêng liêng: cái chết này gọi là sự từ bỏ chính mình. Nhưng phải chăng vì thế mà họ phải tỏ ra khắc khổ và buồn bực? Không, vì họ còn phải sống mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh, một mầu nhiệm vui tươi của sự từ bỏ của Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự kết hiệp với cái chết và phục sinh của Chúa Kitô cùng bắt chước Người. Thế mà Chúa Kitô, trong giờ của Người, đã sống thực sự đau khổ và hiển vinh cùng một lúc. Nên Kitô hữu, người của từ bỏ, phải đồng thời là người của sự vui mừng thiêng liêng.
4) Cũng như Thầy mình, mỗi Kitô hữu đều được kêu lời trở nên hạt lúa gieo vào lòng đất. Điều này liên hệ tới phần của họ trong việc cứu rỗi thế giới. Dù có được kêu gọi hoạt động bên ngoài hay không, thì mỗi Kitô hữu, qua việc kết hợp với Chúa Kitô đều có ơn gọi tham gia vào việc cứu rỗi anh chị em mình. Nếu không thể hoạt động bên ngoài, thì họ hãy ấp ủ tư tưởng phấn khích này là: việc âm thầm dâng lời cầu nguyện, đau khổ, cái chết, trong sự kết hiệp với Chúa Giêsu cũng có khả năng cứu rỗi nhiều người. Nếu có sự hoạt động, họ phải nhớ rằng hiệu năng hành động của họ trước tiên tùy thuộc việc họ hiệp thông vào kinh nguyện và khổ giá Chúa Giêsu.
5) Chúa Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc khổ nạn để trở nên bánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi ta trong bí tích Thánh Thể nhiệm mầu. Chúng ta hãy mau mắn đến bàn tiệc rước lấy Mình Thánh Chúa để được tăng thêm sự sống của Người, để Người biến đổi ta nên thân xác Người, hầu một ngày nào đó ta có thể nói: “Không phải tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Tục ngữ Việt Nam nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Có nhiều cách chết, có cái chết đáng khâm phục và có cái chết “lãng nhách”, do đó cái “tiếng” cũng có thể tốt hoặc xấu. Người Công giáo gọi là chết lành hoặc chết dữ. Phàm cái gì có khởi đầu thì có kết thúc. Cũng vậy, có sinh ắt có tử.
Thánh Phaolô là người đã từng hăng hái và quyết ra tay triệt tiêu Ông Giêsu, nhưng rồi cuối cùng ông đã hoàn toàn biến đổi và phải thú nhận: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1:21), và ông nói về “Người Ấy”: “Đức Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến chết trên cây thập tự” (Pl 2:8).
SỐNG LÀ YÊU
Sống là yêu, và yêu là sống. Sấm ngôn của Chúa nói qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Này sẽ đến những ngày Ta lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng” (Gr 31:31-32). Giao-ước-mới này khác giao ước đã ký kết với cha ông. Giao ước đó là gì? Là giao ước Thiên Chúa lập với nhà Ít-ra-en, chính Ngài ghi vào lòng dạ dân chúng, khắc vào tâm khảm dân chúng Lề Luật của Ngài. Ngài là Thiên Chúa của họ, còn họ là dân của Chúa. Họ sẽ không còn phải dạy bảo nhau, và họ truyền miệng nhau: “Hãy học cho biết Đức Chúa” (Gr 31:34a). Học cho biết Đức Chúa về nhiều thứ, trong đó có việc học yêu. Do đó mà mọi người từ nhỏ đến lớn đều nhận biết Chúa. Điều tuyệt vời nhất là “Thiên Chúa sẽ tha thứ tội ác cho họ và không còn nhớ đến lỗi lầm của họ nữa” (Gr 31:34b). Là tử tội mà được tha bổng, được trắng án, có ai lại không hạnh phúc? Được sống thì phải biết yêu!
