1
07:17 +07 Thứ bảy, 20/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 59

Máy chủ tìm kiếm : 3

Khách viếng thăm : 56


Hôm nayHôm nay : 4338

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 207874

Tổng cộngTổng cộng : 27762158

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » GIÁO PHẬN VINH » VĂN HÓA _ THỂ THAO

Các di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam

Thứ ba - 06/12/2011 09:39-Đã xem: 1861
.

.

Việt Nam là đất nước có lịch sử hào hùng và là cái nôi văn hóa nghệ thuật của khu vực Đông Nam Á. Trải qua nhiều biến động về chính trị, xã hội, các thế hệ tổ tiên chúng ta với bản lĩnh kiên cường vẫn quyết tâm gìn giữ những nét văn hóa riêng của dân tộc mình. Tuy nhiên, giới trẻ ngày nay không những bị ảnh hưởng quá nhiều của các luồng văn hóa nước ngoài, mà còn thiếu hiểu biết và xem thường dẫn đến nguy cơ biến mất của những loại hình văn hóa ông cha để lại.

May thay, việc Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO đứng ra công nhận và bảo tồn các di sản văn hóa thế giới đã mở ra cơ hội giúp chúng ta có thể bảo tồn và khôi phục lại các loại hình văn hóa nghệ thuật này. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số loại hình văn hóa phi vật thế nhân loại của Việt Nam đã và sắp được UNESCO công nhận, giúp bạn thêm hiểu biết và yêu quý các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Đặc điểm của các di sản văn hóa phi vật thể nhân loại
Mỗi di sản văn hóa phi vật thể muốn có tên trong danh sách "Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại" phải được một hoặc nhiều quốc gia đề cử tới UNESCO trước khi được đưa ra xem xét bởi một ủy ban chuyên biệt. Những di sản được công nhận phải có những đặc điểm và giá trị sau:

 

  • Kiệt tác có giá trị đặc biệt do nhân loại sáng tạo nên.
  • Có sức ảnh hưởng lan tỏa trong cộng đồng và sự độc đáo của bản sắc văn hóa.
  • Tính ứng dụng, các chất lượng kỹ thuật và các khả năng mang lại hiệu quả.
  • Mang giá trị như một chứng nhân độc đáo cho truyền thống văn hóa;
  • Có nguy cơ biến mất do thiếu phương tiện bảo vệ và do quá trình đô thị hóa hay do tiếp biến văn hóa. Vấn đề này phải được các quốc gia thể hiện trong các biện pháp quản lý và chương trình hành động.


Nhã nhạc cung đình Huế
Ngày 7/11/2003, lần đầu tiên một di sản phi vật thể của Việt Nam đã được công nhận là di sản nhân loại với mục “Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”. Đó là Nhã nhạc Huế, kiệt tác âm nhạc cung đình, cô đọng những tinh hoa của âm nhạc chính thống Việt Nam và có nguy cơ biến mất.


Nhã nhạc là sự hòa hợp tối đa của nhạc, hát và múa. Các quy định về quy mô dàn nhạc, cách thức diễn xướng, nội dung bài bản... của Nhã nhạc đều rất chặt chẽ, phản ánh tính quy củ qua các định chế thẩm mỹ rất cao. Hệ thống bài hát rất phong phú, với hàng trăm nhạc chương, lời ca bằng chữ Hán do Bộ Lễ biên soạn. Nội dung thể hiện tư tưởng, quan niệm triết lý của chế độ quân chủ, hướng về việc suy tôn công đức, cầu sự thái bình thịnh trị… 

Khi các nhạc chương được hát lên, có các đội ngũ Bát dật múa phụ họa với hơn 100 người, ăn mặc lộng lẫy tạo nên một khung cảnh uy nghi tráng lệ. Kèm theo đó là bản hòa tấu của nhiều nhạc cụ với quy mô hoành tráng như Đại nhạc với 42 nhạc sinh, Huyền nhạc với 26 nhạc sinh... Trong đó các nhạc cụ gõ như chuông, khánh, trống, chúc, ngữ đóng vai trò quan trọng, không chỉ trong hòa tấu mà trong việc mở đầu và kết thúc buổi trình diễn.

Nhã nhạc được coi là quốc nhạc của âm nhạc Việt Nam, có sức lan tỏa và ảnh hưởng lớn qua nhiều triều đại phong kiến ở Việt Nam. Nhã nhạc ra đời từ thời Lý (1010-1025), có hoạt động quy củ từ thời Lê (1427- 1788) và phát triển rực rỡ vào thời Nguyễn, đặc biệt dưới thời vua Minh Mạng (1820-1840). Nó được các triều đại quân chủ Việt Nam hết sức coi trọng, coi là một biểu tượng cho vương quyền về sự trường tồn và hưng thịnh của quốc gia. Nhã nhạc với các thể loại như Giao nhạc, Đại Yến, Miếu nhạc… trong các lễ tế đại triều, thường triều, mừng thọ, lễ đăng quang, lễ tang, lễ tiếp đón sứ thần… 

Tuy nhiên, cùng với sự sụp đổ của chế độ phong kiến Việt Nam, nhã nhạc ngày nay đã mất đi diện mạo xưa, bị mờ nhạt và có nguy cơ biến mất. Việc được công nhận là di sản văn hóa UNESCO hứa hẹn sự bảo tồn và phục hồi nhã nhạc, thể loại âm nhạc bác học đỉnh cao của dân tộc.

Cồng chiêng Tây Nguyên
Ngày 25-11-2005, văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam, di sản thứ hai sau Nhã Nhạc Huế, được UNESCO công nhận là "Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại". Đây là loại hình văn hóa âm nhạc đặc sắc, gắn bó mật thiết với cuộc sống của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.


 

Văn hóa cồng chiêng là hình thức sinh hoạt cộng đồng có từ lâu đời, gắn bó mật thiết với cuộc sống của các dân tộc Tây Nguyên. Theo nhiều nghiên cứu, văn hóa cồng chiêng bắt nguồn cồng đá, chiêng đá…. Không gian văn hóa cồng chiêng trải rộng suốt 5 tỉnh Tây Nguyên và chủ nhân của nó là các dân tộc Bana, Xê-đăng, M nông, Cơho, Ê đê, Giarai… Mỗi buôn làng có một đội cồng chiêng riêng phục vụ đồng bào trong những dịp sinh hoạt cộng đồng, lễ hội. Mỗi dân tộc lại sáng tạo ra những bản nhạc cồng chiêng khác nhau, mang đặc trưng của dân tộc mình. 

Người Tây Nguyên với đôi tay tài hoa và tâm hồn yêu âm nhạc đã biến cồng chiêng - sản phẩm hàng hóa bình thường thành loại nhạc cụ tuyệt vời. Người chơi thể hiện tài năng trong việc đánh chiêng cũng như chế tác chiêng. Từ việc chỉnh chiêng đến tự diễn thành một dàn nhạc, cách chơi, cách trình diễn…đều điêu luyện dù không qua trường lớp nào. Mỗi chiếc cồng (có núm), chiêng (không có núm) là một nốt nhạc. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo bộ từ 2 đến 12 chiếc, có khi 18 đến 20 chiếc. Dàn nhạc cồng chiêng gồm nhiều người, mỗi người chỉ đánh một chiếc cồng hoặc chiêng nhưng phối hợp rất nhịp nhàng, có thể diễn tấu những bản nhạc đa âm với nhiều hòa điệu và âm thanh vang xa.

Cồng chiêng là tiếng nói tâm linh, tinh thần, diễn tả những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống của người Tây Nguyêṇ. Họ coi mỗi chiếc cồng chiêng ẩn chứa một vị thần, cồng chiêng càng cổ thì vị thần càng quyền lực. Cồng chiêng là phương tiện tín ngưỡng dùng để giao tiếp với các đấng siêu nhiên, là thứ tài sản quý giá, biểu tượng của quyền lực và sự giàu có. 

Cồng chiêng được đánh lên để mừng những ngày hội mùa màng như lễ mừng cơm mới, lễ đâm trâu…đến những lễ ma chay, cưới hỏi, thổi tai cho trẻ sơ sinh… Vào những ngày lễ tết, từ già trẻ gái trai quây quần bên đống lửa, vừa đánh cồng, gõ chiêng, vừa cùng nhau nhảy múa, uống rượu cần…tạo nên nét sinh hoạt văn hóa dân gian nổi bất nhất của vùng đất sử thi hùng tráng này.
Nét Ca trù Hà Nội
Các nhà nghiên cứu đã chuẩn bị xong hồ sơ và các tư liệu về Ca trù để gửi tới cuộc bình xét Văn hóa phi vật thể của nhân loại do UNESCO tổ chức. Kết quả sẽ được công bố vào cuối năm 2008 này. Chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng Ca trù- một loại hình văn hóa nghệ thuật đặc sắc của Bắc bộ sẽ được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể nhân loại thứ 3 của Việt Nam sau Nhã nhạc Huế và cồng chiêng Tây Nguyên.

 

Các nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng ca trù chính là một thể loại hát đầu tiên của người Việt Nam, có lịch sử tồn tại dài nhất từ khi hình thành cho đến nay. Ban đầu ca trù được gọi là hát ả đào - kiểu hát nói của người kỹ nữ kèm theo việc phục vụ rượu và giải trí. Đến thế kỷ XV, ca trù được ưa chuộng và thịnh hành như một hình thức giải trí tinh thần ở hoàng cung cho các bậc vua chúa, quan khách. Sau này, ca trù được biểu diễn ở đình làng, quán trọ, các nhà quyền quý và dần trở thành hình thức giải trí phổ biến, món ăn tinh thần của tầng lớp trí thức, trung lưu ở Hà Nội. Thế kỷ XIX đánh dấu sự phát triển rực rỡ nhất của ca trù với 216 nhà hát và hơn 2000 cô đầu ở Hà Nội (theo báo Trung Bắc chu ̉nhật số129 - 1942) cùng các địa danh nổi tiếng như Ngã Tư Sở, Khâm Thiên...

Ca trù được coi là thể loại hát có tính chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản và mang tính trí tuệ nhất trong lịch sử âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Ca trù độc đáo ở không gian nghệ thuật riêng, nhạc cụ và thể thơ riêng biệt. Tham gia biểu diễn có ít nhất ba người: người ca sĩ luôn là nữ, hát theo lối nói và gõ phách; hai người khác chơi đàn đáy và đánh trống chầu. Lời lẽ, ca từ của ca trù mang tính uyên bác, ít lời mà nhiều nghĩa, giàu chất thơ, mang nhiều cảm xúc, trầm ngâm, sâu lắng. Ca trù có đủ các thể loại từ trữ tình lãng mạn đến sử thi anh hùng, triết lý giáo huấn…đã thu hút sự tham gia sáng tác, thể nghiệm tài năng của nhiều văn sĩ và trí thức. 

Nhạc sỹ Nguyễn Xuân Khoát, người đã bỏ nhiều tâm huyết nghiên cứu Ca trù viết trên báo Ngày Nay, 1940: “Đứng về phương diện hoà âm mà xét, lối hát Ả đào là không thể chỉ trích vào đâu được. Ta chỉ nên lắng tai mà nghe sự hợp nhất, đối chiếu, thăng bằng hoàn toàn của mấy loại nhạc khí góp vào lời ca”.

Cùng với thời gian, ca trù không còn phổ biến, bị mất dần. Tuy nhiên nó không bị pha tạp mà vẫn giữ nguyên được nét cổ xưa. Câu lạc bộ Ca trù Bích Câu ở Hà Nội vẫn biểu diễn những làn điệu ca trù quen thuộc như "Hồng hồng, tuyết tuyết" "Khen ai khéo vẽ", "Tỳ bà hành" (thơ Bạch Cư Dị), Hương Sơn phong cảnh (thơ Chu Mạnh Trinh), "Gặp xuân" (thơ Tản Đà), "Tự tình" (thơ Cao Bá Quát),...

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

.

1

LM PAUL NGUYỄN ĐỨC VĨNH

Vị Thánh trong ngày

Sách các phép

Mười điều răn

Thành viên

Kích chuột để

1

Suy niệm Lời Chúa 5P

Nhóm Mân Côi

1
 

Tin Thể Thao

    Giờ kinh phụng vụ

    Lịch Phụng Vụ