1
19:18 +07 Thứ tư, 15/05/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 87

Máy chủ tìm kiếm : 2

Khách viếng thăm : 85


Hôm nayHôm nay : 26014

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 514113

Tổng cộngTổng cộng : 28633361

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY NIỆM CHÚA NHẬT

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi – năm B

Thứ bảy - 02/06/2012 12:13-Đã xem: 1401
Ba Ngôi là lò lửa tình yêu lúc nào cũng ngùn ngụt cháy. Ba Ngôi là nguồn mạch tình yêu không bao giờ vơi cạn. Cuộc trao đổi cho đi và nhận lãnh làm cho tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa ngày càng sung mãn dồi dào. Tất cả mọi tình yêu đều bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi. Tất cả mọi tình yêu muốn trung thực và bền vững đều phải học theo khuôn mẫu tình yêu Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc là ta được tham dự vào bầu khí yêu đương của Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc sẽ đến khi mọi người biết yêu thương nhau trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Hôm nay, khi truyền cho ta đi rửa tội cho mọi người nhân danh Chúa Ba Ngôi, Đức Giêsu muốn ta đem tình yêu rửa sạch những oán ghét hận thù đang tàn phá thế giới...
Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi – năm B

Chú giải và chia sẻ Tin mừng Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi – năm B

  

A. BẢN VĂN (Mt 28,16-20):

16 Khi ấy, mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến.17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI

Bài 1. Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: SỨ MẠNG PHỔ QUÁT

1- Ngữ cảnh

Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến ngữ cảnh trực tiếp, đó là mộ trống với hai sứ điệp, một tích cực, một tiêu cực:

a) Sứ điệp tích cực

Sứ điệp tích cực được gửi đến trong hai thì:

- bởi sứ thần khi ngài giao phó cho các phụ nữ hai sứ mạng là làm chứng về sự Phục Sinh của Đức Giêsu và loan báo cho các môn đệ lệnh triệu tập của Đức Giêsu (28,1-8). Đây là kinh nghiệm tiêu cực về sự Phục Sinh.

- bởi chính Đức Giêsu Phục Sinh (28,9-10): Người cho các phụ nữ sống một kinh nghiệm thực hữu về sự Phục Sinh của Người và giao cho họ cùng một sứ mạng, là triệu tập các môn đệ về Galilê.

Đoạn văn Mt 28,16-20 cho hiểu rằng các phụ nữ đã chu toàn hai sứ mạng được giao: khi quy tụ về quả núi đã được chỉ định tại Galilê, các môn đệ chứng tỏ các ông đã tin vào chứng tá của các phụ nữ liên hệ đến cuộc Phục Sinh để cũng có thể tin vào lệnh triệu tập được các bà chuyển cho.

b) Sứ điệp tiêu cực 

Sứ điệp tiêu cực là truyện sai lạc về Đức Giêsu, được toán lính tung ra theo trò bịp bợm của các thủ lãnh Do-thái.

Đoạn văn này nêu bật sự tương phản (c. 16: de) giữa các thủ lãnh Do-thái và toán lính một bên, và bên kia, là Đức Giêsu và các môn đệ Người, giữa sứ điệp do người Do-thái tung ra và thực tế; vậy đoạn văn này chính là một lời phi bác tin đồn thất thiệt đã được phổ biến. Đối với người Do-thái, Đức Giêsu là một xác chết, còn các môn đệ Người là những tên trộm cắp và dối trá; trong thực tế, Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết, đã sống lại, được ban cho toàn quyền của Thiên Chúa và đảm bảo bằng sự hiện diện đầy uy lực của Người; các môn đệ Người không tìm cách đánh cắp thi hài, nhưng đã đi về Galilê, đi xa ngôi mộ, để gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Mừng sẽ đi đến với “mọi dân tộc”, chứ không như tin đồn thất thiệt kia, chỉ được loan truyền “giữa người Do-thái” mà thôi. Giáo huấn phổ quát (didaskontes) mà các môn đệ của Đức Giêsu, vị Tôn Sư tuyệt đối (didaskalos, 23,8), sẽ cống hiến cho mọi dân tộc sẽ hoàn toàn vượt xa những gì toán lính phổ biến, vì họ đã làm theo lời “các thượng tế dạy” (edidachthêsan, 28,15). Các môn đệ sẽ được che chở và nâng đỡ “cho đến tận thế”, không phải bởi một quyền bính nhân loại như quyền bính của các thượng tế, nhưng bởi uy quyền của Đấng Phục Sinh, Chúa tể vũ hoàn.

2- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (28,16-17);

2) Các lời nói của Đức Giêsu (28,18-20):

a) Mạc khải về quyền năng (18),
b) Lệnh truyền giáo (19-20a),
c) Hứa hiện diện hỗ trợ (20b).           

3- Vài điểm chú giải

- Về phần mười một môn đệ (16): Ở đầu c. 16 này, có tiêu từ de (“và”, “rồi”; “nhưng”; “về phần”) hẳn là để nêu lên sự tương phản giữa báo cáo sai lạc của toán lính với sự thật về cuộc hiện ra của Đức Giêsu với mười một môn đệ.

- Mười một môn đệ (16): Trong Mt, Đức Giêsu có một nhóm các “môn đệ” (mathêtêsMt 73 lần, Mc 46 lần, Lc 37 lần, Ga 78 lần. Có 65 trong Mt ở số phức) luôn luôn được xác định bằng quán từ (article) hoi (x. 5,1; 8,21; 9,10; 12,1; 13,10; 14,15; 15,2; 16,5; 28,7). Điều này khẳng định rằng họ được biết rõ trong tư cách đó và họ không phải là nhóm “bảy mươi hai” của Lc (vả lại, Lc không gán cho nhóm “bảy mươi hai” cái tên “môn đệ”, mà là “bảy mươi hai người khác”, x.Lc 10,1). Các ông là những người sống hiệp thông với Thầy mình (“einai meta” [“ở với”]), tháp tùng Thầy trong sứ vụ của Người (9,19), cùng làm việc với Người để phục vụ các đám đông (9,36-37), được nêu ra làm gương cho các đám đông và được giới thiệu như là gia đình đích thực của Đức Giêsu (12,46-50). Mt xác định rằng các ông là “mười hai môn đệ” ( 10,1; 11,1; hay là “Nhóm Mười Hai”: 20,17; 26,20; ở c. 10,2, các ông cũng được gọi là “mười hai tông đồ” cùng với tên của các ông).

Con số “mười một” nhắc đến sự vắng mặt thê thảm của Giuđa, “một trong Nhóm Mười Hai” (26,14.47; x. 10,2.4): sự hư hỏng đã xảy ra ngay trong nhóm, tức là đây không phải là một nhóm toàn vẹn; với lại, tất cả các ông khác đều đã té ngã (x. hoi mathêtai: 26,56b; Phêrô: 26,69-75). Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải.

- ngọn núi (16): To oros (danh từ với quán từ) khẳng định rằng chính là trên một quả núi mà Đức Giêsu và các môn đệ đã biết, nhưng không cung cấp một xác định nào khác. 

- Bái lạy (17): Mt chỉ dùng động từ proskyneô (Mt 13 lần; Mc 2 lần; Lc 2 lần) cho những ai đã nhìn nhận phẩm giá của Đức Giêsu và diễn tả sự nhìn nhận đó ra bằng hành vi này (x. các hiền sĩ: 2,2.8.11; người phong cùi: 8,2; ông trưởng hội đường: 9,18;  các môn đệ trên thuyền: 14,33; bà Canaan: 15,25; mẹ các con ông Dêbêđê: 20,20; các phụ nữ tại mồ: 28,9).

- Nhưng có mấy ông lại hoài nghi (17): Trong Tân Ước, động từ distazein chỉ xuất hiện ở 14,31 (Phêrô đi trên mặt nước) và ở đây. Động từ này nhắc đến những gì Tin Mừng đã nói biết bao lần về phẩm chất của đức tin của các môn đệ: ở 6,30; 8,26-27; 14,31; 16,8; 17,20 (x. câu 17). Mt là tác giả duy nhất ghi nhận “đức tin lớn (megalê hê pistis)” của bà Canaan (15,28). Cùng với đề tài đức tin, Mt trình bày đề tài sự hiểu biết (synienai) và không hiểu biết: ở 15,16; x. 16,12; 17,13.

- Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18): Động từ edothê ở thì aorist thái bị động trần thuật (passive indicative): Thì aorist nhắm đến một sự kiện đã hoàn tất, chứ không phải là một lời hứa hay một niềm hy vọng; hẳn là ta có thể nghĩ đến một quan hệ mặc nhiên với sự phục sinh. Thái bị động đây là một thái bị động thay tên minh nhiên của Thiên Chúa. Hơn nữa, cách thức khẳng định cách tuyệt đối như thế gợi ý rằng Thiên Chúa là tác giả (so sánh c. 18b với 11,25).

Đề tài exousia cũng là một đề tài quan trọng của Mt (9 lần: 7,29; 8,9; 9,6; 9,8; 10,1; 21,23; 21,24; 21,27; 28,18). Từ ngữ có nghĩa là “quyền hành”, “uy quyền”, “quyền lợi”, “khả năng”, là những đặc tính của giáo huấn và cách hành động của Đức Giêsu: phân đoạn 5,1–7,29 (Bài Giảng trên núi) giới thiệu Đức Giêsu như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong lời nói” (x. 7,28), còn phân đoạn 8,1–9,38 giới thiệu Người như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong hành động” (x. 11,2) (Đức Giêsu khẳng định rằng Người có exousia này: 9,6; dân chúng: 7,29; viên sĩ quan: 8,9; khi thấy người bại liệt được chữa lành, dân chúng tôn vinh Thiên Chúa: 9,8; Đức Giêsu nói về quyền của Người và từ chối cho biết nguồn gốc của quyền ấy: 21,24.27). Câu 28,18 là như tổng hợp về đề tài này và là một câu trả lời cho nhà chức trách tôn giáo: Đức Giêsu không phải là một người mất trí hay một kẻ tiếm quyền; Người đã nhận được quyền bính này trọn vẹn, trên toàn vũ trụ,  từ Thiên Chúa (chứ không phải từ tay ma quỉ, x. 9,34). Ở đây, điều được khẳng định là quyền(exousia) đã được Thiên Chúa ban.

- hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (19): Trong các Tin Mừng, động từmathêteuein chỉ được sử dụng ở Mt (13,52; 27,57; 28,19) với hai nghĩa: 1) nghĩa nội động (intransitive): trở thành môn đệ (13,52; 27,57); 2) nghĩa ngoại động (transitive): làm thành môn đệ; làm cho ai thành môn đệ (28,19; x. Cv 14,21). Đây không phải là chỉ trình bày, cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng, nhưng là kiến tạo một quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Kiểu mẫu của quan hệ này chính là quan hệ của Đức Giêsu lịch sử với các môn đệ đã được Người kêu gọi (môn đệ đi theo [akolouthein, x. 4,20.22; 8,23; 19,27.28], Thầy đi trước [proagein, x. 26,32; 28,7]).

- nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần (19): Công thức “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” một công thức phép rửa. Qua công thức này, ta găp thực tại chúng ta có trong các Tin Mừng Nhất Lãm: đó là quan hệ chặt chẽ giữa đời sống và công trình của Đức Giêsu với Cha Người trong Chúa Thánh ThầnCựu Ước biết đến vị Thiên Chúa tạo thành trời đất, đây là vị Thiên Chúa mà họ đến trình diện trong tư cách là các thọ tạo hoàn toàn khác với Ngài và không có quyền đi vào đối thoại với Ngài. Đức Giêsu loan báo vị Thiên Chúa có một người đối thoại trong bình diện thần linh. Chúa Con ở trước mặt Chúa Cha, và hai Đấng được liên kết với nhau, biết nhau, hiểu nhau và yêu thương nhau trọn vẹn và hoàn hảo nhờ Chúa Thánh Thần. Bí tích Rửa tội nhận chìm chúng ta vào trong vùng quyền lực của vị Thiên Chúa này.

- Này đây Thầy (20): Mt chuộng thức mệnh lệnh idou này. Nên ghi nhận là công thức long trọngidou egơ luôn luôn có quan hệ với ý tưởng sứ mạng: 10,16; 23,34 et 28,20.

- Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20): Khi nói minh nhiên pasas tas hêmeras(tất cả các ngày), Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ.Heôs tês synteleias tou aiônos (cho đến tận thế) có nghĩa mục tiêu, nơi đến: nhắm đến tận thế. Từ ngữ synteleia (hoàn tất; kết cục) luôn được sử dụng với aiôn có nghĩa là “thời gian hiện tại”, “tình trạng hiện nay của tạo thành” (x. 13,22; 12,31). Synteleia tou aiônos có nghĩa là “khi kết thúc thời gian của thế giới này”. Người ta chờ đợi một kết thúc thời gian này với việc Đức Giêsu ngự đến (x. 24,3).

4- Ý nghĩa của bản văn

* Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (16-17)

Phần thứ nhất kể lại các hành vi của các môn đệ trong quá khứ (aorist) (đi tới, c. 16; bái lạy, c. 17; hoài nghi, c. 17). Bản văn cũng ghi nhận một hành vi của Đức Giêsu, “đã truyền” (etaxato, c. 16), nhưng chắc chắn đây là một hành vi Đức Giêsu  đã làm trước các hoạt động của các môn đệ được kể lại trong đoạn văn này; hành vi này lại chỉ là một mệnh lệnh, một hành vi nói. Ngược lại, trong các bản văn khác về hiện ra, Đức Giêsu hành động cùng nhịp với những người có mặt, chẳng hạn, ở Mt 28,9, Đức Giêsu đến gặp (hypêntêsen) các bà. Phải chờ đến c. 18 để gặp được một hành vi của Đức Giêsu, nhưng cả hành vi này cũng chỉ là một hành vi nói (elalêsen).      

Các nhân vật chính của phần thứ nhất là hoi hendêka mathêtai, “mười một môn đệ”. Con số này nhắc đến sự phản bội của cả nhóm. Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải. Các môn đệ tiến về một nơi đã được Đức Giêsu xác định trước và theo thông tin của các phụ nữ (lệnh của sứ thần (28,7) và lệnh của Đức Giêsu ban cho các phụ nữ).

Trong Mt, ta không thấy có một lệnh minh nhiên của Đức Giêsu là đi đến một ngọn núi được xác định, nhưng có những chi tiết liên hệ đến Galilê. Tất cả các chi tiết này, khi được đặt vào trong bối cảnh là cuộc Thương Khó và Phục Sinh, thì giống như những tia chớp hy vọng được ban cho các môn đệ (tại núi Ô-liu, Đức Giêsu đã nói đến Galilê: 26,32; tại mộ, vị thiên thần đã nhắc đến Galilê: 28,7; Đức Giêsu xác nhận sứ điệp: 28,10). Chuyến đi đưa các ông về nơi Đức Giêsu đã chỉ định cho thấy rằng họ vừa thi hành lệnh Đức Giêsu truyền, họ vừa ý thức rằng họ đang được trở vào trong tình bằng hữu với Người, tình bằng hữu mà Người đã mời họ đến khi gọi họ là “anh em của Thầy” (28,10).

Như thế, câu truyện sẽ kết thúc ngay tại nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu đã bắt đầu: tại “Galilê, miền đất của dân ngoại”, đã xuất hiện ánh sáng có sức thắng vượt bóng tối của tử thần (4,15-16) và giúp cho có thể bắt đầu việc rao giảng cho muôn dân (28,19). Ở đây tầm quan trọng của Galilê đặc biệt có tính thần học: Đấng Phục Sinh gặp lại các môn đệ Người tại nơi chính của hoạt động trần thế Người (nhất là theo Mc và Mt); điều này giả thiết có một sự tiếp nối giữa Đức Giêsu trần thế và Đức Kitô Phục Sinh, một sự tiếp nối mà c. 20a sẽ nêu bật minh nhiên (“[bằng cách] dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”). Do chính sự kiện này, Người xác nhận việc loan báo đầu tiên của Người, hoặc đơn giản hơn, xác nhận trọn vẹn sứ mạng của Người và giới thiệu sứ mạng ấy như mẫu mực cho các môn đệ.   

Lời Đức Giêsu nói với các phụ nữ (28,10), “họ phải đi đến Galilê”, là một mệnh lệnh, còn “họ sẽ được thấy Thầy ở đó” là một lời hứa. Vậy bản văn của chúng ta là sự hoàn tất mệnh lệnh ấy và sự thực hiện lời hứa ấy.

 “Ngọn núi” không phải là một nơi mà người ta hẳn là có thể xác định theo địa lý; đây là nơi tiêu biểu cho mạc khải (5,1: “Bài Giảng trên núi”; 15,29: mạc khải của Đấng cứu thế, Đấng nuôi dưỡng dân Người như Môsê xưa kia trong hoang địa; 28,16: “ngọn núi” xuất hiện lần thứ ba, để cũng nêu bật tầm quan trọng của mạc khải như thế).

Sự kiện các môn đệ “thấy” Đức Giêsu được kín đáo giới thiệu bằng một vị tính từ  (participle), lệ thuộc động từ chính: “các ông bái lạy”. Việc “thấy Đức Giêsu” chỉ được nhắc đến ngắn ngủi ở đây, khác với các bài tường thuật khác về hiện ra, nhưng nó chẳng còn giá trị gì khi nói về niềm tin Phục Sinh. Sự kiện quan trọng đối với Mt là “các ông bái lạy” (prosekynêsan), đây là cách tôn kính mang tính tôn giáo và thậm chí phụng vụ. Thái độ này diễn tả trước những gì sẽ được lời tuyên bố ở c. 18b loan báo về quyền của Đức Giêsu. “Nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (c. 17). Ở đây, nỗi ngờ vực đã xảy đến idontes, “khi thấy Người” như là Đấng Phục Sinh. Chúng ta phải ngạc nhiên khi thấy phát sinh nỗi ngờ vực, nghĩa là một tình trạng ngần ngại, lưỡng lự, trong bối cảnh lại quá đậm đặc và tiêu biểu này.  Phản ứng này xuất hiện nhiều lần trong các bài tường thuật khác về hiện ra. Nỗi hoài nghi được thắng vượt mỗi lần một cách: Đấng Phục Sinh xin các ông cho ăn (Lc24,41tt); Đức Giêsu hiện ra một lần nữa với các môn đệ lúc đầu không tin (Mc 16,14tt); Tôma có thể chạm tới các vết thương của Đức Giêsu (Ga 20,24-29). Ta không thấy có gì tương tự ở đây cả. Có lẽ sự hoài nghi này liên hệ đến một thời đại muộn màng hơn: cộng đoàn hôm nay không còn thấy Đức Giêsu bằng mắt thịt nữa, họ có thể rơi vào hoài nghi; họ phải thắng vượt khó khăn này nhờ dựa vào lời của Đấng Phục Sinh. Các lời nói của Đức Kitô Phục Sinh và sự vâng phục của các môn đệ với lời Người là cách thế duy nhất giúp vượt qua nỗi hoài nghi.

* Các lời nói của Đức Giêsu (18-20)

Đứng trước đức tin xen lẫn hoài nghi của các môn đệ, lời Đức Giêsu nói cung cấp câu trả lời. Đấng Phục Sinh không trách các ông về sự bất trung hoặc về nỗi hoài nghi; thậm chí Người cũng không xua tan nỗi hoài nghi bằng một cử chỉ hoặc một chứng từ bổ sung. Người đến gần các ông và nói. Người từ xa đến với những người là các môn đệ Người, vâng phục Người và đang cung kính bái lạy Người. Chỉ mình Người có thể vượt qua khoảng cách bằng cách đi đến với các ông. Proserchomai là một động từ được Mt ưa chuộng (Mt 52x; Mc 5x; Lc 10x; Ga 1x), nhưng chỉ có hai lần ông diễn tả một hành vi chủ động của Đức Giêsu (ở đây và ở 17,6-7: hai đoạn riêng của Mt): trong trường hợp này, Đức Giêsu đến gần là để nâng đỡ những người đang hoài nghi hoặc đang sợ.

Vấn đề ở đây là một lời nói, vấn đề ở đây là nghe chứ không phải là thấy. Chính lời nói của Đức Giêsu tạo được sự trấn an diễn tả ra bằng hành vi đến gần: Người tự tỏ mình ra trong lời Người nói như là Đấng được đặt để trong quyền bính và nói với uy quyền. Trong tư cách đó, Người hiện diện trong thời gian của thế giới, trong Giáo Hội cho đến tận thế.

Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18b). Được đặt ở đầu bài diễn từ, mạc khải này đỡ nâng các khẳng định tiếp sau: lệnh truyền và lời hứa. Đức Giêsu khẳng định quan hệ của Người với Thiên Chúa và vị trí hiện nay của Người: chính Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu (so sánh với 9,6.8; 11,27 và Đn 7,14), đã ban cho Người tất cả các quyền hành trên trời dưới đất. 

Theo lời rao giảng tiên khởi (kêrygma) của các tông đồ, do Phục Sinh, Người đã được đặt làm Đức Chúa (Kyrios) trên vũ trụ và làm Thẩm phán vào lúc tận thế. Trong thực tế, bản văn không nói cho biết là Người đã được Chúa Cha đặt để như thế khi nào, nhưng nhấn mạnh rằng quyền lực tối thượng này của Đấng Phục Sinh là vô biên (pasa) tự nó trong sự viên mãn và trong cường độ của nó: trong không gian, Đấng Phục Sinh hiển trị trên vũ hoàn (trời và đất), như trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhìn nhận là Chúa tể trời đất, nghĩa là Đấng Tạo hóa và Bảo toàn tất cả vũ trụ; và trong thời gian, Người hiển trị  bây giờ và cho đến tận thế.

Bây giờ, trong tư cách là Đấng đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng mạc khải cánh chung cho biết ý muốn của Thiên Chúa và là Đấng thực hiện dự phóng cứu độ của Ngài. Các môn đệ có thể hoàn toàn chắc chắn rằng họ được ban cho quyền này.  

Từ oun, “vậy”, gợi ý là lệnh truyền này là hậu quả của tuyên bố về quyền vũ hoàn của Đức Giêsu, là sứ mạng của Nhóm Mười Một phát xuất từ quyền bính của Đức Kitô. Tuy nhiên, lệnh truyền được ban cho toàn nhóm, điều này cho thấy rằng bổn phận truyền giáo là một nhiệm vụ của toàn thể cộng đoàn chứ không của một vài cá nhân. Uy quyền (c. 18) và sự hiện diện của Đức Giêsu (c. 20) sẽ cho các ông đủ tư cách và uy tín mà chu toàn bổn phận này.

Khi đi rao giảng, các môn đệ không chỉ trình bày, chỉ cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng (keryssein), nhưng là kiến tạo một cộng đoàn có quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu là kiểu mẫu cho sự hiệp thông với Người mà mọi dân tộc đang được đưa dẫn tới. Kể từ nay, kiểu mẫu này là chuẩn mực cho mọi ki-tô hữu: “môn đệ” có thể nói là định nghĩa ngắn nhất của ki-tô hữu. Được giao sứ mạng “làm ra các môn đệ”, Nhóm Mười Một đang hiện diện ở đây sẽ có thể rút ra từ đó biết bao hệ luận: một đàng, kinh nghiệm sống với Đức Giêsu phải luôn luôn là điểm qui chiếu cho họ trong hoạt động; đàng khác, tư cách môn đệ không phải là của riêng thuộc về những bạn đồng hành lịch sử của Đức Giêsu trần thế, trái lại đây là tư cách mà kể từ nay mỗi người được mời gọi đi vào. Tất cả đều được mời gọi trở thành”môn đệ Đức Giêsu”, vị Thầy duy nhất (x. 23,8.10).

Chiều hướng phổ quát đã được báo trước trong lời nhắc đến Abraham (1,1), trong truyện các đạo sĩ (2,1-12), vị sĩ quan Caphácnaum (8,5-13), bà Canaan (15,21-28), viên sĩ quan canh giữ Đức Giêsu trên đồi Sọ (27,54). Đi đến với các dân tộc đã là chọn lựa của Đức Giêsu, cho dù trong diễn từ truyền giáo (ch. 10), Người đã truyền các môn đệ là chỉ đi đến với các chiên lạc Israel thôi. Tính phổ quát truyền giáo này còn được báo trước ở 24,4 và 26,13, và bây giờ được khẳng định như là ý muốn chính xác của Đức Giêsu. Điều bị cấm trước đây ở 10,5 (anh em đừng đi tới vùng các dân ngoại) bây giờ được khuyến cáo thi hành (hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ): như đại đa số các lần xuất hiện, từ ethnç trong Mt có nghĩa chữ là Dân ngoại, lệnh này chỉ liên hệ đến Dân ngoại. Nhưng nếu Israel không còn là đối tượng của một sứ mạng đặc biệt, điều này không có nghĩa là Israel bị loại ra khỏi chân trời Phục Sinh. Rất có thể vào thời của cộng đoànMt, đã có một sự đoạn tuyệt giữa Giáo Hội và Hội đường; nhưng người Do-thái tiếp tục là một thực tại của cộng đoàn Mt. Nếu Israel bị kết án, mỗi người Do-thái vẫn có thể đến với cộng đoàn các môn đệ. Sẽ xuất hiện một cộng đoàn phổ quát trong đó mỗi người có một quan hệ trực tiếp và thân tình vừa với Đức Giêsu vừa với những người khác. Hoạt động của các môn đệ là một sự tiếp nối hoạt động của Đức Giêsu (4,23; 9,35; 11,1).

Để làm cho muôn dân thành môn đệ, hai việc các môn đệ phải làm là “làm phép rửa” nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và “giảng dạy”. Căn tính mới của Thiên Chúa là căn tính Cha, Con và Thánh Thần, mà người môn đệ bắt đầu quan hệ với qua bí tích thánh tẩy. Lệnh truyền giảng dạy đã được đặt vào cuối Tin Mừng, có thể là vì Mt coi nhiệm vụ giảng dạy như là nhiệm vụ cao nhất trong Hội Thánh. Nhóm Mười Một không được phép mở trường, nhưng tiếp tục học ở “trường” Đức Giêsu: các ông phải giảng dạy, như chính Đức Giêsu đã giảng dạy. Cho dù các ông đã nhận lãnh bổn phận giảng dạy, các ông sẽ phải mãi mãi duy trì chân tính môn đệ, bằng cách nhìn nhận và chấp nhận uy quyền của Đức Giêsu, bằng cách bây giờ tin vào Đức Giêsu như tin vào chính Thiên Chúa.

Đề tài giảng dạy đã có sẵn: các lệnh truyền của Đức Giêsu. TM Mt chứa biết bao lời giảng dạy của Đức Giêsu (trong năm diễn từ), nhưng nhất là giáo huấn của Bài giảng trên núi đáng được xét đến. Trong lệnh truyền giáo, Đấng Phục Sinh đã nói với các môn đệ là “dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (c. 20). Câu này chắc chắn qui về tất cả mọi lời nhắn nhủ, tất cả giáo huấn của Đức Giêsu trong TM Mt, nhưng đặc biệt qui về các lời nhắn nhủ trong Bài Giảng trên núi bởi vì Bài Giảng này chứa phần lớn những gì Đức Giêsu đã dạy các môn đệ và có một giọng thôi thúc người ta thực hiện các lời nhắn nhủ này (x. 7,13-27).

Tuy nhiên, Đấng nói đây không còn là vị Thầy trần thế nữa, nhưng là Đức Chúa Phục Sinh, “Đấng đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới đất”. Bây giờ, với uy quyền của Đấng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” trong mức viên mãn của sự Phục Sinh, Đức-Giêsu-đang-sống lấy lại giáo huấn của Bài Giảng trên núi và nhắc lại cho các thế hệ tương lai.

Mục tiêu không còn phải là chu toàn Lề Luật hoặc các Ngôn sứ, nhưng tuân giữ  “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”. Như thế, chính Đức Giêsu đặt mình vào vị trí của “Lề Luật hoặc các Ngôn sứ” (x. ngay ở 5,21-48 với các công thức “Anh em đã nghe [Luật] dạy người xưa / Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”), Người là Đấng lập pháp tối cao, diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa. Thái độ này khi đó và lệnh truyền hiện nay gửi trở lại với các công thức khác nhau của Cựu Ước trong đó chính Yhwh truyền lệnh cho dân Ngài là tuân giữ điều răn của Ngài (x. 2 Sb 33,8; Xh 34,32; Đnl 4,2; 12,14). Bây giờ Đức Giêsu thay thế Yhwh khi khẳng định ý muốn của Người. Và chắc chắn ý muốn thần linh này được tập trung nơi điều răn yêu thương, đỉnh cao và sự hoàn tất của Kinh Thánh (“Lề Luật hoặc các Ngôn sứ”: x. 22,40).

Tuy nhiên, hẳn là ta có thể nới rộng ý nghĩa của “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em” cho cả bốn bài diễn từ khác, bởi vì tác giả đã xác định rằng chúng cũng là những “chỉ thị/dụ ngôn/những điều” của Đức Giêsu (x. công thức kết luận mỗi bài diễn từ: 11,1; 13,53; 19,1; 26,1; x. 7,28-29). Vấn đề ở đây là các giáo huấn của Thầy về các điều kiện và bản chất của đời sống đích thực của người môn đệ và về nẻo đường thánh ý chân thực của Thiên Chúa, “nẻo đường công chính” (21,32).

Khi nói “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”, Đức Giêsu xác định giáo huấn của Người là như một lệnh truyền, như một đòi hỏi cấp bách (trong một ngữ cảnh tương tự, Mc nói đến “tin mừng”: 13,10; 14,9; Lc thì nói đến “hoán cải và tha thứ tội lỗi”: 24,47). Đấng Phục Sinh biến lời của Đức Giêsu trần thế thành chuẩn mực cho Hội Thánh mọi thời và “cho đến tận thế”. Sứ điệp của Đấng Phục Sinh được coi là đồng nhất với sứ điệp của Đức Giêsu trần thế.

Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20b). Egô meth’ hymôn eimi. Giới từ meta + thuộc cách có nghĩa là “với” nhằm diễn tả sự hiệp thông, sự hiệp nhất (cơ bản là riêng tư cá nhân), sự cộng tác, khi đó là tương quan của Đức Giêsu với những người khác: Đặc biệt 28,20 đáp lại khởi đầu Tin Mừng, khi mà Đức Giêsu được giới thiệu lúc chào đời như là Đấng mà “người ta sẽ gọi tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (1,23). Ở đây chúng ta có một thể đóng khung rất lớn bung mở ra chiều kích vũ hoàn của bản thân Đức Giêsu trên toàn thể lịch sử nhân loại, đồng thời vẫn nêu bật sự bám rễ của Người về phương diện xác thịt trong thời gian và không gian. Thực tại Emmanuel này được diễn tả xuyên qua toàn thể Tin Mừng: Vào lúc chào đời của Đức Giêsu (1,23); trong  khi hoạt động, Người hiện diện giữa nhóm môn đệ (9,15; 26,18.20.36.38.40; x. “Đức Giêsu dẹp yên biển động”, 8,23-27; egô eimi, 14,27); những lần Người tiếp xúc với người tội lỗi (9,11) và qua cái chết ban ơn cứu chuộc (26,28; x. 1,21; 17,17 so với Mc 9,19). Mt 28,20 hẳn là câu trả lời chung cuộc cho câu hỏi ấy. Bây giờ Người hứa ở với họ mãi mãi.

Trong Cựu Ước, bằng những thuật ngữ tương tự Ta sẽ ở với các ngươi mãi mãi, Yhwh thường đảm bảo với một tín hữu, một ngôn sứ, một thủ lãnh, toàn dân, nhất là trong bối cảnh một cuộc sai phái, là Người sẽ hiện diện, nghĩa là giúp đỡ tận tình, với lòng từ bi thương xót, để cứu độ.  ĐấngKyrios ban cho các môn đệ cũng một đảm bảo như Yhwh đã ban cho dân Ngài trong Cựu Ước. Người không thế chỗ cho các môn đệ, nhưng sẽ hiện diện với họ để nâng đỡ họ bằng sức mạnh, không do các đức tính hay các thành tích của các môn đệ, nhưng do sự trung tín hữu hiệu của Đấng đã đưa các lời hứa trong Kinh Thánh đến chỗ hoàn tất. Khi nói “tất cả các ngày”, Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ, và nhắm đến tận thế, “lúc kết thúc thời gian của thế giới này”.

+ Kết luận

Trên núi Galilê (28,16; x. 5,1), Đức Giêsu Phục Sinh, đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, tỏ mình ra như là Đấng mạc khải tối hậu của Thiên Chúa và Đấng lập pháp vĩnh viễn, nay cử các môn đệ đi đến với mọi dân tộc. Trong Cựu Ước, núi Sinai xuất hiện ra như là quả núi của mạc khải và của Giao ước, trên đó Thiên Chúa tự tỏ mình ra và thông ban các điều răn của Ngài (Xh19,1–24,11). Từ Sinai, dân Israel bắt đầu cuộc hành trình tiến về Đất hứa; trên núi Galilê, Đức Giêsu đích thân, trong tư cách Đấng Phục Sinh, tức đã đi vào trong đời sống Thiên Chúa, cho thấy đâu là mục tiêu của mỗi người trong “tất cả các dân tộc”.

Các lời kết thúc của Đức Giêsu đã đón nhận lấy các nội dung chính của TM Mt về sứ vụ không biên giới của các môn đệ. Điều này còn cho thấy một lần nữa chiều hướng tổng hợp hướng về sứ vụ phổ quát như là nét tiêu biểu của Tin Mừng này.

5- Gợi ý suy niệm

1. Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm

Không dễ gì mà tiếp cận với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay. Đây là một trong những đại lễ dường như ở hơi xa đời sống chúng ta. Tuy vậy, chúng ta vẫn nhớ những bài học giáo lý khi còn bé bảo rằng Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm trọn vẹn đời sống chúng ta; và ý tưởng này vẫn cung cấp sức mạnh và sự tin tưởng cho chúng ta và nhắc chúng ta nhớ rằng đây là một thực tại sống động. Các bài Lời Chúa hôm nay có góp phần làm sáng tỏ mầu nhiệm này. Trong bài đọc thứ nhất, Môsê đã mời gọi dân chúng: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa”. Nếu tôi đi ngược lại thời gian cho đến “những thời xa xưa”, tôi cũng sẽ sống lại kinh nghiệm của dân Israel: tôi ghi nhận sự hiện diện thường trực của Thiên Chúa, Đấng đã chọn lựa tôi từ thuở đời đời, rồi vẫn hiện diện trong cuộc sống thường ngày tầm thương của tôi, tỏ mình ra qua những dấu chỉ, nâng đỡ tôi trong các thử thách, bung mở các việc kỳ diệu ra trong thế giới.

2. Ở trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong lòng

Khi đó, ở trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong lòng, có nghĩa là trước tiên ý thức rằng lịch sử chúng ta có gốc rễ rất xa, từ bao đời vẫn ở trong tay Thiên Chúa, Ngài vẫn dẫn dắt cuộc sống chúng ta, vì trung thành với lời đã hứa.

Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc lại rằng vị Thiên Chúa này, Đấng ban sự sống, đã thổi Thần Khí của Ngài vào chúng ta, để nhờ Thần Khí, Ngài giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và nỗi sợ hãi, và làm cho chúng ta thành conc ái Ngài, khiến chúng ta có thể gọi Ngài là Cha. Ở trong lòng Ba Ngôi và có Ba Ngôi trong lòng, khi đó, cũng có nghĩa là ý thức về ân huệ Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ban cho ta, để cho Ngài dẫn dắt và biến đổi đời sống chúng ta, sống kinh nghiệm tự do nội tâm, một kinh nghiệm phát sinh từ cảm nhận chúng ta được yêu thương như là những người con và là kinh nghiệm mạnh hơn mọi nỗi sợ hãi, mọi đau khổ.

3. Đức Giêsu Phục Sinh sai phái các tông đồ

Cuối cùng, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với các tông đồ, truyền họ ra đi và tiếp nối công trình của Người nhân danh Ba Ngôi vị thần linh, bảo đảm với họ rằng Người sẽ hiện diện với họ mọi ngày cho đến tận thế. Ở trong lòng Ba Ngôi và có Ba Ngôi trong lòng, cuối cùng, có nghĩa là có cặp mắt có khả năng nhận ra Đức Giêsu, vị Thiên Chúa làm người, ngay tại những nơi của đời sống mà Người cho ta làm điểm hẹn, và ra đi trong Thánh Thần, để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa cho mỗi người, để làm cho mọi người sống nhờ hơi thở của Thiên Chúa.

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông

“Mặc Khải Một Chúa Ba Ngôi” không thuộc phạm vi của Cựu Ước. Cựu Ước bận lòng gìn giữ sự tinh tuyền độc thần giáo không ngừng bị đe dọa bởi ảnh hưởng của các tôn giáo đa thần chung quanh.

“Mặc Khải Một Chúa Ba Ngôi” không thuộc phạm vi của Cựu Ước. Cựu Ước bận lòng gìn giữ sự tinh tuyền độc thần giáo không ngừng bị đe dọa bởi ảnh hưởng của các tôn giáo đa thần chung quanh.

Tuy nhiên, các bản văn Kinh Thánh để lộ ra vài tiên cảm về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: tầm quan trọng được ban cho Thần Khí Thiên Chúa, ngôi vị hóa dần dần của Lời, đoạn của Đức Khôn Ngoan, nhất là trong những tác phẩm muộn thời.

Ngôi Lời Nhập Thể mặc khải Chúa Cha và Chúa Thánh Thần và sự hiệp nhất của hai Ngôi Vị này với Chúa Con trong một sự hiệp thông tròn đầy tình yêu, một sự tuôn tràn liên tục, một sự đổi trao thường hằng. Vì thế, bản tính của Thiên Chúa là sự trao ban không ngừng nghỉ. Chính nhờ tình yêu tự hiến của Chúa Con và sự sai phái của Chúa Thánh Thần mà sự trao ban này giúp nhân loại được dự phần  vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Như vậy, mặc khải Một Thiên Chúa Ba Ngôi Vị là một dữ kiện đặc biệt của Ki-tô giáo, phân biệt với hai tôn giáo độc thần khác: Do thái giáo và Hồi giáo. Vào ngày lễ Chúa Ba Ngôi này, ba bài đọc lần lượt nêu bật Ba Ngôi Thiên Chúa.

Đnl 4: 32-34, 39-40

Bài đọc I, trích từ sách Đệ Nhị Luật, ca ngợi sự cao vời khôn ví của Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất, siêu việt và hoàn vũ. Đây là dung mạo của Chúa Cha.

Rm 8: 14-17

Trong bài đọc II được trích từ thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô cho thấy tác động biến đổi của Chúa Thánh Thần trên cuộc sống của người Ki-tô hữu.

Mt 28: 16-20

Bài đọc III là phần kết thúc Tin Mừng Mát-thêu: Chúa Con Phục Sinh công bố mình là Chúa Tể hoàn vũ, căn nguyên ơn cứu độ cho muôn dân muôn nước và thường hằng phù trợ Giáo Hội của Ngài.

BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 32-40)

Bài đọc I được trích từ sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư, được gọi là sách Đệ Nhị Luật, hay đơn giản là sách “Luật Thứ Hai”. Tuy nhiên, sách không lập lại Luật được diễn tả trong các sách trước đó (sách Xuất Hành, sách Dân Số, sách Lê-vi); sách này đánh dấu những phát triển mới để thích ứng luật vào hoàn cảnh của một dân đang định cư và thậm chí đã an cư lập nghiệp đến nỗi có nguy cơ quên ơn gọi của mình.

“Luật Thứ Hai” này, được hư cấu trên môi miệng của ông Mô-sê, muốn nói lên rằng nó chỉ là khai triển luật của ông Mô-sê. Ông Mô-sê được cho là đang ngỏ lời với dân Ít-ra-en trước khi dân tiến vào Đất Hứa, nhưng thật ra đây là những thế hệ sau này được mời gọi trung thành với Đức Chúa của mình.

Sách Đệ Nhị Luật có chủ ý nhấn mạnh trên những nền tảng lịch sử và thần học của Luật. Đoạn trích mà chúng ta đọc hôm nay thật là có ý nghĩa về phương diện này. 

1. Nền tảng lịch sử của Luật (4: 32-34):

Bản văn rất nổi tiếng, được soạn thảo theo văn phong đầy cảm xúc, ca ngợi việc Chúa chọn dân Ít-ra-en với cung giọng nồng nàn. Việc tuyển chọn này đem lại ý nghĩa cho những đòi hỏi của Luật.