Giao-ước-mới đó gọi là Tân ước, là Luật Yêu Thương – không chỉ yêu người yêu mình mà phải yêu cả kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27 & 35). Khó quá! Vâng, không dễ chút nào. Nhưng yêu thương và tha thứ có hệ lụy lẫn nhau, không thể có cái này mà thiếu cái kia. Chúa Giêsu đã nói:“Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7:12). Ai có lỗi cũng muốn được bỏ qua, nhưng muốn được tha thì phải biết tha cho tha nhân, và thành tâm xin Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4). Thành tâm cầu xin như thế thì Chúa không thể không tha, vì Ngài chỉ chờ mong giây phút được tha thứ cho tội nhân biết sám hối.
Được tha rồi, nhưng “vết chàm” chưa sạch, thế nên chúng ta phải xin Chúa “đại tu” tâm hồn mình, và xin Ngài không ngừng nâng đỡ, nếu không thì chúng ta lại sa ngã ngay: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài” (Tv 51:12-13). Phần riêng Chúa ban cho chúng ta nhưng chúng ta đã “phung phí” hết, cho nên chúng ta lại phải tiếp tục kêu cầu: “Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51:14-15).
CHẾT LÀ YÊU
Sống là yêu, sống để yêu, sống vì yêu, đó là chuyện dễ hiểu. Chết cũng là yêu, để yêu và vì yêu lại là điều khó hiểu, thậm chí nghe chừng nghịch lý. Nhưng đó là sự thật hiển nhiên.
Muốn gì thì phải nói, chứ ai biết “ngứa” chỗ nào mà “gãi”? Chính Đức Giêsu, khi còn sống kiếp phàm nhân, đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời, vì Ngài có lòng tôn kính. Ngài “được nhậm lời” không có nghĩa là không phải đau khổ và không phải chết. Nhưng Ngài “được nhậm lời” để “thoát chết” là được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Hành-trình-sống-chết của Đức Kitô là để củng cố đức tin cho chúng ta.
Thánh Phaolô xác định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:8). Vậy đó, cái gì cũng phải khổ luyện, không thể cứ “khơi khơi” mà có thể uyên thâm, hiểu sâu và biết rộng. Học thì phải hành, không thực hành thì chỉ là mớ lý thuyết suông, không thực tế, vô ích. Học đàn phải luyện ngày đêm thì mới nhuần nhuyễn, văn thơ thi phú cũng phải làm nhiều thì mới “lên tay”, làm bếp cũng phải nấu hằng ngày mới có thể nấu ăn ngon,… Và mọi thứ đều cần kinh nghiệm. Lười biếng thì chỉ có nước “bó tay”. Ngay cả Chúa Giêsu cũng đã theo đúng “quy trình” đó: “Khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9).
(Ga 12:20-33) Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” (Ga 12:21). Một ước muốn tuyệt vời. Người Pháp nói: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Ông Philípphê nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Và Ngài trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!”(Ga 12:23).
Rồi Ngài trầm giọng: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12:24). Một hình tượng giản dị và rất thực tế. Có lẽ Ngài biết có người không kịp hiểu nên Ngài giải thích luôn: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25). Ngài biết “giờ G” sắp đến, lòng Ngài cũng bồn chồn lo lắng vì thấy thương các đệ tử còn “non nớt”, nên Ngài nói như trút lòng ra: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:26).
Theo nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy xốn xang nên tâm sự với các đệ tử: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27). Rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:28a). Ngài cảm thấy sợ, nhưng Ngài biết trọng trách của mình và muốn Chúa Cha được tôn vinh mà thôi. Và rồi có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:28b).
Nghe tiếng vọng từ trời, dân chúng đứng ở đó nghe vậy có người cứ tưởng là “tiếng sấm”, người khác lại cho là “tiếng một thiên thần” nói với Ngài. Đức Giêsu biết họ xì xầm nên nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người” (Ga 12:30). Giờ của Ngài sắp đến, “giờ” mà Ngài gọi là “giờ của kẻ ác”, là “thời của quyền lực tối tăm” (x. Lc 22:53). Thế nhưng chính “giờ” ấy lại là lúc “diễn ra cuộc phán xét thế gian này, lúc thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:31). Một sự hoán vị ngoạn mục, chiến bại mà chiến thắng!
Chúa Giêsu bình tĩnh và hứa: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12:32). Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào, nhưng đầu óc phàm nhân của các đệ tử – dù thân tín nhất – cũng không đủ hiểu ý Ngài muốn nói. Và đó chính là lời-hứa-kỳ-diệu!
Có lẽ chưa bao giờ Ngài nói nhiều như lần này. Nói để chia tay. Nói để từ giã. Nói để trăng trối. Nói như không còn dịp để nói. Nhưng Ngài muốn nói nhiều để mọi người biết yêu thương nhau, yêu cả lúc sống và khi chết.
Lạy Chúa Giêsu, xin tái tạo trái tim chúng con nên giống Ngài hơn, để chúng con có thể kính mến Chúa và yêu thương tha nhân trong từng hơi thở của cuộc sống. Xin giúp chúng con dám chết với Ngài để xứng đáng cùng Ngài phục sinh. Ngài hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Bài 2. Giờ Của Chúa Giêsu
Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Con đường sám hối và giao hòa mà Phụng vụ thứ Tư lễ Tro năm nay vạch ra, đã gợi cho chúng ta cùng sống lại những giai đoạn của giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người: nào là giao ước với Noe, diễn tả ý định Thiên Chúa hứa bảo tồn sinh mạng cho loài người; giao ước với Abraham mở ra một chân trời mới cho tình bạn và ơn cứu độ; giao ước Sinai quy tụ đám người hỗn tạp vừa thoát cảnh nô lệ Aicập thành một dân riêng; trong cuộc lưu đày tại Babylon, tuy không thấy Thiên Chúa tái lập giao ước, nhưng vẫn ngầm chứa một sức mạnh đặc biệt thanh luyện niềm tin của toàn dân hướng về ngày giải thoát.
Có thể nói, quá trình lịch sử Dân Thiên Chúa như quy hướng về giây phút cứu độ, giây phút mà giao ước giữa Thiên Chúa với loài người đạt tới cao điểm của nó, giây phút mà thánh sử Yoan gọi là “Giờ của Chúa Yêsu”. Từ ngữ “Giờ của Chúa Yêsu” trong Phúc Âm thứ 4 quá khó hiểu và đượm nhiều sắc thái bí ẩn!
Trong ba bài đọc Thánh Kinh của Phụng vụ Chúa nhật hôm nay, Giáo hội như mời gọi ta suy niệm lại giờ cứu độ đó, để có thể chuẩn bị tâm hồn đón nhận giao ước mới, giao ước muôn đời mà Thiên Chúa đã ký kết với loài người qua cái chết của Ðức Yêsu.
1. Giờ Của Chúa Yêsu Trong Chương Trình Cứu Ðộ
Lịch sử cứu độ đã vẽ lại cho chúng ta chương trình của Thiên Chúa ngay từ lúc nguyên tổ thất trung. Lời Người hứa với Abraham được lưu truyền và có sức mạnh quy hướng toàn dân ngóng trông giờ cứu độ.
Giờ đó được thực hiện bởi một người mang tên Yêsu mà đức tin Kitô giáo tuyên xưng là Ðấng Cứu thế. Nhìn lại cuộc đời của Ðức Yêsu, chúng ta sẽ bỡ ngỡ và ngạc nhiên khi thấy nhiều lần trong thời gian hoạt động công khai Người đã tuyên bố: “Giờ tôi chưa đến” (Yn 2,4; 7,30; 8,20). Qua cách trình bày của các thánh sử, đặc biệt của tác giả Phúc Âm thứ Tư, chúng ta khám phá ra phần nào bí ẩn của giờ Ðức Yêsu . Giờ của Người không phải là những lúc thành công trong bước đường rao giảng Tin Mừng, không phải hệ tại những phép lạ thực hiện, cũng không phải những lúc dân chúng ngưỡng mộ, định tôn phong Người làm vua…, nhưng là giờ thực thi giao ước mới, giờ chu toàn sứ mạng cứu chuộc nhân trần.
