1
19:56 +07 Thứ ba, 16/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 22

Máy chủ tìm kiếm : 6

Khách viếng thăm : 16


Hôm nayHôm nay : 7456

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 173432

Tổng cộngTổng cộng : 27727716

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » TÀI LIỆU & VĂN KIỆN

Tài liệu tập huấn "Mục vụ Gia đình"

Thứ hai - 01/09/2014 07:41-Đã xem: 1571
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành “Tông huấn FAMILIARIS CONSORTIO về các bổn phận của gia đình Ki-tô hữu”. Rồi vào ngày 23-26 tháng 01 năm 2003 tới đây, Giáo hội công giáo toàn cầu tổ chức một hội nghị về Gia đình, với chủ đề là: “Gia đình Kitô hữu là Tin Mừng cho thiên niên thứ ba” tại Manila (Philippines)
Tài liệu tập huấn "Mục vụ Gia đình"

Tài liệu tập huấn "Mục vụ Gia đình"

 
 MỤC VỤ GIA ĐÌNH
(TÀI LIỆU KHÓA TẬP HUẤN)
 

“TÂN PHÚC ÂM HÓA ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH” 2014

Khóa tập huấn về Mục vụ Gia đình
 
LỜI GIỚI THIỆU
 
Gia đình vừa “là tế bào đầu tiên và sống động” vừa là “nền tảng của xã hội” (Familiaris Consortio 42). Gia đình công giáo là “giáo hội thu nhỏ” (FC 49), là “giáo hội tại gia” (FC 61). Gia đình có bốn bổn phận chính là (a) đào tạo một cộng đồng nhân vị, (b) phục vụ sự sống, (c) tham gia vào việc phát triển xã hội và (d) tham gia vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội. Thực tại lớn lao ấy, chân lý tuyệt vời ấy được bao nhiêu gia đình công giáo am hiểu và thực hiện đầy đủ? Nhất là trong bối cảnh xã hội Việt Nam cũng như nhiều nơi trên thế giới ngày nay, gia đình như đang bị tấn công tứ phía và bị cuốn hút vào một dòng xoáy, một trào lưu, một cách sống nghiêng về vật chất, thực dụng, coi thường các gía trị đạo đức gia đình truyền thống, tôn giáo, tâm linh. Giáo hội công giáo toàn cầu và Giáo hội công giáo Việt Nam đang có những nỗ lực mới để củng cố gia đình: Ở cấp Giáo hội toàn quốc thì năm 2002 này được các giáo phận chọn làm Năm Thánh hóa Gia đình. Và theo nguồn tin không chính thức thì trong Hội nghị thường niên năm nay, Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng sẽ có Thư  Mục vụ về Gia đình gửi cộng đồng Dân Chúa và có thể sẽ thiết lập Uy Ban Giám mục về Gia đình. Còn ở phạm vi toàn cầu thì năm 2001 Giáo hội công giáo toàn cầu đã mừng kỷ niệm 20 năm (22.11.1981-22.11.2001) ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành “Tông huấn FAMILIARIS CONSORTIO về các bổn phận của gia đình Ki-tô hữu”. Rồi vào ngày 23-26 tháng 01 năm 2003 tới đây, Giáo hội công giáo toàn cầu tổ chức một hội nghị về Gia đình, với chủ đề là: “Gia đình Kitô hữu là Tin Mừng cho thiên niên thứ ba” tại Manila (Philippines). Hiện nay công cuộc chuẩn bị ở cấp các Giáo hội Trung ương cũng như địa phương đang được tiến hành khẩn trương.
 
Chính trong bối cảnh ấy mà tôi có dự định sẽ dành thời gian để đọc kỹ và nghiên cứu Tông huấn FAMILIARIS CONSORTIO. Tông huấn này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 22 tháng 11 năm 1981, tức cách nay gần 21 năm mà thú thật tôi chưa có dịp đọc toàn bản văn. Và theo lời giới thiệu của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Tông huấn này là “một tài liệu căn bản của Giáo hội về gia đình luôn mới mẻ cho cả giai đoạn hiện tại và chắc chắn cho nhiều thập niên tới, để mỗi người có thể khám phá và hiểu biết hơn về những phong phú về giáo lý, những gía trị về luân lý, nhất là trong lãnh vực mục vụ và văn hóa xã hội. Ước gì tập sách này đến với các cộng đoàn giáo xứ (cách riêng các linh mục, các cộng sự viên và những đôi vợ chồng và gia đình) như một sách cẩm nang giúp cho việc giảng dạy, thảo luận, huấn luyện, học hỏi trong các buổi giáo lý, trong cuộc sống và trong hoạt động mục vụ của mình” (Trích lời giới thiệu của Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận cho bản dịch Tông huấn của linh mục Augustinô Nguyễn Văn Dụ, ấn hành tại Roma năm 2001 để kỷ niệm 20 năm ngày ban hành Tông huấn).

Vào lúc bắt đầu thực hiện ý định trên, tôi nhận được một cú điện thoại. Bên đầu giây bên kia là linh mục Mi-ca-e Phạm Tiến Thành, Dòng Thánh Thể, bề trên cộng đoàn Mông Triệu (Bình Thạnh, Sài-gòn) mà tôi đã có dịp gặp gỡ làm quen hồi tháng 10 năm 2001 tại Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội. Linh mục Mi-ca-e Phạm Tiến Thành ngỏ ý muốn nhờ tôi giúp các tu sĩ của cộng đoàn một Khóa ngắn ngày về Mục vụ Gia Đình. Tuy chưa biết mình sẽ phải trình bày những điều gì với các tu sĩ Dòng Thánh Thể, nhưng tôi cũng vui vẻ nhận lời mời, vì tôi coi lời mời ấy là dấu chỉ của thánh Ý Chúa: Rõ ràng Chúa muốn tôi thực hiện điều mà Người đã gợi ý cho tôi cách đây không lâu mà tôi chưa thực sự bắt tay vào việc.

Đó là bối cảnh hình thành tập tài liệu “MỤC VỤ GIA ĐÌNH” này. Tông huấn Familiaris Consortio của Đức Gioan Phaolô II là tài liệu nền tảng của tập tài liệu này. Nhưng tôi cũng đưa ra một số đề tài không có trong Tông huần Familiaris Consortio, để đáp ứng nhu cầu hiện nay của Giáo hội Việt Nam. Vì thế ngoài một số công tác mục vụ mà nhiều giáo xứ đã và đang thực hiện trong lãnh vực quan trọng này, chúng tôi cũng mạnh dạn gợi ý về một số công việc mà Giáo hội cần làm trong tương lai.

Tập tài liệu được soạn không nhằm mục đích đào tạo các giáo lý viên phục vụ cho các lớp chuẩn bị hôn nhân mà nhằm đào tạo các nhân viên Mục vụ Gia đình (Family pastoral staff) là thành phần càng ngày càng đáng được coi trọng trong các giáo xứ, giáo phận. Chính vì thế mà tập tài liệu Mục vụ Gia đình này được gọi là tài liệu tập huấn và Khoá Mục vụ Gia đình được gọi là Khóa tập huấn về Mục vụ Gia đình.
Nội dung tập Mục vụ Gia đình này sẽ gồm 13 chương như sau:
Chương 1: Ý nghĩa & Tầm quan trọng của Mục Vụ Gia Đình.
Chương 2: Các giai đoạn của Mục Vụ Gia Đình.
Chương 3: Những cơ cấu của Mục vụ Gia đình.
Chương 4: Những người có trách nhiệm về Mục Vụ Gia Đình.
Chương 5: Hoạt động Mục vụ trong những hoàn cảnh đặc thù và cho các cuộc hôn nhân hỗn hợp.
Chương 6: Hoạt động Mục vụ trong một vài hoàn cảnh trái qui tắc.
Chương 7: Hoạt động Mục vụ cho những người không có gia đình và cho các gia đình trẻ.
Chương 8: Nội dung Khóa Giáo lý Hôn nhân.
Chương 9: Cách Tổ chức & Giảng dạy Khóa Giáo lý Hôn nhân.
Chương 10: Các Sinh hoạt Mục vụ Gia đình trong giáo xứ.
Chương 11: Mục vụ Tư  vấn về Hôn nhân và Gia đình.
Chương 12: Việc Đào tạo Nhân viên Mục vụ Gia đình.
Chương 13: Ban hay Văn phòng Mục vụ Gia đình Giáo phận và hoạt động của Ban hay Văn phòng ấy.
Như vậy Khoá Mục vụ Gia đình sẽ gồm 13 đề tài và cần một quĩ thời gian khoảng 26 tiết học, không kể buổi lượng gía đúc kết khóa.
Về mặt cấu trúc, mỗi đề tài được trình bày theo bố cục đơn giản như sau:

I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ
IV. THẢO LUẬN VÀ ỨNG DỤNG.

Trong cấu trúc trên có hai mục được đặc biệt dành cho các học viên. Đó là mục “TIẾP CẬN VẤN ĐỀ”  và “THẢO LUẬN & ỨNG DỤNG”. Do đó Khóa tập huấn chỉ đạt được mục đích yêu cầu khi có được sự tham gia tích cực và năng động của các học viên.
Rất mong nỗ lực nhỏ bé này được các linh mục, tu sĩ và giáo dân đón nhận, để các gia đình được thăng tiến hơn nhờ có thêm người phục vụ và có thêm Sinh hoạt Mục vụ chất lượng và phong phú.  
 
Tp Hồ Chí Minh ngày 31.08  & 30.09 năm 2002
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
 

 
CHƯƠNG I
Ý nghĩa & tẦm quan trọngcủa Mục Vụ Gia Đình
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1  Giúp các học viên hiểu rõ thế nào là Mục vụ Gia đình và Mục Vụ Gia đình có tầm quan trọng như thế nào, đối với Giáo hội và xã hội cũng như đối với các gia đình.
1.2  Giúp các học viên ý thức tầm quan trọng của Mục vụ Gia đình để họ nỗ lực đóng góp công sức vào công tác Mục vụ này theo khả năng và hoàn cảnh riêng của mình.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Các bạn biết, thấy, nghĩ  gì về Mục vụ Gia đình trong Giáo hội? Hãy chia sẻ với các học viên khác.
2.2 Theo bạn thì Mục vụ Gia đình cần thiết và quan trọng như thế nào? Thế tại sao trong các giáo xứ và giáo phận, Mục vụ ấy chưa được mấy người quan tâm?
2.3 Theo bạn thì tại sao có Khóa Tập huấn ngắn ngày về Mục vụ Gia đình này? Bản thân bạn “kỳ vọng” hay “trông đợi” gì ở Khóa Tập huấn này?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ 
3.1 Thế nào là Mục Vụ Gia đình?      
* Mục vụ: là tất cả những công việc mà Giáo hội và các thành phần khác nhau của Giáo hội thực hiện nhằm thể hiện trách nhiệm chăm sóc đối với các thành viên khác của Giáo hội hay đối với con người. “Mục vụ” xuất phát từ từ “Mục tử”. Mục tử là người có sứ mạng chăn dắt và chăm sóc đàn chiên được Thiên Chúa trao cho. Đức Giê-su là vị Mục tử nhân lành, là vị Chủ chăn tuyệt vời nhất, vì Người đã hiến mạng sống mình cho đàn chiên: từ việc giáng trần, lao động, giảng dạy, chữa bệnh, trừ quỉ, làm phép lạ cho đến việc chịu khổ nạn và chịu chết trên thập giá, Người đều làm vì chúng ta là chiên của Người, để cho chúng ta “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
* Mục vụ Gia đình: là tất cả những công việc lớn nhỏ mà Giáo hội và các thành phần khác nhau của Giáo hội thực hiện nhằm thể hiện trách nhiệm chăm sóc đối với các gia đình và các thành viên của gia đình, nhằm giúp các gia đình và thành viên của gia đình thực hiện được chức năng, ơn gọi, sứ mạng của mình.
 
3.2 Tầm quan trọng của Gia đình:
* Để thấy rõ tầm quan trọng của Mục vụ Gia đình, thì chúng ta phải thấy được tầm quan trọng của Gia đình, đối với từng con người, đối với xã hội cũng như Giáo hội. Đức Gio-an Phao-lô khẳng định: “Tương lai của thế giới và Giáo hội đi qua các gia đình (FC 75) & “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình” (FC 86). Tại sao Đức Gio-an Phao-lô II lại quả quyết như thế? – Tại vì:
(a) đối với con người, gia đình là cái nôi trong đó con người sinh ra và lớn lên, là mái ấm, là trường học đầu tiên; gia đình có sứ mạng đặc biệt trong chương trình của Thiên Chúa.
(b) đối với xã hội, gia đình là tế bào, là nền tảng, là mẫu mực; giữa gia đình và xã hội có mối tương quan mật thiết, hữu cơ:
“Gia đình tốt thì xã hội mới tốt,
Xã hội mà tốt thì gia đình càng tốt”
                                  (Hồ Chí Minh)
(c) còn đối với Giáo hội, gia đình là Giáo hội thu nhỏ, Giáo hội tại gia, là trường học đời sống Ki-tô hữu, là cộng đoàn đón nhận, sống, làm chứng và rao giảng Tin Mừng Cứu độ.
* Trong tông huấn Familiaris Consortio, Đức Gio-an Phao-lô II đã nêu lên 4 bổn phận chính của gia đình là:
(a) Đào tạo một cộng đồng các ngôi vị:
Liên quan tới bổn phận thứ nhất là đào tạo một cộng đồng các ngôi vị, Tông huấn nêu lên những vấn đề chính sau đây:
-         Tình yêu là nguồn mạch và sức mạnh của sự hiệp thông (FC 18),
-         Sự hiệp thông vợ chồng là sự hiệp nhất không thể phân ly (FC 19),
-         Một sự hiệp thông bất khả phân ly (FC 20),
-         Sự hiệp thông mở rộng của gia đình (FC 21),
-         Những quyền lợi và vai trò của người phụ nữ (FC 22),
-         Người phụ nữ và xã hội (FC 23),
-         Những điều xúc phạm đến phẩm giá phụ nữ ( FC 24),
-         Người nam là chồng và là cha (FC 25),
-         Những quyền lợi của con cái (FC 26),
-         Những người gìa cả trong gia đình (FC 27).
(b) Phục vụ sự sống:
Liên quan tới bổn phận thứ hai là phục vụ sự sống, Tông huấn nêu lên những vấn đề chính sau đây:
1.      Việc truyền sinh:
-         Những người cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hóa (FC 28),
-         Giáo lý và qui luật của Giáo hội bao giờ cũng vừa cũ vừa mới (FC 29),
-         Giáo hội đứng về phía bảo vệ sự sống (FC 30),
-         Để ý định của Thiên Chúa được thể hiện ngày một trọn vẹn hơn (FC 31),
-         Trong cái nhìn toàn vẹn về con người và về ơn gọi của con người (FC 32),
-         Giáo hội là Mẹ và là Thày cho những người phối ngẫu đang gặp khó khăn (FC 33),
-         Hành trình luân lý của đôi bạn (FC 34),
-         Khơi dậy những xác tín và cống hiến một sự giúp đỡ cụ thể (FC 35).
2.      Giáo dục:
-         Quyền và bổn phận giáo dục của cha mẹ (FC 36),
-         Giáo dục theo chiều hướng các gía trị chính yếu của đời người (FC 37),
-         Sứ mạng giáo dục và bí tích hôn nhân (FC 38),
-         Kinh nghiệm đầu tiên về Giáo hội (FC 39),
-          Tương quan với các cấp giáo dục khác (FC 40),
-          Việc phục vụ sự sống bằng nhiều hình thức (FC 41).
    (c) Tham gia vào việc phát triển xã hội:
-         Liên quan tới bổn phận thứ ba là tham gia vào việc phát triển xã hội, Tông huấn nêu lên những vấn đề chính sau đây:
-         Gia đình, tế bào đầu tiên và sống động của xã hội (FC 42),
-         Đời sống gia đình: kinh nghiệm hiệp thông và chia sẻ (FC 43),
-         Vai trò xã hội và chính trị (FC 44),
-         Xã hội phục vụ gia đình (FC 45),
-         Hiến chương về quyền gia đình (FC 46),
-         An sủng và trách nhiệm của gia đình Ki-tô hữu (FC 47),
-          Tiến tới một trật tự quốc tế mới (FC 48).
     (d) Tham gia vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội:
-         Liên quan tới bổn phận thứ bốn là tham gia vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội, Tông huấn nêu lên những vấn đề chính sau đây:
-         Gia đình trong mầu nhiệm Giáo hội (FC 49),
-         Một trách nhiệm có tính giáo hội riêng biệt và độc đáo (FC 50),
1. Gia đình Kitô hữu, cộng đồng tin  và rao giảng Tin Mừng:
-          Đức tin khám phá và thán phục ý định của Thiên Chúa về gia đình (FC 51),
-          Thừa tác vụ phúc âm hóa của gia đình ki-tô hữu (FC 52),
-          Một việc phục vụ có tính giáo hội (FC 53),
-          Rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (FC 54),  
   2.Gia đình Ki-tô hữu, cộng đồng đối thoại với Thiên Chúa:    
-         Đền thờ tại gia của Giáo hội (FC 55),
-          Hôn nhân, bí tích thánh hóa lẫn nhau và là hành vi phụng tự (FC 56),
-          Hôn Nhân và Thánh Thể (FC 57),
-         Bí tích hoán cải và giao hòa (FC 58),
-         Kinh nguyện gia đình (FC 59),
      -    Những nhà giáo dục đức tin (FC 60),
      -     Kinh nguyện phụng vụ và kinh nguyện riêng (FC 61),
      -    Kinh nguyện và đời sống (FC 62),
     3. Gia đình Ki-tô hữu, cộng đoàn phục vụ con người:
      - Lệnh truyền mới của tình yêu (FC 63),
      - Nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi mỗi anh chị em (FC 64),
 
3.3 Tầm quan trọng của Mục vụ Gia đình:
Vì gia đình có tầm quan trọng như thế, nên công tác Mục vụ Gia đình là một công tác hết sức quan trọng đối với Giáo hội. Chính Đức Gio-an Phao-lô II đã nhiều lần xác định điều ấy:
 “Vì thế, cần nhấn mạnh một lần nữa việc Giáo hội phải cấp bách can thiệp mục vụ để nâng đỡ gia đình. Cần phải cố gắng hết sức để ngành mục vụ gia đình được củng cố và phát triển, trở thành một ngành thật ưu tiên, vì chắc chắn trong tương lai, việc loan báo Tin Mừng phần lớn tùy thuộc nơi Giáo hội tại gia”
(FC số 65; Diễn văn tại Đại hội Giám mục Nam Mỹ, khóa 3 ngày 28-1-1979, IV, a: AAS 71 (1979), t.204).
 
IV. THẢO LUẬN VÀ ỨNG DỤNG
4.1 Bạn hãy chia sẻ những cảm nghĩ, nhận thức của mình sau khi nghe trình bày đề tài I?
4.2 Bạn  quyết tâm sẽ làm gì cho bản thân mình, cho gia đình, cộng đoàn và giáo xứ của bạn?
 

 
CHƯƠNG II
CÁC GIAI ĐOẠN CỦA MỤC VỤ GIA ĐÌNH.
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên hiểu rõ CÁC GIAI ĐOẠN khác nhau của Mục vụ Gia đình.
1.2 Giúp các học viên tích cực tham gia vào Mục vụ Gia đình ở những giai đoạn mà họ có khả năng và điều kiện.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Có người ta khẳng định rằng Mục Vụ Gia đình bao trùm toàn bộ đời sống con người, kể từ khi lọt lòng cho đến khi nhắm mắt: bạn thấy lời khẳng định ấy có đúng không? Tại sao?
2.2 Theo bạn thì giai đoạn nào con em chúng ta cần đến sự chăm sóc của Mục vụ Gia đình nhất? Tại sao? Còn các giáo xứ thường quan tâm đến Mục vụ Gia đình ở giai đoạn nào nhất? Tại sao thế?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ 
Tông huấn Familiaris Consortio của Đức Gio-an Phao-lô II “về những bổn phận của gia đình Ki-tô hữu” đã dành Phần Thứ Tư để trình bày về Mục vụ Gia đình. Trong phần này Tông huấn nói đến (I) Các giai đoạn của Mục vụ Gia đình, (II) Các cơ cấu của Mục vụ Gia đình, (III) Những người có trách nhiệm về Mục vụ Gia đình và (IV) Mục vụ Gia đình trong những hoàn cảnh khó khăn. Đề tài II này là “Các giai đoạn của Mục vụ Gia đình.” Đề tài III là “Các cơ cấu của Mục vụ Gia đình và những người có trách nhiệm về Mục vụ Gia đình.” Còn đề tài IV là  “Mục vụ Gia đình trong những hoàn cảnh khó khăn.”  
 
3.1 Sứ mạng đồng hành của Giáo hội:
Trước hết, Tông huấn xác định sứ mạng đồng hành của Giáo hội với các gia đình Ki-tô hữu: “Như tất cả mọi thực tại sinh động, gia đình cũng được mời gọi phát triển và tăng trưởng. Sau ki trải qua sự chuẩn bị của thời kỳ đính hôn và việc cử hành bí tích hôn nhân, đôi bạn bắt đầu bước đường hằng ngày tiến tới việc thực hiện tuần tự các gía trị và bổn phận của hôn nhân.
“Vì thế, cần nhấn mạnh một lần nữa việc Giáo hội phải cấp bách can thiệp mục vụ để nâng đỡ gia đình. Cần phải cố gắng hết sức để ngành Mục vụ Gia đình được củng cố và phát triển, trở thành một ngành thật ưu tiên, vì chắc chắn trong tương lai, việc loan báo Tin Mừng phần lớn tùy thuộc vào Giáo hội tại gia là các gia đình” (xem FC số 65; và Diễn văn tại Đại hội Giám mục Nam Mỹ, khóa 3, ngày 28-1-1979, IV,a: AAS 71 (1979), t.204).
3.2 Việc chuẩn bị bước vào đời sống gia đình:
Kế tiếp Tông huấn trình bày về nhu cầu chuẩn bị cho các bạn trẻ: “Vào thời chúng ta, việc chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào hôn nhân và đời sống gia đình càng cần thiết hơn bao giờ hết”. Lý do: “Những thay đổi dồn dập trong lòng hầu hết các xã hội tân tiến đòi hỏi không những chỉ gia đình mà cà xã hội và Giáo hội phải dấn thân vào nỗ lực chuẩn bị tương xứng, để các bạn trẻ có thể cáng đáng các trách nhiệm trong tương lai. Nhiều hiện tượng tiêu cực trong đời sống gia đình mà ngày nay người ta than phiền, đã xuất phát từ sự kiện này là trong những hoàn cảnh mới, các bạn trẻ không còn nhận ra được phẩm trật đúng đắn các gía trị (bậc thang các gía trị) và vì không còn những tiêu chuẩn chắc chắn để xử thế, họ không còn biết làm sao đương đầu và giải quyết các khó khắn mới. Kinh nghiệm cho thấy: các bạn trẻ được chuẩn bị chu đáo cho đời sống gia đình, cách chung sẽ thành công hơn các bạn khác.
“Điều đó còn đúng hơn nữa cho hôn nhân Ki-tô giáo, vốn có ảnh hưởng rất rộng đối với sự thánh thiện của biết bao người nam người nữ. Vì thế Giáo hội cổ vũ những chương trình chuẩn bị hôn nhân phong phú và hữu hiệu, để hết sức loại trừ những khó khăn mà trong đó biết bao gia đình đang phải chiến đấu, và hơn nữa, để tích cực dẫn đưa các cuộc hôn nhân đến cho thành công và trưởng thành trọn vẹn.
 
3.3 Các giai đoạn chuẩn bị:
”Việc chuẩn bị hôn nhân phải được xem xét và thực hiện theo một tiến trình tuần tự và liên tục, qua ba giai đoạn chính: chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị liền trước bí tích.
-         Chuẩn bị xa
“Bắt đầu từ thời thơ ấu, khoa sư phạm khôn ngoan của gia đình phải nhằm đưa trẻ em tới chỗ khám phá ra rằng mình được phú ban một tâm lý vừa phong phú vừa phức tạp, được phú ban một nhân cách đặc thù, với những sức mạnh cũng như những yếu đuối riêng của mình. Đây là giai đoạn mà trong đó người ta dần dần ghi khắc cho các em lòng quí chuộng đối với mọi gía trị nhân bản đích thực, trong đó tương quan liên vị cũng như các tương quan xã hội, với những gì hàm chứa trong đó để đào tạo tính tình, để biết tự chủ và biết sử dụng đúng đắn các xu hướng riêng của mình, để biết cách nhận xét và gặp gỡ những người khác phái, và những chuyện khác như thế. Ngoài ra, đặc biệt đối với các Ki-tô hữu, còn phải có sự đào tạo vững chắc về đời sống thiêng liêng và giáo lý, để hiểu được rằng hôn nhân là một ơn gọi và là một sứ mạng đích thực, những vẫn không loại trừ khả năng tận  hiến cho Thiên Chúa trong ơn gọi linh mục hoặc tu sĩ.
- Chuẩn bị gần:
Sẽ dựa trên nền tảng ấy và là một công cuộc lâu dài: bắt đầu từ lứa tuổi thích hợp và với việc dạy giáo lý tương xứng, tương tự phần nào như hành trình dự tòng. Công việc này sẽ gồm việc chuẩn bị chuyên biệt về các bí tích, như để giúp các bạn trẻ tái khám phá các bí tích. Việc canh tân giáo lý theo chiều hướng đó cho tất cả những ai đang chuẩn bị hôn nhân Ki-tô giáo là một điều hết sức cần thiết, để bí tích sẽ được cử hành và được sống với những dữ kiện luân lý và thiêng liêng thích hợp. Đến lúc thích hợp và tùy theo những đòi hỏi cụ thể khác nhau, việc đào tạo tôn giáo cho những người đính hôn sẽ phải được bổ túc bằng một sự chuẩn bị cho đời sống lứa đôi: khi trình bày hôn nhân như một tương quan liên vị phải được phát triển liên tục giữa người nam và người nữ. Người ta phải khuyến khích họ đào sâu những vấn đề về tính dục hôn nhân và về vai trò cha mẹ có ý thức trách nhiệm, cùng với những hiểu biết cốt yếu gắn liền với các vấn đề ấy trong lãnh vực sinh lý và y học, và đưa họ tới chỗ làm quen với những phương pháp tốt để giáo dục con cái, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để họ có được những yếu tố cơ bản cho một nếp sống gia đình ổn định (việc làm chắc chắn, đủ điều kiện tài chánh, biết điều hành sáng suốt, có khái niệm về kinh tế gia đình v.v..
Sau cùng, cũng sẽ không được coi thường việc chuẩn bị cho công cuộc tông đồ gia đình, cho tình huynh đệ và sự cộng tác với các gia đình khác, cho việc tích cực hội nhập vào các nhóm, các hiệp hội, các phong trào và các sáng kiến có mục đích đem lại thiện ích nhân bản và Ki-tô giáo cho gia đình”
- Chuẩn bị liền trước khi cử hành bí tích:
“Phải diễn ra trong nhiều tháng và nhất là trong những tuần cuối trước lễ cưới để nhờ đó có thể đem lại một ý nghĩa mới, một nội dung mới và một hình thức mới cho việc quen gọi là điều tra hôn phối mà giáo luật đòi buộc. Một việc chuẩn bị như thế vốn cần thiết cho tất cả mọi trường hợp, lại càng khẩn cấp hơn cho những đôi hôn phối còn gặp nhiều thiết sót và khó khăn về mặt giáo lý và thực hành Ki-tô giáo.
Trong số các yếu tố phải truyền đạt trong tiến trình  đức tin này, tựa như ở thời kỳ dự tòng, cũng phải có việc đào sâu về mấu nhiệm Chúa Ki-tô và Giáo hội, về ý nghĩa của ân sủng và của trách nhiệm gắn liền với hôn nhân Ki-tô giáo. Đó là chưa kể tới việc chuẩn bị để tham dự tích cực vào nghi lễ phụng vụ hôn phối” (FC 66).
-         Cử hành bí tích:
“Hôn nhân Ki-tô giáo đòi hỏi phải theo luật cử hành phụng vụ, để diễn tả tính cách xã hội và cộng đồng, nơi bản chất Giáo hội và bí tích của khế ước hôn nhân giữa hai người đã được rửa tội” (FC 67).
 Việc cử hành bí tích được hiểu như một hành vi bí tích để thánh hóa, như một dấu chỉ và như một hành vi bí tích của Giáo hội (xem FC 67).
 
3.4 Mục vụ sau Lễ Cưới:
“Trong cụ thể, ưu tư mục vụ dành cho những gia đình hợp lệ, làm cho mọi thành phần cộng đồng Giáo hội địa phương dấn thân giúp đỡ đôi bạn khám phá và sống ơn gọi cũng như sứ mạng mới của mình, để gia đình ngày  càng trở nên một cộng đồng yêu thương đích thực, phải làm cho mọi phần tử đều được giúp đỡ và được đào tạo, để chu toàn trách nhiệm của mình trước những vấn đề mới, để phục vụ lẫn nhau cũng như để tham gia vào đời sống gia đình” .
Trong việc mục vụ dành với các gia đình trẻ, Giáo hội phải quan tâm giáo dục cho họ biết sống tình yêu vợ chồng cách có trách nhiệm, trong tương quan với các đòi hỏi về hiệp thông và phục vụ sự sống, cũng như dạy cho họ biết hòa hợp tình thân mật của tổ ấm gia đình với trách nhiệm quảng đại chung của mọi người trong việc xây dựng Giáo hội và xã hội nhân loại. Khi có con cái, đôi bạn trở thành một gia đình theo nghĩa tròn đầy và chuyên biệt. Lúc đó Giáo hội vẫn còn phải gần gũi hai cha mẹ để giúp đỡ họ đón nhận con cái và yêu mến chúng như một ơn Chúa sự sống ban cho, vui vẻ chấp nhận vất vả để phục vụ cho chúng lớn lên về mặt nhân bản và Ki-tô giáo” (FC 69).
 
IV. THẢO LUẬN VÀ ỨNG DỤNG
            4.1 Bạn có cảm nghĩ, nhận thức, quyết tâm gì sau khi nghe trình bày đề tài II này? Xin hãy chia sẻ với các bạn khác.
            4.2 Đối chiếu với thực tế ở giáo xứ, bạn có nhận xét gì? Bạn có thể làm gì để giáo xứ bạn quan tâm hơn nữa đến các giai đoạn Mục vụ Gia đình, nhất là giai đoạn chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân gia đình?
 
 

 
CHƯƠNG III
CÁC CƠ CẤU CỦA MỤC VỤ GIA ĐÌNH
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên biết  rõ những cơ cấu của Mục vụ Gia đình.
1.2 Giúp họ ý thức trách nhiệm của riêng mình đối với Mục vụ Gia đình, để tùy khả năng và hoàn cảnh họ đóng góp công sức vào việc thực thi trách nhiệm quan trọng ấy.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Theo bạn thì những cơ cấu của Mục vụ Gia đình là cơ cấu nào? Những cơ cấu ấy hoạt động như thế nào trong Giáo hội Việt Nam?
2.2 Theo bạn thì những cơ cấu ấy phải sao để chu toàn trách nhiệm về Mục vụ Gia đình như  Tông huấn Familiaris Consortio đã xác định?
2.3 Riêng bạn, bạn có ý thức và thể hiện trách nhiệm của bạn về Mục vụ Gia đình không? Bạn thể hiện trách nhiệm ấy như thế nào?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ 
Trong đề tài III này, chúng ta sẽ xem xét quan điểm và giáo huấn của Tông huấn các cơ cấu của Mục vụ Gia đình (số 70-72) 
3.1 Cộng đồng Giáo hội:
“Mục vụ gia đình – một hình thức Mục vụ đặc thù và chuyên biệt – tìm thấy nơi chính Giáo hội, nguyên tắc hoạt động và khuôn mẫu trách nhiệm, qua các cơ cấu và các nhân viên của Giáo hội” (FC 69).
 
3.2 Giáo xứ:
“Các Giáo hội địa phương vẫn là những tác nhân trực tiếp nhất và hữu hiệu nhất để thể hiện Mục vụ Gia đình. Theo nghĩa đó, mỗi Giáo hội địa phương và nói rõ hơn mỗi cộng đoàn giáo xứ, phải ý thức mạnh mẽ về ân sủng và trách nhiệm đã nhận được từ Chúa để cổ võ Mục vụ Gia đình” (FC 70).
 
3.3 Gia đình:
“Trong lãnh vực này, phải nhìn nhận vị trí đặc biệt dành cho sứ mạng các đôi vợ chồng và các gia đình, nhờ ân sủng từ bí tích họ đã lãnh nhận. Sứ mạng này nhằm xây dựng Giáo hội và Nước Chúa trong lịch sử. …Các đôi vợ chồng cho toàn việc tông đồ này trước hết trong gia đình riêng của họ, bằng cách làm chứng qua đời sống đúng theo luật Chúa dưới mọi khía cạnh, bằng việc đào tạo về mặt giáo lý Ki-tô giáo cho con cái, giúp chúng trưởng thành trong đức tin, giáo dục đức khiết tịnh, chuẩn bị cho chúng vào đời, săn sóc để chúng tránh những nguy hiểm về ý thức hệ và luân lý mà chúng đang bị đe dọa, giúp chúng hội nhập cách tiệm tiến và hữu trách vào cộng đồng Giáo hội và cộng đồng dân sự, giúp đỡ và góp ý cho chúng trong khi chọn lựa ơn gọi, giúp đỡ lẫn nhau giữa các phần tử trong gia đình để cùng được lớn lên về mặt nhân bản và Ki-tô giáo và nhiều điều khác nữa. Ngoài ra việc tông đồ gia đình còn được triển nở dưới hình thức những công tác bác ái về tinh thần cũng như vật chất đối với các gia đình khác, cũng như đối với những ngườii đau ốm, già cả, tàn tật, mồ côi, góa bụa, những người chồng, những người vợ bị bỏ rơi, những người mẹ độc thân và những người mẹ trong tình huống khó khăn, đang bị cám dỗ loại bỏ đứa con còn trong bào thai, v.v…” (FC 71).
 
3.4 Các hiệp hội gia đình nhằm phục vụ các gia đình:
“Cũng trong khuôn khổ Giáo hội là chủ thể chịu trách nhiệm về Mục vụ Gia đình, còn phải nhắm đến những nhóm tín hữu khác nhau, trong đó mầu nhiệm Giáo hội Đức Ki-tô được biểu lộ và sống ở một mức độ nào đó. Một điều quan trọng nữa là phải biết đến và coi trọng các cộng đồng Giáo hội, các nhóm và rất nhiều phong trào đang dấn thân vào Mục vụ Gia đình theo những cách thế khác biệt và với các danh hiệu và mức độ khác nhau, lưu ý rằng mỗi tổ chức đều có những đặc điểm, mục tiêu, cách kết nạp và phương pháp riêng.
Vì lý do đó, Thượng Hội đồng Giám mục đã chính thức nhìn nhận sự đóng góp ích lợi của những hiệp hội có tính cách tu đức, đào tạo hay làm việc tông đồ như thế. Vai trò của những hiệp hội này là làm dấy lên nơi các tín hữu một ý thức bén nhạy về sự liên đới, là tạo điều kiện thuận lợi cho một nếp sống được gợi hứng do Tin Mừng và do đức tin của Giáo hội, là đào tạo cho lương tâm của mọi người biết theo gía trị Ki-tô giáo chứ không theo tiêu chuẩn của ý kiến đám đông, là khuyến khích các công cuộc bác ái đang hướng về việc giúp đỡ lẫn nhau hay hướng về người khác vớii một tinh thần cởi mở có sức làm cho các gia đình Ki-tô hữu thật sự trở thành nguồn sáng đích thực và là men lành mạnh cho các gia đình khác” (FC 72).
 
IV. THẢO LUẬN VÀ ỨNG DỤNG
1.1 Làm thế nào để những cơ cấu của Mục vụ Gia đình ý thức và thực thi vai trò của mình một cách có hiệu quả trong lãnh vực Mục vụ Gia đình?
4.2 Riêng bạn, bạn thấy mình phải làm gì từ nay về sau để thực thi trách nhiệm của mình trong lãnh vực Mục vụ Gia đình quan trọng này? Bạn quyết tâm thực hiện một số việc cụ thể nào?
 
 
 
CHƯƠNG IV
Những người có trách nhiệm về Mục Vụ Gia Đình
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên biết  rõ những ai là người có trách nhiệm đặc biệt đối với Mục vụ Gia đình.
1.2 Giúp họ ý thức trách nhiệm của riêng mình đối với Mục vụ Gia đình, để tùy khả năng và hoàn cảnh họ đóng góp công sức vào việc thực thi trách nhiệm quan trọng ấy.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Theo bạn thì những ai có trách nhiệm về Mục vụ Gia đình? Do đâu mà những người ấy có trách nhiệm về Mục vụ Gia đình? Những người ấy có ý thức và thực thi trách nhiệm của họ không? Tại sao?
2.2 Riêng bạn, bạn có ý thức và thể hiện trách nhiệm của bạn về Mục vụ Gia đình không? Bạn thể hiện trách nhiệm ấy như thế nào?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ 
Trong đề tài IV này, chúng ta sẽ xem xét quan điểm và giáo huấn của Tông huấn những người có trách nhiệm về Mục vụ Gia đình (số 73-76).
Ngoài chính gia đình –vừa là đối tượng vừa là chủ thể trước hết của Mục vụ Gia đình – còn phải nhắc đến những người có trách nhiệm chính yếu khác trong ngành Mục vụ đặc biệt này.
3.1 Các Giám mục:
   “Người chịu trách nhiệm đầu tiên về Mục vụ Gia đình trong giáo phận là Giám mục. Như một người cha và chủ chăn, ngài phải đặc biệt lo lắng cho ngành này, chắc chắn là ngành ưu tiên của Mục vụ. Ngài phải hiến cho ngành này tất cả sự chú trọng, bận tâm, thời giờ, nhân sự và tài lực: nhưng hơn hết đích thân ngài phải đem lại một điểm tựa cho các gia đình và cho tất cả những người đang giúp ngài, trong công việc Mục vụ Gia đình, thuộc những cơ cấu khác nhau của giáo phận. Cách riêng ngài phải tha thiết quan tâm để giáo phận ngày càng thực sự là một “gia đình giáo phận”, làm mẫu mực và nguồn hy vọng cho nhiều gia đình đang là thành phần của giáo phận” (FC 73).
 
3.2 Các linh mục và phó tế:
“Các Giám mục được giúp đỡ cách đặc biệt do các linh mục mà trach nhiệm của họ – như Thượng Hội đồng Giám mục đã chính thức nhấn mạnh – tạo thành một phần cốt yếu trong thừa tác vụ của Giáo hội đối với hôn nhân và gia đình. Cũng phải nói hế về các phó tế khi họ được trao nhiệm vụ về ngành mục vụ này.
Trách nhiệm của các vị ấy không những mở rộng trên các vấn đề luân lý và phụng vụ, nhưng còn cả trên các vấn đề cá nhân và xã hội. Các vị phải nâng đỡ gia đình trong các khó khăn và đau khổ, bằng cách đứng bên cạnh các phầntử gia đình, giúp họ biết nhìn cuộc sống dưới ánh sáng Tin Mừng.
Được chuẩn bị thích đáng và nghiêm chỉnh cho việc tông đồ này, các linh mục và phó tế bao giờ cũng phải xử sự, đối với các gia đình, như một người cha, người anh, chủ chăn và thày dạy bằng cách giúp họ với sự trợ giúp của ân sủng và soi sáng cho họ với ánh sáng của sự thật”(FC 74).
 
3.3 Nam nữ tu sĩ:
“Nam nữ tu sĩ và những người tận hiến nói chung, có thể góp phần vào công tác tông đồ gia đình… Nam nữ tu sĩ, các thành viên các Tu hội Đời và các Hội trọn lành khác, với danh nghĩa cá nhân và tập đoàn, cũng đều có khả năng đem lại một sự phục vụ nào đó cho các gia đình, đặc biệt quan tâm tới trẻ em, nhất là những trẻ em bị bỏ rơi, không được chấp nhận, mồ côi, nghèo khổ hay tàn tật; và họ có thể làm điều đó bằng cách thăm viếng các gia đình và săn sóc bệnh nhận; tạo những tương quan đầy kính trọng và bác ái với những gia đình thiếu vắng, đang gặp khó khăn hoặc phân tán; trình bày giáo huấn và đưa ra những lời khuyên để chuẩn bị cho các bạn trẻ bướcvào hôn nhân và giúp cho các đôi bạn trong vấn đề truyền sinh thật sự có trách nhiệm; giúp đỡ các gia đình mở cửa đón nhận người khác một cách giản dị và chân tình, để các gia đình có thể gặp được ở đó cảm thức về Thiên Chúa, sự ham thích cầu nguyện và hồi tâm, tấm gương cụ thể về một đời sống trong tình bác ái và niềm vui huynh đệ giữa các thành phần trong đại gia đình Thiên Chúa” (FC 75).
 
3.4 Những giáo dân chuyên môn:
“Các giáo dân chuyên môn (y sĩ, luật gia, tâm lý gia, trợ tá xã hội, cố vấn v.v..) có thể hỗ trợ các gia đình với tính cách cá nhân, hoặc trong công tác của những hiệp hội hay các tổ chức khác nhau, để góp phần soi sáng, cố vấn, định hướng và nâng đỡ. Cũng có thể nói lại cho họ những lời huấn dụ tôi đã có dịp nói với Liên đoàn các Cố vấn Gia đình Ki-tô giáo: “Việc dấn thân của quí vị thật đáng được gọi là sứ mạng, vì những mục tiêu mà quí vị theo đuổi thật cao cả và kết quả phát xuất từ đó có tính cách quyết định cho lợi ích của xã hội cũng như của chính cộng đồng Ki-tô hữu…. Hiệu quả của tất cả những gì mà quí vị làm được để nâng đỡ các gia đình, sẽ vượt khỏi lãnh vực riêng của gia đình, để đạt đến cả những người khác và ảnh hưởng trên xã hội. Tương lai của thế giới và của Giáo hội đi qua các gia đình”  (Diễn văn cho Liên đoàn các Cố vấn Gia đình Ki-tô giáo ‘Confédération des Conseillers familiaux chrétienne’ ngày 29-11-1980, số 3-4; FC số 75).
 
3.5 Những người sử dụng và nhân viên ngành truyền thông xã hội:
Tông huấn xác định: “Những phương tiện truyền thông xã hội ‘thường tác động sâu xa trên tình cảm và trí tuệ, luân lý lẫn tôn giáo của những người sử dụng’, nhất là các người trẻ (Phao-lô VI, Sứ điệp ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 3, 7-4-1969, AAS 61 (1969), t.455). Chúng có thể tạo một ảnh hưởng hữu ích cho đời sống và những thói quen của gia đình cũng như cho việc giáo dục trẻ em, nhưng đồng thời chúng cũng giấu ẩn ‘những cạm bẫy và nguy hiểm mà người ta không thể coi thường’ (Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp ngày thế giới truyền thông xã hội 1-5-1980: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, III, 1 (1980), t.1042) và chúng cũng có thể trở nên phương tiện –đôi khi được vận dụng thật khéo léo và có hệ thống như, thật đáng tiếc, vẫn xẩy ra trong nhiều nước trên thế giới – để chuyên chở những ý thức hệ phá hoại hay những nhãn quan lệch lạc về cuộc sống, gia đình, tôn giáo, luân lý, khinh thường phẩm giá và định mệnh con người.
            Nguy hiểm còn rõ hơn nữa khi ‘lối sống hiện nay, cách riêng tại các nước kỹ nghệ, thường lôi kéo các gia đình đến chỗ thoái thác trách nhiệm giáo dục con cái, viện cớ có những tiện ích giải trí  (có sẵn ở gia đình qua truyền hình và một số sách báo) để trôi qua hết thì giờ và sinh hoạt nhi đồng, thiếu niên” (Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp ngày thế giới truyền thông xã hội 1980, 1-5-1980: Insegnamenti di Giovanni Pao-o II, III, 1 (1980), t.1042).
             Và Tông huấn kết luận: “Do đó, chúng ta có “bổn phận” phải ra sức bảo vệ giới trẻ thoát khỏi những cuộc “tấn công” của các phương tiện truyền thông đại chúng, bằng cách sử dụng các phương tiện giải trí lành mạnh, hữu ích và mô phạm về thể lý, luân lý và thiêng liêng, “để gia tăng gía trị cho thời giờ rảnh rỗi của giới trẻ cũng như định hướng năng lực cho họ” (Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp ngày thế giới truyền thông xã hội 1981, 10-5-1981, số 5: Osservatore Romano 22-5-1981, t.2).
            “Ngoài ra, vì các phương tiện truyền thông xã hội – cũng như học đường và môi sinh – thường gây ảnh hưởng đáng kể trong việc đào tạo con cái, cho nên với tư cách là những người sử dụng các phương tiện ấy, các cha mẹ cần giữ vai trò chủ động trong việc sử dụng cách điều độ, có phê phán, phản tỉnh và khôn ngoan, hầu định mức ảnh hưởng của chúng trên con cái, cũng như giữ vai trò chủ động trong việc can thiệp nhằm giáo dục cho lương tâm của con cái có được những phán đoán trong sáng và khách quan, để chúng có thể chấp nhận hay từ chối một chương trình nào đó trong những chương trình được trình chiếu” (Như trên).
            Cha mẹ sẽ thực hiện một cố gắng tương tự để tìm cách gây ảnh hưởng trên chính việc chọn và chuẩn bị các chương trình, bằng cách có những sáng kiến thích hợp để liên lạc với những người có trách nhiệm thuộc các cấp khác nhau trong việc sản xuất và phát hành, để bảo đảm không vì quyền lợi bất chấp những gía trị nhân bản nền tảng, là một phần công ích xã hội đích thực, và hơn nữa để người ta đừng cố tình gây thiệt hại cho các gía trị ấy, ngược lại, sẽ phổ biến những chương trình thích hợp trình bày các vấn đề gia đình, trong ánh sáng trung thực của chúng và cách giải đáp thỏa đáng cho các vấn đề ấy. Về vấn đề này, vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phao-lô VI đã viết: “Các nhà sản xuất phải nhận biết và tôn trọng những đòi hỏi của gia đình. Điều đó giả thiết đôi khi họ phải rất can đảm và lúc nào cũng phải ý thức trách nhiệm rất cao. Thật vậy, họ phải tự ngăn cấm mình về….tất cả những gì có thể làm tổn thương đến gia đình trong sự hiện hữu, bền vững, quân bình và hạnh phúc; vì mọi điều phương hại đến các gía trị căn bản của gia đình – dù là tự do luyến ái hay những sự bạo hành, biện hộ cho sự ly dị hay những thái độ chống xã hội của người trẻ – đều là một sự phương hại cho thiện ích đích thực của con người” (Phao-lô VI, Sứ điệp ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 3, 7-4-1969, AAS 61 (1969), t. 456).
            Và trong một dịp tương tự, chính tôi cũng đã nhấn mạnh rằng, các gia đình “phải có thể tin cậy thật tình vào thiện chí, sự ngay thẳng và ý thức trách nhiệm của những người chuyên nghề truyền thông đại chúng: từ các nhà xuất bản, văn sĩ, nhà sản xuất, đạo diễn, tác gỉa kịch bản, đến các thông tín viên, bình luận viên, diễn viên” (Như trên). Vì thế Giáo hội cũng có bổn phận phải không ngừng dành mọi quan tâm cho các hạng nhân viên ấy, đồng thời khuyến khích và nâng đỡ những người công giáo cảm thấy mình được kêu gọi và có khả năng để dấn thân vào các ngành tế nhị ấy” (Gio-an Phao-lô II, FC 76; Sứ điệp ngày thế giới truyền thông xã hội 1980, 1-5-1980: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, III, 1 (1980), t.1044).
 
IV. THẢO LUẬN VÀ ỨNG DỤNG
4.1 Làm thế nào để những người có trách nhiệm về Mục vụ Gia đình ý thức và chu toàn trách nhiệm của mình trong lãnh vực Mục vụ Gia đình?
4.2 Riêng bạn, bạn thấy mình phải làm gì từ nay về sau để thực thi trách nhiệm của mình trong lãnh vực Mục vụ Gia đình quan trọng này? Bạn quyết tâm thực hiện một số việc cụ thể nào?
 
 
 
CHƯƠNG V
HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ CHO NHỮNG HOÀN CẢNH ĐẶC THÙ
VÀ CHO NHỮNG CUỘC HÔN NHÂN HỖN HỢP
 
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên hiểu rõ những hoàn cảnh đặc thù và những cuộc hôn nhân hỗn hợp mà Mục vụ Gia đình phải đặc biệt quan tâm.
1.2 Giúp các học viên có thiện chí rèn luyện cho mình một tấm lòng quảng đại, thông minh, khôn khéo… để có thể giúp đỡ những đối tượng trong những hoàn cảnh đặc thù và các cuộc hôn nhân hỗn hợp ấy.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Thi hành Mục vụ Gia đình trong những hoàn cảnh bình thường đã là khó thì công việc chắc chắn sẽ khó khăn hơn khi gặp những hoàn cảnh đặc thù và những hôn nhân hỗn hợp. Bạn đã gặp phải trường hợp nào?
2.2 Để giúp những người sống trong những hoàn cảnh trên, Giáo hội (giáo xứ, ban thân bạn) phải làm gì?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ 
3.1 Sự quan tâm đặc biệt của Giáo hội đối với các gia đình trong những hoàn cảnh khó khăn nói chung:
Trước hết Tông huấn Familiaris Consortio nhấn mạnh đến trách nhiệm của Giáo hội phải quan tâm đặc biệt đến những hoàn cảnh khó khăn, để có Mục vụ thích hợp:
“Còn phải quảng đại, thông minh, khôn khéo theo gương vị Mục tử nhân lành, khi dấn thân làm Mục vụ cho các gia đình đang đối đầu với những khó khăn thật sự, thường ngoài ý muốn và do những đòi hỏi đủ loại.
“Về điểm này, đặc biệt cần chú ý đến một số gia đình đặc thù không chỉ cần trợ giúp nhưng còn cần hành động hiệu quả trên dư luận quần chúng và nhất là trên cơ cấu văn hóa, kinh tế, luật pháp nhằm loại bỏ tối đa những nguyên cớ sâu xa gây khó khăn cho họ.” (FC 77).
 
3.2 Sự quan tâm đặc biệt của Giáo hội đối với những hoàn cảnh đặc thù:
 “Chẳng hạn như gia đình di dân tìm việc làm, gia đình những người bó buộc phải vắng mặt lâu ngày, như quân nhân, thủy thủ, du mục đủ loại, gia đình tù nhân, những người tị nạn hay bị lưu đầy; những gia đình giữa đô thị mà thực tế lại sống bên lề; các gia đình không nhà cửa; các gia đình không đầy đủ, chỉ có cha hoặc chỉ có mẹ; những gia đình có con tàn tật hay nghiện ma túy; những gia đình có người nghiện rượu; những gia đình bị tách khỏi môi trường văn hóa và xã hội của họ hay có nguy cơ mất môi trường ấy; những gia đình bị kỳ thị vì chính trị hay vì những lẽ khác; những gia đình bị xâu xé ví ý thức hệ; những gia đình không thể dễ dàng tiếp xúc với giáo xứ; những gia đình bị bạo hành hay bị ngược đãi vì đức tin; những gia đình vị thành niên; những người gìa cả không hiếm khi phải sống trong cô đơn và thiếu những phương tiện cần thiết để sinh sống” (FC 77).
 
3.3 Sự quan tâm đặc biệt của Giáo hội đối với các cuộc hôn nhân hỗn hợp:
“Còn phải có một lưu tâm mục vụ riêng……đối với con số những cuộc hôn nhân giữa người công giáo và người đã được rửa tội trong các hệ phái khác ngày càng tăng (...)
Trước hết, phải luôn ghi nhớ những bổn phận của phía công giáo phát xuất từ đức tin, về tất cả những gì liên hệ đến việc tự do thể hiện đức tin và từ đó, nghĩa vụ phải làm hết sức để lo cho con cái được rửa tội và giáo dục trong đức tin công giáo (xem Đức Phao-lô VI, Tự Sắc Matrimonio mixta, 4-5: AAS 62N(1970), t.261; xem thêm Gio-an Phao-lô II, Diễn văn cho những người tham dự Đại hội của Văn phòng Hiệp nhất các Ki-tô hữu, ngày 13-11-1981: Osservatore Romano 14-11-1981).
Phải để ý đến những khó khăn đặc thù nằm trong các tương quan giữa vợ chồng về tất cả những gì liên hệ đến sự tôn trọng tự do tôn giáo: tự do này có thể bị xâm phạm hoặc do những áp lực vô lý buộc người phối ngẫu phải thay đổi các xác tín tôn giáo, hoặc do những cản trở không được tự do biểu lộ những xác tín ấy trong việc thực hành tôn giáo (….)
Các cuộc hôn nhân giữa những người công giáo và những người được rửa tội trong các hệ phái khác, mặc dù mang một sắc thái đặc biệt, vẫn có nhiều yếu tố cần được tôn trọng và phát huy, hoặc vì gía trị nội tại của chúng hoặc vì chúng có thể góp phần cho phong trào đại kết. Điều đó được thấy rõ cách đặc biệt khi cả hai vợ chồng đều trung thành với những dấn thân trong tôn giáo của mình. Trong những cuộc hôn nhân này, phép rửa duy nhất của hai người và động năng ân sủng sẽ cung cấp cho đôi bạn nền tảng và động lực để giúp họ diễn tả được sự hiệp nhất trong lãnh vực các gía trị luân lý và tâm linh.
Ở nhiều miền khác nhau trên thế giới, người ta còn ghi nhận con số những cuộc hôn nhân giữa người công giáo và người chưa rửa  tội ngày càng gia tăng. Trong một số trường hợp, người phối ngẫu không rửa tội có tuyên xưng một tôn giáo, những xác tín của người ấy phải được kính trọng, theo những nguyên tắc trong tuyên ngôn “Nos-tra Aetate” của Công đồng Va-ti-ca-nô II về các tương quan với các tôn giáo ngoài Ki-tô giáo. Nhưng trong nhiều trường hợp khác, cách riêng trong những xã hội bị tục hóa, người không rửa tội lại không tuyên xưng một tôn giáo nào. Đối với những cuộc hôn nhân này, các Hội đồng Giám mục và các Giám mục cần liệu những phương sách mục vụ thích đáng, nhằm bảo đảm việc bảo vệ đức tin của người phối ngẫu công giáo và bảo vệ việc tự do thể hiện đức tin, nhất là về bổn phận người ấy phải làm hết sức để con cái được rửa tội và giáo dục theo đức tin công giáo. Người phối ngẫu công giáo cũng phải được nâng đỡ bằng mọi cách để đem lại chứng tá đích thực về đức tin và đời sống công giáo ngay trong gia đình Ki-tô hữu” (FC 78).
 
IV. THẢO LUẬN & ỨNG DỤNG
Mỗi nhóm nhỏ (3-4 người) hãy chọn lấy một trường hợp đặc thù hay hôn nhân hỗn hợp để trao đổi thảo luận với nhau, dựa vào các câu hỏi sau đây:
4.1 Trường hợp này đã xẩy ra tại Việt Nam chưa? Liệu trong tương lai có thể xẩy ra nhiều tại Việt Nam không?
4.2 Hãy đưa ra một phương án Mục vụ Gia đình vừa có tính khả thi vừa thích hợp với trường hợp ấy.

 
CHƯƠNG VI
HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ CHO NHỮNG HOÀN CẢNH TRÁI QUI TẮC
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên hiểu rõ một số hoàn cảnh trái qui tắc mà Mục vụ Gia đình trẻ phải đặc biệt quan tâm.
1.2 Giúp các học viên có thiện chí rèn luyện cho mình một tấm lòng quảng đại, thông minh, khôn khéo… để có thể giúp đỡ những đối tượng trong những hoàn cảnh trái qui tắc ấy.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Thi hành Mục vụ Gia đình trong những hoàn cảnh bình thường đã là khó nhưng lại còn khó khăn hơn khi gặp những hoàn cảnh trái qui tắc. Theo kinh nghiệm bạn đã gặp phải trường hợp trái qui tắc nào?
2.2 Để giúp các gia đình sống trong những hoàn cảnh trái qui tắc, Giáo hội (giáo xứ, bản thân bạn) phải làm gì?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ 
3.1 Sự quan tâm của Giáo hội đối với một số hoàn cảnh trái qui tắc:
“Với mối bận tâm muốn bảo vệ gia đình trong mọi chiều kích, chứ không chỉ trong chiều kích tôn giáo, Thượng Hội đồng Giám mục cũng đã chú tâm xem xét một vài hoàn cảnh trái qui tắc trên bình diện tôn giáo và thường cả trên bình diện dân sự. Giữa những thay đổi nhanh chóng về văn hóa ngày nay, thật đáng tiếc những chuyện trái qui tắc này đang lan tràn ngay cả giữa những người công giáo, gây thiệt hại nghiêm trọng cho cơ chế gia đình và xã hội mà gia đình là tế bào căn bản.”
 
3.2 Những hoàn cảnh trái qui tắc:
(1)  Hôn nhân thử:
“Tình trạng trái qui tắc đầu tiên thường được gọi là “hôn nhân thử” mà ngày nay nhiều người đang muốn biện minh bằng cách gán cho nó một vài gía trị nào đó. Thật là một điều không thể nào chấp nhận được. Chỉ nguyên lý trí con người cũng đủ cho thấy điều đó, khi cho thấy rằng chẳng có mấy lý do khiến ta có thể nói đến việc “thử nghiệm” nhân vị, vì phẩm gía của nhân vị đòi hỏi phải luôn luôn được coi là đích điểm của tình yêu trao hiến không trừ một giới hạn nào, dù là giới hạn thời gian hay bất cứ giới hạn nào.
Về phần mình, Giáo hội không thể chấp nhận loại kết hợp này, còn vì những lý do bổ túc và độc đáo khác phát xuất từ đức tin. Thật vậy, một đàng việc trao hiến thân xác trong tương quan tính dục là biểu tượng thực sự cho việc trao hiến trọn cả ngôi vị; hơn nữa, trong ý định hiện hành của Thiên Chúa, một sự trao hiến như thế không thể được thực hiện cách chân thật trọn vẹn mà lại không cần đến tình yêu bác ái của Đức Ki-tô ban cho. Đàng khác hôn nhân giữa hai người đã rửa tội là biểu tượng thực sự cho việc kết hợp giữa Đức Ki-tô và Giáo hội, một sự kết hợp không thể nào có tính cách tạm bợ hay “để thử”, nhưng là trung tín đời đời; như thế, giữa hai người đã rửa tội, chỉ có thể có hôn nhân bất khả phân ly”
Một tình trạng như thế bình thường không thể nào thắng vượt được nếu ngay từ thơ ấu, nhân vị đã không được giáo dục, để lướt thắng nhục dục mới phát sinh và để thiết lập những tương quan tình yêu chân chính với người khác, với sự trợ giúp của ân sủng Đức Ki-tô và không sợ hãi. Điều này cũng sẽ không đạt được nếu thiếu sự đào tạo đúng nghĩa để biết yêu thương đích thực và sử dụng tính dục cách đúng đắn, một việc đào tạo có khả năng đưa dẫn nhân vị với mọi chiều kích, kể cả thân xác, vào trong sự viên mãn của mầu nhiệm Đức Ki-tô
Thật hữu ích nếu người ta điều tra kỹ các nguyên cớ của hiện tượng này, ngay cả trong khía cạnh tâm lý và xã hội để có thể tìm được những phương thức chũa trị thích đáng” (FC 80).
(2)  Những vụ chung sống không hôn nhân:
“Đây là trường hợp những việc kết hợp không có một ràng buộc cơ chế nào được công khai nhìn nhận, cả về dân sự lễn về tôn giáo. Hiện tượng này, càng ngày càng trở nên thông thường không thể nào không lôi cuốn sự chú tâm của các vị chủ chăn. Phải chú tâm tới những yếu tố khác biệt đưa tới tình trạng ấy, để nhờ tác động trên những yếu tố nguyên nhân để có thể giảm bớt được các hậu quả.
Quả thế, một số người cho rằng bị buộc phải đi đến tình trạng ấy vì những tình cảnh khó khăn về mặt kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Họ nghĩ rằng nếu thực hiện một cuộc hôn nhân đúng luật, họ sẽ bị thiệt thòi, bị mất mát các lợi ích kinh tế, bị kỳ thị v.v.. Một số người khác lại gặp thấy một thái độ miệt thị, phản kháng hay chối bỏ đối với xã hội, cơn chế gia đình, trật tự chính trị xã hội, hoặc cũng có thể chỉ là một sự tìm kiếm lạc thú. Sau cùng, có những người bị đẩy đến tình trạng ấy vì sự ngu dốt và nghèo nàn cực độ, đôi khi cũng vì những điều kiện sống phát xuất từ những hoàn cảnh thật sự bất công, hoặc vì sự thiếu trưởng thành tâm lý khiến họ trở thành do dự và làm cho họ sợ hãi không dám cam kết ràng buộc với ai lâu bền và dứt khoát. Tại một vài xứ, lại có tục lệ cổ truyền, chỉ nghĩ đến hôn nhân đúng nghĩa sau một thời gian chung sống và sau khi đã sinh đứa con đầu lòng.
Mỗi yếu tố trên đây đều đặt ra cho Giáo hội những vần đề mục vụ gay go, vì đều đưa đến những hậu quả trầm trọng, hoặc trên bình diện tôn giáo và luân lý (mất ý thức tôn giáo về hôn nhân, được quan niệm trong ánh sáng của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài; thiếu ơn sủng bí tích; gây gương xấu trầm trọng), hoặc trên bình diện xã hội (phá hủy quan niệm về gia đình: làm suy yếu ý thức về sự trung thành, ngay cả đối với xã hội; có thể gây chấn động tâm lý cho con cái; cổ võ cho tính ích kỷ).
Các chủ chăn và cộng đồng Giáo hội đều phải chuyên tâm tìm cách biết rõ những tình cảnh ấy và các nguyên cớ của từng trường hợp một; các vị phải để tâm, vơi sự kín đáo và tôn trọng, tìm cách đến với những người đang sống như thế, kiên nhẫn khai sáng cho họ, đón nhận họ với tình bác ái, đem lại cho họ một chứng tá về gia đình Ki-tô hữu; nói cách khác là làm tất cả những gì có thể đưa họ tới chỗ hợp thức hóa tình cảnh của họ. Tuy nhiên, trên hết, cần phải ngăn ngừa, bằng cách vun trồng ý thức về sự trung thành trong mọi việc giáo dục về luân lý và tôn giáo cho bạn trẻ, bằng cách huấn luyện cho họ có các điều kiện và cơ cấu thuận lợi cho sự trung thành ấy để nhờ đó họ thật sự được tự do, bằng cách giúp họ trưởng thành về mặt thuộc linh, bằng cách làm cho họ hiểu được thực tại nhân bản và siêu nhiên phong phú của cuộc hôn nhân bí tích.
            Dân Thiên Chúa cũng phải can thiệp với công quyền, để các quyền bính này chống lại những xu hướng đang làm phân hóa xã hội và gây thiệt hại cho phẩm gía, sự an ninh và tiện ích của nhiều công dân, cũng như để họ ra sức tránh cho quan niệm đại chúng khỏi đi tới chỗ coi rẻ tầm quan trọng của cơ chế hôn nhân và gia đình. Và tại nhiều miền, vì sự nghèo khổ cùng cực phát xuất từ những cơ cấu kinh tế và xã hội bất công và không thích hợp, mà các bạn trẻ không có được những điều kiện để có thể lập gia đình một cách thích hợp, do đó phải cầu mong sao cho xã hội và các công quyền tạo được sự thuận lợi cho người ta sống đời hôn nhân một cách hợp pháp, như bằng cách can thiệp vào xã hội và chính trị nhằm đảm bảo tiền lương gia đình, nhằm áp dụng những phương sách để ai nấy có được nơi cu trú thích hợp với đời sống gia đình, nhằm tạo ra những cơ hội tương xứng để làm việc và sinh sống” (FC 81).
(3) Những người công giáo kết hôn mà chỉ có hôn phối dân sự:
“Trường hợp những người công giáo, vì những nguyên do ý thức hệ hay vì những lý do thực tiễn, muốn lập hôn phối dân sự mà từ chối việc cử hành hôn phối tôn giáo hoặc dời việc cử hành này lại sau, càng ngày càng trở nên nhiều. Không thể coi tình cảnh của họ ý như tình cảnh của những người chung sống mà không có một ràng buộc nào, vì ở đây ít ra cũng có một sự dấn thân nào đó vào một tình trạng sống nhất định và có lẽ cũng bền vững, cho dù viễn tượng ly dị là một chuyện không xa lạ lắm với loại quyết định này. Khi muốn việc liên kết của mình được nhìn nhận công khai của nhà nước, các đôi bạn này đã cho thấy rằng họ sẵn sàng đảm nhận những nghĩa vụ cũng như những quyền lợi của sự liên kết ấy. Dù vậy, Giáo hội vẫn không hể chấp nhận tình trạng ấy.
Hoạt động mục vụ nhằm giúp cho người ta chấp nhận rằng nhất thiết phải có sự đi đôi giũa sự chọn lựa đời sống và đức tin họ tuyên xưng, mục vụ cũng phải cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để đưa người ấy tới chỗ hợp thức hóa tình cảnh của họ theo các nguyên tắc Ki-tô giáo. Mặc dù vẫn đầy tình bác ái lớn lao đối với họ và muốn đưa họ về tham dự cuộc sống các cộng đồng nhưng dầu vậy, các chủ chăn trong Giáo hội vẫn không thể chấp nhận cho họ xưng tội rước lễ” (FC 82).
(4) Những người ly thân và những người ly dị không tái hôn:
“ Có những nguyên nhân khác nhau, như sự thiếu thông cảm giữa vợ chồng, thiếu khả năng mở ra với các tương quan liên vị v.v…., có thể làm cho cuộc hôn nhân thành sự đi tới chỗ đổ vỡ đau thương, mà thường không hàn gắn nổi. Hiển nhiên là việc ly thân chỉ có thể được dùng như phương thuốc cuối cùng sau khi đã dùng đủ mọi cố gắng để tránh mà không hữu ích gì.
Sự cô đơn và nhiều khó khăn khác nữa thường là số phận dành cho người phối ngẫu bị phân ly, nhất là nếu người ấy vô tội. Trong trường hợp đó, cộng đồng Giáo hội  phải nâng đỡ người ấy hơn bao giờ, phải đem lại cho người ấy sự quí mến, liên đới cảm thông và giúp đỡ cụ thể để người ấy có thể trung thành ngay cả trong tình cảnh khó khăn của mình; phải giúp người ấy biết vun trồng sự tha thứ mà tình yêu thương Ki-tô giáo đòi hỏi và biết luôn luôn sẵn sàng nối lại cuộc sống vợ chồng trước kia.
Trường hợp một người phối ngẫu bị bó buộc phải chịu ly dị cũng tương tự như thế khi, vì ý thức rõ tính bất khả phân ly của dây hôn phối thành sụ, người ấy không để mình bị lôi cuốn vào một sự kết hợp mới, nhưng chỉ ra sức chu toàn các bổn phận gia đình và các trách nhiệm Ki-tô hữu của mình. Lúc đó, chứng tích của họ về sự trung thành và về sự ăn khớp của mình với đời sống Ki-tô hữu có một gía trị thật đặc thù đối với thế giới và Giáo hội hơn bao giờ hết, Giáo hội phải đem lại cho họ một sự trợ giúp đầy khích lệ ưu ái và cho họ tham dự các bí tích, không một cản trở nào” (FC 83).
(5) Những người ly dị tái hôn:
“Kinh nghiệm thường ngày cho thấy rằng, bất hạnh thay những người đã ly dị dường như bao giờ cũng nhắm tiến tới một sự kết hợp mới, dĩ nhiên là chẳng có nghi lễ công giáo nào cả. Và vì đây là một đại họa ngày càng lan rộng và tấn công cả các môi trường công giáo như những đại họa khác, nên cần phải cấp bách đối kháng lại vấn đề này với một sự quan tâm hết sức lớn lao. Các nghị phụ Thượng Hội đồng Giám mục đã nghiên cứu rành rẽ vấn đề này. Quả vậy được thiết lập để đưa dẫn mọi người đến ơn cứu độ, cách riêng những người đã chịu phép rửa tội, Giáo hội không thể bỏ mặc những người, đã được kết hợp trong dây bí tích hôn phối, nay lại muốn cưới người khác. Nên Giáo hội phải cố gắng không biết mệt mỏi để đem các phương tiện cứu rỗi của mình cho họ sử dụng.
Vì lòng yêu sự thật, các chủ chăn phải biết rằng mình có nghĩa vụ phân biệt rõ những tình cảnh khác nhau. Thật thế, những người đã thành tâm cố gắng cứu vãn cuộc hôn nhân thứ nhất nhưng đã bị ruồng bỏ một cách bất công, thì khác hẳn với những người sai lỗi trầm trọng đã phá hủy cuộc hôn nhân thành sự theo giáo luật. Sau nữa cũng có trường hợp những người đã lấy một người khác để giáo dục con cái và đôi khi trong lòng cứ chủ quan tin chắc rằng cuộc hôn nhân trước, mà bây giờ đã bị phá hủy không sao cứu vãn được, xưa nay vẫn không hề thành sự.
Cùng với Thượng Hội đồng Giám mục, tôi nồng nhiệt kêu mời các chủ chăn và toàn thể cộng đoàn tín hữu hãy giúp đỡ những người ly dị đã tái hôn. Bằng một lòng bác ái rộng lớn, tất cả sẽ làm thế nào để họ không cảm thấy bị lìa xa Giáo hội, vì là những người đã được rửa tội, không những họ có thể mà còn phải dự phần vào đời sống Giáo hội. Người ta sẽ mời họ lắng nghe Lời Thiên Chúa, tham dự Hy tế thánh lễ, kiên trì cầu nguyện, góp phần vào các công cuộc bác ái và vào các sáng kiến của Giáo hội để phụng sự công lý, giáo dục con cái họ trong đức tin Ki-tô giáo, vun trồng tinh thần đền tội và làm các việc đền tội để ngày qua ngày thành khẩn nài xin ơn thánh của Thiên Chúa. Ước gì Giáo hội cầu nguyện cho họ, khích lệ họ và tỏ ra là một người mẹ nhân từ đối với họ, và nhờ đó giữ họ trong đức tin đức cậy” (FC 84).
 
IV. THẢO LUẬN & ỨNG DỤNG
Mỗi nhóm nhỏ (3-4 người) hãy chọn lấy một trong những trường hợp trái qui tắc
nêu trên để trao đổi thảo luận với nhau, dựa vào các câu hỏi sau đây:
            4.1 Trường hợp này đã xẩy ra tại Việt Nam chưa? Liệu trong tương lai có thể xẩy ra nhiều tại Việt Nam không?
4.2 Hãy đưa ra các lý lẽ của những người bênh vực trường hợp ấy và các lý lẽ của những người phản bác trường hợp ấy.
4.3 Hãy đưa ra một phương án Mục vụ Gia đình vừa có tính khả thi vừa thích hợp với trường hợp ấy.
 

 
CHƯƠNG VII:
HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ
CHO NHỮNG NGƯỜI KHÔNG GIA ĐÌNH
& CHO NHỮNG GIA ĐÌNH CÒN NON TRẺ
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên hiểu rõ những khó khăn của những người không gia đình và những gia đình còn non trẻ mà Mục vụ Gia đình phải đặc biệt quan tâm.
1.2 Giúp các học viên có thiện chí rèn luyện cho mình một tấm lòng quảng đại, thông minh, khôn khéo… để có thể giúp đỡ những đối tượng trong những hoàn cảnh khó khăn ấy.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Thi hành Mục vụ Gia đình trong những hoàn cảnh bình thường đã là khó nhưng lại còn khó khăn hơn khi gặp những hoàn cảnh khó khăn như những người không có gia đình hay những gia đình còn non trẻ. Theo kinh nghiệm bạn đã gặp phải trường hợp khó khăn nào?
2.2 Để giúp những người không có gia đình và các gia đình còn non trẻ, Giáo hội (giáo xứ, bản thân bạn) phải làm gì?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ 
3.1 Sự quan tâm đặc biệt của Giáo hội đối với các gia đình trong hoàn cảnh khó khăn:
Trước hết Tông huấn Familiaris Consortio nhấn mạnh đến trách nhiệm của Giáo hội phải quan tâm đặc biệt đến những hoàn cảnh khó khăn, để có Mục vụ thích hợp:
“Còn phải quảng đại, thông minh, khôn khéo theo gương vị Mục tử nhân lành, khi dấn thân làm Mục vụ cho các gia đình đang đối đầu với những khó khăn thật sự, thường ngoài ý muốn và do những đòi hỏi đủ loại.
“Về điểm này, đặc biệt cần chú ý đến một số gia đình đặc thù không chỉ cần trợ giúp nhưng còn cần hành động hiệu quả trên dư luận quần chúng và nhất là trên cơ cấu văn hóa, kinh tế, luật pháp nhằm loại bỏ tối đa những nguyên cớ sâu xa gây khó khăn cho họ.” (FC 77).
 
3.2 Sự quan tâm đặc biệt của Giáo hội đối với những người không gia đình:
 “Đối với những người không có gia đình tự nhiên, thì càng phải mở rộng hơn nữa các cánh cửa của đại gia đình Giáo hội. Đại gia đình này phải mang một khuôn mặt cụ thể, trong gia đình giáo phận và giáo xứ, trong các cộng đoàn cơ bản và trong các phong trào tông đồ. Trong thế giới ngày nay không ai vọ gia đình: Giáo hội là nhà và là gia đình của tất cả mọi người, cách riêng là của ai “đang lao đao và gánh nặng” (FC 85).
 
3.3 Sự quan tâm đặc biệt của Giáo hội đối với những gia đình còn non trẻ:
Trong việc mục vụ dành với các gia đình trẻ, Giáo hội phải quan tâm giáo dục cho họ biết sống tình yêu vợ chồng cách có trách nhiệm, trong tương quan với các đòi hỏi về hiệp thông và phục vụ sự sống, cũng như dạy cho họ biết hòa hợp tình thân mật của tổ ấm gia đình với trách nhiệm quảng đại chung của mọi người trong việc xây dựng Giáo hội và xã hội nhân loại. Khi có con cái, đôi bạn trở thành một gia đình theo nghĩa tròn đầy và chuyên biệt. Lúc đó Giáo hội vẫn còn phải gần gũi hai cha mẹ để giúp đỡ họ đón nhận con cái và yêu mến chúng như một ơn Chúa sự sống ban cho, vui vẻ chấp nhận vất vả để phục vụ cho chúng lớn lên về mặt nhân bản và Ki-tô giáo” (FC 69).
            Trên thực tế các gia đình mới được hình thành (gọi là các gia đình còn non trẻ) gặp không ít khó khăn ở những năm đầu - nhất là hai năm đầu - đời hôn nhân. Lý do rất dễ hiểu: Đời sống lứa đôi của hai vợ chồng mới cưới về ở chung với nhau khác hẳn đời sống độc thân lúc trước của hai người. Chủ yếu là do những khác biệt về tâm sinh lý, tính tình, sở thích, nền giáo dục, nếp sống cá nhân và truyền thống gia đình, trình độ văn hóa khác nhau của hai người. Ngoài ra khi về sống chung hai vợ chồng phải thay đổi một số quan hệ bạn bè và gia đình và họ cũng có những quan hệ mới với bạn bè và gia đình hai bên. Khi về sống chung với nhau hai người phải thích ứng với nhau một cách triệt để. Và nếu một hoặc cả hai người không thích ứng kịp với đời sống mới, thì các khó khăn nẩy sinh.
Nếu đi sâu vào đời sống gia đình thì chỉ nguyên đời sống tính dục cũng thường tạo ra cho hai vợ chồng trẻ không biết bao nhiêu vấn đề và nỗi khó khăn. Đây lại là lãnh vực hết sức tế nhị, thậm chí được coi là những vấn đề “cấm kỵ” theo quan niệm thông thường của người Việt Nam, nên nếu có gặp trục trặc, vợ chồng trẻ không biết hỏi ai, không dám hỏi ai. Thực ra thì về tính dục, vợ chồng có nhu cầu và cảm nhận khác nhau, nên cần phải được người lớn hướng dẫn, tư vấn. 
Một vấn đề nữa thường xẩy ra cho các gia đình non trẻ là việc thai nghén của người vợ và sự xuất hiện của đứa con đầu lòng, khiến gia đình bị đảo lộn một cách dữ dội đến mức người trong cuộc không biết đường nào mà đi! Ai là người sẽ giúp các gia đình non trẻ vượt qua những ngày tháng khó khăn này, nếu không phải là cha mẹ, bạn bè, nhân viên Mục vụ Gia đình của giáo xứ?
 
IV. THẢO LUẬN & ỨNG DỤNG
Mỗi nhóm nhỏ (3-4 người) hãy chọn lấy một trong hai trường hợp nêu trong chương này (tức hoặc chọn Mục vụ Gia đình cho những người không có gia đình hoặc chọn Mục vụ Gia đình cho những gia đình non trẻ) để trao đổi thảo luận với nhau, dựa vào các câu hỏi sau đây:
            (a) Trường hợp này đã xẩy ra tại Việt Nam chưa? Liệu trong tương lai có thể xẩy ra nhiều ở Việt Nam không? Tại sao?
(b) Theo bạn thì mỗi trường hợp nêu trên gặp phải những khó khăn gì và nhân viên Mục vụ Gia đình phải làm sao để giúp những người trong cuộc giải quyết và vượt qua những khó khăn ấy.
 

 
CHƯƠNG VIII
NỘI DUNG KHÓA GIÁO LÝ HÔN NHÂN
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên hiểu rõ nội dung của một Khóa Giáo lý Hôn nhân (hay Khóa Chuẩn bị Hôn nhân Gia đình) phải bao gồm những gì?
1.2 Giúp các học viên trau dồi khả năng có thể lên chương trình giảng dạy cho một Khóa Giáo lý Hôn nhân (hay Khóa Chuẩn bị Hôn nhân Gia đình).
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Bạn thấy các Khóa Giáo lý Hôn nhân ở giáo xứ bạn có Nội Dung như thế nào? Nội Dung ấy có đầy đủ không? Tại sao?
2.2 Theo bạn thì Nội Dung Khóa Giáo lý Hôn nhân (hay Chuẩn bị Hôn nhân Gia đình) phải bao gồm những phần nào về mặt nhân bản Ki-tô giáo và về mặt giáo lý?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ 
3.1 Trọng tâm Mục vụ Gia đình của các giáo xứ hiện nay là Khóa Giáo lý Hôn nhân:
Nhìn vào sinh hoạt các giáo xứ, chúng ta thấy Mục vụ Gia đình của Giáo hội chúng ta tập trung nhiều nhất vào việc chuẩn bị liền trước khi cử hành bí tích Hôn nhân. Tông huấn Familiaris Consortio đã xác định về yêu cầu giáo lý của việc chuẩn bị này: “Trong số các yếu tố phải truyền đạt trong tiến trình  đức tin này, tựa như ở thời kỳ dự tòng, cũng phải có việc đào sâu về mầu nhiệm Chúa Ki-tô và Giáo hội, về ý nghĩa của ân sủng và của trách nhiệm gắn liền với hôn nhân Ki-tô giáo. Đó là chưa kể tới việc chuẩn bị để tham dự tích cực vào nghi lễ phụng vụ hôn phối” (FC 66).  
Nhưng có lẽ các bạn trẻ công giáo Việt Nam ghi danh theo học Khóa Giáo lý Hôn nhân, có một nhu cầu quan trọng khác mà chính các bạn trẻ ấy cũng không ý thức. Đó là củng cố đời sống đức tin bằng việc ôn lại giáo lý căn bản của Ki-tô giáo. Lý do là vì một số  đông các bạn trẻ trong thời thiếu nhi, thiếu niên đã không có điều kiện để học giáo lý rước lễ, thêm sức, bao đồng cho đến nơi đến chốn, nên vốn liếng giáo lý của các bạn ấy phải nói là rất sơ sài. Việc bổ sung này rất cần thiết và cũng phù hợp với yêu cầu của Tông huấn về nội dung giai đoạn chuẩn bị gần:
“Công việc này sẽ gồm việc chuẩn bị chuyên biệt về các bí tích, như để giúp các bạn trẻ tái khám phá các bí tích. Việc canh tân giáo lý theo chiều hướng đó cho tất cả những ai đang chuẩn bị hôn nhân Ki-tô giáo là một điều hết sức cần thiết, để bí tích sẽ được cử hành và được sống với những dữ kiện luân lý và thiêng liêng thích hợp. Đến lúc thích hợp và tùy theo những đòi hỏi cụ thể khác nhau, việc đào tạo tôn giáo cho những người đính hôn sẽ phải được bổ túc bằng một sự chuẩn bị cho đời sống lứa đôi: khi trình bày hôn nhân như một tương quan liên vị phải được phát triển liên tục giữa người nàm và người nữ. Người ta phải khuyến khích họ đào sâu những vấn đề về tính dục hôn nhân và về vai trò cha mẹ có ý thức trách nhiệm, cùng với những hiểu biết cốt yếu gắn liền với các vấn đề ấy trong lãnh vực sinh lý và y học, và đưa họ tới chỗ làm quen với những phương pháp tốt để giáo dục con cái, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để họ có được những yếu tố cơ bản cho một nếp sống gia đình ổn định (việc làm chắc chắn, đủ điều kiện tài chánh, biết điều hành sáng suốt, có khái niệm về kinh tế gia đình v.v..)
Sau cùng, cũng sẽ không được coi thường việc chuẩn bị cho công cuộc tông đồ gia đình, cho tình huynh đệ và sự cộng tác với các gia đình khác, cho việc tích cực hội nhập vào các nhóm, các hiệp hội, các phong trào và các sáng kiến có mục đích đem lại thiện ích nhân bản và Ki-tô giáo cho gia đình (xem FC 66). 
 
3.2 Nội dung Khóa Giáo lý Hôn nhân:
Từ những hướng dẫn quan trọng trên của Tông huấn Familiaris Consortio, thiết tưởng Nội Dung Khóa Giáo lý Hôn nhân phải bao gồm các mảng đề tài như: Nhân bản Ki-tô giáo - Giáo lý cơ bản - Giáo lý Hôn nhân – Đời sống và bổn phận của gia đình Ki-tô hữu:
Ví dụ: (a) Một số đề tài liên quan tới Nhân bản Kitô giáo:
1.- Tâm sinh lý nam nữ khác biệt.
            2.- Vai trò của tính dục trong đời sống lứa đôi.
            3.- Vấn đề kế hoạch hóa gia đình hay điều hòa sinh sản theo Kitô giáo.
            4.- Đời sống lứa đôi hòa hợp trong yêu thương, tôn trọng, cởi mở và thủy chung.
(b) Một số đề tài liên quan tới bổn phận của Gia đình: Bốn bổn phận chính của gia đình Ki-tô hữu:
1.-Đào tạo một cộng đồng các ngôi vị.
2.-Phục vụ sự sống.
3.-Tham gia vào việc phát triển xã hội.
4.-Tham gia vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội.
                 (Trong 4 đề tài này sẽ đề cập đến Vai trò của người chồng/người cha, người vợ/người mẹ trong gia đình. Cách giải quyết những bất đồng và xung khắc giữa vợ/chồng, giữa cha mẹ/con cái. Cách tổ chức gia đình)
(c) Một số đề tài liên quan tới luật pháp:
            1.- Dân luật nói gì về Hôn nhân và gia đình?
            2.- Giáo luật nói gì về Hôn nhân và gia đình?
            3.-Thủ tục cử hành hôn lễ đời và đạo?
           (d) Một số đề tài liên quan tới Giáo lý công giáo cơ bản:
1.- Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ. 
2.- Đạo công giáo là đạo mạc khải.
3.- Đức Giê-su đã rao giảng Tin Mừng, thiết lập Giáo hội và các Bí tích.
4.- Các điều người công giáo tin và các việc người công giáo làm (đời sống cầu nguyện, bí tích, luân lý).
(đ) Một số đề tài liên quan tới Giáo lý Hôn nhân Gia đình:
1.- Tình yêu và hôn nhân trong ý định của Thiên Chúa.
            2.- Ý nghĩa và mục đích của Hôn nhân công giáo.
3.- Hôn nhân công giáo là một Bí tích.
            4.- Đặc tính của Hôn Nhân công giáo.              
 
IV. THẢO LUẬN & ỨNG DỤNG
4.1 Yêu cầu mỗi người cho biết Chương trình Lớp/Khóa Giáo lý hôn nhân của giáo xứ mình gồm những nội dung gì? (Nếu không biết thì đi hỏi những người phụ trách và tường trình lại cho lớp).
4.2 Xin bạn xem xét Chương trình Khóa Chuẩn bị Hôn nhân của một Giáo xứ trong thành phố HCM dưới đây:
Đề tài 1.- Tầm quan trọng của việc chuẩn bị hôn nhân.
Đề tài 2.- Sống ơn gọi Ki-tô hữu trong đời sống hôn nhân.
Đề tài 3.- Tâm sinh lý nam nữ.
Đề tài 4.- Đối thoại trong hôn nhân.
Đề tài 5.- Khám phá cơ thể của mình.
Đề tài 6.- Tính dục trong hôn nhân.
Đề tài 7.- Hôn nhân và Pháp luật.
Đề tài 8.- Vai trò người Nam người Nữ trong gia đình.
Đề tài 9.- Hôn nhân Kitô hữu: một bí tích.
Đề tài 10.- On tập giáo ký cơ bản.
Đề tài 11.- Làm cha mẹ có  trách nhiệm.
Đề tài 12.- Luân lý Kitô giáo về điều hòa sinh sản.
Đề tài 13.- Điều hòa sinh sản – Phương pháp tự quan sát.
Đề tài 14.- Gia đình trong xã hội và Giáo hội.
Đề tài 15.- Gia đình trước biến chuyển thời đại.
Đề tài 16.- Đời sống cầu nguyện trọng  gia đình.
Đề tài 17.- Hôn nhân tương lai của bạn.
Xin bạn: (1) xếp các đề tài thành từng cụm vấn đề (ví dụ: tâm sinh lý, giáo lý hôn nhân, giáo lý cơ bản, đời sống gia đình v.v…);
                           (2) cho biết ý kiến của bạn về Chương trình ấy: Chương trình còn thiếu những đề tài quan trọng nào? 
 

 
CHƯƠNG IX
CÁCH TỔ CHỨC & GIẢNG DẠY KHÓA GIÁO LÝ HÔN NHÂN
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên hiểu rõ cách TỔ CHỨC & GIẢNG DẠY Khóa Giáo lý Hôn nhân (hay Khóa Chuẩn bị Hôn nhân Gia đình).
1.2 Giúp các học viên trau dồi kiến thức và rèn luyện kỹ năng để có thể giảng dạy và tổ chức Khóa Giáo lý Hôn nhân.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Các bạn thấy Khóa Giáo lý Hôn nhân (hay Khóa Chuẩn bị Hôn nhân Gia đình) được tổ chức và giảng dạy như thế nào ở giáo xứ mình? Bạn có cho rằng cách tổ chức và giảng dạy ấy đã tốt lắm rồi không? Bạn đề nghị gì cho Khóa ấy được tổ chức và giảng dạy cách hoàn hảo hơn?
2.2 Theo bạn thì để tổ chức và giảng dạy thành công Khóa Giáo lý Hôn nhân cần phải có những điều kiện gì?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ 
3.1 Mục đích của Khóa Giáo lý Hôn nhân:           
Có nhiều người cho rằng mục đích chính của Khóa Giáo lý Hôn nhân hay Khóa Chuẩn bị Hôn nhân Gia đình là nhằm giúp các bạn trẻ chuẩn bị chu đáo cho việc cử hành bí tích Hôn phối. Thật ra đó không phải là mục đích duy nhất của Khóa Giáo lý Hôn nhân hay Khóa Chuẩn bị Hôn nhân Gia đình. Đó chỉ là mục đích gần hay mục đích trước mắt. Còn có một mục đích khác có lẽ còn quan trọng hơn là giúp các bạn trẻ có điều kiện xây dựng một cuộc sống hôn nhân và gia đình hạnh phúc. Đây chính là mục đích xa và toàn diện của Khóa Giáo lý Hôn nhân hay Khóa Chuẩn bị Hôn nhân Gia đình. 
 
3.2 Nội dung của Khóa Giáo lý Hôn nhân:      
Vì thế, Khóa Giáo lý Hôn nhân hay Chuẩn bị Hôn nhân Gia đình phải bao gồm cả phần kiến thức, hiểu biết (về nhân bản, luật pháp và giáo lý), cả phần kinh nghiệm sống (sống đức tin, cầu nguyện, hiệp thông giữa hai người yêu nhau và sắp lấy nhau).
3.3 Các khâu chính của việc tổ chức Khóa Giáo lý Hôn nhân:
(a) Chuẩn bị: lên chương trình, mời giảng viên, thông báo, phát phiếu đăng ký, ghi danh, nhận ảnh, lên danh sách, bảng tên, chia tổ học viên và tổ chức lễ khai giảng.
(b) Triển khai: giảng dạy, điểm danh, linh hoạt lớp, cầu nguyện đầu giờ và cuối giờ, nhận xét buổi học, kiểm tra bài, buổi dã ngoại.
(c) Kết thúc: các học viên lượng gía khóa học, tổ chức lễ bế giảng, phát chứng chỉ, rút ưu khuyết điểm giữa ban tổ chức và điều hành.
 
3.4 Nhân sự cần có của Khóa Giáo lý Hôn nhân và chức năng của mỗi người: 
Muốn tổ chức Khóa Giáo lý Hôn nhân thành công cần có các giảng viên (ban giảng dạy) có sư  phạm và một nhóm phụ trách Khóa, gồm ban điều hành và một hai linh hoạt viên có năng lực phục vụ các học viên.
(a) Về phương pháp sư phạm trong giảng dạy:
Các giảng viên nên dùng nhiều phương pháp khác nhau để trình bày các đề tài cho lớp học sinh động và thay đổi: thuyết trình, thảo luận tổ-đúc kết-bổ sung, chiếu phim, trả lời câu hỏi…
Có một phương pháp sư phạm rất thích hợp với các học viên trưởng thành là phương pháp Xem-Xét-Làm của Phong trào Thanh Lao Công quốc tế (tức Thanh niên Lao động Công giáo). Giảng viên sẽ đi từ một sự kiện, một câu chuyện xẩy ra trong đời thường (Xem) để tìm dẫn các học viên vào việc tìm hiểu Giáo lý của Ki-tô giáo về vấn đề được nêu lên (Xét) và rồi đi tới việc chọn lựa một cách sống với những hành động cụ thể theo Giáo lý ấy (Làm). Ví dụ: Giảng viên cho học viên đọc một bài báo viết về nạn phá thai tràn lan và ở mức độ báo động trong xã hội chúng ta hiện nay. Các học viên trao đổi với nhau về những nguyên nhân và hậu quả của nạn phá thai ấy. Giảng viên đặt vấn đề: “Quan điểm của Giáo hội Công giáo, của Thiên Chúa về vấn đề phá thai là như thế nào?”. Các học viên có cơ hội nói lên hiểu biết của mình. Rồi giảng viên giúp các học viên tìm hiểu đầy đủ hơn về quan điểm của Giáo hội, của Thiên Chúa về vấn đề phá thai. Nhờ vậy các học viên sẽ được tiếp cận với Giáo lý Ki-tô giáo về ý nghĩa cao cả và thánh thiêng của sự sống và bổn phẩn phải bảo vệ sự sống của các bậc làm cha làm mẹ. Sau cùng giảng viên mời gọi các học viên chấp nhận sống theo quan điểm của Ki-tô giáo về vấn đề này tức thực hành điều Giáo hội dạy, coi phá thai là một trọng tội đối với bào thai và với Thiên Chúa.
Mỗi giảng viên có thể phụ trách một hai hay một mảng đề tài. Có lẽ cách tốt nhất là Khóa học không có quá nhiều giảng viên mà chỉ có chừng 4,5 giảng viên, mỗi người phụ trách một mảng đề tài. Như thế thì giữa các giảng viên và học viên sẽ có mối quan hệ thân tình, gần gũi hơn.
(b) Việc điều hành, quản lý lớp học:
Việc điều hành, quản lý lớp học phải khoa học, chu đáo, chặt chẽ (có điểm danh, không chấp nhận học viên vắng mặt, nhưng có buổi bổ sung ngoài lớp, có kiểm tra nghiêm túc) nhưng không gò bó, ngột ngạt, tôn trọng các bạn trẻ và tạo điều kiện cho sự tin tưởng lẫn nhau.
(c) Việc linh hoạt lớp học:
            Việc linh hoạt lớp học cũng rất quan trọng và phải tạo được bầu khí vui tươi, cởi mở, thông thoáng đầu óc giúp học viên dễ tiếp thu đề tài và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với các bạn cùng Khóa. Điều lý tưởng (chưa giáo xứ nào làm được) là có các cặp vợ chồng đồng hành với các học viên chuẩn bị hôn nhân gia đình, ít nhất là trong các buổi sinh hoạt, thảo luận tổ.
 
IV. THẢO LUẬN VÀ ỨNG DỤNG
4.1 Bạn có nhận xét gì về việc tổ chức và giảng dạy Khóa Giáo lý Hôn nhân của giáo xứ bạn hay của một giáo xứ khác mà bạn biết.
4.2 Bạn có kinh nghiệm gì về việc tổ chức và giảng dạy Khóa Giáo lý Hôn nhân? Bạn hãy chia sẻ kinh nhiệm ấy với các học viên khác.
4.3 Bạn quan tâm thế nào đến việc học hỏi người khác về cách tổ chức và giảng dạy Giáo lý hôn nhân cho các bạn trẻ?
 
 

 
CHƯƠNG X
CÁC SINH HOẠT MỤC VỤ GIA ĐÌNH TRONG GIÁO XỨ
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên thấy được TẦM QUAN TRỌNG & LỢI ÍCH TO LỚN của các Sinh hoạt Mục vụ Gia đình nếu giáo xứ biết cách tổ chức thường xuyên và có đầu tư.
1.2 Giúp các học viên  biết cách sáng tạo trong việc tổ chức các Sinh hoạt Mục vụ Gia đình một cách có chất lượng.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Giáo xứ bạn có tổ chức những Sinh hoạt Mục vụ dành riêng cho các gia đình không? Nếu có, thì xin bạn cho biết giáo xứ tổ chức Sinh hoạt ấy như thế nào? Bạn thấy chất lượng và hiệu quả của các Sinh hoạt Mục vụ Gia đình ấy ra sao? Nếu không, thì bạn cho biết tại sao?
2.2 Để những ấy có chất lượng và phù hợp hơn với thực tế, bạn thấy cần có thêm những gì?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ
3.1 Thế nào là Sinh hoạt Mục vụ Gia đình?
(a) Ngày nay con người càng ngày càng có xu hướng đi vào chuyên biệt trong lãnh vực nghề nghiệp cũng như trong lãnh vực tôn giáo, tâm linh. Trong đời sống đức tin người ta thường tổ chức những khóa tập huấn, những cử hành bí tích cho riêng từng hạng người, từng giới. Vì thế mà chúng ta có thánh lễ giới trẻ, thánh lễ thiếu nhi; tĩnh tâm giới trẻ, tĩnh tâm giới gia trưởng hiền mẫu v.v…
(b) Riêng các gia đình, nhất là các gia đình trẻ cũng đáng được chúng ta quan tâm và dành cho những Sinh hoạt Mục vụ chuyên đề về Gia đình. Sinh hoạt Mục vụ Gia đình là mọi tổ chức: học hỏi, thảo luận, chia sẻ, giao lưu, triển lãm, tờ bướm, báo tường, đố vui, cử hành… lấy Gia đình làm chủ đề và nhằm mục đích giúp cho những người sống đời gia đình thăng tiến về nhiều mặt, nhất là mặt tâm linh.
 
3.2 Những cơ hội  thuận lợi cho việc tổ chức các Sinh hoạt Mục vụ Gia đình
(a) Có rất nhiều dịp thuận tiện để giáo xứ tổ chức những buổi Sinh hoạt về Mục vụ Gia đình. Thuận tiện và thích hợp nhất là các ngày Lễ theo lịch phụng vụ có liên quan mật thiết với gia đình như lễ Giáng Sinh, lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giê-su trong đền thờ, lễ Truyền Tin, Lễ Đức Mẹ thăm viếng, lễ thánh Giu-se, lễ thánh Gio-a-kim và thánh An-na, lễ Mo-ni-ca và lễ thánh Âu-cơ tinh, lễ Thánh Gia v.v….
(b) Giáo xứ cũng có thể tổ chức Sinh hoạt Mục vụ Gia đình vào các dịp mừng kỷ niệm 5,10,15,20,25 năm thành hôn của một số cặp vợ chồng trong giáo xứ.
(c) Giáo xứ cũng có thể chọn một ngày nào đó trong tháng ví dụ thứ sáu hay thứ bẩy đầu tháng, để tổ chức một Sinh hoạt Mục vụ chuyên về Gia đình.
(d) Giáo xứ hay giáo hạt và thậm chí giáo phận cũng có thể tận dụng thời điểm thuận lợi của Chương trình Mục vụ của giáo phận hoặc của Giáo hội quốc gia hay Vùng hoặc của Giáo hội toàn cầu để có sáng kiến thích hợp. Ví dụ: nhân dịp năm 2002 này được các giáo phận Việt Nam chọn làm“Năm Thánh hóa Gia đình”, chúng ta có thể tổ chức một loại hình Sinh hoạt nào đó nhằm giúp đỡ các gia đình trong giáo xứ, giáo phận. Một ví dụ khác: nhân dịp hội nghị thế giới về gia đình sắp được tổ chức tại Ma-ni-la (Phi-líp-pin) vào ngày 23-26.01.2003 tới đây, với chủ đề “Gia đình Ki-tô hữu là Tin Mừng cho thiên niên kỷ thứ ba”,  chúng ta có thể tổ chức Sinh hoạt Mục vụ Gia đình nhằm chuẩn bị và hưởng ứng hội nghị quan trọng ấy của Giáo hội toàn cầu.
Để giúp các Giáo hội địa phương chuẩn bị cho hội nghị thế giới về gia đình nói trên, Hội đồng Tòa thánh về Gia đình đã phổ biến một tài liệu có tên là SUY TƯ VÀ TRAO ĐỔI VỀ GIA ĐÌNH gồm 12 đề tài về gia đình như sau:
(1)  Gia đình đón nhận và loan báo Tin Mừng (Lc 2,6-14).
(2)  Gia đình Kitô hữu: chứng nhân của Giao Ước Vượt Qua (Ep 5,25-33).
(3)  Gia đình, trọng tâm của công cuộc Phúc Am hóa (Lc 4,14-19).
(4) Gia đình Kitô hữu, Hội thánh tại gia (Lc 1,26-33).
(5) Sự thánh thiện của gia đình để phục vụ Tin Mừng (Mc 16,14-18).
(6) Thánh thể, dấu chỉ và lương thực cho tình yêu đôi bạn không giới hạn (Ga 6,53-58).
(7) Hòa giải và tha thứ trong gia đình (Ep 2,13-18).
(8) Gia đình, cộng đoàn cầu nguyện (Mt 7,7-11).
(9) Gia đình, trung tâm và nguồn phát sinh thiện hảo xã hội (Cv 2,42,47).
(10) Gia đình và tình yêu đối với những người yếu kém nhất (Mt 15,29-39).
(11) Gia đình chuẩn bị và theo sát các gia đình trẻ (Ga 4,43-53).
(12) Gia đình, đền thánh sự sống (Ga 10,10-25).
Tổ chức được Sinh hoạt Mục vụ Gia đình như thế, các hội nghị của Giáo hội trong nước hay quốc tế mới có cơ hội đi vào đời sống cụ thể của giáo dân, nhờ những buổi thông tin, học hỏi, góp ý, triển khai nội dung hay tài liệu của hội nghị.
 
3.3 Cách tổ chức các Sinh hoạt Mục vụ Gia đình
 Muốn các Sinh hoạt Mục vụ Gia đình thành công, chúng ta phải đầu tư cho  Nội Dung cũng như cho Cách Tổ Chức, sao cho có chất lượng nhưng ngắn gọn, nhẹ nhàng, thu hút giáo dân tham dự và đem lại ơn ích cho các gia đình.
(a) Chúng ta có thể tổ chức các thánh lễ đặc biệt hay dành riêng cho các gia đình, với các bài đọc Thánh Kinh, bài giảng của chủ tế, các bài thánh ca và ý cầu nguyện của cộng đoàn đều tập trung vào một khía cạnh nào đó của đời sống gia đình.
(b) Chúng ta có thể tổ chức các thánh lễ đặc biệt hay dành riêng cho các gia đình phối hợp với việc học hỏi về gia đình bằng cách dành 30-45 phút trước lễ cho việc học hỏi một đề tài liên quan tới gia đình và chia sẻ kinh nghiệm sống trong gia đình. Trong trường hợp này thì nên bớt bài giảng của chủ tế để thời gian không quá dài khiến nhiều người không thể tham dự được. 
(c) Trong tài liệu “Suy tư và trao đổi về gia đình” của Hội đồng Tòa Thánh về Gia đình nói đến ở trên, chúng ta cũng thấy cách tiến hành một buổi sinh hoạt như sau:
-     Bài hát khai mạc,
-         Đọc kinh Lạy Cha,
-         Đọc Kinh Thánh
-         Suy tư theo đề tài,
-         Suy tư  của linh mục hay người hướng dẫn,
-         Trao đổi,
-         Quyết định,
-         Đọc Kinh Kính Mừng với lời cầu: “Nữ Vương gia đình, cầu cho chúng con.”
-         Kinh cầu cho gia đình,
-         Bài hát bế mạc.
            (d) Vào những dịp đặc biệt, chúng ta có thể tổ chức triển lãm, thuyết trình, giao lưu, gặp gỡ, liên hoan, đố vui…. Giữa các gia đình giúp giáo dân quen biết, gần gũi nhau hơn.
 
IV. THẢO LUẬN VÀ ỨNG DỤNG
4.1 Bạn hãy chia sẻ kinh nghiệm mà bạn có về việc tổ chức các Sinh hoạt chuyên biệt cho một giới. Các sinh hoạt ấy thành công hay thất bại? Tại sao?  
4.2 Theo bạn thì Sinh hoạt Mục vụ Gia đình có cần thiết không? Phải làm sao để  thu hút nhiều người tham dự các Sinh hoạt Mục vụ Gia đình? Làm thế nào để các Sinh hoạt Mục vụ Gia đình gíup những người sống đời gia đình thăng tiến về nhiều mặt, nhất là mặt tâm linh?
           

 
CHƯƠNG XI
MỤC VỤ TƯ VẤN VỀ HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên thấy được TẦM QUAN TRỌNG & TÍNH CẤP BÁCH của Mục vụ Tư vấn về Hôn nhân và Gia đình là một công tác còn xa lạ với các giáo phận Việt Nam.
1.2 Tạo cho học viên sự nhạy cảm về một nhu cầu mới trong Mục vụ gia đình, để người  ấy có thái độ và hành động thích hợp.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Bạn có thấy trong xã hội chúng ta, xuất hiện một dịch vụ và cũng là một ngành nghề mới: đó là Tư vấn không? Tư vấn đầu tư, Tư vấn pháp luật, Tư vấn Tâm lý  v.v.. Khi một bạn trẻ công giáo thắc mắc về một vấn đề gì đó trong lãnh vực hôn nhân và gia đình thì bạn trẻ ấy tìm đến ai? Khi các bà vợ, các ông chồng thắc mắc về một vấn đề gì đó liên quan tới đời sống lứa đôi của họ thì họ tìm đến đâu và gặp ai?
2.2 Theo bạn thì công tác tư vấn về hôn nhân gia đình có phải là một nhu cầu thật không? Bạn có thấy Giáo xứ hay Tòa Giám mục nào, có Văn phòng và chuyên viên tư vấn cho các bạn trẻ và cho các bà vợ các ông chồng không? Bạn có đề nghị gì?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ
Mục vụ Tư vấn về Hôn nhân và Gia đình là một bộ môn thuộc lãnh vực Tư vấn Ki-tô giáo. Nên chúng ta phải nói về Tư vấn Ki-tô giáo trước khi nói về Mục vụ Tư Vấn về Hôn nhân Gia đình. Mặt khác trước khi nói về Tư Vấn Ki-tô giáo chúng ta không thể không nói về Tư Vấn nhân bản vì những gì đúng với Tư vấn Nhân Bản thì cũng đúng với Tư Vấn Ki-tô giáo.
 
3.1 Mục đích của Tư vấn Nhân bản:
Trong tác phẩm “Mục vụ Tư vấn” của mình, tác gỉa Phương Hoài Nhân, một tu sĩ Dòng Đa Minh đã viết về mục đích của Tư vấn Nhân bản như sau:
“Mục đích tuyệt đỉnh của việc tư vấn là sử trưởng thành cá tính, nói cách khác là sự tự nhận thức trọn vẹn của thỉnh vấn viên. Mục đích này đạt được nhu cầu căn bản, lòng ao ước, và quyền lựa chọn của thỉnh vấn viên như một con người.” (1).
3.2 Nghệ thuật và lý thuyết trong Tư vấn Nhân bản: 
Và về nghệ thuật và lý thuyết Tư vấn Nhân bản như sau:
“Tư vấn về đời sống nhân bản nói chung là một hỗ trợ tâm lý giúp cho cá nhân đạt đến việc tự nhận thức cách trọn vẹn hay trưởng thành cá tính.
            Nhiều khoa nghiên cứu về con người như Nhân chủng học, Tâm lý học và các hệ thống sư phạm đã kết hợp thành khoa Tư vấn thực tiễn. Thực ra đây là một nghệ thuật hơn là một khoa học.
Và có các học thuyết tư vấn khác nhau được chỉ dạy nơi các trường học. Như vậy để chuẩn bị cho mình trở thành nhà tư vấn, người ta phải luôn học hỏi các học thuyết về tư vấn. Việc học hỏi như thế hẳn nhiên rất lợi ích. Đây là điều kiện thiết yếu để trở thành nhà tư vấn tài khéo. Tuy nhiên, để trở thành nhà tư vấn có trình độ, người ta cũng phải có năng khiếu tự nhiên. Năng khiếu này cần được phát triển và kiện toàn qua việc học hỏi và tôi luyện.
Nói chung, nhà tư vấn tài giỏi phần nhiều là do trời phú ban, sinh ra đã có năng khiếu tư vấn và được thực hiện qua việc học hỏi và trau dồi trong lãnh vực chuyên môn này.
Việc trau dồi cần thiết để trở thành nhà tư vấn tài giỏi được thể hiện bằng hành động, cùng với trực giác và sự khôn ngoan. Việc học hỏi, nói cách khác, chính là sự phản ảnh có phương pháp dựa vào kinh nghiệm, giúp cho vị tư vấn bén nhậy hơn đối với các vấn đề mà vị tư vấn đó đang thực hiện và cho ông sự hiểu biết phải làm thế nào. Vậy thì, việc huấn luyện tăng thêm khả năng tư vấn và việc học hỏi nghiên cứu sẽ tạo cho vị tư vấn những phương thức tốt nhất để sử dụng khả năng đó (….).
“Việc rèn luyện hiện thời của người tư vấn chỉ có thể thực hiện trong phòng khách hay trong văn phòng nơi mà vị đó tiếp nhận những người đến xin giúp đỡ và cố gắng giúp đỡ họ trở thành những người trưởng thành.
Để bố trí cách vững vàng và khéo léo cho việc tư vấn đòi hỏi vị tư vấn phải có một trình độ nghệ thuật. Một số trong những đòi hỏi quan trọng đó là: việc kỷ cương, sự tập trung và tính kiên nhẫn.
Việc kỷ cương đòi vị tư vấn thực hành việc tư vấn phải có phương pháp và kiên trì, tránh kiểu ba chớp ba nhoáng và hay thất thường.
Sự tập trung đòi vị tư vấn phải dồn năng lực và chú ý vào việc mình đang làm và đặt mọi vấn đề khác ra bên ngoài.
Và tính kiên nhẫn đòi vị tư vấn phải loại bỏ khái niệm càng nhanh càng tốt. Không thể có bất cứ sự thụ đắc cấp thời nào theo kiểu mì gói ăn liền trong nghệ thuật tư vấn. Ngừơi ta chỉ có thể mong đợi một vài kết quả tốt trong lãnh vực chuyên môn này, sau khi đã học hỏi nhiều và đã được rèn luyện. Việc nỗ lực và quyết tâm có thể đưa chúng ta đến thành công trong lãnh vực chuyên môn về Tư vấn. Hai yếu tố này có thể lớn hơn cả tài năng tự nhiên. Người tư vấn sẽ không bao giờ triệt thấu được vấn đề, trừ khi vị đó quan tâm nhiều đến việc thủ đắc cho mình nghệ thuật tư vấn và sẽ không bao giờ đạt được khả năng trong việc tư vấn, trừ khi vị đó học hỏi nghiên cứu điều mà xem ra chúng không liên quan gần gũi với việc tư vấn, nhưng thực ra chúng giúp vị tư vấn đạt đến thành công” (Phương Hoài Nhân, OP, Mục vụ Tư Vấn, NXB Chân Lý, 2000, trang 40)
 
3.3 Mối quan hệ trong Tư vấn:
“Tư vấn là mối tương quan giúp đỡ giữa hai người. Một người là thỉnh vấn viên, đi tìm kiếm và mong đợi sự giúp đỡ để thăng hoa cuộc sống. Một người được gọi là vị tư vấn, có khả năng và sẵn sàng giúp đỡ thỉnh vấn viên.
Bởi vì việc giúp đỡ có tầm mức quan trọng, nó phải được tìm kiếm, trao đổi qua việc tư vấn, và liên hệ đến cá tính, nó không thể đạt được hữu hiệu trừ khi việc đối thoại cảm thông giữa hai người được thiết lập. Để mang lại hiệu quả từ việc tư vấn, việc đối thoại phải có một chiều sâu vững chắc và thường xuyên.
Sau đây là điều cần phải có cho việc đối thoại cảm thông trong lãnh vực tư vấn.
(a) “Việc tư vấn cần phải có đối thoại:
“ Tư vấn được thực hiện trong các cuộc gặp gỡ giữa thỉnh vấn viên và vị tư vấn. Các cuộc gặp gỡ này có thể được gọi là các cuộc gặp gỡ tư vấn, trong đó việc đối thoại cần được thực hiện qua việc bàn hỏi, lắng nghe, đặt vấn đề và trả lời các vấn nạn, tạo cơ hội cho người thỉnh vấn viên có cơ hội tự cởi mở cõi lòng và vị tư vấn nắm bắt được vấn đề để giúp đỡ đương sự.
Việc đối thoại trong lãnh vực tư vấn đòi phải có sự thích hợp hỗ tương giữa vị tư vấn và thỉnh vấn viên. Đặc biệt, vị tư vấn phải lịch thiệp với thỉnh vấn viên. Vị tư vấn phải tế nhị làm sao để thỉnh vấn viên yêu thích và cảm thấy thoải mái khi tâm sự với mình (….). 
Sự đón tiếp ân cần, lời nói khích lệ và nụ cười của vị tư vấn sẽ làm cho thỉnh vấn viên cảm thấy được rằng vị tư vấn hài lòng cách chân thật về hạnh phúc và thành công và không hài lòng về sự kém may mắn, trắc trở và bất hạnh của thỉnh vấn viên. Điều này đủ để tạo nên sự dễ thương cần thiết giữa hai người. Để được mến chuộng hoàn toàn, vị tư vấn cũng cần phải thận trọng không xâm phạm đến những bí mật cá nhân của thỉnh vấn viên, không cưỡng bách đương sự khai chuyện riêng tư về đời sống tâm linh, và tuyệt đối không bao giờ tiết lộ những bí mật cá nhân của đương sự (….). Nói tóm lại, tính dễ thương của vị tư vấn đòi phải có lòng yêu thương bác ái, sự kính trọng, lịch thiệp và cởi mở đối với thỉnh vấn viên. Vị tư vấn cởi mở nhưng thiếu lịch thiệp, có thể cảm thấy mình không được cần đến và ngược lại, vị tư vấn lịch thiệp những lại thiếu cởi mở cũng có thể không được thỉnh vấn viên mến chuộng vì e sợ rằng vị tư vấn đó sẽ tiết lộ bí mất của mình.
Tính dễ thương có thể là một ân điển được Chúa phú ban. Tuy nhiên ân điển này phải đươc kiện toàn bằng cách thực tập, tạo dễ dãi cho việc cởi mở của thỉnh vấn viên đối với vị tư vấn.
Thêm vào tính dễ thương và cởi mở, vị tư vấn phải được thỉnh vấn viên khâm phục vì sự khôn ngoan, sức mạnh tinh thần và sự bình an tâm hồn của vị tư vấn. Các yếu tố này dễ dàng tạo sự khích động ý chí của thỉnh vấn viên để sẵn sàng đón nhận việc chỉ bảo của vị tư vấn. Các yếu tố này cũng chứng thực được sự trưởng thành cá tính của vị tư vấn. Đặc biệt, vị tư vấn phải tỏ cho thỉnh vấn viên biết được rằng mình cũng đã từng trải và giải quyết hầu hết các vấn đề mà thỉnh vấn viên vẫn còn phải phấn đấu. Do đó, thỉnh vấn viên có thể cảm thấy mình được cảm thông và được chính vị tư vấn đó nâng đỡ trong cảnh ngộ khó khăn hiện nay”
(b) Việc tư vấn đòi phải có quan hệ tốt:
“ Tư vấn không phải chỉ là cuộc gặp gỡ giữa vị tư vấn và thỉnh vấn viên để đàm đạo về những điều hữu ích, nhưng còn hơn thế, để hoàn thành mối tương quan giữa hai người với nhau. Vậy, đâu là sự khác biệt chính yếu giữa việc đối thoại và việc quan hệ? Điểm khác biệt chính yếu là đặc điểm quan hệ giữa cá nhân với cá nhân và để trở thành mối quan hệ thực sự giữa cá nhân với cá nhân, nó đòi phải có thời gian và có phương pháp.”
 (c) Việc tư vấn liên quan đến chuyện gặp gỡ:
“Ngày nay người ta nhấn mạnh đến các mối quan hệ giữa con người với nhau, nó mang lại sự đối thoại cảm thông sâu xa giữa hai người và chúng được gọi là những cuộc gặp gỡ. Con người cần đến nhau để chữa lành các vết thương do sự cô lập và cô đơn gây ra. Tuy nhiên đến với nhau có thể lâm vào trạng huống gần gũi quá độ làm chết ngộp hay làm ngạt thở tình thân. Chính điểm này tạo cho cuộc gặp gỡ trở nên lệch lạc. Gặp gỡ là mối quan hệ mà qua đó hai người tự do chia sẻ và kính trọng sự hiện hữu của nhau.
Cuộc gặp gỡ như vậy liên quan đến việc ứng xử hỗ tương, lòng chân thành, cảm thông, và tình yêu chân thật, đó là sự hiện diện trọn vẹn của một người đối với người khác. Sự hiện diện náy đáp ứng lại nhu cầu phổ thông của con người, để được nhìn nhận, được kính trọng và được yêu thương như một con người” (Như trên, trang 27-29).
 
3.4 Những nguyên tắc căn bản của Tư vấn Nhân Bản cũng như Tư Vấn Kitô giáo:
Trong cuốn ”Le Prêtre conseiller et spychologue” (Linh mục, nhà tư vấn và tâm lý), ở chương “Principes fondamentaux de l’attitude du prêtre conseiller”, tác gỉa Georges Cruchon có viết: Một số tác gỉa cho là chỉ có 2 hoặc 3 nguyên tắc thôi. Có những tác gỉa lại kể ra tới 7 nguyên tắc, nhưng trong đó có những nguyên tắc suy diễn từ những nguyên tắc trên, được áp dụng nhiều hơn vào việc đối thoại tâm lý trị liệu, như chúng ta sẽ thấy sau này. Phần chúng tôi, chúng tôi giữ lại 4 nguyên tắc, mà nguyên tắc thứ 2, trong một mức độ nào đó, có thể được coi là hệ luận của nguyên tắc thứ 1.
Những nguyên tắc ấy là:
(1) Nguyên tắc đón tiếp, cũng gọi là nguyên tắc lắng nghe và chấp nhận người đến với mình (người đến xin tư vấn):
(2) Nguyên tắc không phán đoán, cũng gọi là nguyên tắc không kết án.
(3) Nguyên tắc từng cá nhân, cũng gọi là nguyên tắc về tính độc nhất của mỗi trường hợp.
(4) Nguyên tắc kính trọng tự do của người xin tư vấn.
(Georges Cruchon, Le prêtre conseiller et spychologue (Linh mục, nhà tư vấn và tâm lý), ở chương “Principes fondamentaux de l’attitude du prêtre conseiller” (Những nguyên tắc căn bản về thái độ của vị linh mục làm tư vấn), NXB Salvator-Mulhouse, 1971, Bản dịch của Nhóm Phục Vụ Hôn Nhân Gia đình Nhà Thờ Chánh tòa Sàigòn, 1997, trang 11).
 
IV.THẢO LUẬN VÀ ỨNG DỤNG
4.1 Bạn có quan tâm đến hoạt động của các Văn phòng Tư vấn Tình yêu Hôn nhân Gia đình không? Bạn có cho rằng đó là một dịch vụ hữu  ích và cần thiết cho con người ngày nay không? Tại sao?
4.2 Bạn có thấy giáo xứ hay Tòa Giám mục nào có Văn phòng Mục vụ Gia đình trong đó có hoạt động Tư vấn Tình yêu Hôn nhân Gia đình không? Bạn có cho rằng Giáo hội nên xúc tiến công tác Mục vụ này không? Tại sao?
4.3 Nếu giáo xứ hay giáo phận nào muốn có Văn phòng Mục vụ Gia đình trong đó có hoạt động Tư vấn Tình yêu Hôn nhân Gia đình thì giáo xứ, giáo phận phải làm gì?
 

 
CHƯƠNG XII
VIỆC ĐÀO TẠO CÁC NHÂN VIÊN MỤC VỤ GIA ĐÌNH
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên thấy được tầm quan trọng của việc đào tạo nhân viên Mục vụ Gia đình và khơi lên trong họ một thiện chí muốn trở thành người phục vụ cho công tác Mục vụ Gia đình.
1.2 Giúp các học viên nhạy cảm với những cơ hội mà họ có được để trau dồi kiến thức, kỹ năng chuyên môn của một nhân viên Mục vụ Gia đình hoặc của giáo lý viên hôn nhân.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Muốn làm việc có hiệu quả, chúng ta cần phải có những điều kiện gì?
2.2 Trong các điều kiện ấy thì tính chuyên môn đóng một vai trò quan trọng như thế nào? Làm cách nào để mỗi giáo phận, giáo xứ của chúng ta có một đội ngũ nhân viên có khả năng chuyên môn về Mục vụ Gia đình?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ
3.1 Quan điểm của Tông huấn về việc đào tạo nhân sự Mục vụ Gia đình
Khi trình bày về các cơ cấu của Mục vụ Gia đình là Cộng đồng Giáo hội và cách riêng giáo xứ, Tông huấn Familiaris Consortio về các bổn phận của gia đình Ki-tô hữu, có nhắc đến tầm quan trọng của việc đào tạo nhân sự như sau:
“Từ quan điểm trách nhiệm như thế, ta sẽ hiểu được tầm quan trọng của việc chuẩn bị tương xứng cho tất cả những ai sẽ dấn thân một cách chuyên biệt vào loại công việc tông đồ này. Các linh mục, nam tu và nữ tu, ngay từ thời gian được huấn luyện, phải được định hướng và đào tạo tiệm tiến thích hợp với những trách vụ của họ sau này. Giữa rất nhiều sáng kiến, tôi sung sướng nhắc đến việc thành lập mới đây tại Roma, bên cạnh Đại học Giáo hoàng Latran, một viện cao đẳng dành để nghiên cứu các vấn đề gia đình. Trong một vài giáo phận, những viện nghiên cứu loại này cũng đã được thành lập; các Giám mục phải làm sao để đông đảo linh mục tham dự những khóa chuyên môn tại các viện ấy trước khi đảm trách các giáo xứ. Ngoài ra, theo chu kỳ, còn phải tổ chức các khóa đào tạo tại các viện cao đẳng thần học và mục vụ. Những sáng kiến như thế phải được khuyến khích, nâng đỡ, gia tăng và hẳn nhiên rộng mở cho giáo dân với phần đóng góp nghiệp vụ của họ trong việc giúp đỡ các gia đình (về y khoa, luật pháp, tâm lý, xã hội, giáo dục)” (FC 70).
 
3.2 Tình hình thực tế của Giáo hội Việt Nam hiện nay
Có nhiều người cho rằng Giáo hội Việt Nam chúng ta còn ở mức rất xa so với mức mà Tông huấn Familiaris Consortio đưa ra. Nhưng không phải là chúng ta chưa có gì hết. Nhìn vào sinh hoạt của các giáo xứ, chúng ta thấy ở đâu cũng có các lớp Giáo lý Hôn nhân. Ở nhiều nơi các lớp ấy do các cha xứ phụ trách toàn bộ, từ đầu cho tới cuối. Ở một số nơi, các lớp ấy do các nữ tu đảm trách. Nhưng có nhiều nơi việc giảng dạy các lớp Giáo lý hôn nhân ấy được phân công cho linh mục và một số giáo dân. Cũng có một ít nơi việc chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân gia đình được hoàn toàn giao cho một nhóm giáo dân, dưới sự theo dõi giúp đỡ của linh mục phụ trách. Như thế là chúng ta đã có sẵn một đội ngũ giáo lý viên hôn nhân và nhân viên Mục vụ Gia đình không chỉ là các linh mục mà còn là các tu sĩ và giáo dân.
Việc cần làm tiếp theo là làm sao giáo phận tổ chức được những khóa tập huấn ngắn, dài ngày cho các thành phần này, nhất là cho các giáo dân, để họ có dịp học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, hiểu biết với nhau, nâng cao khả năng phục vụ các bạn trẻ và các gia đình hơn nữa. Việc này thì giáo phận nào cũng có thể làm được nếu chúng ta thực sự quan tâm đến các gia đình.
Bên cạnh việc đào tạo “tại chỗ” các nhân viên Mục vụ Gia đình theo cách trình bày trên, các giáo phận có thể gửi người đi học ở các trường chuyên biệt tại Ý, Pháp, Đức, Mỹ hay Philíppin…  Khi gửi người đi học, thì nên gửi cả linh mục, tu sĩ và giáo dân, chứ không chỉ gửi linh mục mà thôi. Có thể gửi người đi học dài hạn để có bằng cấp chuyên môn chính qui. Nhưng cũng có thể gửi người đi học ngắn hạn để sớm có người đáp ứng nhu cầu hiện nay. Theo chúng tôi biết thì tại Trung Tâm Mục vụ của các cha Dòng Tên ở Ateneo thuộc thủ đô Manila (Phi-líp-pin) có Viện mang tên là Viện Thừa tác vụ Gia đình, viết tắt là FAM (Family Ministry Centre) chuyên về việc đào tạo các nhân viên Mục vụ Gia đình. Viện này cũng đào tạo những người làm công tác tư vấn gia đình và tổ chức các khóa chuẩn bị hôn nhân gia đình… cho các cặp muốn kết hôn.
 
IV.THẢO LUẬN VÀ ỨNG DỤNG
4.1 Trong giáo phận chúng ta, đã có sẵn một số giáo dân tham gia vào công tác Mục vụ Gia đình, tại sao chúng ta không quan tâm đến việc bồi dưỡng huấn luyện thêm cho họ về các mặt tâm linh và chuyên môn để họ có thể phục vụ tốt hơn?
4.2 Theo bạn thì việc đào tạo nhân viên Mục vụ Gia đình và giáo lý viên hôn nhân cần thiết như thế nào? Và nên tiến hành như thế nào cho hợp với tình hình thực tế hiện nay của giáo phận chúng ta?

 
CHƯƠNG XIII
BAN HAY VĂN PHÒNG MỤc VỤ GIA ĐÌNH GIÁO PHẬN
& NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA BAN HAY VĂN PHÒNG ẤY
 
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1.1 Giúp các học viên thấy được tầm quan trọng của Ban Mục vụ Gia đình của Giáo phận.
1.2 Giúp các học viên nhạy bén với trách nhiệm phải đóng góp xây dựng Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận và với các thời cơ thuận lợi để tích cực hợp tác với Ban Mục vụ ấy.
 
II. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ
2.1 Làm việc muốn có hiệu quả, cần phải có những điều kiện gì?
2.2 Trong các điều kiện ấy thì một cơ chế chuyên trách đóng một vai trò quan trọng như thế nào? Làm cách nào để mỗi giáo phận chúng ta có được một Ban Mục vụ Giáo phận và Ban ấy có một chương trình hành động tương xứng với tầm quan trọng của Công tác Mục vụ Gia đình và nhu cầu cấp bách đang được đặt ra cho Giáo hội Việt Nam?
 
III. TÌM HIỂU VẤN ĐỀ
3.1 Quan điểm của Tông huấn về các cơ cấu của Mục vụ Gia đình
Khi trình bày về các cơ cấu của Mục vụ Gia đình là Cộng đồng Giáo hội, Tông huấn Familiaris Consortio có viết:
“Mục vụ gia đình – một hình thức Mục vụ đặc thù và chuyên biệt – tìm thấy nơi chính Giáo hội, nguyên tắc hoạt động và khuôn mẫu trách nhiệm, qua các cơ cấu và các nhân viên của Giáo hội”(FC 69).
Khi nói về tầm quan trọng của con người có trách nhiệm về Mục vụ Gia đình, Tông huấn Familiaris Consortio đã nêu lên một số sáng kiến:
“Giữa rất nhiều sáng kiến, tôi sung sướng nhắc đến việc thành lập mới đây tại Roma, bên cạnh Đại học Giáo hoàng Latran, một viện cao đẳng dành để nghiên cứu các vấn đề gia đình. Trong một vài giáo phận, những viện nghiên cứu loại này cũng đã được thành lập; các Giám mục phải làm sao để đông đảo linh mục tham dự những khóa chuyên môn tại các viện ấy trước khi đảm trách các giáo xứ. Ngoài ra, theo chu kỳ, còn phải tổ chức các khóa đào tạo tại các viện cao đẳng thần học và mục vụ. Những sáng kiến như thế phải được khuyến khích, nâng đỡ, gia tăng và hẳn nhiên rộng mở cho giáo dân với phần đóng góp nghiệp vụ của họ trong việc giúp đỡ các gia đình (về y khoa, luật pháp, tâm lý, xã hội, giáo dục)” (FC 70).
            Theo tinh thần nêu trên của Tông huấn Familiaris Consortio, ở cấp giáo phận và cấp quốc gia, nên có một cơ cấu phù hợp đảm trách việc đào tạo nhân sự là một công việc hết sức quan trọng. Cơ cấu ấy chính là Ban hay Văn phòng Mục vụ Gia đình Giáo phận và toàn quốc.
3.2 Tình hình thực tế hiện nay của Giáo hội Việt Nam nói chung và của Giáo phận Tp Hồ Chí Minh nói riêng:
(1) Tuy vấn đề gia đình đã được các vị lãnh đạo Giáo hội của chúng ta quan tâm từ lâu. Nhưng mãi tới mấy năm gần đây chúng ta mới thấy các Giám mục ngỏ ý muốn cụ thể hóa sự quan tâm ấy bằng những việc làm hay đề nghị:
(a) Một trong những hướng mục vụ được Thư mục vụ HĐGMVN năm 2000 đưa ra là: “Củng cố gia đình như Hội Thánh tại gia”. Một trong những phương thế mà các Giám mục đưa ra là: “Bậc cha mẹ phải cố gắng biến những giây phút cả gia đình quy tụ bên nhau thành cơ hội để cầu nguyện, đọc và suy niệm Sách Thánh” (Thư mục vụ HĐGMVN, 2000, số 9).
(b) Thư Chung 2001 của HĐGMVN đã đề cập đến những khó khăn của các gia đình hiện nay và bầy tỏ ước mong việc thiết lập Văn phòng Mục vụ Gia đình ở mỗi giáo phận và Văn phòng Mục vụ Gia đình ở cấp HĐGMVN:
“Trên thế giới và ngay trong Đất Nước chúng ta, gia đình đang bị đe doạ bởi nhiều lực huỷ diệt của văn hoá sự chết. Mối đe doạ từ bên trong là lối sống hưởng thụ ích kỷ, là sự hời hợt trong lời cam kết dấn thân. Mối đe doạ từ bên ngoài là nỗi vất vả của đời sống lao động, kinh tế, là sự cuốn hút của những phương tiện truyền thông, là lối sống buông thả đang nhen nhúm trong xã hội. Tất cả những yếu tố bên trong, bên ngoài ấy đang làm cho gia đình trở nên mong manh, đưa đến những hậu quả nặng nề cho các cặp vợ chồng và nhất là cho con cái. Những thống kê chưa đầy đủ về ly dị trong những năm qua cho thấy một tỉ lệ gia tăng đáng sợ.
Trong truyền thống dân tộc thì gia đình là rường cột của xã hội. Giáo huấn của Hội Thánh coi gia đình như chiếc nôi của sự sống và như nhà giáo dục đầu tiên (x. Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 46). Như vậy, ta cần tìm mọi phương thế bảo vệ và củng cố sự bền vững của gia đình, trong đó bậc cao niên cần được chăm lo và trẻ em cần được đùm bọc. Các giáo xứ cần chú trọng đến việc giúp các bạn trẻ chuẩn bị hôn nhân kỹ hơn, bằng cách giúp họ hiểu biết về các phương diện tâm sinh lý, dưỡng nhi, giáo dục, và cần tìm những phương thức đồng hành với các gia đình trẻ để giúp họ vượt qua những khủng hoảng thường xảy ra trong những năm đầu của đời sống hôn nhân. Chúng tôi ước mong mỗi giáo phận có một Văn phòng mục vụ về Hôn nhân và Gia đình, và giữa các giáo phận có sự chia sẻ kinh nghiệm cũng như tài liệu mục vụ. Đó sẽ là bước đầu để tiến tới việc thiết lập một Văn phòng Mục vụ Gia đình ở cấp Hội đồng Giám mục (Thư Chung HĐGMVN 2001, số18).
(2) Bước đi tiên phong của Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh: Thực hiện ước nguyện nêu trên của HĐGMVN, giáo phận Tp HCM đã tiên phong đi trước. Vào tháng 6 năm 2000, Đức Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đã thành lập Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận (BMVGĐGP) . Trong buổi họp đại diện các hội đoàn đang sinh hoạt trong Giáo phận Đức Tổng đã công bố việc thành lập này và đã bổ nhiệm hai linh mục Dòng làm Trưởng và Phó BMVGĐGP và chỉ thị là BMVGĐGP sẽ mời một số linh mục và nam nữ giáo dân làm thành viên.
(a) Một số việc đã thực hiện trong hơn 2 năm qua của BMVGĐGPTpHCM
Cho đến ngày hôm nay chúng ta có thể liệt kê một số công việc nổi bật sau đây của Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận trong khoảng thời gian hơn hai năm (6.2000-10.2002) như sau:
* Trong 6 tháng của năm 2000:
- Tập hợp được 9 cặp vợ chồng thuộc 9 hội đoàn đang hoạt động trong Giáo phận thành một nhóm đi dự Ngày Năm Thánh Gia Đình và Hội nghị thần học về Gia đình vào tháng 10 năm 2000.
- Tổ chức một thánh lễ đặc biệt nhân ngày Thánh góa các Gia đình trong giáo phận vào ngày lễ Thánh Gia cuối tháng 12.2000, tại Nhà thờ Chánh tòa. Trong buổi lễ hội ấy, Nhóm Roma (tức nhóm 9 cặp vợ chồng đi Roma) đã báo cáo một cách sinh động chuyến đi hành hương Năm Thánh của mình cho các đại biểu giáo dân các giáo xứ.
* Trong cả năm 2001:
- Linh mục Trưởng và Phó Ban Mục vụ Gia đình tập hợp được 15 linh mục, đại diện của 15 giáo hạt vào Ban Mục vụ Gia đình. Hiện nay BMVGĐ/GPTpHCM mới chỉ có 17 linh mục. Các linh mục này tham gia vào công việc của Ban ở nhiều mức độ khác nhau.
- Tổ chức một buổi lễ hội đặc biệt nhân ngày Thánh góa các Gia đình trong giáo phận vào ngày lễ Thánh Gia cuối tháng 12.2001, cũng tại Nhà thờ Chánh tòa. Trong buổi lễ hội ấy, có một số gia đình được mời lên làm chứng từ, chia sẻ nỗ lực sống đời sống gia đình cách thánh thiện của họ.
* Trong 10 tháng của  năm 2002 này:
- Cuốn tài liệu GIÁO LÝ HÔN NHÂN mà BMVGĐGP hứa với Đức Tổng là sẽ cho ra mắt vào ngày Lễ Thánh Gia năm 2001 đã không chào đời kịp vào ngày này. BMVGĐGP xin Đức Tổng cho gia hạn đến tháng 3.2002, nhưng  đến nay vẫn chưa hoàn thành.
- Công việc mà BMVGĐGP đang lo toan trong lúc này là lập danh sách các cặp vợ chồng đại diện 15 giáo hạt và một số hội đoàn, để lập đoàn đi dự Hội nghị toàn cầu về Gia đình từ ngày 23 đến ngày 26.01.2003 tới đây tại Manila (Phi-líp-pin). Tập cách chủ đề gợi ý sinh hoạt đã được Ban Mục vụ gia đình giáo phận Phú Cường dịch từ tiếng pháp sang tiếng Việt, nhưng cũng chưa được BMVGĐGP đem vào sinh hoạt trong các giáo xứ.
(b)  Những  việc cần làm của BMVGĐGPTpHCM:
Phải thành thật và công bằng mà nói rằng: Những việc mà BMVGĐGP đã thực hiện trong thời gian hơn hai năm qua, còn quá khiêm tốn so với trách nhiệm nặng nề và sự chờ mong của các gia đình. Ngoài những lý do khách quan, chắc chắn có nhiều lý do chủ quan mà các vị có trách nhiệm chưa xem xét, phân tích và hoạch định. Để đóng góp với BMVGĐGP, chúng tôi mạnh dạn nêu lên một số việc cần làm trong năm 2002 và những năm kế tiếp.
* Xúc tiến việc thành lập Ban Mục vụ Gia Đình Giáo phận thực sự với các thành viên gồm linh mục, tu sĩ và giáo dân nam nữ
Ngày nay trong Giáo hội không ai có thể quan niệm một Ban Mục vụ nào đó có liên quan tới giáo dân mà lại không có thành viên giáo dân, với đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn. Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận Tp Hồ Chí Minh cũng không thể làm khác thông lệ ấy. Cho đến nay – tức gần hai năm sau ngày được công bố – Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận vẫn chỉ gồm có các linh mục (dòng và triều). Không thể nại bất cứ lý do gì để trì hoãn việc hình thành Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận với đầy đủ các thành viên.
Về thành viên Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận thiết tưởng nên gồm đủ mọi thành phần Dân Chúa: có linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân nam nữ. Đi vào cụ thể Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận nên có hai loại thành phần: thành phần đại diện các giáo hạt, các hội đoàn giáo dân và thành phần chuyên môn.
Về thành viên đại diện các giáo hạt thì Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận đã có 15 linh mục đặc trách Mục vụ Gia đình của 15 giáo hạt. Nên có thêm 15 giáo dân đại diện cho 15 giáo hạt và 10-12 giáo dân đại diện 10-12 hội đoàn giáo dân. Giáo dân đại diện giáo hạt thì do linh mục Hạt trưởng đề cử sau khi tham khảo ý kiến các linh mục trong hạt. Giáo dân đại diện các hội đoàn thì do chính Ban Phụ trách các hội đoàn ấy đề cử. Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận chỉ cần nêu một số tiêu chuẩn tương đối để các hạt và các hội đoàn dựa vào đó mà chọn người. Như vậy Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận sẽ có khoảng 40-45 thành viên đại diện.
Về thành viên chuyên môn thì Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận nên mời một số linh mục, tu sĩ và giáo dân chuyên về Giáo lý, Giáo luật, Dân luật, Tâm lý, Xã hội, Giáo dục, Tư vấn…. Số thành viên chuyên môn nên bằng ½ hay 2/5 số thành viên đại diện. Cơ cấu Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận như thế thì mọi hoạt động sẽ có nhiều thuận lợi sau này vì Ban vừa có các chuyên viên, vừa có các đại diện giáo hạt và hội đoàn trong giáo phận.
Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận sẽ gồm khoảng 60-70 thành viên, một con số chấp nhận được về mặt tổ chức. Từ số 60-70 thành viên này sẽ hình thành Ban Thường Thực và một số Ban chuyên môn, chịu trách nhiệm một số lãnh vực hoạt động quan trọng nhất của Ban. Cũng từ số 60-70 thành viên này, Ban Mục Vụ Gia đình Giáo phận sẽ dần dần lên được Chương Trình Hành động một năm, hai năm hoặc năm năm.
* Xúc tiến việc soạn thảo một nội qui với những qui định tối thiểu:
Một nhóm nhỏ, một ê-kíp làm việc chung với nhau cũng đã cần có một số qui định tối thiểu mà ai nấy đều tán thành và chấp hành. Huống chi một Ban quan trọng như Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận thành phố Hồ Chí Minh thì thiết tưởng ngay từ bước đầu, nên có một bản Nội Qui tuy nhẹ nhàng nhưng đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ, thành phần, nhiệm kỳ, quyền lợi và bổn phận.
*  Xúc tiến việc xây dựng Văn Phòng Mục Vụ Gia đình Giáo phận:
Cùng với việc hình thành Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận với đầy đủ thành viên, nên xây dựng ngay một Văn phòng Mục vụ Gia đình Giáo phận với các chức năng thông thường: điều hành, tổ chức, tiếp xúc, tư vấn, sách vở tài liệu, phim ảnh.
*  Xúc tiến việc tổ chức các buổi gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, học hỏi với nhau giữa các linh mục, tu sĩ, giáo dân đang hoạt động trong lãnh vực gia đình:
Một trong những sinh hoạt cần thiết và bổ ích hiện nay là Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận đứng ra tổ chức các buổi gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau giữa các linh mục, tu sĩ và giáo dân đang hoạt động trong lãnh vực gia đình. Những buổi này chắc chắn sẽ đem lại nhiều ích lợi to lớn cho các đương sự và cho hoạt động của Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận.
*  Xúc tiến việc tổ chức các khóa tập huấn, đào tạo dành riêng cho những người đang hoạt động trong lãnh vực Mục vụ gia đình kể cả các tu sĩ và linh mục.
Cũng nên tổ chức các Khóa tập huấn thích hợp cho các anh chị em giáo dân đang cộng tác với các linh mục trong công tác chuẩn bị hôn nhân gia đình hay tư vấn gia đình tại các giáo xứ.  Có hai hạng người mà BMVGĐGP cần quan tâm đào tạo là các giáo lý viên hôn nhân và các nhân viên Mục vụ Gia đình. Các giáo lý viên dạy các khóa chuẩn bị hôn nhân cần nắm vững giáo lý chẳng những về hôn nhân gia đình mà còn về tính dục, giáo luật, việc sinh sản con cái theo tinh thần Kitô giáo. Các nhân viên mục vụ gia đình là những người đảm trách một công tác nào đó của Mục vụ Gia đình: tổ chức các khóa chuẩn bị hôn nhân; làm công tác tư  vấn tâm lý, tình yêu, hôn nhân và gia đình; tổ chức các loại hình sinh hoạt Mục vụ Gia đình v.v….
 
IV. THẢO LUẬN VÀ ỨNG DỤNG
4.1 Trong giáo phận Sài-gòn của chúng ta, đã có ban Mục vụ Gia đình từ vài năm nay. Bạn đã nghe nói gì về hoạt động của ban ấy chưa? Theo bạn thì ban Mục vụ Gia đình giáo phận phải làm gì để nâng đỡ và thăng tiến các gia đình công giáo trong giáo phận?
4.2 Theo một nguồn tin đáng tin cậy thì trong Hội nghị thường niên năm nay, Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) sẽ công bố một Thư Mục vụ về Gia đình.
(a) Bạn muốn Thư Mục vụ về Gia đình của HĐGMVN sẽ đề cập đến những vấn đề gì?
(b) Theo bạn chúng ta phải làm thế nào để Thư Mục vụ ấy đi vào cuộc sống của các gia đình?
     4.3 Cũng theo một nguồn tin đáng tin cậy thì trong Hội nghị thường niên năm nay, Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) sẽ thành lập một Uỷ Ban mới gọi là Uy Ban Giám mục về Gia đình.
     (a) Bạn có đề nghị gì với Uy Ban Giám mục về Gia đình của HĐGMVN?
     (b) Theo bạn thì Uy ban ấy nên hoạt động như thế nào để tránh tình trạng “hữu danh vô thực” mà có hiệu quả thực sự?
 

 
KINH CẦU CHO GIA ĐÌNH
(của Đức Gioan Phaolô II)
 
Lạy Chúa là Nguồn mọi tình phụ tử trên trời dưới đất,
Chúa là Cha, là Tình Yêu và là Sự Sống,
nhờ Con Cha, Đức Giêsu Kitô “sinh ra bởi một phụ nữ”
và nhờ Thánh Thần, Nguồn mạch Tình yêu Cha,
Xin làm cho mọi gia đình trên trái đất này,
trở nên đền thánh đích thực của sự sống và tình yêu
cho các thế hệ không ngừng tiếp nối.
*****
Xin ân sủng Cha luôn hướng dẫn tư tưởng
và hành động của các đôi bạn,
biết hướng tới lợi ích lớn lao của gia đình họ,
và của mọi gia đình trên thế giới.
*****
Xin cho các thế hệ trẻ
gặp được trong các gia đình sự  đỡ nâng vững mạnh
giúp họ mỗi ngàysống nhân bản hơn
và làm cho họ lớn lên trong chân lý và tình yêu,
Xin cho tình yêu, được ân sủng bí tích hôn nhân củng cố,
trở nên mãnh liệt hơn mọi yếu đuối, mọi khủng hoảng
thường xẩy đến trong gia đình chúng con.
****
Sau hết, chúng con nài xin Cha
nhờ lời chuyển cầu của Thánh Gia Nadarét,
Hội thánh có thể chu toàn cách kết quả sứ mệnh của mình
trong gia đình và nhờ gia đình
tại tất cả các quốc gia trên trái đất.
****
Cha là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống
Trong sự hiệp nhất của Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Amen.
 
 

 
PHỤ CHƯƠNG
 
Sau hai khóa tập huấn về Mục Vụ Gia đình dành cho các tu sĩ Dòng Thánh Thể Việt Nam thuộc cộng đoàn Đức Mẹ Mông Triệu (tháng 8.2002) và cho các nam nữ tu sĩ Học viện Liên Dòng Thánh Tôma (tháng 10.2002), tập tài liệu MỤC VỤ GIA ĐÌNH đã được sửa và bổ sung thêm. Ngoài ra Phần Phụ Chương này sẽ giúp cho Tập Tài liệu hoàn chỉnh hơn.
Phần Phụ Chương gồm ba tài liệu:
Tài liệu I: Bản đúc kết về “các điều kiện cần có của một nhân viên Mục vụ Gia đình và của một giáo lý viên dạy Giáo lý Hôn nhân Gia đình” của lớp thần học 3 Học viện liên dòng Thánh Tôma, niên khóa 2002-2003. Đây là kết quả của một buổi sinh hoạt tổ về đề tài XII: Việc đào tạo các nhân viên Mục vụ Gia đình. 
Tài liệu II: Thư Mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam về hôn nhân và gia đình, được phổ biến ngày 11.10.2002 sau hội nghị thường niên năm 2002 tại Hà Nội.
Tài liệu III: Bài “Tìm hiểu & Thực hiện Thư Mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam về hôn nhân và gia đình”. Bài viết nhằm mục đích giúp các thành phần Giáo hội hiểu rõ hơn nội dung và cấu trúc của Thư Mục Vụ 2002 của Hội đồng Giám mục Việt Nam và tích cực đem “các phương thế cụ thể và thực tiễn” mà các Giám Mục đã đề ra vào cuộc sống của các giáo phận, giáo xứ và gia đình.

 
TÀI LIỆU I.
BẢN ĐÚC KẾT VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN CÓ CỦA MỘT NHÂN VIÊN MỤC VỤ GIA ĐÌNH VÀ CỦA MỘT GIÁO LÝ VIÊN DẠY GIÁO LÝ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH CỦA LỚP THẦN HỌC III HỌC VIỆN LIÊN DÒNG THÁNH TOMA, NIÊN KHÓA 2002-2003.
 
TỔ I:
 
ĐIỀU KIỆN CẦN CÓ
 
CỦA MỘT NHÂN VIÊN
MỤC VỤ GIA ĐÌNH
CỦA MỘT GIÁO LÝ VIÊN DẠY
GIÁO LÝ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
1.      Đời sống nhân bản:
* Đời sống nhân bản trưởng thành.
* Đời sống gương mẫu.
* Biết lắng nghe, quan tâm.
* Có lòng nhiệt thành, yêu mến gia đình.
* Có lòng quảng đại hy sinh.
* Nhậy bén trước các vấn đề gia đình.
* Có khả năng giao tiếp.
* Đời sống kinh tế ổn định.
2.      Kiến thức:
* Có trình độ văn hóa.
* Kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm.
* Phương pháp sư phạm.
* Cách tổ chức quản trị.
* Có Văn phòng mục vụ tư vấn về gia đình.
* Hiểu biết thêm các tài liệu của Giáo hội.
3. Đời sống tâm linh:
* Đời sống Kitô hữu vững chắc.
* Có đời sống cầu nguyện cao.
 
1.      Đời sống nhân bản:
* Đời sống nhân bản trưởng thành.
* Đời sống gương mẫu.
* Biết lắng nghe, quan tâm.
* Có lòng nhiệt thành, yêu mến.
* Lòng quảng đại, hy sinh.
 
 
 
2.      Kiến thức:
* Có trình độ văn hóa.
* Kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm.
* Phương pháp sư phạm.
* Cách tổ chức quản trị.
* Có Văn phòng mục vụ tư vấn về gia đình.
* Hiểu biết thêm các tài liệu của Giáo hội.
3. Đời sống tâm linh:
* Đời sống Kitô hữu vững chắc.
* Có đời sống cầu nguyện cao.
 
 

 
TỔ II:
ĐIỀU KIỆN CẦN CÓ
 
CỦA MỘT NHÂN VIÊN
MỤC VỤ GIA ĐÌNH
CỦA MỘT GIÁO LÝ VIÊN DẠY
GIÁO LÝ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
1.Có kỹ năng chuyên môn:
* Đạo: Kinh Thánh, Giáo huấn, Giáo lý Công giáo.
* Đời: Sư phạm, Y khoa, Luật pháp, Tâm lý, Xã hội, Giáo dục.
2. Thời gian: Trên lớp và ngoài giờ phải đủ.
3. Có đời sống: Tâm linh, Nhân bản.
4. Có đời sống gương mẫu.
5. Nhiệt tâm trong công tác
6. Có những khóa bồi dưỡng về chuyên môn để đáp ứng nhu cầu của thực tại.
7. Tổ chức các cuộc học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giữa các nhân viên để nâng cao và phổ cập những kiến thức mới.
8. Nếu có điều kiện nên gửi các nhân viên đi học chuyên sâu
9. Hiểu biết về tầm quan trọng của công tác Mục vụ gia đình.
 
1. Có kỹ năng chuyên môn:
* Đạo: Kiến thức về Giáo lý Hôn nhân gia đình.
* Đời: - Sư phạm chuyên môn.
           - Cách thức tổ chức.
2. Thời gian: chủ yếu trên lớp.
3. Có đời sống: Nhân bản,Tâm linh.
4. Có đời sống gương mẫu.
5. Nhiệt tâm trong công tác.
6. Có những khóa bồi dưỡng về chuyênmôn để đáp ứng nhu cầu thực tại.
7. Tổ chức các buổi học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giữa các giáo lý viên để nâng cao và phổ cập những kiến thức mới.
8. Nếu có điều kiện nên gửi các giáo lý viên đi học chuyên sâu
9. Hiểu biết về tầm quan trọng của công tác Mục vụ hôn nhân gia đình.
 
 

 
TỔ III:
ĐIỀU KIỆN CẦN CÓ
 
CỦA MỘT NHÂN VIÊN
MỤC VỤ GIA ĐÌNH
CỦA MỘT GIÁO LÝ VIÊN DẠY
GIÁO LÝ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
+ Cần phải có đầu-tim-hai bàn tay:
* Tư duy: kiến thức tổng quát về tôn giáo, tâm sinh lý, xã hội.,
* Tim: Cảm nhận được những thao thức của Giáo hội và quan tâm đến các học viên.
* Nhiệt thành và có trách nhiệm trong công việc > dấn thân.
+ Có óc sáng tạo và tổ chức.
+ Có thời gian, kiên nhẫn.
+ Đời sống gương mẫu: đạo và đời.
 
+ Có đầu-tim-hai bàn tay:
* Tư duy: kiến thức chuyên môn, học hỏi các tông huấn Mục vụ gia đình của Giáo hội.
* Tim: Chia sẻ thao thức của Giáo hội bằng cách chia sẻ những đề tài về hôn nhân gia đình.
* Dấn thân: quảng đại trong công tác giảng dạy
+ Linh hoạt trong công tác giảng dạy.
+  Có thời gian, kiên nhẫn.
+  Đời sống nội tâm sâu xa.
+ Có phương pháp sư phạm, có khả năng truyền đạt.
+  Kinh nghiệm sống về những lãnh vực chuyên môn hơn.
 
 

 
TỔ IV:
ĐIỀU KIỆN CẦN CÓ
 
CỦA MỘT NHÂN VIÊN
MỤC VỤ GIA ĐÌNH
CỦA MỘT GIÁO LÝ VIÊN DẠY
GIÁO LÝ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
1. Đời sống tâm linh sâu sắc.
2. Nhân bản và khả năng:
* trưởng thành nhân bản Kitô giáo.
* khả năng đối thoại, lắng nghe, tôn trọng, cảm thông.
* yêu mến con người.
* quan hệ tốt.
* có uy tín, dễ gây thiện cảm.
* khả năng làm việc chung.
3. Kiến thức: tổng quát hơn Giáo lý viên HNGĐ:
* trình độ văn hóa tương đối.
* trình độ chuyên môn:
- giáo lý, giáo huấn GH,
- tâm lý HNGĐ.
- sinh lý và các phương pháp điều hòa sinh sản (đạo, đời).
* nhạy bén với những vần đề, tình huống thực tế.
4. Đời sống:
* gắn bó với TC và GH.
*kinh nghiệm sống gia đình và thiêng liêng.
*  ổn định về vật chất tinh thần.
* có nhiều thời gian cho công tác.
5. Thao thức phục vụ các gia đình.
 
1. Đời sống tâm linh sâu sắc.
2. Nhân bản và khả năng:
* trưởng thành nhân bản.
* khả năng đối thoại, quan hệ, uy tín cần nhưng không đòi hỏi nhiều như các nhân viên MVGĐ.
* khả năng truyền đạt (sư phạm).
* Khả năng làm việc chung.
 
3. Kiến thức: 
* trình độ văn hóa.
* trình độ chuyên môn: nắm vững giáo lý, giáo huấn Giáo hội.
* các vấn đề khác (tâm sinh lý) cần nhưng không đòi hỏi phải toàn diện.
 
 
 
 
4. Đời sống:
* gắn bó với Thiên Chúa và Giáo hội.
* kinh nghiệm sống, thời gian cũng cần nhưng ít hơn Mục vụ Gia đình.
5. Thao thức phục vụ các gia đình.
 
 

 
TÀI LIỆU II.
Thư Mục Vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
THÁNH HOÁ GIA ĐÌNH
 
Gởi: các linh mục, tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân.
1. Chúng tôi, các Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục và các linh mục Giám quản thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, đang họp khoá thường niên tại Thủ đô Hà nội, xin gửi tới anh chị em lời chào thăm và chúc bình an trong Chúa Kitô, Chúa chúng ta.
Trong Thư Chung năm 2001, chúng tôi đã đề cập đến gia đình như một chương trình mục vụ cần lưu tâm trong Thiên niên kỷ mới. Năm nay, tiếp nối lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông huấn Đời sống gia đình (ĐSGĐ) ban hành năm 1981, đồng thời để chào đón cuộc gặp gỡ quốc tế của các gia đình sẽ tổ chức tại Manila vào đầu năm tới, chúng tôi muốn dành Thư mục vụ này cho đề tài hôn nhân và gia đình.
 
I. HIỆN TÌNH HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI VIỆT NAM.
2. Anh chị em thân mến,
Nói đến gia đình Việt Nam, người ta nghĩ ngay tới một nề nếp gia phong rất gần gũi với giáo lý đức tin. Gia đình ấy coi chữ Hiếu làm đầu nên rất sẵn sàng đón nhận ánh sáng Phúc Âm, trong đó điều răn phải thảo kính cha mẹ được xếp ngay sau ba điều răn quy định việc thờ phượng Thiên Chúa. Gia đình ấy xem chữ Tín làm trọng nên dễ dàng gặp thấy nơi điều răn thứ sáu và thứ chín tiếng nói chung nhằm bảo vệ đời sống hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly. Gia đình ấy gồm có ông bà cha mẹ con cháu trên thuận dưới hoà trong một mái nhà đầm ấm, được xem như một môi trường tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển đức tin, nhất là cho việc xưng tụng Thiên Chúa là Cha và coi mọi người như anh chị em. Gia đình ấy sống liên đới với các gia đình khác trong tình làng nghĩa xóm hiệp thông cầu nguyện khi vui cũng như lúc buồn, dần dà tạo nên một hình ảnh đẹp và cụ thể để diễn tả tình huynh đệ Kitô giáo. Chính vì thế, Hội Thánh dù được định nghĩa như là Dân Thiên Chúa, Thân Mình Chúa Kitô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần thường được người Việt Nam hình dung như một gia đình.
3. Tuy nhiên, hình ảnh đẹp về gia đình Việt Nam hiện nay đang có nguy cơ mờ nhạt dần đi. Nguyên do dễ nhận thấy nhất là tiến trình công nghiệp hoá, đô thị hoá. Tiến trình này tự nói đem lại nhiều phúc lợi cho xã hội như những tiện nghi vật chất và cuộc sống văn minh, nhưng đồng thời cũng kéo theo những xáo trộn trong sinh hoạt gia đình, làm ảnh hưởng đến nề nếp gia phong như lôi cuốn một số người đến chỗ hưởng thụ ích kỷ, và xa hơn đến lối sống buông thả sa đà, từ đó làm gia tăng những trường hợp ly dị và làm suy giảm ý thức về phẩm giá sự sống.
Cùng với tiến trình này là hiện tượng di dân ồ ạt về các thành phố lớn để tìm việc làm. Hậu quả là một sống cha mẹ phải sống xa con cái, nên việc giáo dục cơ bản không được lưu tâm đúng mức; một số người trẻ phải rời gia đình đến làm việc ở nơi xa lại, nên dễ bị bóc lột sức lào động và mắc phải những tệ nạn xã hội như xì ke, ma túy hay rơi vào những hoàn cảnh trong đó nhân phẩm bị coi thường; một số trẻ em bị đẩy ra đường phố sống lang thang.
Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng và đa dạng các phương tiện truyền thông xã hội, một mặt cung cấp những thông tin hữu ích giúp thăng tiến con người, nhưng mặt khác lại du nhập những lối sống thiếu lành mạnh, tác hại đến nếp sống đạo đức gia đình như tự do luyến ái, sống chung không cưới xin, dễ dàng sử dụng bạo
 
II. HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG MẠC KHẢI.
4. Trước hiện tình nêu trên, là người Công giáo, chúng ta hãy nhìn đời sống hôn nhân và gia đình dưới ánh sáng Mạc khải nơi Tình Yêu tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa.
 
Hôn nhân
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu (x. 1Ga 4,8). Nếu bản chất của Thiên Chúa là yêu thương và Ngài đã tạo dựng con người theo hình ảnh của chính Ngài (St 1,26), thì bản chất của con người cũng giống bản chất của Thiên Chúa là yêu thương. Chỉ khi nào yêu thương và được yêu thương, con người mới hạnh phúc và đạt được mục tiêu của cuộc sống.
Và Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ. Cả nam và nữ đều là hình ảnh của Thiên Chúa (St 1,27) do đó tự bản chất con người có xã hội tính, và là hình ảnh của Tình Yêu Hiệp Thông Ba Ngôi Thiên Chúa.
Từ nền tảng trên, mọi tình yêu chân thật giữa con người với con người đều hướng tới sự hiệp thông khuôn mẫu này. Do đó, tình yêu trong hôn nhân và gia đình là tình yêu mang lại hạnh phúc vì làm cho con người được thông phần Tình Yêu Ba Nôi Thiên Chúa một cách cụ thể tại trần gian.
5. Nhưng tình yêu giữa Thiên Chúa và con người trong lịch sử cứu độ đã được diễn tả bằng hôn ước, nghĩa là dấu chỉ biểu lộ tương quan giữa Thiên Chúa với Dân Người. Đó là mối tương quan yêu thương, sâu đậm, thắm thiết, mà nhiều trang Kinh Thánh Cựu Ước đã dùng những hình ảnh phu thê để diễn tả.
Giao ước ấy đạt đến tột điểm trong mầu nhiệm Nhập Thể Cứu Chuộc. Nơi Chúa Giêsu, Tình Yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, được biểu lộ cách trọn vẹn - Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến mức độ tự hiến bản thân mình nơi Người Con Một là Đức Giêsu Kitô (Ga 3,16). Thiên Chúa yêu thương đến nỗi mặc lấy bản tính con người, để tự hạ, phục vụ và hiến thân cho con người qua cái chết trên thập giá.
Bí tích Hôn phối là hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại nói chung, và Hội Thánh nói riêng. Như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh thế nào thì trong hôn nhân, người ta cũng được mời gọi để hiến thân, hy sinh, quên mình, phục vụ nhau như
 
Gia đình
6. Ngoài ra, theo ý định của Thiên Chúa, hôn nhân là nền tảng cho một cộng đoàn rộng lớn hơn, tức là gia đình. Nhờ hôn nhân mà đôi bạn trở thành cha mẹ, lãnh nhận nơi Thiên Chúa quả tặng là những người con. Khi cha mẹ yêu thương con cái, họ trở thành dấu chỉ hữu hình của Tình Yêu Thiên Chúa đối với con người. Khi cha mẹ chăm sóc con cái, họ làm thành một cộng đồng hiệp thông những ngôi vị. Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa: Yêu nhau và nên một với nhau mà vẫn hoàn toàn tôn trọng sự khác biệt giữa các ngôi vị.
Từ ý nghĩa ấy, ngay giữa lòng cuộc sống hôn nhân và gia đình, toàn bộ những tương quan liên vị như tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình con thảo, tình anh em được kết dệt, và nhờ đó, mỗi ngôi vị được dẫn đưa vào trong gia đình nhân loại và gia đình Thiên Chúa là Hội Thánh. (ĐSGĐ số 15).
 
III. NHỮNG PHƯƠNG THẾ CỤ THỂ VÀ THIẾT THỰC
7. Chúng tôi biết rằng gia đình anh chị em đã phấn đấu rất nhiều trong mọi khó khăn của cuộc sống để gìn giữ nét đẹp gia đình Kitô giáo, theo khuôn mẫu đời sống hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tuy nhiên, để các gia đình tránh được những nguy cơ rình rập tàn phá, đồng thời ngày càng vững mạnh vươn lên, cũng như ngày càng tiến gần đến hình ảnh lý tưởng mà Chúa mong muốn, cần có sự nỗ lực góp sức của mọi thành phần dân Chúa.
 
Các vị hữu trách
Chúng ta hãy chọn hôn nhân và gia đình như mục tiêu ưu tiên của chương trình mục vụ trong năm 2003.
Cụ thể, các Giáo phận nên có Văn phòng Mục vụ về Hôn nhân và Gia đình.
Các Giáo xứ nên tổ chức các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình, dựa trên Tông huấn Đời sống gia đình của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Để các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình được có kết quả tốt đẹp, cần soạn thảo một chương trình giáo lý hôn nhân, đào tạo một đội ngũ giáo lý viên vững vàng, kêu gọi sự cộng tác của giáo dân có khả năng chuyên môn và có kinh nghiệm trong các lãnh vực: tâm lý, xã hội, pháp luật, quản trị, y khoa
Ban Mục vụ giáo xứ có một bộ phận chuyên trách về gia đình với sự cộng tác của các Hội đoàn quan tâm đến tình trạng các gia đình trong khu xóm, đặc biệt các gia đình nghèo khổ, bất hoà bất thuận và các gia đình di dân, để kịp thời giúp đỡ.
Những ngày lễ gia đình, ngày kỷ niệm thành hôn, những buổi giao lưu giữa các gia đình sẽ rất ích lợi nếu được chuẩn bị chu đáo với tinh thần cầu nguyện và học tập.
 
Các gia đình
8. Tuy nhiên, mục vụ gia đình chỉ thực sự có kết quả khi các gia đình tự ý thức, tích cực tham gia các chương trình học hỏi và nhất là chủ động canh tân đời sống gia đình bằng đổi mới chính bản thân.
Gia đình là nôi, là trường học đầu tiên, nơi con cái lớn lên cả về thể xác lẫn tinh thần, nơi con cái không chỉ được dạy dỗ bằng lời nói mà còn bằng gương sáng. Vì thế cha mẹ không chỉ lo cho con cái được rửa tội mà còn phải lo cho đức tin con cái được lớn lên trong bầu khí gia đình đạo đức chan hoà tình mến Chúa yêu người. Hướng dẫn con cái trân trọng tình liên đới trong mối liên hệ bác ái giữa các thành viên trong gia tộc.
Để con cái tiến bộ về mọi mặt, cha mẹ cần quan tâm làm trong sạch môi trường sách báo, phim ảnh, bạn bè của con cái mình.
Một gia đình Kitô hữu thực sự tốt đẹp không thể chỉ đóng kín trong những sinh hoạt riêng tư, nhưng cần mở rộng mối quan hệ với những gia đình chung quanh, để kính trọng yêu thương, trao đổi học hỏi và quan tâm giúp đỡ, góp phần phát triển nên văn minh tình thương.
 
Kết luận
9.Tương lai nhân loại sẽ đến qua gia đình(ĐSGĐ số 86). Vì thế, tất cả mọi người hữu trách và mọi người thiện chí đều phải quan tâm đến việc bảo vệ và thăng tiến các giá trị đời sống gia đình. Dẫu cho có những bóng tối và khó khăn che lấp đi phần nào sự cao đẹp của những giá trị hôn nhân và gia đình, nhưng các Kitô hữu vẫn luôn được mời gọi vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa để trở thành sứ giả loan báo Tin Mừng về gia đình cho thế giới hôm nay, và để các gia đình Kitô hữu trở nên tin mừng cho Thiên niên kỷ thứ ba.
Trước khi kết thúc, chúng ta hãy nhìn lên Thánh Gia Thất ở Nazareth như nguyên mẫu và tấm gương của mọi gia đình Kitô hữu. Thánh Gia Thất đã sống khiêm tốn, khó nghèo, đã bị thử thách, bị bắt bớ, bị lưu đày, nhưng các Ngài đã vượt qua nhờ lòng tín thác vào Thiên Chúa. Các Ngài vẫn luôn bảo trợ và giúp đỡ các gia đình chúng ta. Chúng ta hãy năng cầu nguyện cùng các Ngài.
10. Lạy Thánh Gia Nazareth, là gương mẫu của đời sống thánh thiện, công bình và yêu thương, xin cho gia đình chúng con trở nên nơi đào tạo nhân đức, trong hiền hoà, phục vụ và cầu nguyện. Xin cho chúng con xây dựng gia đình, thành nơi an ủi cho cuộc đời đầy thử thách. Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình, được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội, và cộng tác trong việc xây dựng Giáo Hội. Xin Ba Đấng luôn hiện diện trong gia đình chúng con, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi lo âu cũng như lúc hy vọng, khi sinh con cũng như lúc có kẻ qua đời, để khi trải qua mọi thăng trần của cuộc sống, chúng con luôn luôn chúc tụng Chúa, cho đến ngày được sum họp với Ba Đấng trong Nước trời. Amen
 
Hà Nội, ngày 11 tháng 10 năm 2002
TM/HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Chủ tịch
 
Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn Tổng Thư ký
 
TÀI LIỆU III:
TÌM HIỂU & THỰC HIỆN THƯ MỤC VỤ
VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
 
NHẬP ĐỀ
Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) họp thường niên tại Hà Nội từ ngày 7 đến ngày 11.10.2002. Kết thúc Hội nghị, HĐGMVN đã phổ biến Thư Mục vụ (TMV) về hôn nhân và gia đình như đã hứa với cộng đồng Dân Chúa. Chúng ta còn nhớ là trong hội nghị thường niên năm trước, HĐGMVN đã hứa sẽ ban hành một TMV về gia đình vào dịp hội nghị thường niên năm nay khi các ngài lưu ý đến vấn đề gia đình và cho rằng Giáo hội nên quan tâm đặc biệt đến gia đình trong chương trình mục vụ ở ngàn năm thứ ba.
Chúng ta thử tìm hiểu cấu trúc và nội dung của TMV và tìm ra các biện pháp thích hợp nhất để thực hiện các hướng dẫn của HĐGMVN trong đời sống gia đình, giáo xứ và giáo phận hiện nay và trong tương lai.
 
PHẦN THỨ NHẤT: TÌM HIỂU THƯ MỤC VỤ HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
TMV về vấn đề hôn nhân và gia đình của HĐGMVN mang tựa đề: THÁNH HÓA GIA ĐÌNH. TMV năm nay tuy ngắn, nhưng xúc tích và đầy đủ. Bố cục chặt chẽ, tư  tưởng lô gíc, trong sáng, dễ hiểu: Sau lời mở đầu  nêu lý do (số 1), TMV đề cập đến “HIỆN TÌNH  HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI VIỆT NAM” trong phần thứ nhất (số 2-3), trình bày “HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA MẠC KHẢI” trong phần thứ hai (số 4-6), đưa ra NHỮNG PHƯƠNG THẾ CỤ THỂ VÀ THIẾT THỰC trong phần thứ ba (số 7-8) và kết thúc bằng lời kết và lời cầu nguyện cho các gia đình (số 9-10).
 
* PHẦN MỞ ĐẦU CỦA THƯ MỤC VỤ (Số 1).  
Trong phần mở đầu, HĐGMVN nêu ba lý do của việc chọn đề tài ‘hôn nhân và gia đình’ cho TMV năm nay. Đó là:
(1o) HĐGMVN nhắc lại mối quan tâm và sự lưu ý của mình về gia đình đã được nêu lên trong Thư Chung 2001 (1).
(2o) HĐGMVN muốn tiếp nối lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong tông huấn “đời sống gia đình” (Familiaris Consortio) đã được ban hành ngày 22.11.1981, tức cách nay 21 năm (2).
 (3o) HĐGMVN chào đón cuộc gặp gỡ quốc tế của các gia đình sẽ được tổ chức tại Manila (Philíppin) vào ngày 23-26.1.2003 sắp tới. Chủ đề của cuộc gặp gỡ này là “Gia đình Kitô giáo là tin mừng cho thiên niên kỷ thứ ba” (3).
 
* PHẦN I CỦA THƯ MỤC VỤ: HIỆN TÌNH HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI VIỆT NAM (Số 2-3). 
Trong phần thứ nhất về hiện tình hôn nhân và gia đình tại Việt Nam, TMV nêu lên nét đẹp văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam và nguy cơ đe dọa các gia đình hiện nay:
1. Trước hết TMV làm nổi bật nét đẹp văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam, rất gần với Đạo Chúa và rất thuận lợi cho việc đón nhận Tin Mừng Kitô giáo khi nêu lên những giá trị truyền thống: nề nếp gia phong, chữ hiếu, chữ tín, sự thuận hòa, tình làng nghĩa xóm:
“Nói đến gia đình Việt Nam, người ta nghĩ ngay tới một nề nếp gia phong rất gần gũi với giáo lý đức tin. Gia đình ấy coi chữ Hiếu làm đầu nên rất sẵn sàng đón nhận ánh sáng Phúc Âm, trong đó điều răn phải thảo kính cha mẹ được xếp ngay sau ba điều răn quy định việc thờ phượng Thiên Chúa. Gia đình ấy xem chữ Tín làm trọng nên dễ dàng gặp thấy nơi điều răn thứ sáu và thứ chín tiếng nói chung nhằm bảo vệ đời sống hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly. Gia đình ấy gồm có ông bà cha mẹ con cháu trên thuận dưới hoà trong một mái nhà đầm ấm, được xem như một môi trường tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển đức tin, nhất là cho việc xưng tụng Thiên Chúa là Cha và coi mọi người như anh chị em. Gia đình ấy sống liên đới với các gia đình khác trong tình làng nghĩa xóm hiệp thông cầu nguyện khi vui cũng như lúc buồn, dần dà tạo nên một hình ảnh đẹp và cụ thể để diễn tả tình huynh đệ Kitô giáo. Chính vì thế, Hội Thánh dù được định nghĩa như là Dân Thiên Chúa, Thân Mình Chúa Kitô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần thường được người Việt Nam hình dung như một gia đình” (Số 2).
2. Kế đến TMV đề cập đến các nguy cơ đang đe dọa các gia đình Việt Nam. Đó là tiến trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự phát triển các phương tiện thông tin đại chúng hay chính xác hơn là những hậu quả tiêu cực của ba tác nhân trên.
Hậu quả tiêu cực của tiến trình công nghiệp hóa là tiến trình ấy
“kéo theo những xáo trộn trong sinh hoạt gia đình, làm ảnh hưởng đến nề nếp gia phong như lôi cuốn một số người đến chỗ hưởng thụ ích kỷ, và xa hơn đến lối sống buông thả sa đà, từ đó làm gia tăng những trường hợp ly dị và làm suy giảm ý thức về phẩm giá sự sống”.
Hậu quả tiêu cực của tiến trình đô thị hóa là tiến trình ấy khiến
            “một số cha mẹ phải sống xa con cái, nên việc giáo dục cơ bản không được lưu tâm đúng mức; một số người trẻ phải rời gia đình đến làm việc ở nơi xa lại, nên dễ bị bóc lột sức lào động và mắc phải những tệ nạn xã hội như xì ke, ma túy hay rơi vào những hoàn cảnh trong đó nhân phẩm bị coi thường; một số trẻ em bị đẩy ra đường phố sống lang thang”.
Hậu quả tiêu cực của sự phát triển nhanh chóng và đa dạng các phương tiện truyền thông xã hội là
“du nhập những lối sống thiếu lành mạnh, tác hại đến nếp sống đạo đức gia đình như tự do luyến ái, sống chung không cưới xin, dễ dàng sử dụng bạo lực” (Số 3).
* PHẦN II CỦA THƯ MỤC VỤ: HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG MẠC KHẢI (Số 4-6).  
Trong phần thứ hai về hôn nhân và gia đình dưới ánh sáng mạc khải, TMV lần lượt trình bày hôn nhân rồi gia đình dưới ánh sáng mạc khải Kitô giáo.
1. Trước tiên là hôn nhân dưới ánh sáng mạc khải:
”Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu(x. 1Ga 4,8). Nếu bản chất của Thiên Chúa là yêu thương và Ngài đã tạo dựng con người theo hình ảnh của chính Ngài (St 1,26), thì bản chất của con người cũng giống bản chất của Thiên Chúa là yêu thương. Chỉ khi nào yêu thương và được yêu thương, con người mới hạnh phúc và đạt được mục tiêu của cuộc sống.
Và Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ. Cả nam và nữ đều là hình ảnh của Thiên Chúa (St 1,27) do đó tự bản chất con người có xã hội tính, và là hình ảnh của Tình Yêu Hiệp Thông Ba Ngôi Thiên Chúa.
Từ nền tảng trên, mọi tình yêu chân thật giữa con người với con người đều hướng tới sự hiệp thông khuôn mẫu này. Do đó, tình yêu trong hôn nhân và gia đình là tình yêu mang lại hạnh phúc vì làm cho con người được thông phần Tình Yêu Ba Nôi Thiên Chúa một cách cụ thể tại trần gian”. (Số 4).
Nhưng tình yêu giữa Thiên Chúa và con người trong lịch sử cứu độ đã được diễn tả bằng hôn ước, nghĩa là dấu chỉ biểu lộ tương quan giữa Thiên Chúa với Dân Người. Đó là mối tương quan yêu thương, sâu đậm, thắm thiết, mà nhiều trang Kinh Thánh Cựu Ước đã dùng những hình ảnh phu thê để diễn tả.
Giao ước ấy đạt đến tột điểm trong mầu nhiệm Nhập Thể Cứu Chuộc. Nơi Chúa Giêsu, Tình Yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, được biểu lộ cách trọn vẹn - Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến mức độ tự hiến bản thân mình nơi Người Con Một là Đức Giêsu Kitô (Ga 3,16). Thiên Chúa yêu thương đến nỗi mặc lấy bản tính con người, để tự hạ, phục vụ và hiến thân cho con người qua cái chết trên thập giá.
Bí tích Hôn phối là hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại nói chung, và Hội Thánh nói riêng. Như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh thế nào thì trong hôn nhân, người ta cũng được mời gọi để hiến thân, hy sinh, quên mình, phục vụ nhau như (Số 5).
2. Rồi đến gia đình dưới ánh sáng mạc khải:
“Ngoài ra, theo ý định của Thiên Chúa, hôn nhân là nền tảng cho một cộng đoàn rộng lớn hơn, tức là gia đình. Nhờ hôn nhân mà đôi bạn trở thành cha mẹ, lãnh nhận nơi Thiên Chúa quả tặng là những người con. Khi cha mẹ yêu thương con cái, họ trở thành dấu chỉ hữu hình của Tình Yêu Thiên Chúa đối với con người. Khi cha mẹ chăm sóc con cái, họ làm thành một cộng đồng hiệp thông những ngôi vị. Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa: Yêu nhau và nên một với nhau mà vẫn hoàn toàn tôn trọng sự khác biệt giữa các ngôi vị.
Từ ý nghĩa ấy, ngay giữa lòng cuộc sống hôn nhân và gia đình, toàn bộ những tương quan liên vị như tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình con thảo, tình anh em được kết dệt, và nhờ đó, mỗi ngôi vị được dẫn đưa vào trong gia đình nhân loại và gia đình Thiên Chúa là Hội Thánh. (ĐSGĐ số 15)”. (Số 6).
 
* PHẦN III CỦA THƯ MỤC VỤ: NHỮNG PHƯƠNG THẾ CỤ THỂ VÀ THIẾT THỰC (Số 7-8).  
Trong phần thứ ba, khi nói về các phương thế cụ thể và thiết thực TMV nêu lên hai hạng người như là chủ thể thực hiện các phương thế ấy. Đó là các vị hữu trách và các gia đình.
1. Với các vị hữu trách, HĐGMVN nêu lên định hướng chung cho Giáo hội Việt Nam là “chọn hôn nhân và gia đình như mục tiêu  ưu tiên của chương trình mục vụ trong năm 2003” và đưa ra những phương thế cụ thể và thiết thực sau đây (số 7):
(1o) Các giáo phận nên có Văn phòng Mục vụ về hôn nhân và gia đình.
(2o) Các giáo xứ nên tổ chức các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình, dựa trên tông huấn ‘đời sống gia đình’ của Đức Gioan Phaolô II.
(3o) Cần soạn thảo một chương trình giáo lý hôn nhân.
(4o) Đào tạo một đội ngũ giáo lý viên vững vàng.
(5o) Kêu gọi sự cộng tác của giáo dân cho khả năng chuyên môn và có kinh nghiệm trong các lãnh vực: tâm lý, xã hội, pháp luật, quản trị, ý khoa.
(6o) Có bộ phận chuyên trách về gia đình trong Ban Mục vụ giáo xứ.
(7o) Tổ chức các sinh hoạt Mục vụ gia đình vào những dịp đặc biệt và thích hợp.
2. Với các gia đình, HĐGMVN nhấn mạnh đến vai trò chủ chốt của gia đình:
“Mục vụ gia đình chỉ thực sự có kết quả khi các gia đình tự ý thức, tích cực tham gia về các chương trình học hỏi và nhất là chủ động canh tân đời sống gia đình bằng đổi mới chính bản thân”  và lưu ý các gia đình về một số việc cụ thể sau đây (số 8):
(1o) Cha mẹ làm gương sáng trong giáo dục con cái.
(2o) Cha mẹ lo phát triển đời sống đức tin cho con cái.
(3o) Cha mẹ hướng dẫn con cái biết sống tình liên đới trong các mối tương quan gia đình và xã hội.
(4o) Cha mẹ quan tâm đến việc làm trong sạch môi trường sách báo, phim ảnh, bạn bè của con cái.
(5o) Cha mẹ mở rộng mối quan hệ của gia đình với các gia đình chung quanh để kính trọng, yêu thương, trao đổi, học hỏi và quan tâm giúp đỡ, góp phần phát triển nền văn minh tình thương.
 
*PHẦN KẾT CỦA THƯ MỤC VỤ (Số 9-10).
Trong phần kết, TMV có một lời kết và một lời cầu cho các gia đình. Trong lời kết TMV nhắc lại khẳng định của Đức Gioan Phaolô II trong tông huấn ‘đời sống gia đình’ “Tương lai nhân loại sẽ đến qua gia đình” (ĐSGĐ số 86), để kêu gọi mọi người –hữu trách, cha mẹ và thành tâm thiện chí- phải quan tâm đến việc bảo vệ và thăng tiến các giá trị đời sống gia đình. TMV nhấn mạnh:
“Dẫu cho có những bóng tối và khó khăn che lấp đi phần nào sự cao đẹp của những giá trị hôn nhân và gia đình, nhưng các Kitô hữu vẫn luôn được mời gọi vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa để trở thành sứ giả loan báo Tin Mừng về gia đình cho thế giới hôm nay, và để các gia đình Kitô hữu trở nên tin mừng cho Thiên niên kỷ thứ ba”. (Số 9).
 Để kết thúc thư TMV các Giám mục Việt Nam dâng lên Thánh Gia Thất Nazareth lời cầu nguyện cho các gia đình:
“Lạy Thánh Gia Nazareth, là gương mẫu của đời sống thánh thiện, công bình và yêu thương, xin cho gia đình chúng con trở nên nơi đào tạo nhân đức, trong hiền hoà, phục vụ và cầu nguyện. Xin cho chúng con xây dựng gia đình, thành nơi an ủi cho cuộc đời đầy thử thách. Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình, được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội, và cộng tác trong việc xây dựng Giáo Hội. Xin Ba Đấng luôn hiện diện trong gia đình chúng con, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi lo âu cũng như lúc hy vọng, khi sinh con cũng như lúc có kẻ qua đời, để khi trải qua mọi thăng trần của cuộc sống, chúng con luôn luôn chúc tụng Chúa, cho đến ngày được sum họp với Ba Đấng trong Nước trời. Amen” (Số 10).
 
PHẦN THỨ HAI: GÓP Ý ĐỂ THỰC HIỆN THƯ MỤC VỤ HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
I. NHẮC LẠI CÁC PHƯƠNG THẾ CỤ THỂ VÀ THIẾT THỰC CỦA TMV:
Tuy ngắn gọn, đơn sơ, dễ hiểu nhưng TMV của HĐGMVN năm nay chứa đựng những  nội dung giáo lý căn bản của Kitô giáo về hôn nhân và gia đình. Đó là một điểm son mà chúng ta phải ghi nhận. Điểm son thứ hai -quan trọng và mới mẻ hơn - của TMV năm 2002 này là HĐGMVN đã đưa ra những phương thế cụ thể và thiết thực cho các vị hữu trách và cho các gia đình. Phải chăng chúng ta có thể hiểu các vị hữu trách trong TMV là các cơ cấu và các người có trách nhiệm về mục vụ Gia đình được nêu lên trong tông huấn ‘đời sống gia đình’ của Đức Gioan Phaolô II. Theo tông huấn này thì các cơ cấu của mục vụ gia đình là (a) cộng đồng Giáo hội, (b) giáo xứ, (c) gia đình, (d) các hiệp hội gia đình (ĐSGĐ số 69-72) và những người có trách nhiệm về mục vụ gia đình là (a) giám mục, (b) các linh mục và phó tế, (c) các tu sĩ nam nữ (d) các giáo dân chuyên môn và (đ) các người sử dụng và các nhân viên ngành truyền thông xã hội (ĐSGĐ số 73-76).
Trong các phương thế cụ thể và thiết thực mà TMV đã đưa ra, có những phương thế thuộc cấp giáo phận, có những phương thế thuộc cấp giáo xứ, và có những công việc thuộc trách nhiệm các bậc cha mẹ trong gia đình. 
1. Có 5 công việc thuộc cấp giáo phận, là:
(1o) Xác định ‘hôn nhân và gia đình là ưu tiên hàng đầu’ trong đường hướng mục vụ năm 2003 của giáo phận.
(2o) Hình thành Văn phòng mục vụ về hôn nhân và gia đình trong giáo phận,
(3o) Soạn thảo một chương trình giáo lý hôn nhân.
(4o) Đào tạo một đội ngũ giáo lý viên vững vàng.
(5o) Kêu gọi sự cộng tác của giáo dân có khả năng chuyên môn về các ngành có liên quan tới đời sống hôn nhân và gia đình. 
2. Có 4 công việc thuộc cấp giáo xứ, là:
(1o) Tổ chức các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình, không chỉ cho những người sắp bước vào đời sống hôn nhân gia đình mà cho cả những người đang sống đời sống gia đình. Lý do là nội dung và thời gian dành cho lớp/khóa chuẩn bị hôn nhân gia đình rất hạn chế, không thể coi đó là đủ cho sự giáo dục gia đình về các lãnh vực nhân bản và tâm linh.
(2o) Mời gọi sự cộng tác của giáo dân chuyên môn.
(3o) Thành lập bộ phận chuyên trách về gia đình nằm trong Ban Mục vụ giáo xứ và
(4o) Tổ chức các sinh hoạt mục vụ gia đình vào những dịp thuận lợi.
3. Còn thuộc trách nhiệm của các bậc làm cha làm mẹ cũng có 5 việc nêu trong số 8 TMV, là:
(1o) Cha mẹ làm gương sáng trong giáo dục con cái.
(2o) Cha mẹ lo phát triển đời sống đức tin cho con cái.
(3o) Cha mẹ hướng dẫn con cái biết sống tình liên đới trong các mối tương quan gia đình và xã hội.
(4o) Cha mẹ quan tâm đến việc làm trong sạch môi trường sách báo, phim ảnh, bạn bè của con cái.
(5o) Cha mẹ mở rộng mối quan hệ của gia đình với các gia đình chung quanh để kính trọng, yêu thương, trao đổi, học hỏi và quan tâm giúp đỡ, góp phần phát triển nền văn minh tình thương.
II. GÓP Ý NHẰM THỰC HIỆN TỐT THƯ MỤC VỤ
Nếu chúng ta nhất trí với nhau về chân lý đức Tin GIÁO HỘI LÀ MỘT CỘNG ĐOÀN MÀ MỌI KITÔ HỮU CÓ PHẦN & PHẢI GÓP PHẦN và khởi đi từ chân lý ấy thì không những chúng ta có thể mà chúng ta còn có trách nhiệm trao đổi, thảo luận, bàn bạc với nhau để tìm mọi cách thực thi các chỉ dẫn vàng ngọc của HĐGMVN. Mặt khác những phương thế mà TMV đưa ra chỉ thực sựtrở thành cụ thể và thiết thực nếu các vị hữu trách và các bậc cha mẹ hăng hái và tích cực thực thi các phương thế ấy. Đối chiếu với thực tế, chắc chắn các giáo phận, các giáo xứ và các gia đình đã và đang thực hiện nhiều điều, nhưng cũng chưa thực hiện một số điều. Ngoài một số góp ý đã được nêu trong Chương XIII, trang 85-88, tôi xin góp ý thêm về một số  điều sau đây:
Góp ý 1: Về chức năng nhiệm vụ của Văn phòng hay Ban Mục vụ về hôn nhân và gia đình: Theo cá nhân tôi thì Văn phòng hay Ban Mục vụ về hôn nhân và gia đình có những chức năng nhiệm vụ sau đây:
   (1) Tham vấn cho Đức Tổng Giám mục và Ban Mục vụ giáo phận về những vấn đề liên quan tới hôn nhân và gia đình.
   (2) Đề xuất với giáo phận, giáo hạt, giáo xứ chương trình Mục vụ hôn nhân và gia đình.
   (3) Cung cấp sách, tài liệu về hôn nhân và gia đình.
   (4) Huấn luyện đội ngũ giáo lý viên dạy hôn nhân gia đình và đào tạo các nhân viên mục vụ gia đình cho giáo phận, giáo xứ.
  (5) Liên hệ với các tổ chức gia đình trong và ngoài Giáo hội, trong và ngoài nước.
 Góp ý 2: Về thành viên của Văn phòng hay Ban Mục vụ giáo phận về hôn nhân và gia đình: Tốt nhất là nên có đủ mọi thành phần dân Chúa: linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân nam nữ là thành viên của Văn phòng hay Ban Mục vụ giáo phận về hôn nhân gia đình. Cũng nên có hai loại thành viên: thành viên đại biểu, tức những người đại diện cho các đơn vị như giáo hạt, hội đoàn và thành viên có chuyên môn về các lãnh vực có liên quan như giáo dục, tâm lý, sinh lý, xã hội, tư vấn, y khoa, giáo lý và mục vụ gia đình…
Góp ý 3: Về cơ cấu tổ chức của Văn phòng hay Ban Mục vụ giáo phận về hôn nhân và gia đình:để đạt hiệu quả trong công việc, các thành viên sẽ được phân công vào các bộ phận hay tiểu ban chuyên môn: văn phòng, tư vấn, nghiên cứu, dịch thuật, huấn luyện v.v….
Bao hàm tất cả những công việc kể trên, Văn phòng hay Ban Mục vụ về hôn nhân gia đình cần có một nội qui nhẹ nhàng, thông thoáng nhưng đầy đủ, qui định rò ràng trách nhiệm, quyền hạn, nhiệm kỳ của mỗi thành viên, mỗi bộ phận, mỗi tiểu ban.
 
----------------------------------
PHẦN CHÚ THÍCH
(1) Trong Thư Chung 2001 HĐGMVN viết:
“Trên thế giới và ngay trong đất nước chúng ta, gia đình đang bị đe doạ bởi nhiều lực huỷ diệt của văn hoá sự chết. Mối đe doạ từ bên trong là lối sống hưởng thụ ích kỷ, là sự hời hợt trong lời cam kết dấn thân. Mối đe doạ từ bên ngoài là nỗi vất vả của đời sống lao động, kinh tế, là sự cuốn hút của những phương tiện truyền thông, là lối sống buông thả đang nhen nhúm trong xã hội. Tất cả những yếu tố bên trong, bên ngoài ấy đang làm cho gia đình trở nên mong manh, đưa đến những hậu quả nặng nề cho các cặp vợ chồng và nhất là cho con cái. Những thống kê chưa đầy đủ về ly dị trong những năm qua cho thấy một tỉ lệ gia tăng đáng sợ.
“Trong truyền thống dân tộc thì gia đình là rường cột của xã hội. Giáo huấn của Hội Thánh coi gia đình như chiếc nôi của sự sống và như nhà giáo dục đầu tiên (x. Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 46). Như vậy, ta cần tìm mọi phương thế bảo vệ và củng cố sự bền vững của gia đình, trong đó bậc cao niên cần được chăm lo và trẻ em cần được đùm bọc. Các giáo xứ cần chú trọng đến việc giúp các bạn trẻ chuẩn bị hôn nhân kỹ hơn, bằng cách giúp họ hiểu biết về các phương diện tâm sinh lý, dưỡng nhi, giáo dục, và cần tìm những phương thức đồng hành với các gia đình trẻ để giúp họ vượt qua những khủng hoảng thường xảy ra trong những năm đầu của đời sống hôn nhân. Chúng tôi ước mong mỗi giáo phận có một Văn phòng mục vụ về Hôn nhân và Gia đình, và giữa các giáo phận có sự chia sẻ kinh nghiệm cũng như tài liệu mục vụ. Đó sẽ là bước đầu để tiến tới việc thiết lập một Văn phòng Mục vụ Gia đình ở cấp Hội đồng Giám mục”(Thư Chung HĐGMVN 2001, số 18).
(2) Trong Tông huấn ‘Đời sống Gia đình’ Đức Gioan Phaolô II đã kêu gọi:
        “Vì thế, cần nhấn mạnh một lần nữa việc Giáo hội phải cấp bách can thiệp mục vụ để nâng đỡ gia đình. Cần phải cố gắng hết sức để ngành mục vụ gia đình được củng cố và phát triển, trở thành một ngành thật ưu tiên, vì chắc chắn trong tương lai, việc loan báo Tin Mừng phần lớn tùy thuộc nơi Giáo hội tại gia” (FC số 65; Diễn văn tại Đại hội Giám mục Nam Mỹ, khóa 3 ngày 28-1-1979, IV, a: AAS 71 (1979), t.204). 
         Còn về tầm quan trọng của Tông huấn Familiaris Consortio, Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận viết:       
        “Tông huấn này là một tài liệu căn bản của Giáo hội về gia đình luôn mới mẻ cho cả giai đoạn hiện tại và chắc chắn cho nhiều thập niên tới, để mỗi người có thể khám phá và hiểu biết hơn về những phong phú về giáo lý, những gía trị về luân lý, nhất là trong lãnh vực mục vụ và văn hóa xã hội. Ước gì tập sách này đến với các cộng đoàn giáo xứ (cách riêng các linh mục, các cộng sự viên và những đôi vợ chồng và gia đình) như một sách cẩm nang giúp cho việc giảng dạy, thảo luận, huấn luyện, học hỏi trong các buổi giáo lý, trong cuộc sống và trong hoạt động mục vụ của mình”
(Lời giới thiệu của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận cho bản dịch của linh mục Augustinô Nguyễn Văn Dụ ấn hành tại Roma năm 2001 để kỷ niệm 20 năm ngày ban hành tông huấn).
(3) Đây là lần gặp gỡ quốc tế thứ 4 của các gia đình. Lần gặp gỡ đầu tiên là vào năm 1994 tại Roma (Italia) nhân dịp Liên Hiệp Quốc và Giáo hội Công giáo chọn năm 1994 là Năm Gia đình. Lần gặp gỡ thứ hai là vào năm 1998 tại Rio de Janeiro (Brazin). Lần gặp gỡ thứ ba là vào tháng 10.2000 tại Roma (Italia), trong khuôn khổ Năm Thánh 2000.
 
 
Tp HCM ngày 30 tháng 10 năm 2002
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn