1
13:12 +07 Thứ sáu, 19/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 41


Hôm nayHôm nay : 6496

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 197208

Tổng cộngTổng cộng : 27751492

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » TÀI LIỆU & VĂN KIỆN

Thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô: ”Lumen Fidei”

Thứ bảy - 06/07/2013 09:57-Đã xem: 1287
VATICAN. Thông điệp đầu tiên của ĐTC Phanxicô đã được công bố sáng ngày 5-7-2013 với tựa đề ”Lumen Fidei” (Ánh sáng Đức Tin).
Thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô: ”Lumen Fidei”

Thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô: ”Lumen Fidei”

Thông điệp được công bố bằng 6 thứ tiếng: Ý, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Bồ đào nha và được giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo tại phòng báo chí Tòa Thánh, do ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM, Đức TGM Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin và Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng.
 
TIẾP PHẦN 2 CỦA THÔNG ĐIỆP DO 
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

Các bí tích và việc truyền đạt đức tin

40.
 Hội Thánh, như tất cả các gia đình, truyền lại cho con cái của mình tất cả nội dung ký ức của mình. Nhưng làm sao để không mất một điều gì, mà trái lại, tất cả mọi sự trong gia sản đức tin lại được hiểu sâu sắc hơn? Chính nhờ việc Tông Truyền được duy trì trong Hội Thánh với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, mà chúng ta được tiếp xúc một cách sống động với ký ức nền tảng. Những điều đã được lưu truyền bởi các Tông đồ, như Công đồng Vatican II khẳng định, “bao gồm tất cả những gì đóng góp vào việc làm cho đời sống dân Chúa được thánh thiện và gia tăng đức tin của họ.  Bằng cách này, Hội Thánh, trong giáo lý, cuộc sống và việc phụng tự của mình, làm sống mãi và truyền cho mọi thế hệ tất cả những gì mình là và tất cả những gì mình tin”.[35]

Thật ra, đức tin cần có một môi trường mà trong đó nó có thể được làm chứng và truyền đạt, một phương tiện phù hợp và tương xứng với những gì được truyền đạt. Để truyền đạt nội dung hoàn toàn tín lý, một ý tưởng hoặc một cuốn sách có lẽ đủ, hoặc lặp đi lặp lại một sứ điệp được truyền khẩu. Nhưng những gì được truyền lại trong Hội Thánh, những gì được truyền lại trong Truyền Thống sống động của Hội Thánh, là ánh sáng mới phát sinh từ một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, một ánh sáng chạm đến con người một cách sâu thẳm, đến tâm hồn, bao gồm cả tâm trí, ý chí và tình cảm của họ, mở ra cho những mối liên hệ sống động trong sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha nhân. Để truyền thông sự sung mãn này, có một công cụ đặc biệt bao gồm toàn thể con người, thân xác và tinh thần, đời sống nội tâm và những liên hệ. Công cụ ấy là các Bí tích, được cử hành trong phụng vụ của Hội Thánh. Trong đó thông truyền ký ức nhập thể, được liên kết với không gian và thời gian của cuộc sống, và liên hệ mật thiết với tất cả các giác quan; trong đó toàn thể con người được tham gia như một phần tử của một chủ thể sống động, và một phần của một mạng lưới các mối liên hệ cộng đoàn. Trong khi các bí tích thực sự là bí tích của đức tin[36], chúng ta cũng có thể nói rằng đức tin có một cấu trúc bí tích. Sự thức tỉnh của đức tin đi qua sự thức tỉnh của một cảm thức bí tích mới về đời sống con người và đời sống Kitô hữu, trong đó cho thấy làm sao các thực tại hữu hình và vật chất tự mở ra cho những Mầu nhiệm vĩnh cửu.

41. Nơi đầu tiên xảy ra việc truyền lại đức tin là qua Bí tích Rửa Tội. Một số người có thể nghĩ rằng Bí tích Rửa Tội chỉ đơn thuần là một biểu tượng cho việc tuyên xưng đức tin, một hành vi sư phạm cho những người cần hình ảnh và cử chỉ, mà chung cuộc có thể bỏ qua. Một lời xác quyết của Thánh Phaolô về Bí tích Rửa Tội nhắc cho chúng ta rằng không phải như thế. Thánh Phaolô nói rằng “chúng ta đã cùng được mai táng với Người bằng phép rửa trong cái chết của Người, để cũng như Ðức Kitô đã sống lại từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha thế nào, thì chúng ta cũng sống một đời sống mới như vậy” (Rm 6,4). Trong Bí tích Rửa Tội, chúng ta trở nên một tạo vật mới và dưỡng tử của Thiên Chúa. Thánh Tông đồ quả quyết rằng các Kitô hữu đã được trao phó cho một “hình thức giáo huấn” (týpos didachés), mà bây giờ họ tuân phục bằng cả tâm hồn (x. Rm 6,17). Trong Bí tích Rửa Tội, con người nhận được cả giáo lý để tuyên xưng và một cách sống cụ thể đòi hỏi sự tham gia của toàn thể con người và đặt họ trên con đường dẫn đến sự tốt lành. Họ được chuyển sang một quỹ đạo mới, được trao vào một môi trường mới, một cách mới để làm việc với nhau, trong Hội Thánh. Như thế, Bí tích Rửa Tội nhắc cho chúng ta rằng đức tin không phải là công việc của một cá nhân bị cô lập, không phải là một hành động mà một người có thể thực hiện bằng sức riêng của mình, mà là điều phải được nhận qua việc đi vào sự hiệp thông của Hội Thánh, là nơi truyền món quà của Thiên Chúa cho họ: không ai tự rửa tội cho mình, cũng như không ai tự sinh ra chính mình. Chúng ta được rửa tội.

42. Các yếu tố của bí tích Rửa Tội giới thiệu chúng ta vào “hình thức giáo huấn” mới này là gì? Trước hết là Thánh Danh của Thiên Chúa Ba Ngôi - Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần - được cầu khẩn trên người dự tòng. Vì vậy, ngay từ đầu, một tổng hợp của hành trình đức tin được cung cấp. Thiên Chúa, Đấng đã gọi ông Abraham và muốn được gọi là Thiên Chúa của ông; Thiên Chúa, Đấng đã mặc khải Danh của mình cho ông Môsê; Thiên Chúa, Đấng khi trao ban Con của Ngài cho chúng ta, đã mặc khải trọn vẹn mầu nhiệm của Thánh Danh Ngài, ban cho người được rửa tội một căn tính con thảo mới.  Điều này được thấy rõ trong chính hành động rửa tội: việc dìm vào nước. Nước vừa là một biểu tượng của sự chết, mời gọi chúng ta đi qua tự việc hoán cải của “cái tôi” sang một “Cái Tôi” lớn hơn, và một biểu tượng của sự sống, một đời sống trong đó chúng ta được tái sinh bằng cách đi theo Đức Kitô  trong đời sống mới của Người. Bằng cách này, qua việc dìm vào nước, Bí tích Rửa Tội nói cho chúng ta về cấu trúc nhập thể của đức tin.  Hành động của Đức Kitô chạm đến chúng ta trong thực tại cá nhân của chúng ta và biến đổi chúng ta tận gốc, làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Thiên Chúa và người thông phần vào bản tính Thiên Chúa. Như vậy, nó sửa đổi tất cả các mối liên hệ của chúng ta, hoàn cảnh cụ thể của chúng ta trong thế giới này và trong vũ trụ, và mở chúng ra cho đời sống hiệp thông của Ngài. Động năng biến đổi, đặc thù của Bí tích Rửa Tội giúp chúng ta hiểu tầm quan trọng của thời gian dự tòng, là thời gian mà ngày nay, ngay cả trong các xã hội có nguồn gốc Kitô giáo xưa kia - trong đó số của người lớn tiếp cận bí tích Rửa Tội càng ngày càng gia tăng - tái khám phá ra tầm quan trọng đặc biệt của việc việc Tân Phúc Âm hoá. Đó là con đường chuẩn bị cho Bí tích Rửa Tội, cho việc hoán cải toàn thể cuộc đời của chúng ta trong Đức Kitô. 

Để hiểu mối liên hệ giữa Bí tích Rửa Tội và đức tin, chúng ta có thể nhắc lại một đoạn của Ngôn sứ Isaia, được liên kết với Bí tích Rửa Tội trong văn chương Kitô giáo thời xưa: “có pháo đài trên núi đá làm nơi trú ẩn (...) nước uống chẳng lo thiếu bao giờ.” (Is 33,16).[37] Người được rửa tội, được giải thoát từ nước sự chết, đã có thể được đặt trong một “pháo đài trên núi đá” vì người ấy đã tìm thấy một điểm tựa vững chắc.  Như thế, nước của sự chết được biến đổi thành nước của sự sống. Văn bản Hy Lạp nói về nó như nước pistos, nước “trung thành”. Nước Rửa Tội là nước trung thành bởi vì chúng ta có thể tin tưởng vào nó, vì dòng của nó chảy vào sức mạnh của tình yêu Đức Kitô, nguồn gốc sự đảm bảo cho cuộc hành trình của chúng ta trong đời.

43. Cấu trúc của Bí tích Rửa Tội, hình thức của nó như một việc tái sinh, trong đó chúng ta nhận được một tên mới và một cuộc sống mới, giúp chúng ta hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Bí tích Rửa Tội trẻ em. Trẻ em không có khả năng chấp nhận đức tin bằng một hành động tự do, cũng chưa thể tuyên xưng đức tin của mình; cho nên đức tin được cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu nhân danh các em mà tuyên xưng. Vì đức tin là một thực thể sống trong cộng đồng Hội Thánh, một phần của cái “Chúng tôi” chung, trẻ em có thể được nâng đỡ bởi những người khác, cha mẹ và những người đỡ đầu của các em, và có thể được đón nhận vào đức tin của mình, đó là đức tin của Hội Thánh, điều này được tượng trưng bằng ánh sáng mà cha đứa trẻ thắp lên từ cây nến Phục Sinh. Cấu trúc này của Bí tích Rửa Tội cho thấy tầm quan trọng của sự hợp tác giữa Hội Thánh và gia đình trong việc truyền thụ đức tin. Cha mẹ được gọi, như lời Thánh Augustinô, không những chỉ để sinh sản con cái mà còn để dẫn các em lại với Thiên Chúa, ngõ hầu nhờ Bí tích Rửa Tội các em có thể được tái sinh làm con cái Thiên Chúa và đón nhận hồng ân đức tin.[38] Như vậy, cùng với sự sống, trẻ em được định hướng cơ bản và đảm bảo một tương lai tốt đẹp, định hướng này sẽ được củng cố hơn nữa trong Bí tích Thêm Sức với ấn tín của Chúa Thánh Thần.

44. Bản tính bí tích của đức tin tìm được cách diễn tả cao nhất trong Bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là lương thực quý báu cho đức tin: một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô thực sự hiện diện trong hành động tối cao của tình yêu, món quà ban sự sống của chính mình. Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta có hai trục lộ mà trên đó đức tin hành trình. Một đàng là trục lộ lich sử: Thánh Thể là một hành động tưởng nhớ, một sự hiện tại hoá mầu nhiệm, trong đó quá khứ, như biến cố chết và sự sống lại, chứng tỏ khả năng mở ra một tương lai, báo trước sự viên mãn chung cuộc. Phụng vụ nhắc nhở chúng ta điều này bằng cách lặp đi lặp lại từ hodie,“ngày hôm nay”, của những Mầu Nhiệm cứu độ. Đàng khác, chúng ta cũng tìm thấy một trục lộ dẫn từ thế giới hữu hình đến vô hình. Trong Bí tích Thánh Thể chúng ta học để hiểu biết chiều sâu của thực tại. Bánh và rượu biến đổi thành Mình và Máu Đức Kitô, Đấng trở nên hiện diện trong cuộc hành trình Vượt Qua của Người về phía Chúa Cha: sự chuyển động này đưa chúng ta, thân xác và linh hồn, vào sự chuyển động của tất cả thụ tạo hướng tới sự viên mãn của Người trong Thiên Chúa.

45. Trong việc cử hành các bí tích, Hội Thánh truyền lại ký ức của mình đặc biệt qua việc tuyên xưng đức tin. Tuyên xưng này không chỉ liên quan đến việc đồng ý với một tập hợp những chân lý trừu tượng. Trái lại, trong việc tuyên xưng đức tin toàn thể đời sống được thu hút vào một cuộc hành trình hướng về sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta có thể nói rằng trong Kinh Tin Kính, người tín hữu được mời bước vào mầu nhiệm mà họ tuyên xưng và để cho mình được biến đổi bởi điều mà mình tuyên xưng. Để hiểu ý nghĩa của xác quyết này, trước hết chúng ta hãy xét đến nội dung của Kinh Tin Kính. Nó có một cấu trúc Ba Ngôi: Chúa Cha và Chúa Con kết hợp trong Thần Khí Tình Yêu. Như thế, người tín hữu xác quyết rằng trung tâm của toàn thể cuộc sống con người, bí mật sâu xa nhất của mọi sự, là sự hiệp thông của Thiên Chúa. Kinh Tin Kính cũng chứa đựng một lời tuyên xưng Kitô học: nó đưa chúng ta qua các Mầu Nhiệm của cuộc đời Đức Kitô cho đến cái Chết, sự Sống Lại và Lên Trời của Người, trong khi chờ đợi cuộc trở lại sau hết của Người trong vinh quang. Nó cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa của sự hiệp thông này, tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần, có khả năng bao trùm toàn thể lịch sử nhân loại và thu hút nó vào động năng của sự hiệp thông của Ngài, là điều có nguồn gốc và cứu cánh tối hậu trong Chúa Cha. Ai tuyên xưng đức tin của mình được liên kết với chân lý mà mình tuyên xưng. Người ấy không thể thực sự tuyên xưng những lời của Kinh Tin Kính mà không chính mình được biến đổi, mà không được đưa vào một lịch sử của tình yêu bao trùm họ, và mở rộng con người họ bằng cách làm cho họ thành phần tử của một sự hiệp thông lớn lao, của chủ thể cuối cùng mà Kinh Tin Kính tuyên xưng và đó là Hội Thánh. Tất cả những chân lý để tin nói về mầu nhiệm sự sống mới của đức tin như một cuộc hành trình hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống.

Đức tin, cầu nguyện và Mười Điều Răn

46.
 Có hai yếu tố khác rất cần thiết trong việc trung thành truyền lại ký ức của Hội Thánh. Trước hết là Kinh Nguyện của Chúa, Kinh “Lạy Cha”. Trong kinh này các Kitô hữu học cách thông phần vào cảm nghiệm tâm linh của Đức Kitô và nhìn mọi sự bằng cặp mắt của Người. Từ Người, Đấng là Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Con Một Đức Chúa Cha, chúng ta biết Thiên Chúa và do đó có thể làm dấy lên trong những người khác ao ước đến gần Người.

Cũng quan trọng tương tự như vậy là sự liên hệ giữa đức tin và Mười Điều Răn. Đức tin, như chúng ta đã nói, được coi như một cuộc hành trình, một con đường để đi theo, mở ra cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống. Đó là lý do tại sao trong ánh sáng đức tin và sự tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đấng cứu độ, Mười Điều Răn nhận được chân lý sâu xa nhất của chúng, như đã thấy trong lời giới thiệu của những giới răn này: “Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi đất Aicập.” (Xh 20,2). Mười Điều Răn không phải là một tâp các mệnh lệnh tiêu cực, nhưng là những hướng dẫn cụ thể để ra khỏi hoang địa của “cái tôi” tự kỷ, tự đóng kín, và tham gia vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa, để cho mình được chấp nhận bởi lòng thương xót của Ngài hầu mang lòng thương xót của mình đến cho tha nhân. Như thế, đức tin tuyên xưng tình yêu của Thiên Chúa, nguồn gốc và sự nâng đỡ của tất cả mọi sự, và để cho mình được hướng dẫn bởi tình yêu này mà hành trình tiến đến hoàn toàn hiệp thông với Thiên Chúa. Mười Điều Răn xuất hiện như con đường biết ơn, sự đáp trả của tình yêu, có thể được vì trong đức tin chúng ta mở ra cho kinh nghiệm về tình yêu có sức biến đổi mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Và con đường này nhận được ánh sáng mới từ giáo huấn của Chúa Giêsu trong Bài Giảng Trên Núi (x. Mt 5-7).

Như thế, tôi đã nhắc đến bốn yếu tố tóm tắt kho tàng ký ức mà Hội Thánh truyền lại: việc Tuyên xưng Đức tin, việc Cử hành các Bí tích, con đường Mười Điều Răn, và Cầu nguyện. Giáo lý của Hội Thánh có truyền thống được cấu trúc quanh 4 yếu tố này, điều này gồm cả Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, công cụ cơ bản mà qua đó, bằng một cách thống nhất, Hội Thánh truyền đạt toàn thể nội dung đức tin của mình: “Tất cả những gì mình là, và tất cả những gì mình tin.”[39]

Sự thống nhất và toàn vẹn của đức tin

47.
 Sự hợp nhất của Hội Thánh trong thời gian và không gian được liên kết với sự hợp nhất của đức tin: “chỉ có một thân thể, một Thần Khí... một đức tin duy nhất.” (Ep 4,4-5). Cũng như ngày nay, việc một nhóm người kết hiệp với nhau vì một nguyên nhân chung, vì có tình cảm với nhau, hay vì chia sẻ cùng một vận mệnh và mục đích duy nhất là điều khả thi. Nhưng khó mà tưởng tượng được một sự hợp nhất trong cùng một chân lý. Có vẻ như một sự hợp nhất kiểu này không phù hợp với tự do tư tưởng và tự quyết cá nhân. Tuy nhiên, kinh nghiệm về tình yêu cho chúng ta thấy rằng một cái nhìn chung là điều có thể, vì nhờ yêu cho chúng ta học nhìn thực tại qua đôi mắt người khác, không phải như một điều làm cho cái nhìn của mình bị nghèo nàn đi mà phong phú hóa nó. Tình yêu chân chính, theo cách thức của tình yêu Thiên Chúa, đòi hỏi chân lý, và nhãn quan chung về chân lý, đó là Chúa Giêsu Kitô, giúp cho nó trở nên vững chắc và sâu sắc. Đây cũng là niềm vui lớn lao của đức tin: một sự hợp nhất về nhãn quan trong một thân thể và một Thánh Thần duy nhất. Thánh Lêô Cả có thể nói: “Nếu đức tin không phải là một, thì nó không phải là đức tin.”[40]

Bí mật của sự hợp nhất này là gì? Đức tin là “một [đức tin duy nhất]”, trước hết, vì sự hợp nhất của Thiên Chúa, Đấng được biết đến và tuyên xưng. Tất cả những tín điều của đức tin nói về Ngài, là những con đường để biết sự hiện hữu của Ngài và việc làm của Ngài. Do đó, chúng là một sự hợp nhất cao hơn nhiều so với bất kỳ sự hợp nhất nào mà lý trí con người có thể xây dựng. Chúng có một sự hợp nhất phong phú hoá chúng, bởi vì được thông truyền cho chúng ta và làm cho chúng ta nên “một.”

Ngoài ra, đức tin cũng là một bởi vì nó quy hướng trực tiếp về một Chúa duy nhất, về cuộc đời Chúa Giêsu, về lịch sử cụ thể mà Người chia sẻ với chúng ta. Thánh Irênê thành Lyons đã xác định rõ ràng khi chống lại lạc giáo Ngộ Đạo. Họ lập luận rằng có hai loại đức tin, một đức tin thô sơ, đức tin đơn giản, không hoàn hảo, được duy trì ở mức của xác thịt của Đức Kitô và chiêm niệm các Mầu Nhiệm của Người; và một loại đức tin khác sâu sắc hơn và hoàn hảo hơn, đức tin thật, giới hạn trong vòng nhóm nhỏ của những người gia nhập [Ngộ Đạo], là những người có khả năng trí tuệ cao, vượt lên trên xác thịt của Chúa Giêsu hướng về những Mầu Nhiệm thần linh mà chưa từng ai biết đến. Đương đầu với xác quyết này, là điều tiếp tục hấp dẫn và có những người theo nó, ngay cả trong thời đại chúng ta, Thánh Irênê khẳng định rằng chỉ có một đức tin duy nhất, vì đức tin này luôn luôn đi qua điểm cụ thể của Mầu Nhiệm Nhập Thể, mà không bao giờ siêu vượt xác thịt và lịch sử của Đức Kitô, vì Thiên Chúa đã muốn tỏ mình hoàn toàn trong đó. Vì lý do này, ngài nói, không có sự khác biệt trong đức tin của “những người có khả năng bàn luận nhiều” và “những người nói ít”, giữa những người làm lớn và những người nhỏ: người trước không thể làm gia tăng đức tin, người sau cũng không làm giảm nó.[41]

Cuối cùng, đức tin là một bởi vì nó được chia sẻ bởi toàn thể Hội Thánh, là một thân thể duy nhất, một Thánh Thần duy nhất. Trong sự hiệp thông của một chủ thể duy nhất là Hội Thánh, chúng ta nhận được một cái nhìn chung. Nhờ tuyên xưng cùng một đức tin, chúng ta đứng vững trên cùng một đá tảng, chúng ta được biến đổi bởi cùng một Thánh Thần của tình yêu, chúng ta tỏa ra một ánh sáng duy nhất và chúng ta có cùng một cái nhìn duy nhất vào thực tại.

48. Vì đức tin là một, nên nó phải được tuyên xưng trong tất cả sự thanh khiết và toàn vẹn của nó. Chính vì tất cả các tín điều đức tin được nối kết chặt chẽ với nhau, nên khi từ chối một điều trong chúng, dù là điều có vẻ không mấy quan trọng, thì tương tự như bóp méo toàn thể đức tin. Trong mỗi thời đại người ta tìm thấy một số điểm nào đó của đức tin có thể dễ dàng hoặc khó được chấp nhận hơn: đó là lý do tại sao điều quan trọng là phải tỉnh thức, bởi vì kho tàng đức tin được truyền lại trong sự trọn vẹn của nó (x. 1 Tm 6,20), và bởi vì tất cả mọi khía cạnh của lời tuyên xưng đức tin đều thích hợp và được nhấn mạnh. Thật vậy, vì sự hợp nhất của đức tin là sự hợp nhất của Hội Thánh, bỏ đi một điều gì đó từ đức tin là bỏ đi một điều gì đó từ chân lý của sự hiệp thông. Các Giáo phụ đã mô tả đức tin như một thân thể, thân thể của chân lý với nhiều chi thể khác nhau, tương tự như thân thể của Đức Kitô và kéo dài trong Hội Thánh.[42] Tính toàn vẹn của đức tin cũng gắn liền với hình ảnh của Hội Thánh như một trinh nữ và lòng chung thuỷ của Hội Thánh trong tình yêu phối ngẫu dành cho Đức Kitô: làm tổn thương đến đức tin có nghĩa là làm tổn thương đến sự hiệp thông với Thiên Chúa.[43] Như thế, sự hợp nhất của đức tin là sự hợp nhất của một cơ thể sống động, như nhận xét tuyệt diệu mà Chân phước Gioan Henry Newman đã đưa ra khi ngài liệt kê đặc tính được ghi nhận để phân biệt sự liên tục của giáo lý theo thời gian, là khả năng đồng hoá tất cả mọi sự mà nó tìm thấy trong các môi trường khác nhau mà trong đó nó hiện diện, và trong các nền văn hóa đa dạng mà nó gặp phải,[44] qua việc thanh lọc tất cả mọi sự và đưa chúng đến biểu hiện hoàn hảo nhất của chúng. Như thế, đức tin rõ ràng là phổ quát và công giáo, bởi vì ánh sáng của nó toả rộng để soi sáng tất cả vũ trụ và toàn thể lịch sử.

49. Để phục vụ cho sự hợp nhất của đức tin và thông truyền sự trọn vẹn của nó, Chúa đã ban cho Hội Thánh hồng ân Tông Truyền. Nhờ phương tiện này, tính liên tục của ký ức Hội Thánh được đảm bảo, và người ta có thể chắc chắn đến được với suối nguồn tinh khiết mà từ đó đức tin chảy ra. Như vậy, sự đảm bảo tính liên tục với nguồn gốc được thực thi bởi những con người sống động, điều này tương xứng với đức tin sống động mà Hội Thánh truyền lại. Hội Thánh tuỳ thuộc vào lòng trung thành của các nhân chứng được Chúa lựa chọn để thi hành nhiệm vụ này. Vì lý do này mà Huấn Quyền luôn luôn nói trong sự vâng phục Lời trước đó mà trên đó đức tin dựa vào; Huấn Quyền đáng tin cậy bởi vì Huấn Quyền tin tưởng vào Lời mà mình nghe, gìn giữ và giải thích.[45] Trong bài giảng chia tay của Thánh Phaolô dành cho các trưởng lão Êphêsô ở Milêtô, mà Thánh Luca thuật lại cho chúng ta trong sách Công vụ Tông đồ, ngài đã chứng minh rằng ngài đã thi hành nhiệm vụ mà Chúa đã trao phó cho ngài để “công bố toàn thể ý định của Thiên Chúa” (Cv 20,27). Nhờ Huấn Quyền của Hội Thánh, ý định này có thể đến với chúng ta trong tính toàn vẹn của nó, và cùng với nó là niềm vui của việc có thể theo nó một cách hoàn toàn.
CHƯƠNG BỐN 

THIÊN CHÚA CHUẨN BỊ CHO HỌ MỘT THÀNH
 (x. Dt 11,16)

Đức tin và công ích

50. Trong việc trình bày lịch sử của các tổ phụ và những người công chính của Cựu Ước, Thư gửi tín hữu Do Thái làm nổi bật một khía cạnh thiết yếu của đức tin của các ngài.  Thư không những chỉ trình bày đức tin như một cuộc hành trình, mà còn như một tiến trình xây dựng, việc chuẩn bị một nơi mà trong đó con người có thể chung sống. Người xây dựng đầu tiên là ông Noe đã cứu gia đình ông trong tàu (x. Dt 11,7). Sau đó đến ông Abraham, mà người ta nói về ông rằng bởi đức tin mà ông đã ở trong lều, trong khi chờ đợi thành có nền tảng vững chắc (x. Dt 11,9-10). Từ đức tin phát sinh một sự đáng tin cậy mới, một sự vững chắc mới, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho. Nếu người có đức tin nương tựa vào Thiên-Chúa-Amen, vào Thiên Chúa thành tín (x. Is 65,16), và nhờ thế chính họ trở nên vững chắc, thì chúng ta có thể nói thêm rằng sự chắc chắn của đức tin này cũng ám chỉ thành mà Thiên Chúa đang chuẩn bị cho nhân loại. Đức tin cho thấy mối dây liên kết giữa con người có thể trở nên vững chắc như thế nào khi Thiên Chúa hiện diện giữa họ. Nó không chỉ đơn thuần là độ cứng rắn bên trong, một quyết tâm kiên định của người tín hữu; đức tin cũng soi sáng những liên hệ giữa con người bởi vì nó được sinh ra từ tình yêu và đi theo động năng của tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng đáng tin cậy ban cho con người một thành đáng tin cậy.

51. Chính vì mối liên hệ của nó với tình yêu (x. Gl 5,6), mà ánh sáng đức tin được dùng để phục vụ công lý, lề luật và hoà bình một cách cụ thể. Đức tin phát sinh từ một cuộc gặp gỡ với tình yêu nguyên thủy của Thiên Chúa, trong đó ý nghĩa và sự tốt lành của cuộc đời chúng ta trở nên rõ ràng; cuộc đời chúng ta được sáng tỏ theo mức độ mà nó đi vào động năng được mở ra bởi tình yêu này, đến mức nó trở thành một con đường và sự thực hành dẫn đến sự viên mãn của tình yêu. Ánh sáng đức tin có khả năng tăng cường sự phong phú của các mối liên hệ con người, khả năng chịu đựng, khả năng trở nên đáng tin cậy, khả năng làm phong phú đời sống cộng đồng của họ. Đức tin không kéo chúng ta ra khỏi thế gian hoặc tỏ ra xa lạ với những quan tâm cụ thể của con người thời đại. Nếu không có một tình yêu đáng tin cậy, không có gì thực sự có thể làm cho con người thực lòng hợp nhất với nhau. Sự hợp nhất của họ có thể hiểu được là chỉ dựa trên tiện ích, trên toan tính về những lợi ích hoặc sợ hãi trái ngược nhau, nhưng không dựa trên sự tốt lành của việc cùng nhau chung sống, cũng không dựa trên niềm vui mà sự hiện diện đơn thuần của tha nhân có thể mang lại. Đức tin làm cho chúng ta hiểu cấu trúc của các mối liên hệ con người, vì nó biết rằng nền tảng cuối cùng và số phận dứt khoát là ở nơi Thiên Chúa, trong tình yêu của Ngài, và do đó làm sáng tỏ nghệ thuật xây dựng, trở thành một phục vụ cho công ích. Phải, đức tin thực sự là sự tốt lành cho tất cả mọi người, nó là một lợi ích chung. Ánh sáng của nó không chỉ đơn thuần soi sáng phía trong của Hội Thánh, cũng không được xử dụng chỉ để xây một thành vĩnh cửu ở đời sau; nó cũng giúp chúng ta xây dựng các xã hội của chúng ta, để chúng ta có thể hành trình hướng về một tương lai đầy hy vọng. Thư gửi tín hữu Do Thái cho chúng ta một thí dụ về việc này khi, trong số những người có đức tin, thư kể tên ông Samuel và Vua Đavid, những vị mà đức tin cho phép “thực thi công lý” (Dt 11,33). Cách diễn tả này đề cập đến công lý trong việc cai trị của các vị ấy, đến sự khôn ngoan mang lại hòa bình cho dân chúng (x. 1 Sm 12,3-5; 2 Sm 8,15). Những bàn tay của đức tin giơ lên trời, nhưng họ làm thế trong khi xây dựng một thành trong đức ái, dựa trên mối liên hệ mà trong đó tình yêu của Thiên Chúa là nền tảng.

Đức tin và gia đình

52.
 Trong cuộc hành trình của ông Abraham hướng về thành tương lai, Thư gửi tín hữu Do Thái đề cập đến các phúc lành được truyền từ cha người sang các người con (x. Dt 11,20-21). Môi trường đầu tiên trong đó đức tin soi sáng thành của con người là gia đình.  Trước hết tôi nghĩ đến sự kết hợp bền vững giữa người nam và ngưởi nữ trong hôn nhân.  Sự kết hợp này phát sinh từ tình yêu của họ, như một dấu chỉ và sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, và việc nhìn nhận và chấp nhận sự tốt lành của sự khác biệt giữa giới tính, nhờ đó vợ chồng có thể trở nên một xương một thịt (x. St 2,24) và có thể sinh ra sự sống mới, một biểu hiện của lòng nhân lành, sự khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Đấng Tạo Hoá. Căn cứ vào tình yêu này, một người nam và một người nữ có thể hứa với nhau một tình yêu hỗ tương trong một cử chỉ lên hệ đến toàn thể cuộc sống của họ và phản ảnh nhiều bình diện của đức tin. Chúng ta có thể thề hứa một tình yêu vĩnh viễn khi cảm nhận được một kế hoạch lớn hơn những kế hoạch của mình, một kế hoạch nâng đỡ chúng ta và cho phép chúng ta hiến trọn tương lai cho người mình yêu. Đức tin cũng giúp chúng ta hiểu tất cả chiều sâu và sự phong phú của việc sinh sản con cái, như một dấu chỉ của tình yêu của Đấng Tạo Hoá là Đấng đã trao phó cho chúng ta mầu nhiệm của một con người mới. Vì vậy, chính bà Sarah, nhờ đức tin mà trở thành một người mẹ, vì bà tin cậy vào sự trung tín của Thiên Chúa với lời hứa của Ngài (x. Dt 11,11).

53. Trong gia đình, đức tin đi cùng với mọi lứa tuổi của cuộc đời, bắt đầu với tuổi ấu thơ: trẻ em học cách tin tưởng vào tình yêu của cha mẹ. Đó là lý do tại sao điều rất quan trọng trong gia đình là cha mẹ khuyến khích chia sẻ đức tin để có thể giúp trẻ em từ từ trưởng thành trong đức tin của chúng. Đặc biệt là người trẻ, đang trải qua một giai đoạn trong cuộc sống rất phức tạp, phong phú và quan trọng đối với đức tin của các em. Các em cần phải cảm thấy sự gần gũi và nâng đỡ thường xuyên của gia đình và Hội Thánh trong cuộc hành trình đức tin của các em. Tất cả chúng ta đều thấy, trong Ngày Giới trẻ Thế giới, những người trẻ bày tỏ niềm vui đức tin của các em, và sự dấn thân của các em trong một đời sống đức tin vững chắc hơn và quảng đại hơn như thế nào. Những người trẻ muốn một đời sống cao quý. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô, việc để cho mình được lôi cuốn và hướng dẫn bởi tình yêu của Người, mở rộng chân trời cuộc đời, cung cấp cho đời sống một niềm hy vọng vững chắc là điều không làm cho nó thất vọng. Đức tin không phải là nơi trú ẩn của những kẻ nhát đảm, nhưng là điều thăng tiến cuộc đời chúng ta. Nó làm cho chúng ta nhận ra một lời mời gọi cao cả, ơn gọi yêu thương. Nó đảm bảo cho chúng ta rằng tình yêu này đáng tin cậy và đáng giá để theo đuổi, vì nó đặt nền tảng trên sự trung tín của Thiên Chúa, mạnh mẽ hơn sự mỏng dòn của chúng ta rất nhiều.

Một ánh sáng cho đời sống xã hội

54. Được hấp thụ và đào sâu trong gia đình, đức tin trở thành ánh sáng có khả năng soi sáng tất cả mọi mối liên hệ của chúng ta trong xã hội. Như kinh nghiệm về tình phụ tử và lòng thương xót của Thiên Chúa, nó mở rộng ra trên con đường của tình huynh đệ. Trong “thởi hiện đại”, người ta tìm cách xây dựng tình huynh đệ phổ quát dựa trên sự bình đẳng, nhưng chúng ta dần dần nhận ra rằng tình huynh đệ này không thể bền vững vì không quy chiếu về một Cha chung như nền tảng tối hậu của nó. Như vậy, chúng ta cần phải quay trở lại với cội rễ thực sự của tình huynh đệ. Lịch sử đức tin, ngay từ ban đầu, là một lịch sử của tình huynh đệ, mặc dù không phải là không có tranh chấp. Thiên Chúa gọi ông Abraham rời bỏ xứ sở của ông và hứa sẽ làm cho con cháu ông thành một quốc gia vĩ đại, một dân tộc vĩ đại mà trên dân này phúc lành của Thiên Chúa ở lại (x. St 12,1-3). Như lịch sử cứu độ tiến triển, người ta thấy rõ ràng là Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được tham gia, như anh chị em, vào phúc lành đặc biệt này, là điều đạt đến viên mãn trong Chúa Giêsu, ngõ hầu tất cả nên một. Tình yêu vô biên của Chúa Cha cũng được thông truyền cho chúng ta, trong Chúa Giêsu, thậm chí qua sự hiện diện của anh chị em chúng ta. Đức tin dạy chúng ta nhìn thấy rằng trong mỗi người có phúc lành dành cho tôi, rằng ánh sáng của Dung Nhan Thiên Chúa chiếu rọi trên tôi qua khuôn mặt của anh chị em tôi.

Cái nhìn của đức tin Kitô giáo đã mang đến thành của con người không biết bao nhiêu lợi ích cho cuộc sống chung của họ! Nhờ đức tin, chúng ta đã hiểu được giá trị độc đáo của mỗi người, là điều mà người ta không thấy rõ trong thời cổ đại. Trong thế kỷ thứ hai, Celsus, một người ngoại giáo, trách cứ các Kitô hữu về một ý tưởng mà ông cho là điên rồ và ảo tưởng: nghĩ rằng Thiên Chúa đã dựng nên thế giới cho con người, đã đặt con người ở tột đỉnh của toàn thể vũ trụ. “Tại sao lại cho rằng [cỏ] mọc lên vì lợi ích của con người, chứ không phải vì loài dã thú man rợ nhất trong tất cả loài vật mà không có lý do gì hết?”[46] “Nếu chúng ta từ  trời nhìn xuống đất, chúng ta có thực sự thấy bất kỳ sự khác biệt nào giữa các hoạt động của chúng ta và của những con kiến hay con ong không?”[47] Ở trung tâm của đức tin theo Thánh Kinh là tình yêu của Thiên Chúa, là quan tâm cụ thể của Ngài dành cho tất cả mọi người, và kế hoạch cứu độ của Ngài là kế hoạch bao trùm toàn thể nhân loại và mọi tạo vật, là điều đạt đến tột đỉnh trong việc Nhập Thể, Cái Chết và việc Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Khi thực tại này bị che khuất, người ta không có tiêu chuẩn để phân biệt điều gì làm cho cuộc sống con người nên quý báu và độc đáo. Con người bị mất chỗ đứng trong vũ trụ, và lạc lõng trong thiên nhiên vì chối bỏ trách nhiệm luân lý của mình, hoặc giả bộ làm trọng tài tuyệt đối, tự cho là mình có một quyền năng vô hạn để thao túng.

55. Mặt khác, đức tin, qua việc tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá, làm cho chúng ta tôn trọng thiên nhiên hơn nữa, và phân biệt trong đó trong một ngữ pháp được viết bởi bàn tay của Ngài và một nơi cư ngụ được trao cho chúng ta để bảo vệ và chăm sóc. Đức tin cũng giúp chúng ta tìm thấy những mô hình phát triển không chỉ đơn thuần dựa trên tiện ích và lợi nhuận, nhưng coi thụ tạo như một hồng ân mà tất cả chúng ta đều phải mang ơn; nó dạy chúng ta khám phá ra những hình thức cai trị công chính, nhìn nhận rằng quyền hành đến từ Thiên Chúa và được dùng để phục vụ công ích. Đức tin cũng xác nhận khả năng tha thứ, là điều thường đòi hỏi thì giờ và nỗ lực, kiên nhẫn và dấn thân. Tha thứ là điều có thể khi người ta khám phá rằng sự tốt lành luôn luôn có trước và mạnh hơn sự dữ, và rằng lời mà Thiên Chúa dùng để nâng đỡ cuộc đời chúng ta thì sâu sắc hơn mọi khước từ của chúng ta. Ngoài ra, ngay từ một quan điểm hoàn toàn nhân chủng, sự hợp nhất vẫn cao hơn sự tranh chấp; chúng ta cũng có trách nhiệm phải đối phó với tranh chấp trong khi tìm cách giải quyết nó, để đánh bại nó, biến nó thành một mắt xích trong một chuỗi, trong một tiến trình hướng về sự hiệp nhất.

Khi đức tin bị suy yếu, thì ngay cả những nền tảng của cuộc sống cũng có nguy cơ bị thu hẹp lại, như thi sĩ T.S. Eliot cảnh báo: “Bạn có cần người ta phải bảo bạn rằng ngay cả những thành tựu khiêm tốn này / là những điều cho phép bạn tự hào theo kiểu xã hội thượng lưu / sẽ khó mà tồn tại được nếu không có đức tin, là điều mà nhờ đó chúng trở thành quan trọng không?”[48] Nếu chúng ta loại bỏ đức tin vào Thiên Chúa ra khỏi các thành của chúng ta, sự tin tưởng lẫn nhau sẽ bị suy yếu, chúng ta sẽ chỉ còn giữ được sự hợp nhất vì sợ hãi mà thôi, và sự ổn định của chúng ta sẽ bị đe doạ.  Thư gửi tín hữu Do Thái xác quyết rằng “Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì đã chuẩn bị một thành cho các ngài” (Dt 11,16). Ở đây, từ ngữ “không hổ thẹn” liên hệ với việc thừa nhận công khai. Người ta muốn nói rằng Thiên Chúa thú nhận một cách công khai rằng, bằng hành động cụ thể của Ngài, Ngài hiện diện giữa chúng ta, và Ngài muốn củng cố mọi mối liên hệ giữa loài người. Chẵng lẽ chúng ta lại là những kẻ cảm thấy xấu hổ khi gọi Thiên Chúa là Thiên Chúa của mình sao? Chẳng lẽ chúng ta lại là những kẻ không dám tuyên xưng Ngài như thế trong đời sống công cộng của mình, là những người không dám nói lên sự cao cả của cuộc sống chung mà Ngài làm cho khả dĩ sao? Đức tin soi sáng cuộc sống trong xã hội. Nó có một ánh sáng sáng tạo dành cho mỗi giai đoạn mới của lịch sử, bởi vì nó đặt tất cả mọi biến cố trong sự liên hệ với nguyên thuỷ và cứu cánh của mọi sự trong Chúa Cha, là Đấng yêu thương chúng ta.

Một sức mạnh an ủi trong đau khổ

56.
 Khi viết cho các tín hữu Côrintô về những gian nan và đau khổ của mình, Thánh Phaolô liên kết đức tin của ngài với việc rao giảng Tin Mừng. Thực ra, ngài nói rằng trong ngài lời Thánh Kinh: “Tôi đã tin, nên tôi mới nói” (2 Cr 4,13) đã được thực hiện. Thánh Tông Đồ nhắc đến một câu của Thánh vịnh 116, trong đó tác giả Thánh Vịnh thốt lên: “Tôi giữ đức tin của tôi, ngay cả khi tôi nói: ‘Tôi rất khốn khổ.’” (câu 10). Nói về đức tin cũng liên quan đến việc nói về những thử thách đau đớn, nhưng thực ra, Thánh Phaolô thấy trong chúng lời rao giảng có sức thuyết phục nhất của Tin Mừng, vì chính trong sự yếu đuối và đau khổ mà chúng ta khám phá ra rằng quyền năng của Thiên Chúa thắng vượt sự yếu đuối và đau khổ của chúng ta. Chính Thánh Tông đồ thấy mình ở trong một tình trạng bị chết, là tình trạng sẽ trở nên sự sống cho các Kitô hữu (x. 2 Cr 4,7-12). Trong giờ thử thách, đức tin soi sáng chúng ta; trong đau khổ và yếu đuối, chúng ta thấy rõ rằng “[…] chúng tôi không rao giảng chính mình, mà rao giảng Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (2 Cr 4,5). Chương mười một của Thư gửi tín hữu Do Thái kết thúc bằng việc nhắc đến những người chịu đau khổ vì đức tin (x. Dt 11,35-38); trong số đó có một chỗ đặc biệt dành cho ông Môsê, người đã mang trên mình sự sỉ nhục của Đức Kitô (xem câu 26). Người Kitô hữu biết rằng mình không thể loại bỏ đau khổ, nhưng chúng có thể có ý nghĩa và trở thành một hành động yêu thương, tín thác vào vào bàn tay Thiên Chúa là Đấng không bỏ rơi chúng ta, bằng cách này, nó là một giai đoạn tăng trưởng trong đức tin và tình yêu. Qua việc chiêm niệm sự kết hợp của Đức Kitô với Chúa Cha, cả trong giờ phút đau khổ tột đỉnh của Người trên Thánh Giá (x. Mc 15,34), người Kitô hữu học chia sẻ cùng một cái nhìn của Chúa Giêsu. Vì thế, ngay cả cái chết cũng được sáng tỏ và có thể được cảm nghiệm như lời mời gọi cuối cùng với đức tin, lời mời gọi sau cùng “hãy rời bỏ vùng đất của ngươi” (St 12,1), lời mời gọi “hãy đến!” cuối cùng mà Đức Chúa Cha nói, mà với Ngài chúng ta phó thác trong sự tự tin rằng Ngài cũng sẽ củng cố chúng ta ngay cả trong bước cuối cùng của chúng ta.

57. Ánh sáng đức tin và cũng không làm cho chúng ta quên đi những đau khổ của thế giới này. Những người đang chịu đau khổ đã là những trung gian của ánh sáng cho biết bao nhiêu người nam nữ có đức tin! Với Thánh Phanxicô thành Assisi và người bị bệnh phong cùi, hoặc với Mẹ Chân phước Têrêsa thành Calcutta và những người nghèo của mẹ cũng thế. Các ngài đã hiểu mầu nhiệm hoạt động trong đó. Khi đến gần những người đau khổ, các ngài chắc chắn không thể loại bỏ tất cả các nỗi đau của họ, hoặc giải thích đuợc mọi sự dữ. Đức tin không phải là một ánh sáng xua đuổi tất cả mọi bóng tối của chúng ta, nhưng là một ngọn đèn hướng dẫn các bước đi của chúng ta trong đêm tối và đủ cho cuộc hành trình. Đối với những người đau khổ, Thiên Chúa không ban cho những lý lẽ để giải thích mọi sự, đúng hơn, nhưng Ngài ban câu trả lời của Ngài dưới hình thức một sự hiện diện đi cùng, một lịch sử của sự tốt lành kết hợp với mỗi câu chuyện về đau khổ để mở ra cho nó một tia sáng. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa muốn chia sẻ con đường này với chúng ta và ban cho chúng ta cái nhìn của Người để chúng ta có thể nhìn thấy ánh sáng bên trong nó. Đức Kitô, khi đã chịu đau khổ, là “Ðấng khai mở và kiên toàn đức tin” (Dt 12,2).

Đau khổ nhắc nhở chúng ta rằng việc phục vụ của đức tin cho công ích luôn luôn là việc phục vụ của hy vọng, một niềm hy vọng nhìn về phía trước, trong khi biết rằng chỉ từ Thiên Chúa, từ tương lai đến từ Chúa Giêsu Phục Sinh, xã hội chúng ta mới có thể tìm thấy nền tảng vững chắc và lâu dài của nó. Theo nghĩa này, đức tin liên kết với hy vọng, cho dù nơi ở của chúng ta ở dưới đất có thể bị phá hủy, chúng ta có một nơi ở vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã chuẩn bị trong Đức Kitô, trong thân thể của Người (x. 2 Cr 4,16–5,5). Như thế, động năng của đức tin, đức cậy (hy vọng) và đức mến (bác ái) (x. 1 Th 1,3; 1 Cr 13,13) dẫn chúng ta đến ôm ấp những quan tâm của tất cả mọi người trong cuộc hành trình của chúng ta hướng về thành này “là thành mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và người xây dựng” (Dt 11,10), bởi vì “hy vọng không làm chúng ta thất vọng” (Rm 5,5).

Trong sự hợp nhất với đức tin và đức mến, đức cậy đẩy chúng ta về một tương lai vững chắc, nằm trong một viễn cảnh khác với những đề nghị hão huyền của các thần tượng của thế gian, cung cấp một động lực mới và sức mạnh cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đừng để cho ai cướp mất niềm hy vọng của mình, hoặc để cho nó trở nên vô ích vì những giải pháp và những đề nghị tức thời là những điều ngăn chặn cuộc hành trình của chúng ta, là những điều bẻ thời gian ra “thành từng mảnh vụn” và biến đổi nó thành không gian. Thời gian luôn luôn lớn hơn nhiều so với không gian. Không gian làm cho tiến trình bị cứng lại, trong khi thời gian đẩy tới tương lai và khuyến khích chúng ta tiến bước trong hy vọng.

Phúc cho Bà, vì đã tin (Lc 1,45)

58. Trong dụ ngôn người gieo giống, Thánh Luca tường thuật những lời này mà Chúa Giêsu đã dùng để giải thích ý nghĩa của “đất tốt”: “Đó là những kẻ khi nghe Lời Chúa thì nghe Lời Chúa với một tâm hồn cao thượng và đại lượng, mà sinh hoa kết quả nhờ kiên tâm bền chí.” (Lc 8,15). Trong bối cảnh của Tin Mừng Thánh Luca, đề cập đến một tâm hồn cao thượng và đại lượng, nói về những người nghe và giữ lời, bao gồm một chân dung tiềm ẩn của đức tin của Đức Trinh Nữ Maria. Chính thánh sử nói về ký ức của Đức Mẹ Maria, làm sao Mẹ giữ trong lòng mình tất cả những gì Mẹ đã nghe và đã thấy, để từ đó có thể sinh hoa kết quả trong đời sống của Mẹ. Mẹ của Chúa là biểu tượng hoàn hảo của đức tin, như Thánh Elisabeth nói: “Phúc cho em vì đã tin.” (Lc 1,45).

Trong Đức Mẹ Maria, thiếu nữ Sion, lịch sử lâu dài của đức tin của Cựu Ước đã được thể hiện, với tường thuật về đời sống của rất nhiều phụ nữ trung thành, bắt đầu với bà Sarah, là những phụ nữ, cùng với các Tổ phụ, là nơi mà lời hứa của Thiên Chúa đã được hoàn thành và cuộc sống mới nở hoa. Trong thời viên mãn, Lời Chúa đã nói cùng Mẹ Maria và Mẹ đã đón nhận với tất cả con người, trong tâm hồn Mẹ, để Lời ấy có thể thành nhục thể trong lòng Mẹ và được sinh ra như ánh sáng cho nhân loại. Thánh Giustinô Tử đạo, trong cuộc đối thoại với Tryphô, sử dụng một cách diễn tả tuyệt vời mà qua đó ngài nói rằng Đức Maria, khi chấp nhận sứ điệp của thiên sứ, đã thụ thai “đức tin và niềm vui”.[49] Thật ra, trong Mẹ Chúa Giêsu, đức tin thể hiện trọn vẹn hoa trái của nó, và khi đời sống tinh thần của chúng ta sinh hoa trái làm cho chúng ta trở nên tràn đầy niềm vui, đó là dấu chỉ rõ ràng nhất về sự cao cả của đức tin. Trong cuộc sống của mình, Đức Mẹ hoàn thành cuộc hành hương đức tin, theo bước chân của Con Mẹ.[50] Như vậy, trong Đức Mẹ, cuộc hành trình đức tin của Cựu Ước được tiếp tục bằng việc đi theo Đức Kitô, để cho Người biến đổi và đi vào trong nhãn quan của Con Thiên Chúa Nhập Thể.

59. Chúng ta có thể nói rằng nơi Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta thấy thể hiện điều mà tôi đã đề cập trước đây, nghĩa là người tín hữu được hoàn toàn thu hút vào lời tuyên xưng đức tin của mình. Vì Đức Mẹ liên kết chặt chẽ với Chúa Giêsu, Mẹ cũng liên kết chặt chẽ với những gì mà chúng ta tin. Trong việc thụ thai mà vẫn còn đồng tring của Mẹ, chúng ta có một dấu chỉ rõ ràng về việc làm Con Thiên Chúa của Đức Kitô. Nguồn gốc vĩnh cửu của Đức Kitô trong Chúa Cha. Người là Con theo một ý nghĩa tổng thể và độc nhất, và vì vậy, Người được sinh ra trong thời gian mà không cần sự can thiệp của một người nam. Như Chúa Con, Chúa Giêsu mang đến cho thế giới một khởi đầu mới và một ánh sáng mới, sự viên mãn của tình yêu trung tín của Thiên Chúa, Đấng tự hiến mình cho nhân loại. Ngoài ra, tình mẫu tử thật sự của Đức Mẹ Maria cũng đảm bảo cho Con Thiên Chúa một lịch sử nhân loại đích thực, một xác thịt thực sự, trong đó Người sẽ chết trên Thánh Giá và sống lại từ cõi chết. Đức Mẹ Maria sẽ đi theo Chúa Giêsu cho đến tận Thánh Giá (x. Ga 19,25), từ đó tình mẫu tử của Mẹ sẽ mở rộng cho tất cả các môn đệ của Người (x. Ga 19,26-27). Mẹ cũng sẽ có mặt trong căn phòng trên lầu, sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh và Lên Trời, cùng các Tông đồ cầu xin ơn Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,14). Chuyển động của tình yêu giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần chạy qua lịch sử của chúng ta, và Đức Kitô lôi kéo chúng ta về với chính Người để cứu chúng ta (x. Ga 12,32). Ở trung tâm đức tin của chúng ta là lời tuyên xưng về Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, sinh bởi một người nữ, là Đấng đem chúng ta đến việc làm nghĩa tử, nhờ hồng ân của Chúa Thánh Thần (x. Gl 4,4).

60. Chúng ta hãy hướng về Đức Mẹ Maria, Mẹ Hội Thánh và Mẹ của đức tin của chúng ta trong cầu nguyện.

Lạy Mẹ, xin giúp đỡ đức tin của chúng con!

Xin mở tai chúng con để lắng nghe Lời Chúa và nhận ra giọng của Thiên Chúa cùng lời mời gọi của Người.

Xin đánh thức trong chúng con ước muốn đi theo bước chân Người, ra đi từ vùng đất của chúng con và nhận được lời hứa của Người.

Xin giúp chúng con để chúng con được tình yêu của Người chạm đến, và để chúng con có thể chạm vào Người trong đức tin.

Xin giúp chúng con phó thác hoàn toàn cho Người và tin vào tình yêu của Người, đặc biệt là trong những lúc bị thử thách và của thập giá, khi đức tin của chúng con được mời gọi đến trưởng thành.

Xin gieo trong đức tin của chúng con niềm vui của Đấng Phục Sinh.

Xin nhắc nhở chúng con rằng những người tin không bao giờ một mình.

Xin dạy cho con nhìn tất cả mọi sự với cặp mắt của Chúa Giêsu, để Người có thể là ánh sáng cho cuộc hành trình của chúng con. Và xin cho ánh sáng đức tin này luôn luôn lớn lên trong chúng con, cho đến một ngày không có hoàng hôn, chính là Đức Kitô, Con Mẹ và Chúa chúng con!

Ban hành tại Rôma, tại Đền thờ Thánh Phêrô, ngày 29-6, Lễ Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, năm 2013, năm thứ nhất của triều đại giáo hoàng của tôi.

 
Phanxicô, Giáo hoàng
 
--------------------------------------------------------
 

Văn kiện này được gửi đến các GM, LM, Phó Tế, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân. Như chính ĐTC Phanxicô giải thích: văn kiện này hầu như đã được ĐGH Biển Đức 16 hoàn thành và ngài chỉ đóng góp thêm mà thôi. Mục đích của Thông Điệp là phục hồi đặc tính ánh sáng của chính đức tin, có thể soi sáng cho toàn thể cuộc sống con người.

Ngoài phần nhập đề (1-7) và kết luận (58-60), Thông Điệp ”Ánh Sáng Đức Tin” gồm 4 chương:

I. Chúng tôi đã tin nơi tình yêu (1 Ga4,6) (8-22)
II. Nếu các ngươi không tin, thì sẽ không hiểu (Is 7,9) (23-36)
III. Tôi truyền lại cho anh chị em điều tôi đã nhận lãnh (1 Cr 15,3) (37-49)
IV. Thiên Chúa chuẩn bị cho họ một thành thị (Dt 11,16) (50-60)

Nội dung tổng quát của Thông Điệp

- Ai tin thì thấy. Ai tin thì không bao giờ lẻ loi vì đức tin là một thiện ích cho tất cả mọi người, một công ích giúp phân biệt thiện và ác, xây dựng xã hội chúng ta, mang lại hy vọng. Nội dung nòng cốt của Thông điệp “Ánh sáng đức tin” là ý tưởng này: đức tin không tách rời con người ra khỏi thực tại, nhưng giúp con người đón nhận ý nghĩa sâu xa nhất của thực tại. ĐGH nhận xét rằng: Trong một thời tại như thời nay, trong đó người ta coi việc tin tưởng là điều trái ngược với sự tìm kiếm và nghiên cứu, đức tin bị người ta coi là một ảo tưởng, một thái độ nhảy vào khoảng không, ngăn cản tự do của con người, điều quan trọng là tin tưởng và tín thác vào tình yêu thương từ bi của Thiên Chúa với lòng khiêm tốn và can đảm, vì Thiên Chúa chữa lành mọi quanh co sai trái trong lịch sử chúng ta.

- Chứng nhân đáng tin cậy về đức tin chính là Chúa Giêsu, qua Ngài Thiên Chúa thực sự hoạt động trong lịch sử. Ai tin tưởng nơi Chúa Giêsu thì không những nhìn lên Ngài, nhưng còn nhìn với quan điểm của Ngài nữa. Và cũng như trong đời sống thường nhật, chúng ta tín nhiệm kiến trúc sư, dược sĩ, trạng sư, vì họ là những người biết rõ hơn chúng ta, cũng vậy đức tin làm cho chúng ta tín thác nơi Chúa Giêsu, là chuyên gia trong những điều thuộc về Thiên Chúa, Đấng giải thích cho chúng ta về Thiên Chúa.

ĐGH cũng nhấn mạnh rằng đức tin không phải là một sự kiện riêng tư, vì chúng ta tuyên xưng đức tin giữa lòng Giáo Hội, như một cộng đồng hiệp thông cụ thể của các tín hữu. Và theo thể thức đó, cuộc sống của tín hữu cũng trở thành cuộc sống của Giáo Hội.

Tiếp đến, ĐGH chứng tỏ mối liên hệ chặt chẽ giữa đức tin, sự thật và tình thương, là những điều đáng tin cậy của Thiên Chúa. Đức tin mà không có sự thật thì không cứu thoát. Nó chỉ là một chuyện ngụ ngôn hay đẹp, nhất là ngày nay người ta đang trải qua một cuộc khủng hoảng sự thật vì một nền văn hóa chỉ tin tưởng nơi kỹ thuật hoặc những chân lý của mỗi người, có lợi cho cá nhân chứ không có lợi cho công ích. Sự quên sót lớn lao của thế giới hiện tại là từ chối chân lý cao cả, là quên đi câu hỏi về Thiên Chúa, vì người ta lo sợ thái độ cuồng tín và ưa thích thái độ duy tương đối hơn.

Trái lại, đức tin không phải là điều cố chấp, tín hữu không phải là người kiêu căng, vì chân lý xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa không phải là điều bị áp đặt bằng bạo lực và không đè bẹp mỗi người. Vì thế, có thể có cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí: trước tiên vì đức tin thức tỉnh cảm thức phê bình và mở rộng chân trời của lý trí; tiếp đến vì Thiên Chúa là ánh sáng rạng ngời và cả những người không tin cũng có thể tìm thấy Chúa khi họ tìm kiếm Ngài với con tim chân thành. Ai lên đường để thực thi điều thiện thì họ là người đã đến gần Thiên Chúa rồi.

Một điểm thiết yếu khác của Thông điệp 'Ánh sáng đức tin' là việc rao giảng Tin Mừng. ĐGH viết: Ai cởi mở đối với tình thương của Thiên Chúa thì không thể giữ riêng hồng ân này cho mình. Như ngọn lửa được một ngọn lửa khác khơi lên, ánh sáng của Chúa Giêsu chiếu sáng trên khuôn mặt các tín hữu Kitô và thông truyền từ đời này sang đời khác, qua những chứng nhân đức tin. Vì thế, có một liên hệ chặt chẽ giữa đức tin và ký ức, vì tình thương của Thiên Chúa liên kết mọi thời đại và làm cho chúng ta trở thành những người đồng thời với Chúa Giêsu.

Nhưng có một phương thế đặc biệt nhờ đó đức tin có thể được thông truyền, đó là các bí tích. Trước tiên là bí tích rửa tội nhắc nhở chúng ta rằng đức tin phải được lãnh nhận, trong niềm hiệp thông với Giáo Hội, vì không ai tự rửa tội cho mình; và phép rửa tội làm nổi bật sự hợp lực giữa Giáo Hội và gia đình trong việc thông truyền đức tin. Tiếp đến, là bí tích Thánh Thể, lương thực quí giá nuôi dưỡng đức tin, dạy cho chúng ta nhìn thấy chiều sâu của thực tại. Và việc tuyên xưng đức tin qua kinh Tin Kính và Kinh Lạy Cha làm cho tín hữu can dự vào những chân lý mà họ tuyên xưng và cho họ thấy bằng đôi mắt của Chúa Kitô. Sau cùng là 10 giới răn: đây không phải là những giới luật tiêu cực, chỉ có tính chất cấm đoán, nhưng là những chỉ dẫn cụ thể để đi vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa. ĐGH nhấn mạnh rằng đức tin là duy nhất và sự hiệp nhất đức tin chính là sự hiệp nhất của Giáo Hội.

Trong chương cuối cùng của Thông điệp ”Ánh sáng đức tin” ĐGH giải thích liên hệ giữa việc tin và xây dựng công ích: đức tin nảy sinh từ tình yêu Thiên Chúa, làm cho những liên hệ giữa con người được vững chắc và đặt mình phục vụ công lý, công pháp, hòa bình. Đức tin không làm cho người ta xa lìa thế giới, trái lại: nếu loại bỏ đức tin ra khỏi xã hội chúng ta, thì chúng ta không còn tín nhiệm nhau và chúng ta chỉ liên kết với nhau vì sợ hãi hoặc vì quyền lợi mà thôi. Trái lại có bao nhiêu lãnh vực được đức tin soi sáng như gia đình dựa trên hôn nhân, được hiểu như một sự kết hợp bền vững giữa một người nam và một người nữ; tiếp đến là thế giới của những người trẻ mong ước một cuộc sống cao cả, và cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô mang lại cho họ niềm hy vọng vững chắc, không đánh lừa. 'Đức tin không phải là một nơi nương náu cho những người thiếu can đảm” và trong lãnh vực này những Ngày Quốc Tế giới trẻ giúp các bạn trẻ chứng tỏ niềm vui đức tin và dấn thân sống đức tin một cách kiên cường và quảng đại.

    Đức tin cũng soi sáng cho cả thiên nhiên, giúp chúng ta ta tôn trọng thiên nhiên, ”tìm thấy những kiểu mẫu phát triển không phải chỉ dựa trên sự hữu ích hoặc lợi lộc, nhưng coi thiên nhiên như một hồng ân”, đức tin dạy chúng ta tìm ra những hình thức cai trị đúng đắn, trong đó quyền bính đến từ thiên Chúa và để phục vụ công ích; đức tin giúp chúng ta khả năng tha thứ, giúp khắc phục những cuộc xung đột. ĐTC viết: ”Khi đức tin bị suy yếu và thiếu sót, thì người ta gặp nguy cơ là cả những nền tảng của cuộc sống sẽ bị thiếu sót. Vì thế, chúng ta đừng xấu hổ khi công khai tuyên xưng Thiên Chúa, xét vì đức tin soi sáng cho toàn thể cuộc sống xã hội.

    ĐGH cũng khẳng định rằng cả đau khổ và sự chết cũng nhận được một ý nghĩa nhờ sự tín thác nơi Thiên Chúa: với những ngừơi đau khổ, Chúa ban cho họ một lý do giải thích tất cả, nhưng ngài cũng trao tặng sự hiện diện của Ngài tháp tùng họ. Theo nghĩa đó, đức tin đi chung với niềm hy vọng. Và tại đây, ĐGH đưa ra một lời kêu gọi: ”Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm hy vọng, chứng ta đừng để cho niềm hy vọng bị tan biến với những giải pháp và đề nghị tức khắc, ngăn cản hành trình của chúng ta”.
    Và thông điệp kết thúc với một lời kinh dâng lên Đức Mẹ Maria là hình ảnh tuyệt vời của đức tin, xin Mẹ dạy chúng ta biết nhìn với đôi mắt của Chúa Giêsu.

     

    G. Trần Đức Anh OP

    Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
    Click để đánh giá bài viết

    Những tin mới hơn

    Những tin cũ hơn

     

    .

    1

    LM PAUL NGUYỄN ĐỨC VĨNH

    Vị Thánh trong ngày

    Sách các phép

    Mười điều răn

    Thành viên

    Kích chuột để

    1

    Suy niệm Lời Chúa 5P

    Nhóm Mân Côi

    1
     

    Tin Thể Thao

      Giờ kinh phụng vụ

      Lịch Phụng Vụ