Bởi thế, câu nói: “Giờ tôi chưa đến” hoặc “chưa đến giờ của Người” không những đã làm cho thân thế và hoạt động của Ðức Yêsu thêm bí ẩn khó hiểu mà còn gây nên những tò mò, thắc mắc: giờ đó là gì? Khi nào sẽ đến? Giờ đó liên quan thế nào với đời sống con người?
Trong sách Tin Mừng thánh Yoan đã ghi rõ cho chúng ta biết khung cảnh và khoảng thời gian khi Ðức Yêsu tuyên bố giờ của Người đã đến. Câu nói xảy ra vào tuần lễ cuối cùng trong cuộc đời dương thế của Người, sau khi khải hoàn tiến vào Yêrusalem, giữa những tiếng hoan hô, kính phục của đám dân Dothái vào dịp lễ Vượt qua năm 30. Lẽ ra, Người phải xem đây là khung cảnh thuận lợi để tuyên bố giờ của Người đã đến, do đó giải tỏa được bao thắc mắc, tò mò của những kẻ chung quanh! Nhưng không, thánh Yoan đã ghi lại bối cảnh Ðức Yêsu vào thành Yêrusalem bằng một giọng văn mỉa mai, diễn tả tâm trạng chua xót của Người trước những tiếng hoan hô, những khuôn mặt hớn hở của đám dân hiếu thắng, không chút hiểu biết về sứ mạng của Người.
Thế nhưng, khi có vài người lương dân Hylạp, ngỏ ý muốn “nhìn thấy Ðức Yêsu” (Yn 12,21), thì thay vì trả lời trực tiếp hoặc có thái độ đón nhận. Người đã công nhiên tuyên bố: “Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh!”. Những người Hylạp này không phải là công dân Dothái sống ở hải ngoại (diaspora) (Yn 7,35) nhưng họ quả thật là lương dân, thuộc hạng người mà Thánh Kinh gọi là “Những kẻ biết kính sợ Thiên Chúa” (Cv 10,2.22.35; 13,16.26). Họ không đến Yêrusalem như người ngoạn cảnh, nhưng lên đền thờ để hành hương vào dịp đại lễ Vượt qua.
Phân tích nguyện vọng của họ trong câu nói: “Chúng tôi muốn nhìn thấy Ðức Yêsu”, hầu như chúng ta bắt gặp được chủ ý thần học của thánh sử Yoan. Nếu họ chỉ muốn nhìn thấy Ðức Yêsu như một nhân vật nào khác, có lẽ họ đã không cần tới Philipphê làm trung gian. Nhưng đặt câu nói vào văn mạch của Yoan, “muốn nhìn thấy” Ðức Yêsu có nghĩa là muốn nói chuyện với Người, muốn trao đổi với Người, muốn có tương quan với Người, muốn biết Người. Vả lại, trong ngôn ngữ thần học của Yoan, ta thường gặp thánh nhân đôi khi sử dụng động từ “nhìn thấy” để diễn tả một thực trạng nội tâm sâu xa hơn, đó là “tin” vào Ðức Yêsu. Như vậy, ta có thể thay thế câu: “Chúng tôi muốn nhìn thấy Ðức Yêsu” bằng câu: “Chúng tôi muốn đặt niềm tin vào Người” (Cf Yn 1,14.18.51; 3,11.32; 8,56; 14,9.19). Vì theo Yoan, mẫu người tín hữu đích thực, chính là người môn đệ yêu quý của Ðức Yêsu, khi bước vào mồ Chúa trong ngày Phục sinh: ông “đã thấy và đã tin” (Yn 20,8).
Những người Hylạp muốn gặp Ðức Yêsu, nhưng phải qua trung gian. Phải chăng điều đó ngụ ý rằng: lương dân sau này cũng phải đón nhận Tin Mừng cứu độ qua trung gian lời rao giảng của các tông đồ: họ như đã nhìn thấy Ðức Yêsu qua sứ điệp Tin Mừng… Nhưng giữa việc lương dân muốn nhìn thấy Ðức Yêsu và các việc tông đồ rao giảng Tin Mừng cứu độ còn có một biến cố quan trọng nữa: đó là cuộc Thương khó và Phục sinh của Ðức Yêsu, đó là lúc Người thể hiện giờ của mình theo lệnh Chúa Cha: “Giờ đã đến để Con Người được tôn vinh” (Yn 12,32). Giờ Khổ nạn và Phục sinh đánh dấu cao điểm của lịch sử cứu độ, giờ mà hồng phúc cứu độ không còn là di sản riêng của dân Dothái, giờ mà mọi phân cách giữa dân Dothái và Hylạp, đại diện cho lương dân, không còn nữa.
Thật vậy, Yoan đã loan báo cho chúng ta Tin Mừng cứu độ: khi lương dân biểu lộ niềm tin vào Ðức Yêsu, thì đó chính là lúc vinh quang của Người được phát hiện. Và từ lúc ấy, Người đã mạc khải cách cụ thể con đường cứu độ qua dụ ngôn hạt lúc mì. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không thối nát và tan biến đi, thì sẽ không thể sinh hoa kết quả nuôi dưỡng con người được. Ðó là giờ khai mở con đường thập giá và khổ nạn để Ðức Yêsu thực hiện sứ mệnh cứu chuộc nhân trần (Yn 12,27; Cf Mc 14,41).
2. Giờ Của Chúa Yêsu Trong Cuộc Sống Nhân Loại
Theo thánh Yoan, giờ khổ nạn của Ðức Yêsu đã bắt đầu khi dân ngoại tìm đến xem Người. Còn theo thánh Marcô thì giờ ấy đã bắt đầu khi Người giáp mặt với kẻ “tội lỗi” trong vườn Giếtsêmani. Và từ đây con đường thập giá của Người như mang trọn vẹn ý nghĩa: qua Ðức Yêsu thụ nạn, ta thấy được niềm tủi hận, nỗi khổ đau và cảnh chết chóc của loài người: tiếng kêu la, nước mắt của Ðức Kitô (Hr 5,7) nhưng vọng lại âm hưởng và báo trước mọi trạng huống bi đát của nhân loại. Mọi người, không phân biệt Dothái hay lương dân, đều được mời gọi chứng kiến và tham dự giờ của Người. Lời cầu nguyện khẩn xin và thái độ vâng phục của Ðức Yêsu diễn tả thật đầy đủ vai trò trung gian (Pontifex) và địa vị trưởng tử mọi loài thọ sinh (Primogenitus) của Người. Nhờ thế cái chết và sự phục sinh của Người mang lại ý nghĩa cho cuộc sống nhân loại.
Nhưng tại sao giờ của Ðức Yêsu lại là giờ của Thập giá và Phục sinh.
3. Giờ Của Chúa Yêsu Ðể Thực Hiện Giao Ước Mới
Lịch sử cứu độ qua các mối tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và loài người như trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy. Từ giao ước với Adam (Kn 3,15), với Noe (Kn 9,1-17), với Abraham (Kn 17,1-17), với dân được tuyển chọn ở Sinai (Xh 19,24), với Ðavít (2S 7), đến lời hứa giao ước mới mà Thiên Chúa dùng tiên tri Yêrêmia loan báo (Yr 31,31-34): tất cả những lời giao ước đó đều thấy thực hiện viên mãn trong giờ của Ðức Yêsu.
Lời loan báo: “Này đây sẽ đến những ngày Ta ký giao ước của Ta…” trong Yêrêmia gặp được tiếng vọng đáp trả trong câu: “Và bây giờ…” của Phúc Âm thứ tư (Yn 12,27-31). Nay là lúc lời hứa ban giao ước mới cho con người được thực hiện. Quả vậy, nội dung của giao ước mới hệ tại việc Thiên Chúa ghi luật pháp của Người trên trái tim và ban Thánh Linh trong tâm hồn loài người, để họ có thể nhận biết Thiên Chúa (Ez 36,26-27). Từ đó, Giao ước mới quả đã thực hiện lời Thiên Chúa hứa với nguyên tổ (Kn 3,15), đem lại chiến thắng cho con người, và tái lập tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa với họ.
Bởi thế, khi dân ngoại ngỏ ý với các môn đệ, là đại diện dân Dothái, được nhìn xem, hiểu biết Ðức Yêsu, thì ta có thể nói đó là toàn thể nhân loại như đang quy hướng và tiến về giờ của Ðức Yêsu, để biến lịch sử thế giới thành lịch sử cứu độ. Như vậy, cuộc hành trình của nhân loại, dầu lắm khi mang đầy thương tích khổ đau, thất bại, tuyệt vọng, cũng sẽ tìm được ý nghĩa tròn đầy trong giờ của Ðức Yêsu, giờ cứu độ bằng con đường Khổ giá và Phục sinh.
Giảng Lễ
Các tuần lễ mùa Chay – có thể nói – đến hôm nay là hết. Chúa nhật sau đã là Lễ Lá và đi vào Tuần Khổ nạn, Thương khó rồi. Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay vì thế không còn nói đến việc chuẩn bị đi vào Mầu nhiệm Cứu độ nữa. Giờ của Ðức Kitô đã đến, như lời Phúc Âm nói. Và như trong câu đầu của bài đọc I, nay đã đến ngày Thiên Chúa ký kết một giao ước mới với Dân Người. Chúng ta hết thảy được mời gọi chứng kiến và tham dự chính mầu nhiệm cứu thế sắp diễn ra trong phụng vụ. Thế nên, không còn phải là lúc nhìn vào mình hay nhìn đi đâu, nhưng là nhìn vào chính Thiên Chúa, chính Ðức Kitô đang sắp sửa thực hiện cho Dân Chúa kế hoạch cứu vớt ngàn đời. Bổn phận của chúng ta, trong ngày hôm nay và trong suốt tuần này, là phải chăm chú hướng lòng, hướng mắt về Chúa để chiêm ngưỡng và đón nhận mọi hành vi mà Ngài sắp làm cho ta. Các bài Kinh Thánh hôm nay có sức giúp ta làm công việc ấy, vì tất cả đều nói đến giờ của Chúa và của Ðức Kitô.
Trước hết, bài đọc thứ nhất cho ta thấy đã đến ngày Thiên Chúa muốn ký kết với Dân Người một giao ước mới, khác hẳn mọi giao ước trước đây. Chúng ta nhớ trong các Chúa nhật trước, phụng vụ đã lần lượt nhắc đến các giao ước thời Noe, thời Abraham, thời Môsê, thời lưu đày. Càng đi, các bản giao ước ấy càng trở nên phong phú, sâu xa và thiêng liêng, hoàn hảo hơn. Nhưng chưa bao giờ ta nghe nói đến một giao ước tốt lành như hôm nay. Hình ảnh về giao ước Noe là một chiếc cầu vồng ở trên trời, vừa xa chúng ta, vừa dễ tan biến.
Với Abraham dấu hiệu của giao ước là lễ nghi cắt bì; nhưng thật sự chỉ hạn chế trong dòng dõi Dothái về phương diện máu thịt. Sang đến thời Môsê, đó là luật pháp và máu chiên bò rảy xuống trên dân. Giao ước vẫn còn hình thức xã hội và bề ngoài. Song đến thời lưu đày, thật ra không có giao ước mới nào: nhưng việc Chúa đưa dân lưu lạc trở về cũng là dấu chỉ Ngài giữ lời giao ước. Nhất là trong lúc lưu đày, Chúa hướng lòng dân chờ đợi một giao ước mới, một giao ước vĩnh cửu, cũng như bài đọc thứ I hôm nay cho chúng ta thấy. Khác với mọi giao ước trước đây, giao ước mới này sẽ được ghi trong tâm khảm mỗi người, để mọi người thấy Chúa ở ngay trong tâm hồn mình, khiến ai ai cũng tự mình có kinh nghiệm về Thiên Chúa, không cần phải hỏi thăm hay học hỏi với ai về sự hiểu biết này nữa. Giao ước mới này – như vậy – vượt xa mọi giao ước trước. Liên hệ giữa Chúa và chúng ta trở thành sâu xa, nội tại ngay trong tâm hồn. Chúa sẽ xóa bỏ mọi tội lỗi cho dân Người, không còn nhớ nữa. Người chỉ còn tỏ rõ bộ mặt thương yêu, hiều dịu với ta, để ta cảm thấy thật sự tình Người mật thiết.
Nhưng lòng con người đã sẵn sàng để Chúa ghi giao ước tốt đẹp đó vào chưa? Ðó là cả vấn đề. Kinh thánh thường phàn nàn: lòng dân Dothái thật chai đá. Và lòng ai ai không ít nhiều như vậy? Thế mà giao ước của Chúa chỉ có thể viết trên những trái tim bằng thịt, nồng nàn yêu mến Chúa, chia sẻ những tâm tình của Chúa. Cho nên những người đạo đức hồi xưa luôn cầu khẩn: Lạy Chúa xin tạo dựng cho con một trái tim trong sạch, như chúng ta vừa đọc trong bài đáp ca. Thành ra, bao giờ Chúa cũng sẵn sàng ký kết giao ước tình yêu, Ngài chỉ còn chờ thời gian thuận lợi về phía ta. Hôm nay, Ngài tuyên bố ngày giờ đó đã đến rồi. Căn cứ vào đâu, nếu chẳng phải vào chính lời Ðức Kitô tuyên bố trong bài Phúc Âm: Giờ Con Người đã đến?
Quả vậy, Ðức Yêsu là Con Người, là người Con Một yêu quý của Thiên Chúa Cha. Ngài đã sinh ra làm người, trở thành Adong mới, mang tất cả thân phận nhân loại ở nơi mình. Ngài gánh hết tội lỗi loài người. Và giờ đây, Ngài sắp để tội lỗi bị đóng đinh vào thập giá, thế nên nhân loại tội lỗi sắp được ơn tha thứ. Loài người sắp có khả năng đón nhận giao ước mới. Trái tim Ðức Kitô sắp bị lưỡi đòng thâu qua, để chết cho tội lỗi. Trái tim máu thịt sắp chết, trái tim chai đá tội lỗi của loài người sắp được thay thế bằng trái tim đầy lửa Thánh Thần yêu mến. Nếu Thiên Chúa phải chờ khi loài người trở lại, từ bỏ tội lỗi để ký kết giao ước mới nơi tâm khảm mọi người, thì giờ của Thiên Chúa, giờ Thiên Chúa ký kết giao ước tình yêu phải chờ giờ của Ðức Kitô, giờ Ngài cứu chuộc mọi người trong mầu nhiệm thánh giá. Thế mà trong Phúc Âm hôm nay, Ðức Kitô tuyên bố: Giờ Ngài đã đến.
Chúng ta hãy vui mừng đón nhận tin này. Bao thế hệ loài người chờ đợi ngày hôm nay. Chính Ðức Mẹ cũng đã phải chờ đợi. Hôm ở tiệc cưới Cana, Người đến thưa với Chúa: nhà đám đã hết rượu rồi. Tin ấy gợi lên trong tâm hồn Chúa Yêsu bao nhiêu hình ảnh Kinh Thánh thường ví cảnh lầm than của dân Chúa tội lỗi với cảnh thiếu rượu, thiếu nước. Ðức Mẹ nói đến một sự kiện vật chất; nhưng Chúa Yêsu lại nghĩ ngay đến bình diện thiêng liêng. Lời xin của Ðức Mẹ trở thành lời cầu ơn tha thứ cứu độ. Nhưng chưa đến giờ ấy, Chúa Yêsu đã trả lời: chưa đến giờ của Người.
Hôm nay, ngược lại, Người tuyên bố rõ: giờ Người đã đến rồi. Người tuyên bố như thế, khi thấy dân ngoại ngỏ ý muốn gặp Người. Làm sao Người có thể không đáp ứng được lòng khát vọng của muôn dân? Không phải chỉ dân Dothái cần ơn cứu độ. Mọi dân tộc đang đặt hy vọng vào Người, Người là Ðấng yêu thương nhân loại, làm sao có thể từ chối lời cầu xin tha thiết của thế giới lầm than vì tội lỗi? Lời xin ấy trở thành như tiếng nói của Chúa Cha, ngỏ ý chờ đợi ngày giờ để thi hành kế hoạch tình yêu, tha tội lỗi cho loài người, đã ký kết giao ước mới cho họ.
Như thế ta mới dễ hiểu vì sao Ðức Kitô lại gọi giờ của Người là giờ vinh quang. Người trở thành vinh hiển thật sự trong giờ phút chấp nhận ra đi cứu thế. Và ta cũng dễ hiểu, vì sao sau khi Ðức Kitô tuyên bố giờ Người đã đến, có tiếng Chúa Cha phán với Người, như để tỏ dấu thông cảm, thỏa mãn…
Thế nên tâm tình thứ nhất của chúng ta hôm nay sau khi đọc các bài Kinh Thánh này, là cảm mến lòng nhân ái bao la của Chúa Cha và Chúa Con. Chính Chúa Cha đã dự liệu ngày giờ ban ơn tha thứ và ký kết giao ước mới cho ta. Chính Chúa Con đã bằng lòng đi đến ngày giờ ấy để kế hoạch tình yêu được thực hiện hầu ta nhận được tân ước vĩnh cửu trong Máu Thánh Người. Ðồng thời chúng ta cũng biết qua Kinh Thánh: giao ước đòi ta đáp ứng mới có thể trở thành phong phú. Nên Chúa Yêsu muốn kéo tất cả chúng ta lên với Ngài trên thánh giá, để đóng đinh xác thịt tội lỗi ta vào đó, để trái tim chai đá của ta bị đâm thâu hầu trái tim ta trở nên mềm mại cho ơn Thánh Thần yêu mến nhào nặn.
Như vậy, chúng ta cần chăm chú nhìn vào Chúa Yêsu, như bài Thánh Thư hôm nay mô tả để ta bắt chước trong đời sống cụ thể. Người khóc lóc, nhưng tin tưởng, xin Chúa Cha tha tội cho loài người. Người cũng không làm gì khác hơn ở trong thánh lễ này, vì giờ đây mầu nhiệm thập giá cũng được thực hiện lại để kéo lòng chúng ta lên với Chúa, chia sẻ tâm tình cứu thế của Ngài. Nếu chúng ta thành thật kết hợp mật thiết với Ngài trong thánh lễ này, thì chắc chắn trong cả tuần, chúng ta phải thao thức ghét tội và tha thiết cầu xin cho dân tộc, thế giới được sạch tội, để đời sống của chúng ta thực sự là đời sống trong Tân Ước vĩnh cửu, mà Ðức Kitô khai mạc khi giờ Người đã đến.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn