Tâm Thư gửi các gia đình Công giáo

Đây là vấn đề rất lớn, đòi hỏi những chính sách ở tầm vĩ mô, tuy nhiên các giám mục Á châu cho rằng các gia đình có thể đóng góp hữu hiệu vào việc chăm sóc môi trường sống bằng những việc nhỏ bé hằng ngày: tiết kiệm nước, dùng loại đèn ít tiêu hao năng lượng, rút dây khỏi ổ cắm điện khi không sử dụng, không đốt lá và rác thải, không xả rác ngoài đường phố, không sử dụng hóa chất độc hại trong canh tác và sản xuất... Nếu mỗi gia đình đều ý thức và giữ gìn như thế, thì những việc nhỏ bé hằng ngày trong mỗi gia đình sẽ trở thành nguồn lực lớn trong việc chống ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất đai, ô nhiễm không khí, và giữ gìn môi trường sống trong lành cho mọi người, hôm nay cũng như thế hệ mai sau.
Gia đình quan trọng nhất
GIA ĐÌNH: ƠN GỌI TÌNH YÊU VÀ SỨ VỤ THƯƠNG XÓT


Anh chị em rất thân mến trong Đức Kitô,

Vì quan tâm đặc biệt đến đời sống gia đình Công giáo trong thế giới ngày nay, từ ngày 4 đến ngày 25 tháng 10 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục để bàn về Gia đình, sau đó, ngày 8 tháng 4 năm 2016, ngài đã ban hành Tông huấn Niềm vui của Tình yêu để hướng dẫn Dân Chúa trong việc chăm sóc mục vụ cho các gia đình. Tiếp nối giáo huấn của Đức Thánh Cha, trong Thư Chung đầu tháng 10 vừa qua, chúng tôi đã đề nghị một lộ trình mục vụ cho 3 năm (2017-2019) với chủ đề gia đình ở ba khía cạnh khác nhau. Nay, chúng tôi muốn gửi đến anh chị em bức tâm thư để chia sẻ những “vui mừng và hi vọng, ưu sầu và lo lắng” của anh chị em trong đời sống gia đình, cũng như đồng hành với anh chị em trong việc xây dựng gia đình Công giáo trong ánh sáng Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh.

VẺ ĐẸP CỦA GIA ĐÌNH

1. Hôn nhân và gia đình gắn liền với chiều dài của cả lịch sử nhân loại, từ lúc tạo thành cho đến tận thế (x. St 4; Kh 21,2.9). Những câu chuyện về gia đình xuất hiện rất nhiều trong Kinh Thánh Cựu Ước. Đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong khung cảnh mái ấm gia đình Nazarét, khiêm tốn vâng lời Thánh Giuse và Đức Maria. Khi thi hành sứ vụ công khai, Chúa Giêsu bày tỏ mối quan tâm đặc biệt đến đời sống gia đình: dấu lạ đầu tiên Người thực hiện là tại tiệc cưới Cana để giúp đôi tân hôn vượt qua khó khăn (x. Ga 2,1-11); Người chia sẻ tình bạn với gia đình ông Lazarô (x. Lc 10,38); đến thăm gia đình ông Phêrô (x. Mc 8,14); chia sẻ nỗi niềm với các gia đình đang chịu thử thách (x. Mc 5,41; Lc 7,14-15). Tất cả đều nói lên vẻ đẹp và tầm quan trọng của hôn nhân và gia đình trong chương trình của Thiên Chúa.

Thật vậy, chính Thiên Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ, liên kết cả hai nên một (x. St 2,24; Mt 19,4), một sự hòa hợp sâu xa, cả thân xác lẫn tinh thần, nhờ tình yêu tự nguyện trao ban. Nhờ đó, đôi vợ chồng trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa tình yêu và tham dự vào công trình tạo dựng của Ngài bằng việc sinh sản và giáo dục con cái. Tóm lại, “Hôn nhân Kitô giáo phản ánh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh của Người, được thể hiện trọn vẹn trong sự kết hợp giữa người nam và người nữ, họ hiến thân cho nhau trong một tình yêu độc hữu và sự trung thành trong tự do, để thuộc trọn về nhau cho đến chết và mở ra cho việc truyền sinh. Họ được thánh hiến nhờ bí tích trao ban ân sủng để xây dựng một Hội Thánh tại gia và là men của đời sống mới cho xã hội” ( Niềm vui của tình yêu, 292).

2. Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì cho đến nay, rất nhiều gia đình Công giáo tại Việt Nam đã sống và thể hiện vẻ đẹp này, thực sự là Hội Thánh tại gia khi dựng xây gia đình mình thành cộng đoàn thờ phượng, ngôi nhà hiệp thông, mái ấm nuôi dưỡng và phát triển tình yêu. Những gia đình này đã và đang góp phần rất lớn vào đời sống Hội Thánh bằng việc cống hiến cho Hội Thánh những Kitô hữu nhiệt thành và đạo đức, vun trồng ơn gọi linh mục và tu sĩ. Bản thân các giám mục chúng tôi cũng được lớn lên trong các gia đình đạo đức, nhờ đó hạt giống ơn gọi được nuôi dưỡng và lớn lên trong cuộc đời. Chính vì thế, chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu xa với các gia đình, đồng thời xác tín rằng gia đình thực sự là con đường Hội Thánh phải đi, và mọi kế hoạch mục vụ của Hội Thánh phải khởi đi từ gia đình (Đại hội Dân Chúa Việt Nam, 2010).

NHỮNG THÁCH ĐỐ CHO GIA ĐÌNH NGÀY NAY

3. Tuy vậy, chúng ta không thể phủ nhận thực tế này là tình trạng vợ chồng Công giáo ly thân và ly dị đang có chiều hướng gia tăng, cách riêng nơi các gia đình trẻ; bạo hành gia đình vẫn là điều nhức nhối; một số bạn trẻ sa đà vào lối sống buông thả về mặt tình dục, chủ trương sống chung, sống thử trước hôn nhân; tệ nạn phá thai lan tràn đến mức coi thường...Vậy, đâu là nguyên nhân dẫn đến những tình trạng đáng buồn trên? Chúng ta có thể làm gì để giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn và thử thách, làm mới lại vẻ đẹp của hôn nhân và gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa?

4. Theo Kinh Thánh, ngay từ đầu, gia đình đã bị tổn thương trầm trọng vì tội lỗi. Tương quan vợ chồng được định hình bằng sự thèm muốn và thống trị hơn là yêu thương và phục vụ (x. St 3,16). Tương quan giữa anh chị em trong gia đình cũng bị đổ vỡ nặng nề như Kinh Thánh kể lại: Cain giết em trai mình là Abel, các con của tổ phụ Giacóp ghen tị và tìm cách làm hại người em là Giuse, các con vua Đavít tàn sát lẫn nhau...

Tình trạng này vẫn tiếp diễn trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại và ở mỗi thời đại, lại có những thách đố mới. Trong Tông huấn Niềm vui của tình yêu, Đức giáo hoàng Phanxicô chỉ cho chúng ta thấy những nguyên nhân gây tác động tiêu cực trên đời sống gia đình ngày nay.

5. Trước hết là những khó khăn về mặt kinh tế và xã hội. Trong ba thập niên qua, khi đất nước chuyển từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường, đời sống kinh tế phát triển nhưng khoảng cách giàu nghèo cũng gia tăng rất nhanh và rất lớn. Có những người quá nghèo, không công ăn việc làm, không nhà ở, nên cũng không dám kết hôn. Gắn với kinh tế thị trường là tình trạng di dân đã trở thành phổ biến tại Việt Nam, gây tác động lớn trên đời sống gia đình, nhất là những tác động tiêu cực. Vì hoàn cảnh, chồng phải đi làm xa, để vợ và các con ở lại quê nhà; hoặc hai vợ chồng đi làm xa, để các con lại cho ông bà chăm sóc; hoặc cả gia đình đưa nhau lên thành phố, sống trong những khu lao động chật chội. Tất cả đều gây tác động cụ thể trên đời sống vợ chồng cũng như việc giáo dục con cái. Ngoài ra, tình trạng nghiện ngập (ma túy, rượu chè, cờ bạc) cũng như nạn bạo hành đang gieo rắc đau khổ trên biết bao gia đình, không những gây khó khăn cho đời sống kinh tế, mà còn ảnh hưởng trực tiếp lên sự bình an và hạnh phúc của cả nhà.

Bên cạnh đó, trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, chúng ta không thể không quan tâm đến những tác động của văn hóa thời đại trên các gia đình, cách riêng những gia đình trẻ. Đó là nền văn hóa đề cao cá nhân đến mức cực đoan, ai cũng coi bản thân mình là nhất, từ đó dẫn đến xung đột giữa các thành viên và làm suy yếu những mối liên kết trong gia đình. Đó còn là nền văn hóa đề cao lối sống hưởng thụ, chỉ muốn tiêu xài và thụ hưởng chứ không muốn nhận trách nhiệm. Nền văn hóa này biến quan hệ tình dục thành món hàng mua vui, nhìn người khác như dụng cụ và phương tiện cho mình thỏa mãn, chứ không phải một chủ thể để tôn trọng và yêu thương. Đó cũng là nền văn hóa chủ trương sống nhanh, sống gấp, do đó người ta chỉ muốn những quan hệ mau qua mà không muốn cam kết lâu dài.

6. Hậu quả là tình trạng ly thân, ly dị, gia đình đổ vỡ ngày càng nhiều, để lại những tổn thương tâm lý nặng nề trên đôi bạn, nhất là những tác động xấu trên con cái, từ đó ảnh hưởng đến đời sống chung trong xã hội và Hội Thánh. Đức giáo hoàng Phanxicô đã khẳng định: “Ly dị là một điều xấu và số lượng các vụ ly dị ngày càng gia tăng là điều rất đáng lo ngại. Vì thế, không nghi ngờ gì nữa, nhiệm vụ mục vụ quan trọng nhất của chúng ta đối với gia đình là phải củng cố tình yêu của đôi bạn, giúp họ chữa lành những vết thương, để chúng ta có thể ngăn chặn sự lây lan của thảm kịch này trong thời đại chúng ta” (Niềm vui của tình yêu, 246).

HỠI GIA ĐÌNH, HÃY TRỞ THÀNH HỘI THÁNH TẠI GIA

7. Đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha và vì hạnh phúc của các gia đình, chúng tôi tha thiết xin anh chị em hãy kiến tạo gia đình mình thành Hội Thánh tại gia, nghĩa là ngôi nhà thờ phượng, mái ấm tình yêu, ngôi trường giáo dục.

Gia đình là ngôi nhà thờ phượng khi gia đình tràn ngập sự hiện diện của Chúa. Ngài sẽ bước vào ngôi nhà của anh chị em khi mọi người trong nhà cầu nguyện chung, lắng nghe Lời Chúa và mời Chúa đến thăm: “Này Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Do đó việc lập bàn thờ và cầu nguyện chung trong gia đình là điều rất quan trọng với gia đình Công giáo. Những giờ cầu nguyện chung liên kết mọi người trong Chúa, giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong mọi biến cố gia đình, cùng nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và trở nên chứng nhân của Chúa giữa lòng đời. Đây là kinh nghiệm sống động của biết bao gia đình Công giáo để lại cho chúng ta, cũng là lời khuyên nhủ chí tình của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Cầu nguyện trong gia đình là một phương thế ưu việt để diễn tả và củng cố đức tin phục sinh. Gia đình có thể dành ít phút mỗi ngày để quy tụ với nhau trước nhan Thiên Chúa hằng sống, nói với Ngài về những lo lắng bận tâm, cầu xin với Ngài cho những nhu cầu của gia đình, cầu nguyện cho ai đang gặp khó khăn, xin Chúa giúp ta biết sống yêu thương, tạ ơn Ngài về sự sống và về bao ơn lành khác, cầu xin Đức Trinh Nữ che chở chúng ta dưới tà áo Mẹ. Với ít lời lẽ đơn sơ thôi, nhưng những phút giây cầu nguyện đó có thể mang lại điều tốt lành lớn lao cho gia đình” (Niềm vui của tình yêu, 318).

Càng sống trong một thế giới xa lạ và thậm chí thù nghịch với đức tin Công giáo, gia đình tín hữu càng phải là “những lò lửa đức tin sống động và chiếu sáng” giữa thế gian. Đây chính là cách chúng ta thực thi chức tư tế do Phép Rửa “trong việc lãnh nhận các bí tích, trong kinh nguyện và tạ ơn, qua chứng từ đời sống thánh thiện, sự từ bỏ, lòng bác ái sống động” (Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 1657).

8. Gia đình còn là mái ấm của tình yêu và lòng thương xót. Trong thông điệp Niềm vui của tình yêu, Đức giáo hoàng Phanxicô dành phần lớn của chương bốn để suy tư về tình yêu trong hôn nhân, dựa vào Bài ca Đức Ái (1Cr 13). Theo đó, gia đình là nơi mỗi chúng ta cảm nghiệm, học tập và vun đắp tình yêu chân thật.

Đó là tình yêu kiên nhẫn, biết đón nhận người khác như họ là;

tình yêu phục vụ, không chỉ bằng cảm tính hay lời nói nhưng bằng hành động cụ thể;

tình yêu không ghen tị, nhưng trân trọng thành quả của người khác;

tình yêu không khoe khoang tự phụ, không coi mình hơn người khác;

tình yêu dịu dàng, không cứng cỏi;

tình yêu quảng đại, cho đi mà không tính toán;

tình yêu tha thứ, biết tìm hiểu người khác để thông cảm và tha thứ hơn là soi mói;

tình yêu vui với niềm vui của người khác, chứ không vui vì sự thất bại của họ;

tình yêu chịu đựng, giữ gìn miệng lưỡi, tránh xét đoán và nói xấu;

tình yêu tin tưởng tất cả nên không tìm cách thống trị nhưng tôn trọng người khác;

tình yêu hi vọng tất cả vì Thiên Chúa có thể vẽ đường thẳng bằng những nét cong;

tình yêu chịu đựng tất cả với thái độ tích cực.

9. Là mái ấm tình yêu và lòng thương xót, gia đình phải là nơi đón nhận và trân trọng sự sống. Tự bản chất, tình yêu vợ chồng hướng đến việc sinh sản. Con cái không phải là điều gì đó được thêm vào cách ngẫu nhiên, nhưng phát xuất từ chính tâm điểm của tình yêu, là hoa trái và sự phong phú của tình yêu. Chính vì thế, gia đình được coi là cung thánh của sự sống. Vì giá trị tối thượng của sự sống và vì quyền sống của con người ngay từ giây phút khởi đầu, không ai và không điều gì có thể biện minh cho việc tước đoạt sự sống của các thai nhi. Trong hai thập niên qua, chúng ta phải đau lòng nhìn nhận rằng tình trạng phá thai ngày càng trở thành phổ biến và gia tăng tại Việt Nam, kể cả trong một số gia đình Công giáo. Với ơn Chúa, anh chị em hãy can đảm dứt khoát với hành động phá thai, trở thành người xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống, thay cho nền văn minh thù hận và văn hóa chết chóc.

Trong mái ấm của tình yêu và lòng thương xót, không thể không nói đến bổn phận hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Không ai trong chúng ta tự ban sự sống cho mình nhưng đều đón nhận sự sống từ Thiên Chúa qua cha mẹ. Vì thế, nếu sự sống là hồng ân lớn lao nhất chúng ta lãnh nhận, thì hiếu thảo với cha mẹ cũng phải là bổn phận căn bản của đạo làm con. Không lạ gì trong Mười Điều Răn, bổn phận thảo kính cha mẹ chỉ đứng sau điều răn thờ phượng Chúa và dẫn đầu những điều răn khác trong tương quan với tha nhân. Lòng hiếu thảo này được thể hiện qua sự vâng phục cha mẹ (x. Cn 6,20-22), cũng như qua trách nhiệm trợ giúp cha mẹ về vật chất và tinh thần khi các ngài về già hoặc đau yếu (x. Hc 3,2-6).

Cũng ở đây, cần phải nói đến bổn phận chăm sóc người cao tuổi, vốn là nét đẹp truyền thống trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời đại quá đề cao thành công vật chất và hiệu năng sản xuất ngày nay, người ta có khuynh hướng coi người già như gánh nặng của xã hội và muốn loại ra bên lề. Chúng ta cần phải có cách nhìn tích cực hơn về vai trò của người cao tuổi. Thật vậy, người già là ký ức của lịch sử, sợi dây nối kết các thế hệ, người truyền lại kinh nghiệm và sự khôn ngoan cho con cháu. Vì thế, một gia đình không biết trân trọng người già thì gia đình đó đang trên đà suy thoái; ngược lại, gia đình tôn quý người cao tuổi là gia đình có tương lai bền vững.

10. Gia đình cũng là ngôi trường giáo dục đầu tiên và căn bản. Ngày nay, nói đến giáo dục, người ta thường chỉ nghĩ đến giáo dục tại học đường mà quên rằng giáo dục là bổn phận đầu tiên và cao cả nhất, cũng là quyền ưu tiên của gia đình, nhất là về mặt nhân bản, đạo đức và đức tin tôn giáo.

Gia đình là ngôi trường đầu tiên dạy những giá trị nhân bản. Những năm tuổi thơ trong gia đình sẽ hình thành những khuynh hướng căn bản, ăn rễ sâu và kéo dài trong suốt cuộc đời còn lại. Gia đình cũng là nơi trẻ thơ tập sống mối liên hệ với người khác, tập lắng nghe và tôn trọng tha nhân; nhờ đó, khi bước vào đời sống xã hội, các em sẽ sống tử tế và hòa hợp với mọi người, thay cho lối sống ích kỷ và chỉ tìm cách thống trị người khác.

Song hành với giáo dục nhân bản là giáo dục đạo đức. Trong bối cảnh xã hội được coi là xuống cấp trầm trọng về mặt đạo đức, chúng ta càng phải quan tâm hơn đến lãnh vực này. Chính các bậc cha mẹ phải tập cho con những thói quen tốt, hình thành những nguyên tắc và luật lệ trong đời sống, học cách sử dụng tự do cách khôn ngoan và đúng đắn. Để được như thế, cha mẹ cần tạo được sự tin tưởng của con cái và cách giáo dục tốt nhất chính là cách sống và gương sáng hằng ngày của cha mẹ.

Trong lãnh vực này, thiết nghĩ cần phải có cái nhìn đúng đắn và tích cực về việc sửa dạy con cái. Việc sửa dạy đích thực không phát xuất từ sự giận dữ nhưng từ tình yêu thương, giúp trẻ ý thức rằng làm sai sẽ dẫn đến hậu quả xấu, do đó phải biết xin lỗi và đền bù những thiệt hại gây ra. Việc sửa dạy như thế phải đi đôi với việc nhìn nhận những điều tốt lành con cái làm, để khuyến khích chúng. Ngoài ra, trong thời đại ngày nay, các bậc cha mẹ không thể không lưu tâm đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông. Phải giúp con cái tập làm chủ những phương tiện này thay vì làm nô lệ của thế giới ảo đến nỗi xa rời thế giới thực, không quan tâm con người thật ngay trong gia đình.

Ngoài ra, với các bậc cha mẹ Công giáo, lãnh vực rất quan trọng phải quan tâm là giáo dục đức tin. Có thể nói gia đình là nơi mỗi chúng ta khám phá ý nghĩa và cảm nhận vẻ đẹp của đức tin. Đã hẳn đức tin là ơn ban của Chúa chứ không do chúng ta, thế nhưng cha mẹ là khí cụ Chúa dùng để làm cho mầm sống đức tin đó lớn lên và phát triển. Vì thế cha mẹ hãy tập cho con ngôn ngữ đức tin từ những việc nhỏ bé nhất như tập làm dấu Thánh Giá, đọc kinh Lạy Cha và Kính Mừng, hôn ảnh Chúa và Đức Mẹ...Hạt giống gieo xuống tuy nhỏ bé nhưng mai này sẽ thành cây to (x. Mt 13,31-32). Đừng quên rằng trẻ em cần những biểu tượng, hành động, chuyện kể, hơn là những lý luận trừu tượng. Vì thế, những giờ kinh gia đình và những việc đạo đức có giá trị hơn nhiều bài giáo lý. Đồng thời, để phát triển đời sống đức tin nơi con cái, cha mẹ cũng cần khuyến khích con tham gia các lớp giáo lý và sinh hoạt đạo đức tại giáo xứ. Những sinh hoạt này không những giúp con cái chúng ta lớn lên trong sự hiểu biết đức tin, mà còn làm phát triển nơi các em ý thức về Hội Thánh cũng như những kỹ năng sống trong xã hội.

GIA ĐÌNH VÀ SỨ VỤ THƯƠNG XÓT

11. Chúa Giêsu một đàng đưa ra lí tưởng rất cao về đời sống hôn nhân và đàng khác, Người lại bày tỏ sự cảm thông và gần gũi trước những yếu đuối của con người như trường hợp người phụ nữ xứ Samaria hoặc người nữ phạm tội ngoại tình. Theo gương Chúa Giêsu, các gia đình Công giáo được kêu gọi chăm sóc mục vụ cho các gia đình khác: “Nhờ ân sủng của bí tích Hôn nhân, các gia đình Kitô hữu là chủ thể chính của mục vụ gia đình, nhất là khi họ cống hiến chứng tá đầy vui tươi của đôi vợ chồng và gia đình, Hội Thánh tại gia” (Niềm vui của tình yêu, 200). Với trách nhiệm chủ chăn, chúng tôi xin gửi đến anh chị em những đề nghị sau đây:

Đồng hành với những gia đình di dân: Ngày nay, vì hoàn cảnh kinh tế, rất nhiều gia đình phải rời bỏ làng quê để tìm kế sinh nhai trong những thành phố lớn. Chỉ có một số ít thành công, còn phần lớn gặp nhiều khó khăn trong việc làm ăn, sinh hoạt gia đình, giáo dục con cái. Về mặt đức tin, nhiều khi họ cũng gặp khó khăn trong việc hội nhập cộng đoàn giáo xứ mới. Vì thế, chúng ta phải mở rộng vòng tay đón tiếp, để các gia đình di dân cảm nhận cộng đoàn giáo xứ là nhà của họ, nơi đó đức tin được nuôi dưỡng, lòng mến được vun trồng, và tin tưởng bước tới tương lai ngay giữa những khó khăn thử thách.

Đồng hành với những cặp hôn nhân khác đạo: Tại Việt Nam, tỷ lệ người Công giáo chỉ là 7%, hơn nữa các bạn trẻ ngày nay không còn sống trong những ngôi làng hoặc khu vực tập trung người Công giáo, nhưng sống và làm việc trong những môi trường chỉ có rất ít người Công giáo, do đó việc kết hôn giữa người Công giáo và người ngoài Công giáo sẽ gia tăng. Trong những gia đình này, có những khó khăn riêng do việc không cùng niềm tin tôn giáo, ảnh hưởng đến việc giữ đạo của người Công giáo cũng như việc giáo dục con cái trong gia đình. Vì thế, chúng ta cần đồng hành với những gia đình này, để nâng đỡ người (vợ hoặc chồng) Công giáo trong đời sống đức tin, hơn thế nữa, để họ có thể làm chứng cho Tin Mừng và giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người trong gia đình.

Đồng hành với những gia đình bị đổ vỡ: Hội Thánh luôn mong muốn các đôi vợ chồng sống chung với nhau đến trọn đời. Ly thân và ly dị chỉ được xem như lối thoát cuối cùng, sau khi mọi nỗ lực hòa giải đã thất bại. Tuy nhiên nhiều người rơi vào tình trạng này vì hoàn cảnh bất đắc dĩ chứ không hoàn toàn do lỗi riêng của họ. Vì thế chúng ta cần cảm thông và đồng hành hơn là loại trừ họ, cách riêng trong việc nuôi dạy con cái, vì trẻ thơ chính là thành phần chịu thiệt thòi nhiều nhất do những cuộc ly thân và ly dị: “Chăm sóc cho những người như thế không làm cho đức tin của cộng đoàn và việc làm chứng cho sự bất khả phân li của hôn nhân bị suy yếu đi, trái lại, chính trong sự chăm sóc này mà cộng đoàn thể hiện đức ái của mình” (Niềm vui của tình yêu, 243).

12. Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Giáo hoàng Phanxicô dạy: “Thương xót không phải là một từ trừu tượng nhưng là một lối sống. Nói về lòng thương xót là một chuyện, còn sống lòng thương xót lại là chuyện khác. Dựa vào lời Thánh Giacôbê Tông đồ, chúng ta có thể nói: thương xót mà không có việc làm thì coi như đã chết”. Trong truyền thống lâu đời của Hội Thánh, những công việc của lòng thương xót gồm những việc về phần xác và về phần hồn. Những việc về phần xác là: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, chôn xác kẻ chết. Những việc về phần hồn là: lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.

Anh chị em hãy làm gương cũng như tập cho con cái làm những việc của lòng thương xót. Chính những công việc đó sẽ huấn luyện con cái chúng ta trở nên những con người có lòng thương xót, biến đổi gia đình chúng ta thành ngôi nhà của lòng thương xót, góp phần làm chứng và giới thiệu dung nhan Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.

13. Ngoài ngôi nhà của mỗi gia đình, chúng ta còn phải quan tâm đến ngôi nhà chung của mọi gia đình là trái đất, “người chị mà chúng ta đang chung phần sự sống, người mẹ tuyệt vời luôn mở rộng vòng tay ôm ấp chúng ta” (Laudato si, 1). Trái đất này “đang kêu khóc vì những tổn hại chúng ta gây ra do việc sử dụng vô trách nhiệm và lạm dụng những tài nguyên Thiên Chúa ban tặng” (Laudato si, 2). Ngày nay, người dân Việt Nam đang phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng do tình trạng ô nhiễm môi sinh. Cá chết dọc bờ biển miền Trung, hạn hán tại các tỉnh Tây nguyên và Nam Trung bộ, ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long... là những điều được mọi người quan tâm. Các nhà khoa học cho thấy con người là thủ phạm chính gây ra tình trạng biến đổi khí hậu qua việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên cách thiếu trách nhiệm. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế đang nỗ lực để đạt đến thỏa thuận chung về việc giảm bớt khí thải nhà kính.

Đây là vấn đề rất lớn, đòi hỏi những chính sách ở tầm vĩ mô, tuy nhiên các giám mục Á châu cho rằng các gia đình có thể đóng góp hữu hiệu vào việc chăm sóc môi trường sống bằng những việc nhỏ bé hằng ngày: tiết kiệm nước, dùng loại đèn ít tiêu hao năng lượng, rút dây khỏi ổ cắm điện khi không sử dụng, không đốt lá và rác thải, không xả rác ngoài đường phố, không sử dụng hóa chất độc hại trong canh tác và sản xuất... Nếu mỗi gia đình đều ý thức và giữ gìn như thế, thì những việc nhỏ bé hằng ngày trong mỗi gia đình sẽ trở thành nguồn lực lớn trong việc chống ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất đai, ô nhiễm không khí, và giữ gìn môi trường sống trong lành cho mọi người, hôm nay cũng như thế hệ mai sau.

*****

14. Anh chị em thân mến, giờ đây chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Cha trên trời, cội nguồn mọi ân phúc, và thưa với Ngài:

Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu,

là cội nguồn của mọi gia đình dưới đất.

Tạ ơn Cha đã thương ban cho gia đình nhân loại,

mẫu gương tuyệt vời của Thánh Gia Thất.

Xin Cha ban ơn Phúc-Âm-hóa mọi gia đình,

giúp đưa ánh sáng Tin Mừng Cứu độ,

là ánh sáng chân lý, yêu thương và bình an,

vào mọi lãnh vực đời sống gia đình chúng con.

Cho gia đình trở nên cái nôi của sự sống,

mái ấm của tình thương bao dung và hợp nhất,

ngôi trường giáo dục nên người tốt và hữu ích,

thành trì che chở phẩm giá của mọi người.

Cho mọi tư tưởng và việc làm của vợ chồng,

mang lại an hòa hạnh phúc cho gia đình.

Cho các bạn trẻ tìm gặp nơi ông bà, cha mẹ,

nguồn hỗ trợ cho sự phát triển phẩm giá làm người.

Xin Thánh Gia Thất phù hộ gia đình chúng con,

vững vàng tin yêu trong mọi gian lao thử thách,

và loan báo Chúa Giêsu Kitô là nguồn sống mới,

cho mọi gia đình, bây giờ và mãi mãi. Amen.

 

Lễ Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ, ngày 20 tháng 11 năm 2016

Tổng thư ký HĐGMVN
           
  (đã ký)                                                                                                                                                            

 +Phêrô Nguyễn Văn Khảm
  Giám mục GP. Mỹ Tho

Chủ tịch HĐGMVN
+Giuse Nguyễn Chí Linh
             (đã ký)
      TGM TGP Huế

                                                                                                                                                           

THƯ THÁNG GIÊNG

 
“Tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra ... Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ."(Lc 2, 10-12)
cùng quý bạn đọc thân mến,
Chúng ta đang sống trong niềm hân hoan tưng bừng của mùa Giáng Sinh, trong niềm vui trọn vẹn được đón mừng Đấng Cứu Tinh xuất hiện trong thân phận con người. Thần sứ loan tin vui đã chỉ cho thấy dấu hiệu để nhận ra Ngài, một hài nhi yếu đuối bọc trong tã. Ngài không sinh ra trong cung điện nhưng sinh ra trong hang chiên lừa. Ngài không chọn giường êm nệm ấm mà lại chọn máng cỏ đơn hèn. Ngài trở nên gần gũi thân thương với mọi người, nhất là những người bất hạnh.
Trong hài nhi Giêsu, làm người là ân huệ cao quý
Mạc khải cho chúng ta biết, chính tại hang đá lạnh giá ở Bêlem, hài nhi Giêsu yếu đuối và bé nhỏ đã hoàn thành lời tiên báo của ngôn sứ Isaia : “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu chúng ta, một người con đã được ban tặng cho chúng ta, Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9, 5). Hài Nhi Giêsu là món quà quý giá Thiên Chúa ban tặng, và sứ mạng của Ngài là đảm nhận lấy trọn kiếp nhân sinh.
Đức Bênedictô XVI, trong thông điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu, số 25, khẳng định : "Qua việc Nhập thể, Con Thiên Chúa, cách nào đó, đã kết hiệp chính mình với bất kỳ con người nào. Trong biến cố này, nhân loại đã tiếp nhận không những mặc khải về tình yêu vô cùng của Đấng "yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, mà còn là mặc khải về giá trị không thể so sánh của mọi nhân vị con người.
Mỗi sinh linh chào đời đều là niềm vui lớn
Khác với sự đợi chờ của dân Do Thái, Con Thiên Chúa đã hạ sinh trong một gia đình lao động nghèo. Ngài khởi sự hành trình trần gian từ một trẻ sơ sinh bé bỏng cần được đùm bọc, chở che, lớn lên trong một mái ấm và luôn vâng lời cha mẹ (Lc 2, 51-52). Đấng là "cờ hiệu cho muôn dân" đã xuất hiện như một "mầm non mọc lên từ gốc Giessê" (Is 11, 1.10). Cuộc giáng sinh của Đức Giêsu đem lại ý nghĩa và niềm vui mới cho sự chào đời của tất cả và từng sinh linh nhỏ bé nhất.
Đó cũng là điều thánh giáo hoàng Gioan Phaolô khẳng định trong thông điệp Tin Mừng Sự Sống : “Vào buổi bình mình ơn cứu độ, có một hài nhi sinh ra; việc hạ sinh này được loan báo như một tin vui lớn và là tin vui cho toàn dân. Quả vậy, việc giáng sinh của Chúa đã toả ra niềm vui vĩ đại này. Vào ngày lễ Giáng Sinh, ý nghĩa sung mãn của việc con người sinh ra cũng được biểu lộ và niềm vui Đấng Thiên sai mang tới đã xuất hiện như nền tảng và làm cho nên trọn niềm vui với việc chào đời của bất kỳ em bé nào (x. Ga 16, 21) [1].
Ngài dệt nên con trong dạ mẫu thân (Tv 139, 13).
            Trong tông huấn Niềm Vui Tình Yêu, Đức Phanxicô kêu gọi các gia đình chào đón sự sống được sinh ra, như một ơn phúc của Thiên Chúa. Con cái là phản ảnh sống động tình yêu của cha mẹ. Họ được dự phần vào mầu nhiệm sáng tạo qua việc hạ sinh. Lòng yêu thương của cha mẹ là phương thế Chúa Cha dùng để biểu lộ lòng yêu thương của Ngài. Ngài mong chờ sự sinh hạ của mỗi đứa con, việc chấp nhận đứa con cách vô điều kiện và đón chào em một cách hoàn toàn tự do [2].
            Đức Phanxicô cũng khẳng định sự sống ấy đã bắt đầu ngay từ bào thai. Vì mỗi thai nhi lớn lên trong lòng mẹ, đều nằm trong kế hoạch yêu thương đời đời của Chúa Cha : "Trước khi tạo hình con trong dạ mẹ, Ta đã biết con, và trước khi con sinh ra, Ta đã thánh hiến con” (Giêrêmia 1, 5).
            Kinh Thánh thuật lại cuộc gặp gỡ giữa hai hài nhi còn trong lòng hai bà mẹ, khi đức Maria đi thăm bà Isave. Thánh Ambrôsiô viết : “Bà Isave nghe lời chào, nhưng Gioan là người đầu tiên cảm nhận được ân sủng : người mẹ nghe theo trật tự thiên nhiên, còn người con đã nhảy mừng vì mầu nhiệm ... Hai phụ nữ trao nhau những lời ân sủng, hai hài nhi tác động trong lòng hai bà mẹ, và thực hiện mầu nhiệm từ bi thương xót, làm cho hai người mẹ được tiến lên trong mầu nhiệm ấy." [3]
Gia đình ươm mầm sự sống
Phản ảnh về tệ nạn phá thai, Đức Phanxicô quan tâm đặc biệt đến các trẻ em từ những giây phút đầu tiên trong đời, đã không được chấp nhận, đã bị bỏ rơi, bị tước mất tuổi thơ và tương lai. Thật đáng xấu hổ khi biện minh rằng những đứa trẻ này ra đời là một sai lầm. Quả là dã tâm, khi trừng phạt đứa trẻ vô tội vì các sai lầm của người lớn !
Sứ điệp Giáng Sinh là lời mời khẩn thiết và cấp bách mỗi người, mỗi gia đình tích cực tham gia bảo vệ sự sống. Theo thống kê của Ủy ban quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình, ở nước ta, cứ một trẻ em ra đời thì có một bào thai bị phá bỏ. Mỗi năm có khoảng 1,6 triệu trẻ em được sinh ra tương ứng với đó, con số bào thai bị phá bỏ.[4]
Sứ vụ tông đồ cụ thể của chúng ta hôm nay, là cổ võ các bạn trẻ, biết quý trọng sự sống, đừng tự hủy hoại chính mình trong đam mê trụy lạc. Hãy nhắc nhở các gia đình trẻ, biết đón nhận món quà sự sống Chúa trao ban, và vun trồng cho sự sống ấy phát triển, để trẻ thơ được chăm sóc và lớn lên trong tình thương của gia đình và xã hội.
Lời nguyện bên máng cỏ của Gabriela [5]
Nếu hằng đêm,
tôi cố gắng tin vào bình minh đang đến.
Nếu từ từ, tôi cố gắng hàn gắn lại hy vọng,
gắng từng bước sống tình anh em,
gắng dần dần xây dựng hòa bình.
Nếu bất chấp tất cả,
tôi cố gắng đẩy lui sự khinh thị,
bất chấp sợ sệt xây dựng tình huynh đệ.
Thì mỗi lần như thế,
niềm an ủi và hy vọng long lanh trong đáy mắt,
đang loan báo về một LỄ GIÁNG SINH (......)
Đêm hôm đó, trong một chuồng bò lừa,
Hài Nhi cất tiếng kêu, kêu gọi cố gắng.

Tiếng kêu : gọi SỰ SỐNG

chống lại những đêm đen và những vòng kẽm gai.

Tiếng kêu : gọi TỰ DO

chống lại mọi hình thức nô lệ, đặc quyền, độc chiếm.

Tiếng kêu : gọi TÌNH YÊU

chống lại những cửa lòng đóng kín,
và những cuộc chiến ngu ngốc ...
Hài Nhi Bêlem, nhỏ bé và yếu đuối
Vừa tuyên bố về một tình yêu vĩ đại,
Một niềm vui cho toàn dân,
Một Tin Mừng cho mọi người ...
Chúa ơi, Hài nhi Bêlem ơi, chính nhờ Ngài,
            Bóng đêm đang bị đẩy lùi ...  từng ngày và mãi mãi ...

[1] Gioan Phaolô II, Thông điệp Tin Mừng sự sống, số 1.
[2] Xc. Phanxicô, Thông điệp Niềm vui tình yêu, số 165-169.
[3] Gioan Phaolô II, Thông điệp Tin Mừng sự sống, số 45.
[4] Vietnamnet, Sự thật khủng khiếp về nạo phá thai ở VN, 26.3.2014.
[5] Gabriela một nhà thơ Chilê, giải Nobel Văn Chương 1951.


THƯ THÁNG 2
Cùng quý bạn đọc thân mến,
            Trong không khí rộn ràng hân hoan mừng xuân mới Đinh Dậu, xin gửi đến quý anh chị em và gia quyến những lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Xin Thiên Chúa rộng ban cho mọi nhà, mọi người, được tràn đầy ân sủng, bình an và hạnh phúc.
            Theo văn hóa Việt Nam, mùa xuân là mùa đoàn tụ. Con cháu xa xôi cách trở, đều ước mong về đoàn tụ với gia đình, gặp gỡ và chúc tuổi ông bà, cha mẹ. Hạnh phúc biết bao cảnh gia đình với ba-bốn thế hệ xum họp ngày đầu xuân, chia sẻ tình thương dưới một mái nhà. Trong bầu khí thân thiết đầm ấm ấy, chúng ta được kêu mời : phát huy truyền thống gia đình.
Dưới ánh sáng ngày lễ Dâng Chúa trong đền thờ
            Đầu xuân năm nay, ngày 2 tháng 2-2017, chúng ta được cùng với giáo hội mừng Lễ Đức Mẹ dâng Con trong đền thánh. Đây là cơ hội để chiêm ngưỡng hình ảnh tuyệt đẹp trong thời thơ ấu của Đức Giêsu, chứng kiến cuộc hội ngộ đặc biệt của những nhân vật đại diện cho ba thế hệ.
            Đúng vậy, ba thế hệ đã gặp nhau trong bối cảnh đền thờ ngày Đức Giêsu được tiến dâng cho Thiên Chúa. Hài nhi Giêsu được bồng ẵm trên tay, đại diện cho thế hệ tương lai, Đức Mẹ và thánh Giuse, những người chủ gia đình, đại diện cho thế hệ đương thời; hai cụ, ông Simêon và bà Anna, đại diện cho thế hệ quá khứ, các vị hiện diện và chúc phúc cho gia đình trẻ.
            Mầu nhiệm thứ bốn mùa vui Kinh Mân Côi nhắc chúng ta trách nhiệm xóa bỏ những khoảng cách về tuổi tác trong gia đình. Mỗi thành viên, già, trẻ, lớn, bé, dù có những khác biệt về tâm lý, giáo dục và sở thích, phải nỗ lực góp phần xây dựng sự thông cảm, hiểu biết và yêu thương và trợ giúp lẫn nhau.
Người đầu bạc thì khôn ngoan
            Tục ngữ Việt Nam có câu : "Khôn đâu có trẻ, khỏe đâu đến già", cho thấy ưu thế của mỗi lứa tuổi. Nếu người trẻ mạnh mẽ và nhanh nhẹn, thì người già lại từng trải và khôn ngoan. Càng thêm tuổi càng thêm kinh nghiệm. Người lớn tuổi thường giầu kinh nghiệm. Kinh nghiệm thành công và thất bại, nhất là kinh nghiệm đức tin. Cha ông ta vẫn nói : "Con đi trường học mẹ đi trường đời", và "Bảy mươi còn phải học bảy mốt".
            Trong diễn văn ngày lễ Các Ông Bà, đức Phanxicô đã chia sẻ : "Tôi thích đọc chuyện kể về ngày thánh Giuse và Đức Mẹ đưa Chúa Giêsu lên đền thánh, khi Hài nhi mới được 40 ngày tuổi. Tại đền thánh, các đấng đã gặp một cặp ông bà, đó là cụ ông Simêon và cụ bà Anna, những người tượng trưng cho sự khôn ngoan của dân chúng. Các cụ đã ca tụng Thiên Chúa để cho sự khôn ngoan đó được truyền qua Hài Nhi. Các cụ là những ông bà ở tuổi bát tuần, đã đón tiếp Chúa Giêsu trong đền thánh trước cả các thầy tư tế ". (1)
            Theo Đức thánh cha, mối quan hệ giữa các thế hệ là bảo đảm tương lai của dân tộc : "Xin quý cụ hãy nói chuyện với con cháu. Hãy để cho họ đặt câu hỏi (…), họ cần các cụ lắng nghe và giải đáp". Ngài tiếp : "Sự chín chắn và khôn ngoan của quý cụ, tích lũy theo năm tháng, có thể giúp cho thế hệ trẻ. Những người cao niên làm chứng cho con cháu biết rằng, dù gặp những thử thách tệ hại nhất, đừng bao giờ đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa và vào một tương lai tốt đẹp hơn".

Phát huy truyền thống gia đình
            Cũng trong bài diễn văn trên, đức Phanxicô khẳng định những người cao niên có vai trò cốt lõi trong cộng đoàn Kitô giáo và xã hội. Ngài nhấn mạnh : "Biết bao ông bà đang truyền lại cho con cháu, những giá trị thiêng liêng và văn hóa của cộng đoàn và dân tộc !" ..."Các cụ tượng trưng đặc biệt cho nguồn cội và ký ức của một dân tộc. Sự hiện diện các cụ quan trọng, vì kinh nghiệm của các cụ là một kho báu, cần thiết để định hướng tương lai với niềm hy vọng và tinh thần trách nhiệm. Sự chín chắn và khôn ngoan của các cụ, tích lũy theo năm tháng, có thể giúp những người trẻ trung nhất, bằng cách nâng đỡ giúp con cháu tăng trưởng, và khi họ bắt đầu xây dựng tương lai, tìm được phương hướng để thực hiện"...
            Quả thế, trước các trào lưu văn hóa hiện đại, giới trẻ thường bị cuốn hút vào những điều mới lạ, bận tâm với nhu cầu trước mắt, với nhu cầu tiện nghi và hưởng thụ. Ông bà cha mẹ có vai trò đặc biệt nhắc con cháu nhớ đến phúc ấm tổ tiên, đến những giá trị truyển thống, những kỷ niệm không phai mờ của dòng họ, những ân nhân của gia đình, những ngày giỗ kỵ ... Nhờ kinh nghiệm, các cụ có thể khai sáng và thúc đẩy giới trẻ thể hiện khả năng của chính mình, đặc biệt có những chọn lựa đúng đắn dưới ánh sáng của đức tin.
            Đức Phanxicô nhấn mạnh vai trò Chúa Thánh Thần trong sự khôn ngoan của hai cụ Simêon và Anna, được Tin Mừng nhắc lại nhiều lần. Chính Thánh Thần ngự trị, thúc đẩy, và linh báo, giúp các cụ nhận ra Chúa Giêsu là "ánh sáng cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en". Chúa đã ban cho các cụ sự khôn ngoan thông qua hành trình dài sống vâng phục lề luật Thiên Chúa. Để giờ đây, đầy tràn Thánh Thần, các cụ dâng lời cảm tạ, chúc tụng, và loan báo ơn cứu độ (Lc 2, 22-38). (2)
Và truyền thống đạo đức, thánh thiện
            Đức Phanxicô ghi nhận sự kiện rất nhiều người cao tuổi "quảng đại dùng thời giờ và tài năng Chúa ban để giúp đỡ và hỗ trợ những người khác : trong ban phục vụ giáo xứ, họ góp phần chăm sóc cho Nhà Chúa được khang trang xứng đáng, dạy giáo lý, linh hoạt phụng vụ, và nêu gương đức bác ái"... (3)
            "Cây xanh thì lá cũng xanh, Cha mẹ hiền lành để đức cho con". Chúng ta thường thấy gia đình nào có ông bà cha mẹ nhiệt tình với việc giáo xứ, thì đa số con cháu của họ đều tích cực tham gia vào sinh hoạt chung, từ ban lễ sinh, đến ca đoàn hoặc các phong trào, đoàn thể. Nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ nhiệt thành xuất thân từ những gia đình như thế.
            Giáo hội từng mừng kính nhiều vị thánh trong một gia đình. Như thánh Augustinô và mẹ thánh Monica, thánh Phạm Trọng Khảm và con trai, thánh Phạm Trọng Thìn. Năm 2015, giáo hội tuyên thánh cùng một ngày, hai thánh Louis và Zélie Martin, song thân của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng, như lời cổ võ con cái nên thánh nhờ sự thánh thiện của mẹ cha. (4)
            Đặc biệt hơn nữa, Đại hội gia đình thế giới tại Hoa Kỳ tháng 9 năm 2015, giới thiệu cho chúng ta một gia đình ba đời thánh. Bức tranh sơn dầu Thánh Gia Thất (5), biểu tượng của Đại hội, không vẽ thánh gia với Ba Đấng như thường lệ (gồm Hài Nhi Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse) mà có đến Năm Đấng. Hai vị được thêm vào là thánh Gioakim và thánh Anna, là song thân Đức Maria, và ông bà ngoại Chúa Giêsu.
            Nhờ lời chuyển cầu của các ngài, xin cho các thế hệ trẻ tìm thấy trong gia đình sự hỗ trợ vững chắc, giúp cuộc sống của họ được nhân bản hơn, đạo đức và thánh thiện hơn.
Lm. Phanxicô X. Đào Trung Hiệu OP

 
Ghi chú
1. Đức Phanxicô, quảng trường thánh Phêrô ngày 15.10.2016.
2. Đức Phanxicô, Bài giảng lễ Đức Mẹ dâng con ngày 2.2.2015.
3. Đức Phanxicô, Ngày lễ các ông bà, 15.10.2016.
4. Ngày 18.10.2015. Chị ruột thánh nữ Têrêsa là nữ tu Leonia cũng đã được giáo hội tiến hành án tuyên thánh.
5. Do họa sỹ Neilson Carlin, ở Kennett Square, PA, thực hiện

THƯ THÁNG 3
Cùng bạn đọc thân mến, 
Phúc âm thánh Luca vẫn được mệnh danh là Tin mừng về lòng thương xót. Cách riêng ba dụ ngôn trong chương 15, được coi như đỉnh cao những mạc khải về Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, được hội thánh gửi đến cho chúng ta trong mùa chay. Đó là dụ ngôn “con chiên lạc”, dụ ngôn “đồng bạc mất”, và dụ ngôn tuyệt đẹp về “người Cha nhân hậu”, hay dụ ngôn “người con hoang đàng”. Trong tông sắc "chân dung lòng thương xót", đức thánh cha Phanxicô đã dành trọn chương IV để triển khai các dụ ngôn này, đặc biệt là dụ ngôn người cha nhân hậu.
Bi kịch nhân loại xa lìa Thiên Chúa
Nơi người con thứ đã nhận phần gia sản rồi bỏ nhà ra đi, phung phá tất cả tại vùng đất xa lạ, chúng ta nhận thấy chân dung của nhân loại qua mọi thời, đã làm tiêu tan gia tài ân sủng của mình. Phạm tội là cắt đứt giao ước yêu thương, chiều theo những sở thích đam mê, rời xa Thiên Chúa, và lìa xa hội thánh. Sẽ có ngày đương sự “ăn tiêu hết sạch”, khi đó họ mới cảm thấy mình túng thiếu, cố thu quén bất cứ thì gì để lấp đầy sự trống vắng tron gtâm hồn, kể cả loại thực phẩm dành cho gia súc. Thế mà tiếc thay, họ vẫn như không thực hiện được.
Gia sản người cha chia chỉ là của cải vật chất, nhưng người con bỏ nhà ra đi, đã đánh mất “điều quan trọng hơn nhiều, đó là phẩm cách làm con trong nhà”[1]. Đất khi của cải vật chất đã hết, người con thứ mới ý thức mình đã mất tư cách của làm con trong nhà. Khởi đầu cậu chỉ hối tiếc vì nhớ đến gia nhân trong nhà cha được cơm dư gạo thừa. Nhưng rồi cậu nhận thức được sự mất mát lớn lao ấy, nên dự tính chỉ dám năn nỉ với cha : “Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.
Trong cùng một căn nhà quen thuộc, người con nay trở thành đầy tớ, thực tế ấy quả là đáng sỉ nhục và xấu hổ. Nhưng cậu nghĩ mình không có quyền đòi hỏi gì hơn. Dầu sao trong tâm thức của cậu, đã xuất hiện một nhận thức về phẩm giá đã mất, về tư cách làm con trong nhà của cha. 
Niềm vui trong nhà cha
Tư duy người con thứ lúc này dựa theo lẽ công bình. Kẻ phá tan sản nghiệp cha đã chia, đâu có quyền gì để đòi hỏi. Cậu ý thức mình đã xúc phạm đến cha thế nào và đã khiến cha buồn khổ biết bao, nên đã chuẩn bị lời xưng thú : “Con đã đắc tội với trời và với cha, nên chẳng đáng là con cha nữa”. Điều cậu định nói, cho thấy cậu ý thức rõ hơn về phẩm giá mình đánh mất. Vì xét cho cùng, không gì có thể phá hủy được mối tương quan cha con, và anh nại vào tương quan đó để xin một ân huệ. 
Phân tích tâm trạng người con thứ trong dụ ngôn, giúp ta hiểu rõ hơn lòng thương xót của Chúa, qua cách cư xử và hành động kỳ lạ của người cha. Dù con cái có tệ bạc, dù con trở về để kiếm cơm ăn chứ không phải vì nhớ cha già, thì tình cha thương con bao giờ cũng vẫn dạt dào. Một lời nói “thưa cha” là đủ. Người con không kịp thêm lời nào nữa, vì ngay lập tức, cha cho cậu “mặc áo mới, xỏ nhẫn và mang dép”, nghĩa là trả lại cho cậu vinh dự làm con, làm cậu chủ trong nhà. Và hơn thế, ông còn biểu lộ niềm vui bằng mở tiệc thật lớn để khao mừng. 
Cảm động biết bao hình ảnh người cha già mỗi ngày đứng đợi, để có thể sớm nhìn thấy con từ đằng xa, “chạy ra ôm chầm lấy con và hôn lấy hôn để”. Lối diễn tả thật sống động và thân ái, cho thấy sự thắm thiết của tình cha dành cho con. Quả thế, tình yêu vượt qua những lô-gích bình thường. Tình thương dạt dào của người cha nhâ nhậu, được tích lũy qua bao ngày chờ mong con trở về. Giờ đây, không một lời than thở hay khiển trách, ông quyết định phải bắt con bê đã vỗ béo để ăn mừng : “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Nối kết với dụ ngôn chiên lạc và đồng bạc đánh mất được kể liên tục với dụ ngôn người cha nhân hậu, chúng ta có thể hiểu lời của Chúa Giêsu khẳng định : “Tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15, 7).
Bi kịch những người tự coi là công chính
Phần kế tiếp của dụ ngôn là một diễn tiến khá bất ngờ, khi người anh cả nổi giận không chịu vào nhà. Anh tự hào kể lể công lao của mình : “Cha coi, bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”. Anh từ chối người em và gọi nó là “thằng con của cha”. Anh ghen tức với đứa em “đã nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng !”. 
Hóa ra cậu em bỏ nhà ra đi, nay được đón vào nhà, còn người anh bấy lâu ở với cha, nay lại tự chọn đứng ở bên ngoài. Người cha kiên nhẫn nhắc nhở anh thông cảm mối tình cha, và nhắc anh vẫn còn tương quan với em, vì tất cả đều là con một cha : "Chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy". 
Bối cảnh Chúa Giêsu kể ba dụ ngôn cho ta thấy rõ ràng ngài ám chỉ người anh với các kinh sư và Pharisêu. Những người này đang xầm xì với nhau về việc Ngài đón tiếp và ăn uống với phường tội lỗi (Lc 15,1). Nội dung làm ta liên tưởng đến đoạn tin mừng tương tự về người biệt phái và người thu thuế. Cả hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Người thu thuế đấm ngực thú tội và khẩn nài lòng thương xót thì trở về và được nên công chính. Còn người biệt phái khoe khoang về thành tích mình đã làm thì không (Lc 9, 9-14). 
Quả thực, Chúa “muốn lòng nhân từ chớ không phải là hy lễ”. Và Ngài “không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9, 13). 
Cử Hành Sám Hối Chung
Đến đây, tôi nhớ đến một cách diễn tả khá đặc biệt của đức hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận: “Không vị thánh nào không có quá khứ, và không tội nhân nào không có tương lai”.
Chớ gì không có ai trong chúng ta kiêu ngạo hay thất vọng về quá khứ mình, để luôn tin tưởng vào tình thương khoan dung của Thiên Chúa. Nhờ đó chúng ta cương quyết tránh xa tội lỗi và cám dỗ trần gian, để luôn sống trong vòng tay nhâu hậu của Cha trên trời, mời gọi bạn bè và những người thân quen đến với tình yêu Thiên Chúa, cùng tham dự bàn tiệc Thánh mà Ngài hiến thân để thết đãi chúng ta.
Trong bầu khí đặc biệt cùa năm thánh lòng thương xót, xin nhắc anh chị em nhớ lại một gợi ý của Ban tổ chức Năm thánh Dòng Đa Minh, về việc tổ chức cử hành sám hối trong mùa chay năm nay. 
Ước mong mỗi huynh đoàn sắp xếp được thời gian hòa giải với nhau, để canh tân và chữa lành những mối tương quan huynh đệ. Nhờ đó, mọi nghi ngờ hiểu lầm nếu có, sẽ được xóa tan, mối hiệp thông huynh đệ được củng cố thêm chặt chẽ, hầu mọi người cùng hợp tác với nhau, làm chứng cho tình thương và lòng thương xót của Thiên Chúa.
 
Ban Biên Tập

THƯ THÁNG 4
 Cùng quý độc giả thân mến, 
Cùng với giáo hội, chúng ta vừa được sống những ngày thiêng thánh nhất trong năm phụng vụ, khi tưởng niệm cuộc thương khó và phục sinh của Đức Kitô, nơi lòng thương xót của Thiên Chúa được mạc khải và thực hiện cách trọn vẹn nhất. Chúng ta cùng nhau bước vào chúa nhật thứ hai Phục Sinh, là ngày hội thánh dành riêng để biệt kính Lòng Chúa Thương Xót. (1)
Những dấu tích tình yêu
Tin mừng đại lễ Lòng Chúa Thương xót thuật lại việc Chúa Giêsu, Đấng phục sinh hiện ra với các tông đồ. Ngài gửi đến các tông đồ lời chúc bình an, rồi cho các ông xem tay và cạnh sườn. Một tuần sau, Ngài hiện ra với các tông đồ, lúc này có mặt ông Tôma. Và một lần nữa ngài kêu mời các ông đặt tay vào các dấu đinh và cạnh sườn Ngài. Năm vết thương trên thân thể Đấng phục sinh, là dấu chứng rõ rệt nhất về tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. 
Anh chị em đã biết, huy hiệu năm thánh lòng thương xót trình bày rõ nét các dấu đinh trên đôi bàn tay và bàn chân của vị mục tử nhân lành. Ngài vác trên vai tổ tông Ađam tượng trưng cho nhân loại, đặc biệt là những con chiên lạc đàn.
Cũng thế, bức tranh Lòng Thương xót minh họa dấu đinh trên tay Chúa Giêsu, kèm với hai luồng sáng trắng và đỏ phát xuất từ cạnh sườn của Ngài. Chính Đức Giêsu chỉ dẫn vẽ bức tranh như thế và Ngài giải thích : “Luồng ánh sáng trắng biểu hiện Nước, sẽ làm cho các linh hồn nên công chính đạo đức. Luồng ánh sáng màu đỏ biểu hiện Máu, là sự sống của các linh hồn. Hai luồng ánh sáng này, phát xuất từ chốn sâu thẳm của lòng xót thương dịu dàng và êm ái nhất của Ta, lúc trái tim hấp hối Ta bị lưỡi đòng đâm thâu mở rộng ra. Phúc cho ai ẩn náu trong sự che chở của những luồng ánh sáng này, vì bàn tay công thẳng Thiên Chúa không giáng phạt họ.” 
Con Người phải trải qua Thập Giá 
Các dấu tích cuộc khổ nạn chính là mạc khải tuyệt hảo nhất về tình yêu của Chúa. Khi đón nhận thập giá, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu lớn lao nhất của “kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13). Không những thế, Ngài sẵn sàng “chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân” (Rm 5,6-8). 
Khi đón nhận những khổ đau khủng khiếp nhất của kiếp người, người Tôi Trung đau khổ đã uống cạn chén đắng Chúa Cha trao, để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Đấng “chẳng hề biết tội là gì, Thiên Chúa đã biến thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (2 Cr 5,21). Đấng “đã vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8), cho thấy Ngài chính là “Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian” (Ga 1,29).
Nội dung niềm tin đó đem đến cho chúng ta niềm tin và niềm hy vọng tuyệt đối. Dù lầm lỗi hoặc tệ hại thế nào đi nữa, mỗi người đều có một chỗ đặc biệt trong tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Bởi vì Ngài “đã mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53,5); Ngài được giương cao “để ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời” (Ga. 3, 14-15).
Trước khi bước vào trong vinh quang (Lc 24, 26)
Nhưng công trình cứu chuộc của Đức Kitô không kết thúc nơi thập giá. Mầu nhiệm Phục sinh mới là đỉnh cao công cuộc mạc khải và thực hiện lòng thương xót có khả năng công chính hóa con người. Khi phục sinh, Đức Kitô kết hợp với con người bằng một liên hệ sâu xa hơn mối liên hệ tạo thành. Ngài cho con người tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. “Nếu ta cùng chết với Ngài ta sẽ cùng sống với Ngài” (2Tm 2,11). Biến cố phục sinh là dấu chỉ tương lai của nhân loại, báo trước “trời mới đất mới”, khi Thiên Chúa “lau sạch nước mắt họ ; sẽ không còn sự chết ; cũng chẳng còn tang tóc kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã bị biến mất”. (2)
Chính trong viễn cảnh cánh chung đó, lòng thương xót phải được tiếp nối trong lịch sử loài người. Đúng thế, sau khi tỏ cho các môn đệ thấy các dấu tích tình thương, Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho họ và phái họ đi vào lòng thế giới. "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." 
Sứ vụ cứu thế và sứ vụ lòng thương xót từ nay trở thành sứ vụ của giáo hội, của chúng ta. Những ai đã cảm nhận được tình Chúa yêu thương qua trái tim bị đâm thâu, đều được kêu mời sống những tâm tình từ bi, nhân hậu như Chúa và đối xử đại lượng với nhau. Chính Đấng khẳng định trong bài giảng trên núi “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”, đã dạy chúng ta cầu nguyện như một lời đoan hứa trong lời kinh Lạy Cha : Xin Cha “tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Lạy Chúa, con tín thác nơi Ngài
Trong năm thánh đặc biệt Lòng Thương Xót này, đức thánh cha Phanxicô cổ võ chúng ta hãy "tuyên xưng và công bố rằng : lòng thương xót đã được tỏ bày một cách khẩn thiết nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh. Chính mầu nhiệm này mang nơi mình mạc khải đầy đủ nhất về lòng thương xót, về tình thương mạnh hơn sự chết, mạnh hơn tội lỗi và mọi sự dữ, tình thương này giữ con người lại trong những sa ngã sâu nhất và giải thoát con người khỏi những đe dọa lớn nhất. (3){1}
Khi thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót, đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II mong muốn ngày lễ trở thành “một lời gọi mời gọi liên lỉ các kitô hữu trên khắp thế giới, hãy tín thác, và hãy cầu khẩn lòng nhân từ của Thiên Chúa, khi gặp phải những khó khăn, thách thử đang đợi chờ họ.” 
Trong tin mừng, sau lời tuyên xưng của thánh Tôma, đức Giêsu khẳng định : "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin !" (Ga 20, 27-29). Đáp lại lời kêu mời của Chúa, chúng ta hãy sốt sắng dâng lên lời kinh được ghi trên bức tranh Lòng Xót Thương : “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Ngài !”. 
Trong năm thánh kỷ niệm thành lập Dòng, xin cho chúng ta biết họa lại mẫu gương của thánh Đa Minh, như lời chân phước Jordanô thuật lại : 
"Lúc nào cha cũng cầu xin cho được lòng bác ái đích thực để mưu tìm và chăm lo phần rỗi cho mọi người cách hữu hiệu. Cha nghĩ rằng chỉ khi nào mình noi gương Chúa Cứu Thế, hiến toàn thân toàn sức cứu rỗi các linh hồn thì mới thực sự trở thành chi thể của Chúa". (4)
Ban Biên Tập
 
1. Ngày 30.4.2000, trong lễ tuyên thánh cho thánh nữ Faustina, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã công bố quyết định dành chúa nhật thứ hai Phục Sinh để biệt kính Lòng Chúa Thương Xót.{2}
2. Đức Phanxicô, “Dung nhan lòng thương xót”, số 7-8.{3}
3. Đức Phanxicô, “Dung nhan lòng thương xót”, số 15.{4}
4. Px. Đào Trung Hiệu, Hành Trình Chân Lý, trang 21.
 
THƯ THÁNG 5
Cùng quý độc giả thân mến,
Trong lời kinh năm thánh lòng thương xót do đức thánh cha Phanxicô biên soạn, sau lời tuyên xưng đức Giêsu chính là gương mặt của Chúa Cha đầy lòng thương xót, đức thánh cha cũng gợi lại cho chúng ta chân dung của sáu nhân vật trong Tân Ước đã được biến đổi trong tình yêu của
Những nhân vật được nhắc đến gồm hai người thu thuế là ông Giakêu và thánh Matthêu; hai người phụ nữ là người đàn bà ngoại tình và thánh Mađalêna; và hai nhân vật trong cuộc thương khó là thánh Phêrô và anh trộm lành.
Lời kinh nói lên ước nguyện cho mọi người và từng người được đổi mới, nhờ chiêm ngưỡng và trải nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa. Chắc chắn cảm nghiệm sâu sắc về ơn tha thứ, phải là động lực giúp ta biến đổi cuộc đời, giã từ bóng tối, và bước đi trong ánh sáng của tình thương cứu độ.

Ánh mắt Đức 
Có lẽ sáu nhân vật trên không xa lạ với tất cả chúng ta. Mỗi người mỗi cảnh, họ đều là những người có quá khứ không vui. Thế nhưng, mặc cho người đương thời xa lánh chê trách, họ vẫn được đức Giêsu đón tiếp trong tình yêu và tin tưởng trao tặng một cơ hội để khởi sự một giai đoạn
Đáp lại những tiếng xầm xì của các kinh sư, của nhóm Pharisêu và của dân chúng, đức Giêsu đã công khai bênh vực họ. Thậm chí có lần Ngài còn khẳng định ngược hẳn với suy nghĩ của những kẻ đang kêu ca đó : "Tôi bảo thật các ông : những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông" (Mt 21, 
Trường hợp ông Giakêu, khi leo lên cây sung, có lẽ ông chỉ tò mò muốn xem cho biết Chúa là ai. Nhưng Ngài nhìn lên ông và lên tiếng xin đến thăm nhà ông. Rồi Ngài khẳng định : "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này" (Lc 19, 1-
Khi đi ngang qua bàn thu thuế và thấy ông Matthêu, đức Giêsu mời gọi ông "hãy theo tôi". Rồi Ngài đến ăn uống tại nhà ông và xác định Ngài "không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi". (Mt 9, 9-
Với người phụ nữ ngoại tình, đức Giêsu đã đối đầu với đám đông ồn ào giận dữ đòi ném đá chị. Ngài đã khiến những người ấy lần lượt rút lui, và nói : "Tôi không lên án chị đâu ! cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa ! " (Ga 8, 1-
Còn với thánh Mađalêna, đức Giêsu kể dụ ngôn người đầy tớ được chủ tha nợ, để khẳng định tội lỗi có nhiều bao nhiêu vẫn được tha, miễn là yêu mến nhiều. (Lc 7, 36-
Rồi với thánh Phêrô đã sa ngã chối Thầy, thánh Luca ghi lại chi tiết đức Giêsu quay lại nhìn ông, khiến ông nhớ lại lời tiên báo, để ra ngoài khóc lóc ăn năn. (Lc 22, 61-
Cuối cùng là chuyện anh trộm lành trên đồi Canvê, chỉ cần một lời tin tưởng khẩn nài "xin nhớ đến tôi", cũng đã đủ để nhận được lời Chúa hứa "hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng." (Lc 23, 41-43).

Ánh mắt yêu thương của Thiên 
Thực ra trên đây chỉ là một vài sự kiện tiêu biểu trong rất nhiều trường hợp cho thấy ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa khác hẳn lối nhìn của loài người. Nhân loại thường đánh giá tha nhân theo bên ngoài, những gì mắt thấy tai nghe, đôi khi hùa theo dư luận, hoặc tệ hơn, kết án dựa vào thành kiến. Còn Thiên Chúa thì khác, Ngài nhìn thấu suốt tâm can của con người, thấu suốt lương tâm và tâm hồn. Ngài biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai của mỗi chúng
Với cặp mắt tình yêu, đức Giêsu thấy ông Nathanael ngay từ lúc ông được thánh Philipphê mời gọi dưới gốc cây vả, và quả quyết ông là người "Israel chân chính, lòng dạ không có gì gian dối" (Ga 1, 45-
Với cặp mắt tình yêu, Đức Giêsu đề cao bà góa nghèo khó chỉ có hai đồng xu, và khẳng định bà đã dâng nhiều hơn tất cả những người giầu có khác tại đền thờ (Lc 21, 1-
Với cặp mắt tình yêu, Đức Giêsu nghe thấy tiếng kêu của anh mù Báctimê bên vệ đường, trong lúc nhiều người quát nạt bảo anh im đi (Mt 10, 46-
Và còn rất nhiều những con người khốn khổ, như người phụ nữ Canaan tin tưởng nài xin, như người đàn bà loạn huyết chạm vào gấu áo Ngài, như mười người phong cùi... tất cả đều cảm nhận được tình yêu thật mới mẻ của đức
Bởi vì xét cho cùng, con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa. Hình ảnh đó có thể bị biến dạng do hoàn cảnh, do giáo dục, do tổ chức xã hội hay do những chọn lựa sai lầm. Thì giờ đây, ánh mắt yêu thương khoan dung của Thiên Chúa giúp chúng ta nhận ra chân dung đích thực và dự phóng đời mình trong tình yêu và ý muốn của Ngài.

Đổi mới trong tình yêu Thiên Chúa

            Trong năm thánh lòng thương xót, hội thánh mở rộng các cánh cửa ân xá và toàn xá, chứng tỏ lòng bao dung tha thứ và hồng ân của Thiên Chúa là vô hạn. Ngài không hề mệt mỏi, không ngừng tha thứ và trao ban hồng ân. 
            Xin cho mỗi người chúng ta, như những nhân vật trong Kinh Thánh, ngỡ ngàng trước tình yêu Thiên Chúa, cũng được đổi mới trong tình yêu của Ngài. 
            Như ông Giakêu, nhờ ánh mắt yêu thương của Chúa, được giải thoát khỏi áp lực của tiền bạc, sẵn sàng đền bù những thiệt hại, và quảng đại chia sẻ nửa gia tài cho người nghèo.
            Như thánh Matthêu, trước lời mời gọi yêu thương của Chúa, dứt khoát giã từ quá khứ, dấn thân theo Chúa đến cùng, và trở thành một chứng nhân trung thành, một thánh ký ghi chép tiểu sử Thầy Chí Thánh.
            Như thánh nữ Mađalêna, nhờ lời bênh vực và tha thứ của Chúa, mạnh dạn gia nhập hàng ngũ các môn đệ, và được vinh dự là người đầu tiên loan báo tin mừng Chúa Phục sinh.
            Cũng thế thánh Phêrô, kẻ từng chối Thầy, nhờ ánh mắt dịu hiền thứ tha của Chúa, đã trở nên con người mới, can đảm vượt qua mọi trở ngại và hân hoan khi được chịu khổ nhục vì Danh Đức Giêsu (Cvtđ 5, 41).
            Cầu chúc anh chị em sống trọn vẹn những tâm tình ấy khi cùng với cộng đoàn đọc lời kinh năm thánh Lòng Thương Xót. Và xin cho mỗi chúng ta được thực sự đổi mới trong tình yêu của Thiên Chúa.


THƯ THÁNG 8

Quý độc giả thân mến,
Trong năm thánh kỷ niệm thành lập Dòng, nhiều nơi đang tiến hành tổ chức những cuộc hành hương về nguồn, viếng thăm các địa chỉ gắn bó với lịch sử Tỉnh Dòng, gồm đền thánh, di tích, linh hài các chứng nhân đức tin thuộc gia đình Đa Minh, hoặc đi thăm quê quán và những địa danh thấm máu đào của các ngài. Đây là một nỗ lực rất ý nghĩa giúp chúng ta ôn lại truyền thống của các tiền nhân.

   Ôn lại quá khứ, anh chị em hãy tạ ơn Chúa vì sự thành thiện của cha ông. Trong số 117 thánh tử đạo Việt Nam, có đến 38 hiển thánh thuộc Gia đình Đa Minh (1) gồm : sáu giám mục, 16 linh mục Dòng, và 16 vị thuộc huynh đoàn (trong đó có ba linh mục, 6 thầy giảng và 7 giáo dân). Ngoài ra, Gia đình Đa Minh còn có 118 đấng đáng kính tử đạo, đã hoàn tất hồ sơ để suy tôn chân phước, gồm 18 linh mục Dòng, 9 linh mục huynh đoàn và 91 giáo dân (2). Các vị đã thể hiện niềm tin và tình yêu lớn lao nhất, khi sẵn sàng làm chứng cho Chúa bằng máu đào. Trong tâm tình hướng về cội nguồn, chúng ta cùng ôn lại đôi nét chân dung các chứng tá niềm tin của các ngài.

Sáu thánh giám mục Đa Minh :

   Giáo phận Đông Đàng ngoài : có thánh Delgado Y, can đảm và khôn ngoan phục vụ giáo phận 43 năm. Thánh Henares Minh một mục tử nhân hiền, nhiệt tình, hăng say và bác ái. Và thánh Hermosilla Liêm, ngay giữa thời bách hại, vẫn chăm lo cho các chủng sinh và phát triển đoàn chiên được trao phó.

   Giáo phận Trung Đàng Ngoài, tức giáo phận Bùi Chu : có thánh Sanjurjo An, quan tâm việc huấn giáo và tình nguyện chịu chém để nêu gương cho tín hữu. Thánh Sampedro Xuyên nhiệt tình với việc truyền giáo, và khôn ngoan kiếm người kế vị. Và thánh Valentinô Vinh, vị giám mục hầm trú tử đạo ở tuổi 34, luôn lạc quan, nhiệt thành và sự trung tín.

Mười sáu thánh linh mục Dòng  Đa Minh (3)

   Những bốn tử đạo tiên khởi, cha Federich Tế người con điên của Đức Mẹ, cùng với cha Liciniana Đậu, trong trại giam vẫn rửa tội được hàng trăm người. Kế đó là thánh Vinhsơn Phạm Hiếu Liêm và thánh Giaxintô Gia, đã tham dự "hội đồng tứ giáo" và suy tôn thánh giá trong phủ chúa.

   Sang thế kỳ XIX, có thánh Vinhsơn Đỗ Yến, dù ở tuổi thất tuần, đã chấp nhận lưu lạc để đoàn chiên khỏi liên lụy. Thánh Fernandez Hiền sẵn sàng lấy máu mình để làm chứng cho dân Việt được nhận biết đạo thật. Thánh Đa Minh Nguyễn Văn Hạnh được mệnh danh là Laurensô Việt Nam, vui vẻ chào mọi người để về Thiên Đàng. Thánh Phêrô Nguyễn Văn Tự với lời chứng về ba người cha và bài giảng tại pháp trường.

   Nếu thánh Đa Minh Vũ Đình Tước đã kết thúc cuộc đời như một thánh lễ bên các tín hữu của mình. Thì thánh Tôma Đinh Viết Dụ sẵn lòng chịu mọi đai khổ để nên giống Chúa Kitô phần nào. Thánh Đa Minh Vũ Đức Trạch khẳng khái mời các quan tôn kính thánh giá để được sống đời đời. Thánh Đa Minh Đinh Đức Mậu trang nghiêm tiến ra pháp trường như đi cử hành thánh lễ.

   Nếu Thánh Đa Minh Nguyễn Văn Xuyên có những vần thơ lục bát củng cố đức tin cho các tín hữu. Thì Thánh Giuse Ngô Duy Hiển với nét vẽ hoa văn, đã gây nên cả phong trào kính thánh giá tại Nam Định.      

   Nếu thánh Giuse Trần Văn Tuân tận tình không ngại khó khăn nguy hiểm để phục vụ đoàn chiên. Thì thánh Almatô Bình với nhiệt tình hăng say, chiến thắng mọi bệnh tật và sẵn sàng lưu lạc trong mưa gió đêm thâu.

Ba thánh linh mục huynh đoàn:

   Thánh Schoeffler Đông, tươi cười bước theo đoàn lính tiến ra pháp trường như đoàn rước ngày khải hoàn. Thánh Đa Minh Đỗ Đình Cẩm, với tư cách và đức độ, đã khiến quan quân cũng cảm kích và yêu mến. Và thánh Tôma Ngô Túc Khuông khích lệ các tín hữu cầu nguyện, góp phần giúp quê hương được an ninh thịnh vượng.

Sáu thánh thầy giảng huynh đoàn

   Thánh Phanxicô Đỗ Văn Chiểu, mà thủ cấp được đức cha Minh dâng cao tại pháp trường như lễ vật tinh tuyền. Thánh Giuse Nguyễn Đình Uyển coi sự sống đời này chỉ bằng ngón tay, vững vàng tuyên xưng niềm tin đời sau.

   Bên thánh Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu, sẵn sàng từ chối danh vọng, và củng cố niềm tin cho anh em trong trại giam. Có thánh Đa Minh Bùi Văn Úy, coi chối đạo là bất hiếu với mẹ cha, tình nguyện thế mạng cho bị mục tử của mình.

   Nếu thánh Tôma Đào Đình Toán, từ chối bữa ăn sau mười ba ngày nhịn đói, chấp nhận chết rũ trong tù. Và thánh Giuse Nguyễn Duy Khang, dám liều thân vì đại nghĩa, làm chứng cho tình thương và lòng nhân ái của Tin Mừng.

Bảy thánh huynh đoàn giáo dân

   Trước tiên là thánh Giuse Hoàng Lương Cảnh, trùm họ, vị lương y bác ái và nhiệt tâm trong việc tông đồ.

   Kế đến là ba tín hữu đồng hương Bồ Ngọc, đã sốt sáng tuyên hứa dòng ba ngay trong trại giam. Đó là thánh Augustinô Nguyễn Văn Mới, một tân tòng; thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, vô tù mới được rửa tội; thánh Tôma Nguyễn Văn Đệ, tin tưởng phó thác vợ con cho Thiên Chúa

   Và ba vị thánh cùng một gia đình làng Quần Cống : Thánh Đa Minh Án Khảm, thánh Giuse Cai Tả, thánh Luca Cai Thìn, những vị hương chức nổi bật về lòng bác ái chăm sóc người nghèo khổ và với uy tín của mình, đã góp phần củng cố niềm tin cho các tín hữu và sẵn sàng làm sứ giả hòa bình.

Chúng ta được bao bọc bởi đám mây nhân chứng

   Chiêm ngưỡng chân dung các vị tiền bối anh dũng ấy, chúng ta nhớ đến lời Kinh Thánh trong thư Do Thái :

"Được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho chúng ta." (Dt 12,1).

   Tổng hội Trogir năm 2013 tại Croatia, nhắn nhủ chúng ta trong dịp kỷ niệm năm thánh Dòng : “Ôn lại lịch sử của Dòng, không phải là dịp để chúng ta tôn vinh chính mình, nhưng là cơ hội nhắc nhở chúng ta về nguồn cội trong tâm tình tri ân, và giúp chúng ta khám phá ra vai trò của hành trình trong cách sống của mình.” (số 57)

   Thực hiện những chuyến hành hương về nguồn, xin anh chị em nhắc nhở nhau : Tìm học hạnh tích của các thánh; chọn các ngài làm bổn mạng cho huynh đoàn cũng như cho con cháu trong gia đình; xin các ngài chuyển cầu trước nhan Chúa, và nhất là, noi theo mẫu gương cuộc sống của các ngài. 


THƯ THÁNG 9

Cùng quý bạn đọc thân mến,
Huynh đoàn Đa Minh có mặt tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 với danh xưng "Dòng Ba ông thánh Duminhgô". Nhiều người coi Dòng Ba như một hội đạo đức chuyên đọc kinh cầu nguyện. Nhưng qua lịch sử, đặc biệt qua tiểu sử các thánh tử đạo thuộc huynh đoàn, Dòng Ba Việt Nam đã có một truyền thống sáng ngời về sứ vụ bác ái và loan báo tin mừng.
Đàng sau các tư liệu lịch sử
Hai tư liệu lịch sử trích nguyên văn trong cuốn "Được sai đi loan báo Tin Mừng" cho ta thấy, Dòng Ba xưa không chỉ sốt sắng siêng năng cầu nguyện, mà còn tích cực tham gia phục vụ công ích, và hoạt động tông đồ bác ái.
Trước tiên, lá thư đức cha Marti Gia năm 1850, chỉ dẫn về việc sử dụng quỹ, cho ta biết một số hoạt động của Dòng Ba xưa như : mời và đón tiếp các linh mục đến giáo xứ dâng lễ hoặc giảng tĩnh tâm; chia sẻ cho người nghèo, thăm viếng bệnh nhân, chăm sóc người hấp hối; và rửa tội cho trẻ em ngoại. (1)
Kế đến, cuốn Sử Ký Địa Phận Trung, đã liệt kê bốn đặc điểm giúp Dòng Ba "sinh nhiều ơn ích cho toàn giáo phận" : vì họ quy tụ những người đạo đức sốt sắng; có đời sống gương mẫu; chăm lo rửa tội và chuộc trẻ bị bỏ rơi; siêng năng đọc kinh chung và cầu nguyện cho người đã khuất. Chính vì uy tín như thế, nên Dòng Ba được nhiều người cậy nhờ xin khấn. (2)
Nêu gương chứng tá đời sống
            Hội thánh luôn đề cao giá trị truyền giáo bằng chứng tá đời sống, vì con người mọi thời thường tin vào các chứng nhân hơn là lời dạy. Với ý thức sự bất toàn và giới hạn, mọi tín hữu đều phải nỗ lực sống giáo huấn của Đức Kitô, trở nên "muối cho đời và ánh sáng cho trần gian" (Mt  5,13-16).
            Chắc chắn có nhiều cách đánh giá khác nhau về khái niệm đạo đức, sốt sắng và đời sống gương mẫu..., nhưng dựa vào truyền thống, Luật Sống huynh đoàn từ số 32 đến 34, đã xác định về ba môi trường sứ vụ của anh chị em là : 1) Hội thánh địa phương: nhiệt tình cộng tác với các linh mục và các thành phần dân Chúa xây dựng phát triển giáo xứ, giáo phận. 2) Gia đình : vun trồng đời sống thánh thiện theo gương Thánh gia, quan tâm đến việc giáo dục Kitô giáo. 3) Xã hội : cố gắng dưa tinh thần Kitô giáo vào phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đồng nơi ta đang sống.
Phục vụ Giáo Hội
Qua hạnh tích của các thánh tử đạo thuộc huynh đoàn, đặc biệt là sáu thày giảng và bảy giáo hữu, chúng ta thấy nhiều mẫu gương nhiệt tình phục vụ hội thánh, lòng yêu mến các mục tử và tích cực cộng tác với các ngài.
            Gia đình ba thánh Án Khảm, Cai Tả, Cai Thìn là trường hợp đặc biệt, vì chức vụ các vị là quan án và chánh tổng. Các vị đã nêu cao mẫu gương trong việc giáo dục gia đình và trong việc củng cố đức tin cho các tín hữu. Giữa thời bách hại căng thẳng, các vị can đảm mở cửa tiếp đón các vị mục tử, khôn khéo làm trung gian hòa giải với quan lại địa phương, đem lại an bình một thời cho xứ đạo. Và ba vị sẵn sàng được bắt vì "chứa chấp" đức cha Sampedro Xuyên.
            Nếu thầy Nguyễn Đình Uyển người đồ đệ thân tín, đã đồng hành với đức cha Henares Minh trên bước đường lưu lạc, thì thầy Đỗ Văn Chiểu có vinh dự đồng hành với đức cha trong những ngày giam cầm và tử đạo. Tương tự, thầy Nguyễn Duy Khang đã đồng lao, đồng khổ, đồng số phận lênh đênh sông nước, và đồng chịu gian khổ với đức cha Hermosilla Liêm.
Gắn bó với cha Nguyễn Văn Tự, ngoài ông trùm Hoàng Lương Cảnh đồng sinh đồng tử; còn có thầy Hà Trọng Mậu : “Xin cha thương nhận con làm môn sinh, để con cũng được tử đạo với cha”; và có thầy Bùi Văn Úy, từng đào hang trú ẩn với hai ngăn và ở ngăn bên ngoài để như thầy tâm sự : "Nếu quan quân truy lùng, tôi sẽ ra trước nộp mình để cha khỏi bị bắt, hầu cha có thể giúp anh chị em”.
            Nếu anh Nguyễn Văn Đệ với nghề thợ may đã góp phần trong việc trang hoàng nhà thờ, thì cụ Hoàng Lương Cảnh được giáo dân tín nhiệm chọn ra làm trùm họ, đã rửa tội cho nhiều người trong giờ hấp hối, và rửa tội cho nhiều trẻ em.
Loan báo Tin mừng
            Ngục tù không cản được các chứng nhân tiếp tục làm chứng cho Tin mừng. Ngay trong trại giam : ông Án Khảm đã giúp nhiều người giữ vững đức tin để lãnh nhận ngành lá tử đạo; Thầy Uyển giải thích cho quan quân về "Mười điều răn Đức Chúa Trời"; ông trùm Cảnh giảng giải cho họ ý nghĩa các lời kinh trong đạo. Đặc biệt, nhóm năm người gồm hai thầy giảng Mậu, Úy và ba anh Mới, Đệ, Vinh, đã tuyên khấn Dòng Ba trong tù, hợp lực dạy giáo lý trong nhà giam và đã rửa tội được đến 44 người.
            Nếu Sử ký địa phận Trung liệt kê một công tác âm thầm của các bà dòng ba, là dạy kinh cho tân tòng không biết chữ, dạy thuộc lòng bằng cách đọc trước cho họ đọc theo (3). Thì sang thế kỷ XX, chúng ta thấy có hai tác giả Dòng Ba đã xuất bản sách in tại Phú Nhai Đường. Đó là ông Đômingô Huy với cuốn "Nam quốc tòng giáo lược truyện", và ông Giuse Hoàng Diệu với bộ hai tập "Sách Sấm Ký", kể chuyện từ tạo thiên lập địa đến khi Chúa giáng sinh tại Bêlem. (4)
Sống bác ái Kitô giáo
Minh họa cho những hoạt động bác ái của Dòng Ba đã nêu trên, gồm: chia sẻ cho người nghèo, thăm viếng bệnh nhân, chăm sóc người hấp hối; rửa tội và cưu mang trẻ mồ côi... xin ghi nhận một vài mẩu chuyện của các thánh tử đạo huynh đoàn.
            Ông trùm Cảnh, vốn là một lương y, giữa lúc làng Thổ Hà bị quân lính bao vây, đã không quản ngại nguy hiểm, nhận lời đi chữa bệnh, và chính vì thế mà ông bị bắt.
            Ông Án Khảm ngoài việc sẵn sàng chia sẻ của cải cho người nghèo, mỗi ngày :“Gia nhân phải kiếm kẻ nghèo khó vào ngồi chung thì ông mới ăn cơm”.
            Ông Cai Tả, thăm nhà từng gia nhân vào dịp tết để tặng quà. Vì chủ trương "mình quên nợ người, Chúa quên tội mình", ông tha một nửa các khoản vay nợ của gia nhân và dân làng, và xóa nợ cho người quá túng thiếu.
            Trong năm thánh lòng Thương Xót, và trong tháng bác ái Đa Minh, xin Chúa cho chúng ta biết cộng tác với nhau sống và làm chứng cho Tin Mừng, sống bác ái và thực hành 14 mối thương người, theo gương Thày Chí Thánh: “Hãy thương xót, như Cha anh em là Đấng Thương Xót” (Lc 6, 36). 
 
Trong thư công bố khai mạc năm thánh, cha Tổng quyền Bruno Cadoré đã liên kết năm thánh Dòng với năm thánh Lòng Thương Xót, ngài khẳng định : “Sự trùng hợp vui mừng giữa hai Năm Thánh này rất gần gũi với lịch sử, đời sống và sứ vụ Đa Minh của chúng ta. Với chúng ta, đó là lời mời gọi canh tân sứ vụ “công bố Lòng thương xót của Chúa, mà theo cách riêng, phải thẩm thấu vào lòng và trí của từng người”.
Theo cha Tổng quyền : “Nhà giảng thuyết Tin Mừng cũng là nhà giảng thuyết ân sủng, và nhà giảng thuyết ân sủng cũng là nhà giảng thuyết về lòng thương xót của Chúa.
Lòng trắc ẩn của thánh Đa Minh
Ngay khi còn là sinh viên ở Palencia, thánh Đa Minh đã biểu lộ một lòng trắc ẩn rất đặc biệt. Trước nạn đói đang hoành hành, thánh nhân thực hiện một nghĩa cử quảng đại và rất xót thương, khi quyết định bán cuốn sách quí mà ngài đã bỏ bao nhiêu công sức nắn nót ghi chép, để không “học trên những tấm da chết, đang khi có những người anh em chết vì đói”. Chắc chắn cuốn Kinh Thánh kèm với các ghi chú đó là một gia sản quý giá của chàng sinh viên trẻ. Nhưng như bà góa với những đồng xu, Đa Minh sẵn sàng hiến dâng tất cả những gì mình có, để xoa dịu cảnh khổ đau của tha nhân.
Sau này, khi khuyên một người lạc giáo trở về, cha Đa Minh nhận được câu trả lời bất ngờ : "Tôi không thể rời xa họ, vì tôi ăn nhờ ở trọ trong nhà họ". Vừa lúng túng vừa đau lòng vì không có gì để trợ cấp, Cha đã nghĩ đến giải pháp “tự bán mình” để lấy tiền cứu anh ta. Dĩ nhiên các tín hữu đạo đức đã không cho ngài thực hiện điều đó, nhưng sáng kiến ấy cho ta hiểu tấm lòng của ngài bao la dường nào.
Nhiều lần lòng trắc ẩn của cha Đa Minh đã mở cửa lòng thương xót của Thiên Chúa, thể hiện qua các phép lạ nhờ lời cầu của thánh nhân. Phép lạ thực hiện do quyền năng Thiên Chúa, đồng thời cũng là hoa trái của lòng xót thương.
Đó là các phép lạ hóa bánh ra nhiều, phép lạ chữa lành bệnh nhân, phép lạ cứu đoàn hành hương đi viếng mộ thánh Giacôbê vượt qua bão tố. Đặc biệt cha đã thực hiện ba phép lạ phục sinh người chết. Một kiến trúc sư bị tai nạn chôn vùi trong đống gạch; một đứa bé đã qua đời được mẹ bế đến khẩn nài, và chàng Napoleon, cháu hồng y Stephanô vừa chết vì ngã ngựa. [1]
Kinh nguyện của lòng thương xót
            Là người từng chung sống, chứng kiến và nghe Cha Đa Minh cầu nguyện, chân phước Jordano ghi nhận : "Cha Đa Minh thường cầu nguyện suốt đêm, Chúa đã ban cho Cha ơn đặc biệt cầu nguyện cho các tội nhân, cho người nghèo và cho người sầu khổ. Cha cảm thông với những sầu khổ của họ tận đáy lòng, và biểu hiện ra bên ngoài bằng những dòng nước mắt. Có khi giữa đêm thanh vắng. Ngài lớn tiếng kêu nài : "Chúa ơi ! Rồi đây các tội nhân sẽ ra sao ?"
Nội dung lời cầu nguyện cộng với dòng nước mắt, cho ta thấy thánh nhân có sự đồng cảm với Đức Kitô, để yêu nhân gian bằng những rung cảm và thao thức của chính Chúa thuở xưa. Tình yêu đó thúc đẩy cha, khi cầu nguyện, thân thưa với Chúa về những người đã gặp, học với Chúa để biết xót thương và cảm thông với những người sẽ gặp.
"Lúc nào cha cũng cầu xin cho được lòng bác ái đích thực để mưu tìm và chăm lo phần rỗi cho mọi người cách hữu hiệu. Cha nghĩ rằng chỉ khi nào mình noi gương Chúa Cứu Thế, hiến toàn thân toàn sức cứu rỗi các linh hồn thì mới thực sự trở thành chi thể của Chúa"
Lời cầu nguyện biểu lộ lòng cha yêu thương và khoan dung với các tội nhân. Như Maisen xưa, cha xin Chúa tha cho họ lỗi lầm trong quá khứ. Cha lấy tấm lòng của Thiên Chúa để ôm ấp họ. Cha không chỉ chuyển cầu cho bằng muốn "kết hợp" ngày càng sâu xa hơn với Đức Giêsu, là Đấng trên Thánh Giá đã dạy cho loài người nghệ thuật yêu thương.
Trong những giờ kinh nguyện nồng cháy đó, cha xin Chúa mở rộng cõi lòng mình để biết yêu thương. Lòng thương xót đích thực không chỉ dừng ở chỗ đáp ứng những nhu cầu vật chất, mà là ước muốn đem con người đến với ơn cứu độ. Cha muốn đưa hết thảy lương dân, anh em Do thái, Hồi giáo và Ly giáo ... nghĩa là tất cả, đến với Chúa Cứu Thế.
Công bố lòng thương xót của Chúa
Theo tin mừng thánh Máccô, sau khi Đức Giêsu “gọi nhóm mười hai lại và sai đi từng hai người một… để rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”… Ngài “thấy đám đông như bầy chiên không người chăn dắt, nên chạnh lòng thương và bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”. Rõ ràng trước phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa chỉ thị cho các môn đệ : “Anh em hãy cho họ ăn”, và Ngài rao giảng cho họ về Nước Trời (Mc 6, 7-12). 
Người môn đệ hôm nay, khi đồng cảm và yêu nhân gian bằng trái tim nhân hậu của Thiên Chúa, cũng nhận ra nỗi bất hạnh lớn nhất của con người chính là không được đón nhận ơn cứu độ. Đói khát cơm bánh chỉ là hình bóng cơn đói khát khôn nguôi của nhân loại, là đói khát tình thương, đói khát chân lý. Bệnh tật thân thể chỉ là hình bóng những căn bệnh trầm kha của tâm hồn chính là tội lỗi. Biết bao người bị mù, què, câm, điếc về tinh thần, đang cần phải được chữa lành.
Các sử gia vẫn coi hứng khởi nền tảng để cha Đa Minh lập Dòng xuất phát từ buổi đối thoại với người chủ quán trọ đã gia nhập nhóm Cathares. Lửa nhiệt tâm với các linh hồn cha Đa Minh ôm ấp bấy lâu nay bỗng bừng cháy. Hôm ấy, Cha thức trắng đêm, thân ái nhưng thẳng thắn, trao đổi và thuyết phục được người chủ quán trở về chính lộ. Chính hôm ấy, cha mường tượng thấy một điều : muốn cảm hóa được lạc giáo, cần phải có những người nhiệt tình, hiểu và sống Tin Mừng, sẵn sàng ra đi, đối thoại và thuyết phục họ. Chính nhờ biến cố này, Dòng các anh em Giảng thuyết ra đời.
Sứ giả của lòng xót thương
            Anh chị em thân mến,
Sau khi cùng nhau chiêm ngưỡng đôi nét mẫu gương lòng thương xót của cha Đa Minh, chúng ta tin tưởng chạy đến phó thác nơi Ngài những khó khăn và gánh nặng trong cuộc sống, và xác tín, mỗi chúng ta luôn có chỗ trong lời chuyển cầu của cha thánh trước nhan Thiên Chúa.
Xin cho chúng ta biết sống lòng thương xót như Chúa Cha theo lời kêu mời của Hội thánh. Xin cho chúng ta biết noi theo mẫu gương của cha Đa Minh, biết bày tỏ lòng thương cảm thực sự đối với tất cả những ai gặp khổ đau, qua việc chia sẻ và thực thi bái ái, qua lời cầu nguyện cho mọi thành phần nhân loại và qua nỗ lực giới thiệu với những người chúng ta gặp gỡ, về tình thương của Thiên Chúa, về ơn cứu độ nơi Đức Kitô và về hạnh phúc vĩnh cửu của nhân loại.
Nhờ lời Cha thánh chuyển cầu, xin cho chúng ta trở thành những sứ giả của lòng xót thương.
 

THƯ THÁNG 10

Cùng bạn đọc thân mến,

            Tiếp nối niềm vui của Đại hội giới trẻ thế giới vừa diễn ra tại Ba Lan, xin gửi đến cộng đoàn một vài suy tư về giới trẻ trong huynh đoàn, xin anh chị em cầu nguyện cho các bạn trẻ đang tham gia những ngày hội ngộ, đặc biệt cho giới trẻ huynh đoàn tại giáo xứ và giáo phận của mình.

Truyền thống trẻ dòng Ba Đa Minh

            Một điểm đáng lưu ý khi đọc hạnh tích các thánh tử đạo thuộc Huynh đoàn Đa Minh tại Việt Nam, đó là từ lâu lắm rồi, Dòng Ba (1) Đa Minh Việt Nam đã đón nhận nhiều thành viên trẻ. Họ gia nhập Dòng Ba ở độ tuổi ba mươi hoặc đôi mươi.

            Cụ thể như : thánh Luca Phạm Trọng Thìn tử đạo năm 39 tuổi, thánh Augustinô Nguyễn Văn Mới 33 tuổi, cha thánh Augustinô Đông và thánh Giuse Nguyễn Duy Khang 29 tuổi, thánh Tôma Nguyễn Văn Đệ 28 tuổi, thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, mới 26 tuổi. Nếu thánh Stêphanô Vinh khấn hứa dòng ba trước đó một năm ở tuổi 25, các vị khác chắc chắn đã gia nhập dòng Ba trước đó nhiều năm.

            Điều đáng mừng trong huynh đoàn Đa Minh là sự bền vững của những người đã gia nhập. Gần đây, nhiều nơi đã có truyền thống tốt đẹp, chúc mừng các đoàn viên 40 năm, 50 năm thậm chí là 60 năm tuyên hứa trong huynh đoàn.

Giới trẻ hôm nay nguồn hy vọng ngày mai

            Luật sống nhắc nhở chúng ta phải đặc biệt lưu tâm khuyến khích các bạn trẻ gia nhập huynh đoàn và ưu tiên huấn luyện giới trẻ (số 39-40). Các huynh đoàn hãy thường xuyên quan tâm cổ võ giới trẻ, khởi từ người thân trong gia đình, tìm hiểu và tham gia sinh hoạt của huynh đoàn.

            Trong ngày khai mạc Đại hội giới trẻ vừa qua, Đức thánh cha Phanxicô chia sẻ cảm nghiệm khi thấy giới trẻ hôm nay vẫn được Thiên Chúa tác động cách kỳ diệu : "Không có gì đẹp hơn là được nhìn thấy tâm huyết, lòng nhiệt thành và năng lực của người trẻ trong cuộc sống. Khi Chúa Giêsu chạm đến trái tim của một người trẻ, người ấy trở nên có khả năng tạo ra những điều thực sự tuyệt vời".

            Trong bối cảnh xã hội phát triển, giới trẻ ngày nay có điều kiện học hành và thành thạo các phương tiện truyền thông mới, chúng ta nên tin tưởng vào kiến thức và khả năng của họ. Nhiều anh chị trong Ban phục vụ, khi cần liên lạc qua thư từ điện tử, vẫn thường nhờ đến con cháu trong nhà.

            Chúng ta đã từng trải qua một thời xuân trẻ, nên có kinh nghiệm về tuổi trẻ, đó là : khả năng tiếp nhận điều mới, sự vui tươi, linh hoạt, sáng tạo, và hăng say. Cùng với giáo hội chúng ta đặt niềm hy vọng vào giới trẻ và tín nhiệm trao cho họ cơ hội thể hiện mình.            Việc quan tâm đón nhận giới trẻ cũng là cách chắc chắn nhất, giúp cho huynh đoàn được sinh động và phát triển, cũng là cách chuẩn bị đội ngũ kế thừa phục vụ huynh đoàn trong tương lai.

Tinh thần trẻ trung

            Tuy nhiên, nếu khái niệm trẻ thường gắn liền với tuổi thanh xuân, thì cũng có những người tuổi tuy cao mà tinh thần vẫn trẻ trung. Cụ thể gần đây trong giáo hội có những vị giáo hoàng dù đã ở độ tuổi 80 vẫn phù hợp với giới trẻ, như đức Biển Đức 16, đức Phanxicô, hai vị thánh giáo hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô II. Các ngài được giới trẻ yêu mến vì sống chan hòa, yêu thương, lắng nghe, cảm thông, thấu hiểu và cổ võ các bạn trẻ gặp gỡ Đức Kitô và được biến đổi trong Chúa Thánh Thần.

            Theo gương các ngài, cầu chúc quý ông bà trong huynh đoàn, dù ở tuổi lục tuần hay thất tuần, vẫn giữ được tinh thần trẻ trung. Chúc các anh chị "trẻ mãi không già", thể hiện qua nụ cười tươi, sự cởi mở, lòng nhiệt thành; tinh thần cầu tiến, khả năng cập nhật thông tin, niềm nở trong ứng xử, và quảng đại lãnh nhận trách vụ được trao phó.

            Nhân cơ hội này, xin đặc biệt cảm ơn và tuyên dương các anh chị thuộc huynh đoàn, đang dấn thân trong sứ vụ huấn giáo, ca đoàn, tích cực với công tác bác ái hay các phong trào giới trẻ cấp giáo xứ và giáo phận, nhất là các anh chị tham gia hội đồng giáo xứ và giáo họ. Nhiệt tình trong việc sứ vụ được ủy thác, anh chị đang tham gia vào sứ vụ của Dòng, và góp phần truyền lửa hăng say cho thế hệ trẻ mai sau.

Tâm sự với giới trẻ huynh đoàn

            Các bạn trẻ thân mến !

            Huynh đoàn luôn coi các bạn là hồng ân Chúa ban tặng. Rất nhiều anh chị trong Ban phục vụ huynh đoàn tỉnh và huynh đoàn giáo phận hiện nay, từng là thành viên huynh đoàn trẻ hai ba chục năm trước.

            Các bạn đến với huynh đoàn có thể vì nhiều lý do khác nhau, nhưng trước tiên các bạn cần ý thức rằng : chính Đức Giêsu mời gọi các bạn sống trưởng thành trong ơn gọi kitô hữu, và sống chứng tá tin mừng theo linh đạo của cha thánh Đa Minh. Đó mới là điều cốt yếu của các thành viên huynh đoàn.

            Luật sống và Chỉ nam yêu cầu huynh đoàn sáng tạo các sinh hoạt phù hợp cho giới trẻ. Tuy nhiên, dù có khác biệt về hình thức, nhưng tất cả đều phải dựa trên bốn yếu tố nền tảng của huynh đoàn, đó là : "sốt sáng cầu nguyện, hiệp nhất huynh đệ, chuyên cần học hỏi và cùng nhau thi hành sứ vụ" (2). Chính các bạn phải chủ động khám phá những cách thức, để người trẻ thực hiện bốn nền tảng trên.

            Xin gửi đến các bạn lời nhắn nhủ của đức thánh cha Phanxicô trong đêm canh thức Đại hội Giới trẻ :

            "Cha thật đau khổ khi gặp gỡ những người trẻ dường như đã muốn nghỉ hưu sớm. Cha lo lắng khi thấy những người trẻ chịu thua trước khi trận đấu bắt đầu, những người đang bị đánh bại trước khi bắt đầu cuộc chơi, họ lang thang rầu rĩ như thể cuộc sống không có ý nghĩa. Những người trẻ như thế thật đáng chán !"

            "Chúng ta không vào thế giới này để "sống vô vị", để dễ dãi biến cuộc sống ta thành chiếc sô-pha thoải mái để thiếp ngủ. Không, chúng ta đến đây vì một lý do khác, là để lưu lại một dấu ấn" ... "Trong tất cả mọi khung cảnh các con hiện diện, tình yêu của Thiên Chúa đều mời gọi các con đem Tin Mừng đến, biến cuộc sống của các con thành một món quà cho Người và cho người khác".

            Tiếp lời đức thánh cha, xin cầu chúc các bạn trẻ trong huynh đoàn : "Đổi ghế sô-pha lấy đôi giày đi bộ và tiến bước trên con đường thám hiểm. Để đi tiên phong trên những nẻo đường mở ra những chân trời mới, có khả năng truyền lan niềm vui, niềm vui phát sinh từ tình yêu Thiên Chúa"


THƯ THÁNG 9
Cùng quý bạn đọc quý mến!
Tháng Mân Côi đã về ! Giáo hội dành trọn tháng mười để mời gọi tín hữu đọc kinh Mân Côi hàng ngày, và cổ võ việc cầu nguyện bằng chuỗi kinh huyền nhiệm. Lời mời gọi đó càng khẩn thiết hơn với các thành viên gia đình Đa Minh, vì Kinh Mân Côi vốn là gia sản của Dòng, Kinh Mân Côi giúp chúng ta đào sâu và sống những yếu tố nền tảng trong linh đạo Đa Minh, đó là  cầu nguyện, hiệp thông, học hành và sứ vụ.
Kinh Mân Côi : lời kinh linh nghiệm
Lòng sùng kính đối với Đức Mẹ qua kinh Mân Côi, bắt nguồn từ thánh Đa Minh và được giáo hội không ngừng phổ biến. Mỗi ngày có hàng triệu lời kinh Mân Côi được Dân Chúa khắp nơi dâng lên, được sánh như vườn hồng bát ngát nức hương tươi thắm dâng lên Mẹ hiền.
Với kinh kính mừng, chúng ta tuyên đọc lại sứ điệp chính của Tin Mừng. Đó là Lời loan báo tin vui của sứ thần Gabriel, và lời chúc tụng của bà thánh Isave về Đấng Emmanuel đã đến ở cùng nhân loại, và người con đầy phúc lạ trong lòng Mẹ, chính là Đấng cứu độ nhân trần.
            Vế thứ hai của kinh kính mừng là lời khẩn nguyện của giáo hội. Với ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi, chúng ta cậy nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Chúa Trời, xin Mẹ đoái thương phù giúp cho mọi người, cho những nhu cầu hiện tại và hướng đến hạnh phúc mai sau (khi nay và trong giờ lâm tử).
Ngoài ra, mỗi chục kinh còn đi kèm với kinh lạy cha và kinh sáng danh. Kinh Lạy Cha là lời kinh tuyệt vời nhất do chính Đức Giêsu truyền dạy. Và kinh sáng danh quy hướng mọi lời nguyện của chúng ta về Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thánh Piô Năm Dấu từng chia sẻ : "Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi".
Kinh Mân Côi : lời kinh hiệp thông
            Trong kinh lạy Cha và kinh kính mừng, chúng ta được nhắc nhớ cầu nguyện cho nhau. Những lời xin "cho chúng con" chứng tỏ : kinh Mân Côi không phải là lời kinh cá nhân, mà là lời kinh của hội thánh. Lời kinh ấy bao hàm tất cả mọi người, lời kinh ấy nối kết chúng ta với cộng đoàn, với thân bằng quyến thuộc, với các tín hữu và với toàn thể nhân loại. Và vì thế, mỗi chúng ta đều có chỗ và hiệp thông trong lời kinh của anh chị em mình, đang dâng lên Mẹ từ bất cứ nơi đâu trên địa cầu.
Nhờ những tràng Mân côi của các trái tim yêu mến chân thành, Đức Mẹ không ngừng tuôn đổ mưa hoa hồng ơn thiêng cho giáo hội. Những hoa hồng ân phúc phần hồn phần xác, nhất là ơn sám hối đổi mới cuộc đời, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa, ơn sống tin mừng và cộng tác vào công trình cứu độ.
            Dòng Đa Minh có truyền thống cổ võ phong trào "Kinh Mân côi sống" [1], quy tụ thành từng nhóm 20 người, mỗi người cam kết đọc mỗi ngày một trong 20 mầu nhiệm Mân Côi. Như thế mỗi ngày họ hiệp thông trong chuỗi Mân Côi trọn vẹn với tất cả các mầu nhiệm mùa vui, sáng, thương và mừng.
            Xin anh chị em tích cực cổ võ phong trào đạo đức này trong huynh đoàn và cho các tín hữu trong khu vực.
Kinh Mân Côi : trường dạy đức tin
            "Kinh Mân Côi là cuốn Tin Mừng tóm lược". Khi đọc kinh Mân Côi, chúng ta học trong ngôi trường đức tin sống động của Tin Mừng. Qua 20 mầu nhiệm, chúng ta có cơ hội chiêm ngưỡng, suy niệm và học hỏi. Học nơi cuộc đời và giáo huấn của Thầy Chí Thánh, học theo mẫu gương của Đức Maria, các thánh tông đồ, và các nhân vật trong tin mừng.
            Qua các mầu nhiệm Mân côi, ki-tô hữu ngày càng được gắn bó sâu xa hơn vào những biến cố của công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, chúng ta họa lại trong đời mình mẫu gương Ðức Kitô, Đấng làm người ở giữa chúng ta, đã bôn ba rao giảng Nước Trời, đã hiến mình trên Thánh Giá và sống lại vinh quang. Chúng ta học theo gương đức Maria. Mẹ luôn đồng hành với Chúa Giêsu, luôn ghi nhớ suy niệm trong lòng, luôn thưa vâng và hợp tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.
            Hãy lưu tâm đến lời xướng trước mỗi mầu nhiệm, được kèm với một ý nguyện : ta hãy xin cho được... Anh chị em được nhắc nhớ sống các mầu nhiệm Mân Côi, bằng cách thực hành các nhân đức. Đó là sống khiêm nhường, bác ái, thanh thoát, tuân phục và giữ nghĩa cùng Chúa. Đó là kiên trung vác thập giá theo chân Chúa để được sống lại với Người, là ái mộ những sự trên trời và bước đi trong Thần Khí, theo chân Mẹ trên hành trình về Thiên quốc.
Kinh Mân Côi : lời kinh sứ vụ
            Theo cha tổng quyền Timothy Radcliffe, OP, mỗi lần đọc kinh kính mừng, chúng ta đang thực hiện một bài giảng, khi nhập vai thần sứ Gabriel để loan báo tin mừng. Bài giảng ngắn gọn nhưng chứa đựng chân lý cứu độ, về tình yêu Thiên Chúa, Đấng yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một.
            "Như vậy, tôi muốn nói kinh Kính mừng đơn giản này giống như một bài giảng mẫu nho nhỏ. Bài giảng ấy công bố một tin vui và là bài giảng rất độc đáo. Vì bài giảng này đâu phải là lời của người phàm, mà là Lời của chính Thiên Chúa, Lời vang vọng trong lời của chúng ta ..." {C}[2]
            Hơn thế nữa, theo gương Đức Mẹ, sau biến cố truyền tin đã lên đường thăm viếng và đem đến ơn cứu độ cho Gioan Tiền Hô. Lời kinh kính mừng, cũng thúc đẩy chúng ta đem Chúa đến cho những ai đang cần ơn cứu độ.
Kinh Mân Côi : lời kinh thương xót
            Ngày 13 tháng 10 năm 1917, khi hiện ra ờ Fatima, Đức Mẹ đã xác định danh xưng Ngài là "Mẹ Mân Côi". Mẹ tha thiết nhắn nhủ chúng ta : hãy tôn sùng mẫu tâm, hoán cải đời sống, và siêng năng đọc kinh Mân côi, để cầu nguyện cho hòa bình thế giới và cầu nguyện cho người tội lỗi ăn năn trở lại.
            Vâng lời Mẹ dạy, giáo hội thêm vào sau mỗi chục kinh, lời kinh Fatima : "... Xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn". Rõ ràng Mẹ nhắn nhủ chúng ta phải quan tâm đến ơn cứu độ, và trở nên chứng nhân của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thánh Maximilian Kolbe khẳng định : "Bao nhiều tràng chuỗi mân côi là bấy nhiêu linh hồn được cứu rỗi"
            Cuối cùng trong tâm tình tin tưởng phó thác vào lòng từ ái của Mẹ, chúng ta cùng dâng lên lời kinh quen thuộc :
Kính chào Đức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương,
Ngọt ngào cho cuộc sống, Kính chào lẽ Cậy Trông...
Ôi lượng cả khoan hồng, Ôi tấm lòng xót thương,
Ôi dịu hiền nhân hậu, Trinh Nữ Maria.



 

1 Phong trào do sáng kiến của bà Pauline Jaricot tại Lyon năm 1826. Trước đây, khi chưa có mầu nhiệm sự sáng, mỗi nhóm 15 người.
2 Timothy Radcliffe, OP, Bài nói chuyện tại Lộ Đức, tháng 10-1998