Sự kiện vài ngàn người thoát khỏi kiếp sống nô lệ bên đất Ai-cập xem ra chẳng có nghĩa lý gì trong lịch sử chung của thế giới; nhưng thật ra, đây là một biến cố độc nhất vô nhị: Thiên Chúa can thiệp minh nhiên đầu tiên vào lịch sử thánh kể từ ngày khai thiên lập địa đến nay, vì Thiên Chúa đã chọn cho mình một dân giữa muôn dân: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng?”.

Lúc đó, bằng những ám chỉ, tác giả gợi lên những diễn biến của lịch sử đầy kinh ngạc này. Trước hết, tác giả nhắc nhớ biến cố chủ chốt: Thiên Chúa đã tỏ mình ra trên núi Xi-nai; mọi người đều được nghe tiếng Ngài mà không phải chết.

Chúng ta lưu ý trong diễn từ này, ông Mô-sê không nói lên kinh nghiệm của riêng mình nhưng kinh nghiệm của dân chúng về Thiên Chúa. Quả thật, đó là một viễn cảnh rất hiển nhiên trong sách Đệ Nhị Luật: dân Ít-ra-en được xem như một cá thể, một chủ thể duy nhất, đồng nhất với chính mình qua muôn thế hệ.

Tiếp đó, người kể chuyện còn đi ngược dòng thời gian lên đến cuộc ra đi khỏi đất Ai-cập: “Hoặc có vị thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dùng cách tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đỡm, như Đức Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” Chúng ta có thể nói Thiên Chúa đã “bứng” dân Do thái khỏi đất Ai-cập để làm thành dân riêng của Ngài.

“đã dùng bao thử thách” ám chỉ đến những gian truân vất vả trong sa mạc: đói khát, mệt mõi, lang bạc rày đây mai đó, vân vân

“dấu lạ, điềm thiêng”: nào là nước phun vọt ra từ tảng đá, bánh man-na rơi xuống từ trời, chim cút rơi trên mặt đất, vân vân.

“chinh chiến”: tác giả dành một chỗ lớn cho những cuộc chiến; ông vừa mới kể dong dài cuộc chinh phục đầy gian khổ ở bên kia sông Gio-đan; ông bày tỏ lý tưởng quốc gia chinh chiến, mà ông biết làm cho nó đồng hiện diện với lời dạy về một tôn giáo nội tâm.

“đã dùng cánh tay mạnh mẽ uy quyền”: đây là kiểu nói “như nhân”, kiểu nói này diễn tả vừa tính chất siêu việt của Thiên Chúa Ít-ra-en: Đấng hoàn toàn khác, vừa tính cách rất mực gần gũi của Ngài: Đấng làm cho mình trở nên gần gũi với nhân loại hơn, trở nên sống động với dân Ngài hơn. Đây cũng là cách thức nhấn mạnh sự bất lực và tính bất tất của các thần linh ngoại giáo.

Sau cùng, tác giả ngược dòng thời gian xa hơn nữa khi ám chỉ đến những chiến công gây kinh hoàng mà Thiên Chúa đã làm tại Ai-cập, nghĩa là những tai ương giáng xuống trên dân Ai-cập để buộc Pha-ra-ô phải để cho dân Do thái ra đi.

Sau khi Thiên Chúa đã bày tỏ biết bao ân cần của Ngài đối với dân, làm thế nào dân Chúa chọn có thể lại bất trung với Ngài được chứ?

2. Nền tảng thần học của Lề Luật (4: 39-40)

“Hôm nay đây, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều này”. Những lời này hình thành nên lời khuyên bảo đạo lý đầu tiên tiêu biểu trong toàn bộ sách này. Tôn giáo mà sách Đệ Nhị Luật dạy không quy chiếu đến việc tuân giữ Lề Luật chi li, nhưng kêu gọi đến những tư thế sẳn sàng nội tâm và tình yêu đối với Thiên Chúa.

Vị Thiên Chúa này, hiện diện trong lịch sử, chính là Đấng Sáng Tạo, Ngài ngự trị “trên cõi trời cũng như dưới mặt đất, chính Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, chứ không có Thiên Chúa nào khác”.

Lời nhắc nhở đến “Độc Thần giáo tuyệt đối” chắc chắn là cần thiết vào lúc này. Một phần sách Đệ Nhị Luật xem ra đã được các thầy Lê-vi thuộc vương quốc miền Bắc soạn thảo kể từ thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, vào thời kỳ bội giáo của vương quốc này; nhưng rồi vào thế kỷ tiếp sau đó, vương quốc miền Nam, đến phiên mình, phạm tội thờ ngẫu tượng. Lời khẳng định về Thiên Chúa chân thật, duy nhất và siêu việt, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en đòi hỏi phải vâng phục và yêu mến Ngài, chính là lời nhắc nhở thần học căn bản, đối mặt với những việc cúng tế đa thần giáo của dân Ca-na-an.

“Vậy, các giới răn và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền đạt cho anh em, anh em phải tuân hành”. Từ “hôm nay” của sách Đệ Nhị Luật nhấn mạnh giá trị thường hằng của những huấn lệnh Thiên Chúa. Tuân hành chúng là nguồn phúc lộc ở dưới thế này: “hạnh phúc và trường thọ”. Vào thời này, trong Kinh Thánh chưa có những viễn cảnh về những ân thưởng bên kia nấm mồ.

BÀI ĐỌC II (Rm 8: 14-17)

Thánh Phao-lô viết thư này từ Cô-rin-tô, vào mùa xuân 57-58, để chuẩn bị cho cuộc hành trình đến Rô-ma. Tuy nhiên, dự định đã không thành vì thánh nhân bị bắt vào mùa xuân năm sau ở Giê-ru-sa-lem. Chính trong cảnh giam cầm mà thánh nhân bị giải đến thủ đô của Đế Quốc vào đầu năm 61.

Trong những thư của thánh Phao-lô, thư gởi các tín hữu Rô-ma là thư dài nhất và quan trọng nhất về phương diện đạo lý. Sau bức tranh ảm đạm về nhân loại bị giam hãm trong tội lỗi, thánh nhân phác họa một bức tranh đầy an ủi về việc nhân loại được tái sinh và sống theo Thần Khí. Đây là chủ đề của chương 8 này.

1. Ơn nghĩa tử:

Thánh nhân ngỏ lời với những người chịu phép rửa, nhờ phép rửa, họ trở thành con cái Thiên Chúa. Thánh nhân khích lệ họ sống cho xứng đáng với phẩm chất này và mời gọi họ sống cuộc sống nội tâm, một cuộc sống cho phép họ lắng nghe Thần Khí, vì Thần Khí sở hữu quyền năng biến đổi.

Như vậy, Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử chứ không trở thành nô lệ. Vào thời đại này, sự sánh ví này rất hùng hồn. Người nô lệ là người không có quyền lợi gì, không sở hữu bất cứ điều gì, sống trong nsợ hãi ông chủ của mình. Chỉ có người con mới có thể ngỏ lời với cha mình “Cha ơi!”trọn một tấm lòng yêu thương và tin tưởng.

2. Đồng thừa kế với Đức Ki tô

Người con chẳng những chắc chắn hưởng được lòng yêu thương trìu mến của cha mình, mà còn có quyền thừa kế nữa. Người Ki-tô hữu là con cái của Chúa Cha nhờ Đức Ki-tô, Con Một của Thiên Chúa; và với Đức Ki-tô, họ trở nên đồng thừa tự những thiện hảo của Nước Trời. Một viễn cảnh như thế thì trái với pháp lý Do thái, nhưng hợp với luật Hy-lạp và Rô-ma, người con nuôi được hưởng quyền thừa kế như người con ruột. Như vậy, thánh nhân nhấn mạnh ơn ban nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần.

Nhưng nếu ơn nghĩa tử này làm cho người Ki tô hữu nên anh chị em của Đức Ki-tô, thì nó lôi kéo họ vào trong những gian truân và cái chết của Ngài, trước khi cho họ được dự phần vào vinh quang của Ngài. Thánh nhân không làm dịu đi sứ điệp của mình.

TIN MỪNG (Mt 28: 16-20)

Chính trên hoạt cảnh uy nghi và hùng vĩ này mà sách Tin Mừng Mát-thêu kết thúc: trên một ngọn núi thuộc miền Ga-li-lê, Đức Ki-tô Phục Sinh hiện ra cho nhóm Mười Một, họ phủ phục dưới chân Ngài. Ngài mặc khải quyền chủ tể hoàn vũ của Ngài và truyền lệnh cho họ loan báo Tin Mừng cho khắp thiên hạ, bằng cách đảm bảo với họ ơn phù trợ của Ngài.

Thánh Mát-thêu không tường thuật bất cứ lần hiện ra nào của Đức Giê-su với nhóm Mười Một này sau khi Ngài sống lại ngoại trừ lần hiện ra này, bởi vì thánh ký tập trung chứng từ về cuộc sống của Đấng Phục Sinh và những lời căn dặn sau cùng của Ngài vào cuộc gặp gỡ duy nhất này. Như vậy, biến cố này mang lấy một chiều kích đặc biệt.

1. Miền Ga-li-lê.

Sự kiện xảy ra ở miền Ga-li-lê. Chính ở đó mà Đức Giê-su đã ba lần hẹn gặp các Tông Đồ của Ngài. Lần thứ nhất, Ngài đã báo trước việc thánh Phê-rô sẽ chối Ngài và các ông sẽ vấp ngã vì Ngài: “Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (26: 32). Lần thứ hai vào buổi sáng Phục Sinh, sứ thần đã nói với các người phụ nữ: “Các bà…mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông” (29: 7). Lần thứ ba, Đức Giê-su đã lập lại cùng một sứ điệp: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (28: 10). Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất nhắc lại ba lần cuộc hẹn gặp ở Ga-li-lê này, trong khi thánh Lu-ca đặt cuộc gặp gỡ sau cùng của Đức Giê-su với các Tông Đồ của Ngài ở Giê-ru-sa-lem. Thánh Mát-thêu không thích thành đô Giê-ru-sa-lem vì nó đã phản bội sứ mạng của mình, vì thế thánh ký dành cho miền Ga-li-lê sứ điệp tối thượng của Đức Giê-su.

Cuộc gặp gỡ được định vị trên một ngọn núi, ngọn núi nào chẳng quan trọng gì: ngọn núi chỉ là biểu tượng. Không phải lời dạy về các mối phúc được vang lên trên núi sao?

2. Họ phủ phục

“Khi thấy Người, các ông phủ phục, nhưng có mấy ông lại hoài nghi”.

Dường như chúng ta có ở đây một hoạt cảnh sóng đôi với những hoạt cảnh mà ở đó thánh Mác-cô và thánh Lu-ca mô tả những hoài nghi như thế: “Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng” (Mc 16: 14). Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em ngờ vực…” (Lc 24: 36).

Đức Giê-su tiến lại gần họ để họ nhận ra Ngài rõ hơn. Sau khi đã trấn an họ, Ngài cho họ dự phần vào vinh quang của Ngài và trao phó cho họ sứ mạng tối hậu của Ngài.

3. “Thầy đã được trao quyền trên trời dưới đất”

Quyền thống trị hoàn vũ này đã được ngôn sứ Đa-ni-en loan báo về một nhân vật mầu nhiệm với tược vị “Con Người” rồi: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 14).

Tiếp đó, Đức Giê-su trao cho các Tông Đồ sứ mạng loan báo Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

Đây là một trong những ghi chú về Thiên Chúa Ba Ngôi rõ nét nhất trong toàn bộ sách Tin Mừng Mát-thêu. Quả thật, phép rửa của Chúa Giê-su đã bày tỏ Ba Ngôi Thiên Chúa: “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3: 16-17).

Chính ở dưới dấu hiệu Ba Ngôi Thiên Chúa này mà phép rửa Ki-tô giáo được ban cho. Biểu thức mà thánh Mát-thêu trích dẫn là biểu thức Phép Rửa được Giáo Hội dùng rất sớm. Trong chứng liệu rất cổ xưa thuộc cuối thế kỷ thứ nhất, sách “Didaché” (hay “Đạo lý của Mười Hai Tông Đồ”), sưu tập giáo lý và phụng vụ, chúng ta gặp thấy những hàng này: “Khi phép rửa bởi việc dìm mình vào trong nước không thể, phải rửa trong nước thông thường bằng cách đổ nước ba lần trên đầu nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Didaché 7, 3). Biểu thức Ba Ngôi của thánh Mát-thêu càng quý hơn nữa nếu chúng ta so sánh với biểu thức của thánh Phao-lô: “Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Giê-su Ki-tô” (Rm 6: 3; Gl 3: 27), hoặc“Chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí” (1Cr 12: 13), hay với sách Công Vụ: “Họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su” (Cv 8: 16; 19: 5).

4. “Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”

Chúng ta nên lưu ý rằng trong diễn từ này Đức Giê-su nói theo cùng uy quyền và hầu như với cùng những ngôn từ như Đức Chúa của sách Đệ Nhị Luật mà ông Mô-sê nhắc lại sự cao vời khôn ví của Ngài và truyền đạt sứ điệp của Ngài: “Trên cõi trời cũng như dưới mặt đất, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Thiên Chúa nào khác. Vậy, các giới răn và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền đạt cho anh em, anh em phải tuân hành…”.

5. “Còn Thầy, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”

Ở đây, Chúa Giê-su không nói như một lời hứa: “Thầy sẽ ở cùng anh em”, nhưng như một lời khẳng định: “Thầy ở cùng anh em”. Đây là một lời khẳng định tuyệt vời nhất về sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính nhờ sự hiện diện của Thiên Chúa trong suốt chiều dài lịch sử mà dân Ít-ra-en đã được hình thành và được phù trợ. Đó cũng lời khẳng định hình thành nên dân Thiên Chúa mới, tức Giáo Hội, được đảm bảo bởi sự phù trợ của Đức Ki-tô mọi ngày cho đến tận thế.

Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng, thánh ký, rất nhạy bén trước chiều kích phổ quát của ơn cứu độ, hoàn tất tác phẩm của mình trên viễn cảnh mênh mông về cuộc hoán cải của muôn dân.

Bài 3. Chú giải của Noel Quesson: Mười một môn đệ đi tới miền Galilê

Riêng câu này cũng đủ nói cho chúng ta biết “Giáo Hội là ai”. Đó là Hội Thánh của những quốc gia ngoại giáo. Những môn đệ được chính Chúa Giêsu mời gọi rời bỏ Giêrusalem (Mt 28,7), cho đến lúc bấy giờ vẫn là trung tâm địa lý của Đức Tin, nơi Thiên Chúa hiện diện. Theo Thánh Matthêu, không có sự hiện ra “chính thức” với các tông đồ tại Giêrusalem. Chúa trao phó sứ mạng cho các phụ nữ một cách riêng tư, Người triệu tập các tông đồ đến “miền Galilê của chư quốc”, một tỉnh có nhiều dân tứ xứ vãng lai – Hội thánh bắt đầu tại Galilê, vùng này thay thế cho Giêrusalem và trở thành trung tâm phát triển của cộng đoàn mới. Trong những chương đầu, Matthêu cho thấy tính cách bí nhiệm của các “Đạo sĩ phương Đông”, họ đến từ những vùng ngoại giáo, sấp mình thờ lạy Giêsu Hài Nhi, trong khi đó, Giêrusalem lại không đón tiếp Người.

Phải chăng tôi có quan niệm như thế về Giáo Hội?

Một Giáo Hội mở rộng loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới, chứ không đóng kín trong những bức tường.

Đến những ngọn núi Chúa Giêsu đã hẹn với các ông

Chữ “Eklésia”(Giáo Hội) trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “tập họp những người được triệu tập”. Kitô hữu là những người được Đức Giêsu Phục Sinh triệu tập. Mỗi Chúa Nhật khi đến với Bí tích Thánh Thể, tôi có ý thức rằng, không phải tôi có sáng kiến này, mà Đức Giêsu đã triệu tập tôi. Tôi đáp lại lời mời trước tiên, đức tin của tôi không phải là một mớ kiến thức, mà là sự đáp trảvới đấng đã kêu gọi tôi “trên núi”.

Trong Tin Mừng của Matthêu, người ta không bao giờ nói núi đó là núi nào. Nhưng trái lại, phải chăng là tình cờ, núi là địa điểm tốt nhất cho sự mạc khải của Thiên Chúa. Chính ở trên “núi cao”, Đức Giêsu đã tuyên bố diễn văn khai mạc tức là “Bài giảng trên núi”(Mt 5,1–8,1). Người cũng đã cầu nguyện, hoá bánh ra nhiều và biến hình trước mặt các tông đồ của người ở trên núi cao.

Tôi để biểu tượng này in sâu trong tôi.

Tôi để cho Đức Giêsu triệu tập tôi trên núi cao.

Tôi chấp nhận mở rộng nhãn giới của tôi. Phong cảnh Đức Giêsu mời gọi tôi thật hùng vĩ.

Người ta thoải mái hít thở không khí ở trên đỉnh cao.

Khi thấy Người các ông sụp lạy

Đó là cử điệu Phụng vụ mà những người trẻ sẽ thực hiện lại, và dân chúng phương Đông thường làm một cách tự phát: Nằm dài trên mặt đất hay ít nhất là cúi rạp, trán chạm đất. Đây là cử chỉ tôn thờ long trọng. Cử điệu cao quí nhất mà con người có thể làm hiện được. Trong tin mừng Thánh Matthêu, sự sụp lạy này cũng được các tông đồ thực hiện trong chiếc thuyền, khi thuyền đã được cứu khỏi cơn phong ba bão táp (Mt 14, 33). Đó cũng là cử điệu của ba nhà Đạo sĩ ngoại giáo (2,11), của người bệnh phong (8,12), và của một phụ nữ Canaan, một người ngoại đạo khác (15,25).

Tôi có bao giờ thờ lạy như thế không? Nghĩa là thầm lặng suy niệm về sự oai nghi của đấng đang ở trước mặt tôi chăng?

Nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giêsu đến gần

Giáo Hội dâng lễ tế để tôn thờ Thiên Chúa vẫn còn là một Giáo Hội của những người tội lỗi. Đức tin của những con người. Đức tin của những tông đồ đầu tiên (cũng như đức tin của chúng ta) vẫn còn là một đức tin pha trộn hoài nghi và nước đôi, đó là một đức tin còn đang di hành. Giáo hội đón tiếp Đức Giêsu vẫn là một Giáo Hội của những người “yếu đức tin” (Mt 14,31), bị hư mất một người, chỉ còn 11 trong số 12 người đã được chọn. Đức Giêsu không ngạc nhiên về điều này. Người đến gần họ như ngày người đã biến hình (Mt 17,7). Lạy Chúa xin hãy đến. Xin Chúa hãy đến gần hơn. “Maranatha”. Lạy Chúa xin thương xót chúng con và tất cả những người đã không tuyên xưng Đức tin một cách hoàn toàn và rõ ràng. Xin Chúa thương xót biết bao bạn trẻ, biết bao con người thời nay “không đạt đến đức tin”. Xin Chúa thương xót con, vì đôi khi đức tin của con cũng hoài nghi.

Người nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi đến muôn dân và kết nạp môn đệ… Dậy họ tuân giữ những điều răn… Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

Lời của Đức Giêsu phục sinh nói trên đây oai nghi biết bao!

Sau cuộc sống khiêm nhường thành Nagiarét, giờ đây sự thật đã tỏ lộ. Bên ngoài, đây có vẻ như là tramg cuối của một câu truyện, giai đoạn kết thúc của cuộc sống một con người, nhưng thực ra đây là khởi đầu của một cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất trong các thời đại, không thể giải thích được bằng những tiêu chuẩn bình thường của lịch sử.

Chúng ta nên lưu ý đến tầm quan trọng của tất cả tĩnh từ “tất cả, toàn thể” đã được lập lại tới bốn lần. Nhắc lại bốn lần từ “toàn thể”, nhắc lại bốn lần từ “trọn vẹn” là để biểu lộ hành động của Đức Giêsu. Đó là tính trọn vẹn – toàn diện trong hành động của Thiên Chúa, Đấng đã chấp nhận thân xác trong toàn diện hành động của con người, theo suốt dòng thời gian trôi chảy! Nên đọc lại tư tưởng của Cha Teihard de Chardin. Dưới đây là là một trích đoạn: “xét về mặt vật lý, Đức Kitô là Đấng choán phủ tất cả: Không có một yếu tố nào trong vũ trụ, vào bất cứ một giây phút nào của trần gian, chuyển hành mà lại không di chuyển, và không bao giờ được vận hành ngoài tầm hướng dẫn của Người cả. Không gian và thời gian đã ngập đầy sự hiện diện của Người. Cũng xét về mặt thể lý, Đức Kitô là Đấng “tiêu thụ” tất cả: trọn vẹn vũ trụ chỉ được hoàn tất trong một tổng hợp cuối cùng, mà ở đó có một ý thức siêu việt sẽ biểu lộ trên mọi yếu tố phức tạp cho dù đã được cấu tạo một cách tuyệt vời. Mọi con người sẽ hội tụ và cùng kết nối lại với nhau trong Người. Chính Đức Kitô sẽ tạo cho toàn bộ công trình vật chất và tinh thần độ bền vững mãi.

Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Chúa Cha chỉ là “Cha”, vì Người quên mình hoàn toàn, để chuyển trọn vẹn sang Ngôi Con. Chúa Con chỉ là “Con” vì Người quên mình để trọn vẹn “tự hiến dâng” cho Chúa Cha – Chúa Thánh Thần sẽ không là gì cả nếu Người không phải là tình yêu hỗ tương của Chúa Cha và Chúa Con, Thiên Chúa là Tình yêu.

Chương trình lớn lao của Thiên Chúa, mà Đức Giêsu đã giao cho các tông đồ, cho Giáo Hội, nhằm “nhận dìm” (đấy là nghĩa chữ Hy Lạp baptizô) nhân loại trong tương quan tình yêu liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. “Dấu” rửa tội đúng là dấu Thánh Giá; đó là “cuộc sống cho tha nhân”. Chúng ta được rửa tội nhân danh tình yêu. Chúng ta được “nhận dìm” trong nguồn tình yêu đó – Đấy là “chương trình” của Giáo Hội.

Đôi khi người ta tự hỏi Đức Giêsu đã muốn sáng lập Giáo Hội nào? Chắc chắn, Đức Kitô đã không nghĩ đến nước Vatican, đến các vị Giám mục đội mão, đến những văn phòng hành chánh, những kiến trúc tôn giáo hay những nghi lễ trọng thể của Giáo Hội, giống như những triều đình vua chúa ngày xưa.

Nói điều này để chúng ta đừng đóng khung Giáo Hội sống động trong những bộ mặt trần thế mà Giáo Hội đã có trong một số thời đại. Điều Đức Kitô muốn đó là “Tập hợp tất cả mọi người trong tình yêu” – Chúa là tình yêu – Chúa là cộng đồng những người thương yêu nhau tronh hiệp nhất của Chúa Thánh Thần – phải tìm điều cốt yếu của Giáo hội trong bản tính của Chúa Ba Ngôi.

Những người thấy tôi sốt sắng, tôi được “nhận dìm”, “được rửa tội” trong Chúa Ba Ngôi tình yêu, những người quan sát những nhóm mà tôi đang sống: Gia đình, nhóm làm việc với tôi, họ có thể cảm thấy “tôi đã được rửa tội nhân danh ai”?

Anh em hãy dạy bảo họ giữ những điều Thầy đã dạy cho anh em.

Đức Giêsu đã truyền dạy những điều răn nào? Đó là giới răn tình thương. “Người ta sẽ nhận các con là môn đệ của Thầy, ở điều này, nếu các con yêu thương nhau”. Không phải cứ được rửa tội là đủ – phải tỏ ra là “môn đệ” của Đức Giêsu bằng mọi hành động trong cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, giáo lý không phải là một bài phải học mà là một tập luyện sống “theo tình thương”

Và đây; Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

Lời hứa “Thầy ở cùng” trên đây rất mạnh nghĩa. Cũng như trong Tin Mừng Thánh Gioan, ta đoán nhận ra trong lời phát biểu đó, cung cách của “Giavê”trong Cựu ước. Hơn nữa, theo lối hành văn của người Sêmít, ở đây ta nhận thấy, để kết thúc Tin mừng của mình, Matthêu đã lập lại tư tưởng đã đề cập ở đầu sách: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Khi báo tin cho Thánh Giuse (Mt 1,23), Thiên sứ đã nói con trẻ sẽ được gọi là Emmanuel, vậy mà Thánh Giuse đã đặt tên Chúa là Giêsu: Nhưng trong dòng cuối của Tin Mừng, Thánh Matthêu đã giải thích bí mật này: Đức Giêsu Phục sinh, chính là “Chúa ở cùng chúng ta”.

“Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa”.

Bài 4. Chú giải của Fiches Dominicales: HÃY RỬA TỘI CHO HỌ NHÂN DANH CHÚA CHA, VÀ CHÚA CON, VÀ CHÚA THÁNH THẦN

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đoạn mở đầu

Đây là đoạn kết thúc Tin Mừng Matthêu: một kết thúc dưới dạng mở ra.

Thực vậy, trong Tin Mừng về thời thơ ấu, Matthêu mời ta chiêm ngắm trong cuộc hạ sinh của Đức Giêsu tại Bêlem, thành của Đavid, sự ứng nghiệm lời tiên tri về “Emmanuel”, “Thiên Chúa với ta” (Is 7) và miêu tả trong các vị đạo sĩ đến từ Phương Đông hình ảnh của những người dân ngoại tiên phong đã tin vào Đức Kitô và họ sấp mình thờ lạy người”.

Trong đoạn kết thúc, rõ ràng Tin Mừng nhắc lại nguyên văn những kiểu nói trên để thuật lại cuộc gặp gỡ cuối cùng tại Galilê của Đấng Phục sinh với các môn đệ: “Khi họ thấy Người, họ sấp mình thờ lạy”. Đức Giêsu liền sai họ đi truyền giáo cho “tất cả các dân tộc”, và người long trọng tuyên bố với họ: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”.

J. Radermakers chú giải: “Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đọan mở đầu; đó là một bao hàm vĩ đại, con người Đức Giêsu mở một chiều kích phổ quát trên toàn thể lịch sử nhân loại, mà vẫn không quên nguồn gốc xác thân của Người đâm rễ trong thời gian và không gian” (Au fil de l’évangile selon saint Matthieu, lnstitut d’etudes Théologiques, Bruxelles, 1974, trang 362).

2. Một đoạn kết dưới hình thức mở ra

Sau phục sinh, Đức Giêsu đã chọn điểm hẹn với các môn đệ không phải ở Giêrusalem, thủ đô, thành thánh, như trong Tin Mừng Luca, nhưng là “Galilê” bị khinh miệt, “nơi qui tụ các dân”. (Mt 4,12-23), biểu tượng của thế giới dân ngoại.

“Cũng thế Giáo Hội phải rời Giêrusalem, hồi đó vẫn được coi là trung tâm địa lý của đức tin, để lên đường đi tới “Galilê của dân ngoại”. Một Giáo Hội được định nghĩa là Giáo Hội cho trần gian”: đó chính là sứ mệnh của Giáo Hội như Đức Giêsu sẽ định rõ sau này” (“Cahiers-evangile” số 9, trang 6).

Nơi mà Đức Giêsu truyền họ đi tới, đó là “ngọn núi”, nơi dành riêng cho các mạc khải thần linh. Hơn nữa, ở đây cũng như dọc dài suốt Tin Mừng của Ngài, thánh Matthêu luôn trình bày Đức Giêsu như Môsê mới ban Lề Luật cho dân mới của Thiên Chúa.

Claude Tassin chú thích: “Như những hình ảnh trong phim nối tiếp nhau, ta thấy lại ngọn núi nơi ma quỉ chỉ cho Đức Giêsu các vương quốc trần gian, ngọn núi Tám mối phúc nơi vị Tôn sư công bố hiến chương Nước Trời ngọn núi biến hình nơi vinh quang Con Người được hiển lộ, và sừng sững uy nghi phủ trên tất cả là bóng ngọn Nêbô cao vời (Tl 34) nơi Môsê nói lời giã từ khi dân chúng tiến về Đất Hứa” (Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Centurion, trang 303).

- Khi thấy Đức Giêsu, các môn đệ “sấp mình thờ lạy”. Đó là một cử chỉ tỏ lòng kính trọng mang màu sắc tôn giáo và phụng vụ như khi các đạo sĩ thấy con trẻ và Maria, mẹ Người (2,2-8.1 1), như khi các môn đệ ở trên thuyền, lúc sóng gió nổi lên (14,33); như người đàn bà xứ Canaan (15,25).

Tuy thờ lạy nhưng họ vẫn còn “hoài nghi’, niềm hoài nghi, theo Jean Radermakers, “là bạn đồng hành bất khả phân ly với niềm tin biến động”.

- Đấng tỏ mình ra cho các môn đệ (“Đức Giêsu đến gần và các môn đệ sấp mình thờ lạy chính là Đức Chúa vinh hiển được tôn vinh, được trao quyền tối thượng xét xử toàn thế giới (Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta”), từ đó Người có thể sai các môn đệ đi khắp thế giới làm cho uy quyền này trở thành hiện thực.

Những lời Người nói với họ ghi dấu sự mở ra một giai đoạn trong sứ mệnh của người; một sứ mệnh từ nay Người tiếp tục Giáo Hội.

“Hãy đi…! Làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ Thầy”. Trong suốt thời hoạt động công khai, Đức Giêsu đã giới hạn các hoạt động vào các “chiên lạc nhà Israel”. Từ nay, Người phá huỷ biên cương phân chia không gian và thời gian: Đức Giêsu đã có thể hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh người Tôi Tớ Thiên Chúa như Matthêu loan báo khi nhắc lại lời sấm của Isaia (42,1-4): dân ngoại sẽ đặt niềm hy vọng vào danh người” (Mt 12, 18 -21). Dân ngoại, đã hiện diện ngay ở những trang đầu của sách Tin Mừng trong hình ảnh các vị đạo sĩ, lại thấy xuất hiện ở đoạn kết, Tin Mừng như đối tượng mà Tin Mừng nhắm tới. Và Đức Giêsu trao phó sứ mệnh phổ quát ấy cho Giáo Hội của Người.

Claude Tassin nhận xét: “Điều quan trọng không phải là “đi” cũng không phải là một sứ mệnh chinh phục đất đai, nhưng là một cởi mở đón nhận mọi nhóm người, không phân biệt. Vì Đức Giêsu có “mọi quyền năng”, nên mọi người được mời gọi đặt hiện hữu cuộc đời dưới uy quyền của người. Sứ mệnh, theo Mátthêu, là gì? Các môn đệ hãy chiêu mộ thêm các môn đệ khác; nhũng ai cảm thấy giáo huấn của Đức Giêsu biến đổi cuộc đời mình. Hãy chia sẻ kinh nghiệm ấy với người khác, “dạy cho họ tuân giữ mọi giới răn” của Đức Giêsu gồm tóm trong luật duy nhất: tình yêu” (O.C., trang 304).

+ “Hãy rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha: và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Sứ mệnh không phải là quảng bá một ý thức hệ, dù rất cao siêu; sứ mệnh không ngừng đề nghị thiết lập một cộng đoàn: cộng đoàn những người, nhờ bí tích rửa tội, muốn những mối liên hệ hỗ tương của họ đâm rễ sâu vào một gắn bó chung “nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Tạp chí “Célébrer” số 269 nói: .”Công thức nhân danh Ba Ngôi này chỉ có trong Tân ước. Những bản văn khác nói về phép rửa “nhân danh Đức Giêsu” hoặc phép rửa “nhờ Chúa Thánh Thần”. Tuy không có ngay từ buổi ban đầu, nhưng công thức này không xuất hiện quá trễ. Có lẽ công thức ấy được vay mượn từ truyền thống phụng vụ của cộng đoàn nơi thánh Matthêu phụ trách. Công thức rửa tội ấy diễn tả mối kết hiệp chặt chẽ giữa người lãnh bí tích Rửa tội với Ba Ngôi Thiên Chúa:

+ “Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều răn Thầy đã truyền cho anh em”. Đừng giản lược sứ mệnh truyền giáo vào việc cải đạo không có tương lai. Giáo Hội phải giúp những người đã lãnh bí tích rửa tội sống mỗi ngày mỗi phù hợp với nếp sống mới mà họ đã bước vào. J. Radermakers nhận xét: “Như thế toàn thể Tin Mừng khi trở nên lời giáo huấn bằng đời sống cho các môn đệ, về phương diện bí tích sẽ rất có ý nghĩa trong bí tích Rửa tội và về phương diện nhân loại sẽ trương rộng ra trong đời sống hằng ngày; trong cộng đoàn Kitô hữu, đời sống luân lý không gì khác hơn là Tin Mừng biến thành hành động” (Sđd, trang 365).

+ “Và Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Đó là chóp đỉnh của lời Đức Giêsu tuyên bố: bảo đảm một hiện diện tích cực, hiệu quả, không giới hạn ở đoạn kết Tin Mừng, Matthêu đã công bố rằng lời thiên thần hứa với Giuse đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Giêsu: “Tên người là Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng ta”.

J. Potel kết luận: “Đức Giêsu không lìa xa Giáo Hội của Người. Dù Người vô hình, Người vẫn hiện diện ở mọi nơi Giáo Hội ở mọi nơi, cho đến tận cùng thời gian. Theo thánh Matthêu, Người không biến mất trên trời cao. Trái lại, lời cuối cùng của Người cũng là câu cuối cùng của Tin Mừng đã hứa: “Thầy sẽ ở với anh mọi ngày cho đến tận thế”. Chính Người đã nói: khi có hai ba người tụ họp nhân danh Thầy, Thầy sẽ ờ giữa họ, (Mt 18,20). Phục Sinh không ở lại trên núi Galilê. Người đồng hành với các môn đệ trên mọi nẻo đường trần gian” (“Đức Giêsu, lịch sử đích thực”, Centúrion, 1994, trang 516).

BÀI ĐỌC THÊM

1. Ba khía cạnh trong sứ mệnh của Giáo Hội

(Mgr. L.Daloz, “Nước Thiên Chúa đã đến gần”, Centurion-duculot, tr. 385).

Hình thức của sứ mệnh đã được chỉ dẫn rõ ràng: “Hãy làm cho mọi dân tộc nên môn đệ của Thầy, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ tất cả những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Ta thấy có ba khía cạnh: Loan báo Tin Mừng là động lực thôi thúc các môn đệ; tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua nhờ bí tích Rửa tội và các bí tích; cuộc sống mới thực hành những lời Đức Giêsu đã truyền dạy. Tất cả những điều đó làm thành sứ mệnh của Giáo Hội. Không có ba yếu tố đó sứ mệnh không hoàn hảo, và không có yếu tố nào trong ba có thể tự mình thực hiện được sứ mệnh truyền giáo. Điều quan trọng là tất cả các dân nước được thừa hưởng cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, là họ đón nhận Đức Giêsu để được đổi mới. Như thế, họ đi vào mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa: nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Qua sứ mệnh của các Tông đồ, Đức Giêsu tiếp tục nhiệm vụ mà Người đã khởi đầu trong lễ Vượt Qua: “Còn Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ta còn sợ gì nếu Đức Giêsu Phục Sinh luôn ở với ta”.

2. Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa cho ta biết Người ở “với ta”

(Báo Fêtes et Saisons số 496, “Ba Ngôi Thánh”, trang 31).

Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, tự đầy đủ ở nơi chính mình, nhưng Người đã cởi mở đón nhận một tạo vật do tay Người sáng tạo, hay đúng hơn từ ngữ loài người giới hạn khó mà diễn tả được một mầu nhiệm như thế – Chúa Cha, nguồn cội và sự duy nhất của Ba Ngôi, đã đưa dẫn thế giới mà người tạo dựng vào hiệp thông với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Khi gợi lại sự Nhập Thể của Chúa Con và Ân Ban của Chúa Thánh Thần, ta khẳng định Thiên Chúa Hoàn Toàn Khác đã trở nên Hoàn Toàn Gần Gũi. Thực vậy, trong viễn tượng Ba Ngôi, nói cho đúng chính Thiên Chúa đã đem ta lại gần Người vì, thực ra, Người đã tác tạo nên ta trong Người. Sự gần gũi thân mật lạ lùng của Thiên Chúa là thế. Nhưng để xúc động sâu xa về điều đó lại cần phải linh cảm được Thiên Chúa vô vàn khác biệt và siêu việt dường nào.

Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa tỏ cho ta biết Người ở “với ta”. Nhờ Chúa Thánh Thần, Người là Thiên Chúa ở trong ta, nhưng chính là để ta được ở với Người và trong Người. Ở đây không có ý nói rằng, để yêu mến Thiên Chúa, con người phải xa ta trần gian. Như cuộc đời Đức Kitô là bằng chứng, cuộc hiệp thông với Thiên Chúa thực hiện trong trần gian và với anh em ta; hình ngay từ cõi đời trần tục này, bên cạnh và cùng với những người anh em này mà Thiên Chúa gọi ta đến với Người.

3. Được mời gọi đến khám phá Thiên Chúa hàng sống và chân thật

(Thư các Đức Giám Mục gởi người Công giáo Pháp, Cerf trang 50-52).

Niềm tin vào Đức Giêsu bao gồm lòng can đảm chấp nhận chính sự sống của Thiên Chúa trong cuộc sống nhân loại chúng ta. Nếu ta có đặt Lời Chúa và các bí tích, đức tin đối nghịch với con người, cũng chỉ nhằm mục đích hiểu biết niềm vui được sống được yêu như những người con của Thiên Chúa, theo gương Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Chính qua ân ban của Chúa Thánh Thần từ biến cố Hiện Xuống mà Chúa Cha nối kết con người vào đời sống của Người Con riêng của Người.

Như thế mầu nhiệm phục sinh mà Đức Giêsu đã trải qua ghi đậm dấu ấn vào cuộc sống chúng ta: mầu nhiệm ấy được thông ban cho ta để ta sống sự sống và cái chết của ta trong tinh thần năng động của ân ban mà Chúa Thánh Thần đã khơi lên và linh hoạt. Về sự năng động mới phải lan toả ra toàn thể lịch sử và tạo vật “còn đang rên la trong cơn đau sinh con” (Rm 8,22), nhưng vẫn “giữ vững niềm hy vọng sẽ được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ sự hư nát” (Rm 8,20-21).

Chúa Thánh Thần đến từ Cha trên trời, qua Đức Giêsu, được gởi đến để hoán cải tâm hồn ta theo Tình Yêu Thiên Chúa và tha nhân, nhưng cũng để giữa lòng nhân loại phát sinh một tạo vật mới, được giải thoát khỏi sự dừ và sự chết (x. Rm 8, 22-23) .

Ta đừng phân cách hai hoạt động ấy của Chúa Thánh Thần. Người muốn tạo ra một sự hạ sinh mới vừa trong thâm sâu các tâm hồn và các lương tâm, vừa trong sự phức tạp của thế giới và của lịch sử. Cảm nghiệm của người Kitô hữu về Chúa Thánh Thần luôn có hai chiều kích: cá nhân và lịch sử, sâu xa trong tâm hồn con người và trong dòng toàn bộ lịch sử cứu đó .

Đứng trước mạc khải về chiều sâu của Ba Ngôi và của nhân tính Thiên Chúa, hiển nhiên ta cần một cuộc khai tâm thường xuyên. Chỉ dạy cho các tân tòng và các thanh niên xin được rửa tội và thêm sức nhưng yếu tố cơ bản của kinh “Credo” là không đủ. Tất cả chúng ta đều được mời gọi đi đến khám phá Thiên Chúa hằng sống và chân thật, tìm kiếm Người, nhận biết Người và cầu khẩn Người như Người đã tỏ mình ra qua Đức Kitô.

Dấu chỉ đó cho thấy tất cả chúng ta đều cần đến Giáo Hội nhu cầu nơi để đọc chăm lo bú mớm, nơi cảm nghĩ đức tin bén rễ. Thực vậy, Giáo Hội không ở ngoài mầu nhiệm mà Giáo Hội loan báo. Giáo Hội không chỉ là một nhóm các bạn hữu Đức Kitô hoặc hiệp hội nhưng người tưởng nhớ đến Người.

Theo Công Đồng Vatican II, Giáo Hội là “bí tích trong Đức Kitô. Nghĩa là vừa là dấu chỉ, vừa là phương tiện giúp kết hiệp thân mật với Thiên Chúa và sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại” (Lumen Gentium 1).

Chính trong và nhờ Giáo Hội mà nhân tính của Thiên Chúa, hôm nay và cho đến ngày tận thế, có thể được trao ban để được nhận biết trong thế giới. Giáo Hội thân thể Đức Kitô và Đền thờ Chúa Thánh Thần, phải làm vang vọng lên nơi nhân loại lời mời gọi mà Thiên Chúa muốn ngỏ với họ.

  
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn