1
06:59 +07 Thứ sáu, 19/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 43

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 42


Hôm nayHôm nay : 2994

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 193706

Tổng cộngTổng cộng : 27747990

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » SUY TƯ

Chuyên đề "ĐỨC GIÊ-SU LÀ ĐƯỜNG" theo suy tư của ĐGM Pet. Nguyễn Văn Viên

Thứ năm - 05/05/2022 08:46-Đã xem: 513
Là con người, ai cũng có kinh nghiệm về sự sống. Tuy nhiên, câu hỏi ‘sự sống là gì?’ luôn vượt quá sự hiểu biết và giải thích của con người. Những câu hỏi khác liên quan đến sự sống cũng không dễ dàng tìm được câu trả lời thỏa đáng, chẳng hạn như ‘đâu là nguồn gốc của sự sống?’, ‘đâu là đặc trưng của sự sống?’ hay ‘đâu là cùng đích của sự sống?’.
Chuyên đề "ĐỨC GIÊ-SU LÀ ĐƯỜNG" theo suy tư của ĐGM Pet. Nguyễn Văn Viên

Chuyên đề "ĐỨC GIÊ-SU LÀ ĐƯỜNG" theo suy tư của ĐGM Pet. Nguyễn Văn Viên



Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022:
Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô (13)
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 01 năm 2021

ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ: ĐƯỜNG BÌNH AN
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Năm 2020, chúng ta đã suy niệm 12 chủ đề về hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su. Đặc biệt, tháng Mười Hai vừa qua, mừng Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Ánh Sáng. Với Giáo Hội Công Giáo, ngày đầu tiên của Năm Mới Dương Lịch là ngày cầu nguyện cho hòa bình (bình an) trên toàn thế giới. Vì thế, trong tháng này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Bình An. Người đã đi đường bình an để đến với nhân loại ngõ hầu dẫn đưa tất cả mọi người về với Thiên Chúa là Nguồn Mạch Bình An Vĩnh Cửu.

Trong văn hóa Do-thái, từ 'bình an' đồng nghĩa với ‘hòa bình' (שׁלום, shalom) được sử dụng rất nhiều. Người Do-thái chào chúc 'bình an' mỗi khi gặp gỡ hoặc chia tay nhau. Ngoài nghĩa thông thường, ‘bình an’ còn mang một số nghĩa khác nữa, chẳng hạn như 'hoàn thành', 'toàn thể, 'hòa hợp', 'viên mãn'. Đối với văn hóa Việt Nam, 'bình an' cũng có nghĩa là 'hòa bình'. Tuy nhiên, thông thường 'bình an' được sử dụng để diễn tả tình trạng nội tâm cá nhân, còn 'hòa bình' diễn tả tương quan giữa người với người cũng như các hình thức tập thể khác. 'Xin cho hai chữ bình an' là câu nói khá phổ biến nơi cửa miệng nhiều người. Từ người trẻ đến người già cả ai cũng muốn được bình an. Hơn nữa, không chỉ người sống muốn được bình an, người chết cũng cần bình an. Trên nhiều bia mộ của người Ki-tô hữu, chúng ta thường thấy ba ký tự ‘RIP’, viết tắt của ‘Requiescat in Pace’ trong tiếng La-tinh, nghĩa là ‘hãy nghỉ ngơi bình an’. Trong nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, bình an là trạng thái của con người dồi dào ân sủng Thiên Chúa và bình an đáng mong đợi nhất là ơn cứu độ vĩnh cửu của Người.

Khi nói ‘bình an’, chúng ta quan tâm đến tình trạng ‘tĩnh’, tình trạng trật tự, tình trạng vắng bóng sợ hãi hay uẩn khúc nào đó của bản thân. Tuy nhiên, trong bối cảnh Kinh Thánh, bình an không chỉ có nghĩa 'tĩnh' mà còn mang nghĩa 'động', nghĩa là con người vẫn được bình an đích thực giữa những lo toan, xáo trộn, đau khổ của cuộc sống hằng ngày. Hơn nữa, trong bối cảnh Kinh Thánh, bình an còn bao gồm nhiều lĩnh vực khác nữa của thế giới hữu hình và vô hình. Trong tất cả hình thức bình an thì bình an nội tâm, bình an của mỗi cá nhân đóng vai trò chủ đạo. Khi không có bình an nội tâm, con người không thể góp phần mình cách hữu hiệu để xây dựng các mối tương quan của cộng đoàn.

Những trang đầu sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa sáng tạo con người trong 'cảnh bình an'. Tuy nhiên, con người đã bất tuân mệnh lệnh Thiên Chúa, đã lạm dụng tự do của mình để phá vỡ 'cảnh bình an'. Khi tội lỗi xâm nhập tâm hồn con người cũng là khi sự xáo trộn, bất an, lo lắng nảy sinh. Theo sách Sáng Thế, sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa gọi và hỏi con người: "Ngươi ở đâu? Con người thưa: Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn" (St 3,10). Thiên Chúa tiếp tục hỏi về nguyên nhân của sự bất tuân thì con người đổ tội cho vợ mình, còn bà thì đổ tội cho con rắn (St 3,11-14). Sự bất an nơi mỗi cá nhân cũng như các hình thức tập thể và các tương quan của con người là hậu quả của sự phá vỡ 'cảnh bình an', phá vỡ 'giao ước bình an' giữa Thiên Chúa và con người thuở ban đầu.

Lịch sử Cựu Ước là lịch sử của sự chuẩn bị cho việc Thiên Chúa gửi Đức Giê-su, Hoàng Tử Bình An của Người đến cho nhân loại hầu thiết lập Giao Ước Bình An Vĩnh Cửu (Ds 25,12; Hc 45,24; Ed 34,25; Ml 2,5). Theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: "Thiên Chúa là nguồn mạch bình an đã đưa Đức Giê-su, Chúa chúng ta ra khỏi cái chết. Đức Giê-su là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu" (Dt 13,20). Nhằm thực thi điều đó, Thiên Chúa đã tuyển chọn những khuôn mặt điển hình như Nô-ê, Áp-ra-ham, Gia-cóp, Mô-sê, Đa-vít để họ cộng tác trong việc diễn tả bình an của Người.

Vào khoảng thế kỷ VIII trước Công Nguyên, ngôn sứ I-sai-a đã nói về Hoàng Tử Bình An, Đấng thiết lập Vương Quốc Bình An của Thiên Chúa trên mặt đất này. Hoàng Tử Bình An giải phóng mọi người khỏi ách tù tội, sự hà hiếp của kẻ áp bức (Is 61,1-3). Hơn nữa, Hoàng Tử Bình An sẽ dẫn đưa Dân Thiên Chúa tới cảnh bình an vô tận (Is 9,5-6). Viễn cảnh bình an được diễn tả như sau: "Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang" (Is 11,6-8). Như thế, ‘thời bình an’ là ‘thời cánh chung' được Hoàng Tử Bình An thiết lập.

Kinh Thánh cho chúng ta biết Đức Giê-su là Bình An của Thiên Chúa và chúng ta có thể diễn tả Đức Giê-su qua nhiều hình ảnh hay tước hiệu liên quan đến căn tính của Người. Chẳng hạn, Đức Giê-su là Ánh Sáng Bình An (Light of Peace); Đức Giê-su là Người Bình An (Person of Peace); Đức Giê-su là người mang đến cho nhân loại Bình An của Thiên Chúa (Bringer of Peace); Đức Giê-su là Đấng Xức Dầu Bình An (Christ of Peace), và Đức Giê-su là Người Tôi Tớ Đau Khổ Bình An (Suffering Servant of Peace); Đức Giê-su là Mục Tử Bình An (Shepherd of Peace), Đức Giê-su là Lời Bình An (Word of Peace), Đức Giê-su là Người Bạn Bình An (Friend of Peace), Đức Giê-su là Hoàng Tử Bình An (Prince of Peace). Chúng ta có thể nhận định rằng bất cứ hình ảnh hay tước hiệu nào của Đức Giê-su cũng có thể gắn liền với 'bình an'.

Trớ trêu thay, cuộc đời Đức Giê-su, Hoàng Tử Bình An, lại diễn ra trong cảnh bất an. Người được sinh ra trong cảnh nghèo hèn. Tuổi ấu thơ, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se phải đem người trốn sang Ai Cập để tránh sự truy lùng, bắt bớ của vua Hê-rô-đê. Trong ba năm rao giảng công khai, Người sống trong cảnh khó khăn, thiếu thốn. Đặc biệt, Người phải đối diện với muôn hình thức kỳ thị từ những người lãnh đạo tôn giáo và dân sự Do-thái. Hơn nữa, Người gặp không ít rắc rối từ những người Rô-ma đang kiểm soát miền đất Pa-lét-tin. Người trải qua muôn vàn đau khổ và chịu cái chết đau đớn trên thập giá. Theo thánh Phê-rô, Người mang vào mình những bất an, đau khổ, chết chóc của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại (Is 53,11; Mt 8,17).

Các tác giả Tin Mừng đều trình thuật và khai triển chủ đề bình an liên quan đến cuộc đời Đức Giê-su. Chẳng hạn, sau Lời Tựa Tin Mừng, thánh Lu-ca đã trình thuật câu chuyện truyền tin cho Da-ca-ri-a. Câu chuyện cho chúng ta biết rằng vì nghi ngờ tình yêu và quyền năng Thiên Chúa khi Người ban tặng cho hai vợ chồng ông (son sẻ và già cả) một người con trai, ông đã bị câm cho đến khi con ông ra đời và ông đặt tên là Gio-an. Trong biến cố này, tâm hồn ông tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần và miệng lưỡi ông được mở ra. Ông cất lên bài ca 'Chúc Tụng' (Benedictus), với câu đầu tiên là: "Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân Người" (Lc 1,68); còn hai câu cuối cùng là: "Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an" (Lc 1,78-79). Với Da-ca-ri-a, Đức Giê-su chính là Vầng Đông và là Bình An được Thiên Chúa gửi đến trần gian để tất cả mọi người trong gia đình nhân loại có được ánh sáng cần thiết cho cuộc lữ hành trần gian tăm tối, đồng thời, dẫn đưa mọi người đi trên Đường Bình An. Với Da-ca-ri-a, trần gian có vô số đường để con người tiến bước. Tuy nhiên, Đường Bình An là Đường quan trọng nhất, bởi vì Đường Bình An cho phép con người đến với Quê Hương Bình An đích thực là Nước Thiên Chúa.


'Bình an' là từ xuất hiện ngay trong Biến Cố Giáng Sinh. Khi Đức Giê-su được sinh ra thì vô số thiên binh đồng thanh cùng sứ thần ca hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" (Lc 2,14). Vinh quang Thiên Chúa trên trời và bình an dưới thế cho con người được nối kết với nhau nhờ sự hiện diện bằng xương bằng thịt của Đức Giê-su, Hoàng Tử Bình An. Không có bình an sao được khi Thiên Chúa mang lấy thân phận con người? Không có bình an sao được khi vĩnh cửu hiện diện trong thời gian? Không có bình an sao được khi bản tính Thiên Chúa nối kết với bản tính con người? Không có bình an sao được khi Môi Trường Thiên Chúa hòa quyện với môi trường con người? Không có bình an sao được khi tội lỗi, sự chết bị diệt trừ và tất cả mọi người được mời gọi trở thành con cái Thiên Chúa? Câu hỏi được đặt ra: Tại sao là 'bình an' mà không phải là giàu sang, tài giỏi, sức khỏe hay điều gì khác? Thưa, vì nếu con người có tất cả những thứ đó mà không có bình an thì coi như chẳng có gì.

Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã đem lại bình an cho tất cả mọi người. Chẳng hạn, khi người phụ nữ sờ vào áo Người và được khỏi bệnh, Đức Giê-su nói với bà: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh" (Mc 5,34). Người căn dặn các môn đệ trước khi ra đi loan báo Tin Mừng: "Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy" (Mt 10,12). Trên đường đi Giê-ru-sa-lem, tới gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, những người theo Đức Giê-su tung hô: "Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời" (Lc 19,38). Những trích đoạn này cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su không chỉ 'chúc bình an' mà còn căn dặn các môn đệ của mình đem bình an tới cho mọi người. Đặc biệt, Người đã thực thi những hành động cụ thể như chữa bệnh, trừ quỉ, an ủi những người ưu phiền nhằm đem lại bình an cho họ.

Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su thổ lộ tâm tình sâu nặng với các môn đệ thân thương của mình: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" (Ga 14,1). Người cũng nói với họ: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi" (Ga 14,27). Người ban cho họ bình an, sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. Tại sao bình an của Đức Giê-su thế gian không thể ban tặng? Thưa, vì Đức Giê-su chính là Bình An đích thực. Có bình an của Đức Giê-su đồng nghĩa với có Đức Giê-su. Như thế, đối với chúng ta là những Ki-tô hữu, câu hỏi đặt ra không phải 'bình an là cái gì?' mà ‘bình an là ai?'.

Đức Giê-su là Bình An! Đây thật là mặc khải quan trọng cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại, bởi vì, bình an của Thiên Chúa không còn là điều gì đó mông lung, trừu tượng nữa mà chính Đức Giê-su là Bình An. Với sự hiện diện và hoạt động của Người trong hành trình dương thế, bình an ‘có hình có dạng’, bởi vì, Ngôi Hai Thiên Chúa là Bình An. Đức Giê-su đã minh chứng điều đó bằng chính đời sống và sứ mệnh bình an của mình hầu nâng đỡ con người trong hành trình trần thế đầy bất an, giải thoát con người khỏi ách tội lỗi và dẫn đưa con người về với Thiên Chúa, Nguồn Mạch Bình An (Rm 15,33).

Sau khi từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su đã gặp gỡ và trao ban bình an cho các môn đệ thân tín của Người. Thánh Gio-an trình thuật: "Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,19-21). Nhờ bình an của Đức Giê-su, các môn đệ Người nguyên là những người nhát đảm, yếu đuối, giới hạn trăm chiều đã trở thành những chứng nhân can trường, mạnh mẽ trong việc loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng Bình An của Người cho anh chị em đồng loại.

Hơn ai hết, thánh Phao-lô hiểu rõ rằng Đức Giê-su là Bình An, Người nối kết mọi người, mọi dân tộc trên khắp hoàn cầu. Viết thư cho các tín hữu ở Ê-phê-xô, ngài khẳng định: "Chính Đức Giê-su là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người" (Ep 2,14-15). Chúng ta có thể diễn đạt tư tưởng của thánh Phao-lô như sau: Đức Giê-su là Bình An biến đổi thân phận con người từ tình trạng nô lệ vì tội lỗi sang tình trạng được giải phóng nhờ ân sủng của Người. Đức Giê-su là Bình An cho phép liên kết những gì khác biệt và hiệp nhất những gì phân cách. Chẳng hạn, trong quá khứ, dân Do-thái và dân ngoại thường chống đối nhau, với Đức Giê-su là Bình An, họ trở thành anh chị em của nhau. Đức Giê-su là Bình An hòa giải những xung khắc giữa 'Luật Cũ' và 'Luật Mới' ngõ hầu tất cả mọi người cảm nhận được tính liên tục của chương trình Thiên Chúa cứu độ mà đỉnh cao là sự hiện diện của Người giữa lòng nhân loại.

Thời thơ ấu, khi Đức Giê-su được dâng vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, ông Si-mê-on đã nói với Đức Ma-ri-a: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng" (Lc 2,34). Điều này được ứng nghiệm trong cuộc đời Đức Giê-su: Người là Bình An giữa cảnh gian nan khốn khó. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Người nhắn nhủ các môn đệ nhiều điều và Người kết luận: "Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16,33). Đức Giê-su không nói với họ rằng với bình an của Người, họ không còn phải đương đầu với những khó khăn nữa hay Người sẽ cất hết mọi hình thức bất an cho họ. Người cũng không nói với họ rằng Tội Nguyên Tổ và hậu quả của Tội này không còn chút ảnh hưởng trên họ và họ sẽ được miễn nhiễm mọi khổ đau trong hành trình trần thế này. Nhưng, Người cho họ biết rằng với bình an của Người, họ có khả năng chịu đựng những nghịch cảnh của cuộc sống, kể cả sự chết và họ sẽ được chung hưởng Bình An Vĩnh Cửu với Người.

Đối với các môn đệ Đức Giê-su, trong hành trình theo Người, ban đầu họ không hiểu rõ căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người. Như bao người khác, các môn đệ cũng thích những gì dễ dãi, không cần vất vả, không tốn công vun đắp, không cần hy sinh. Dần dần, họ hiểu ra rằng theo Đức Giê-su đòi hỏi phải từ bỏ những thói quen xấu, từ bỏ sự dữ, từ bỏ thế giới bóng tối, từ bỏ sự tự do lăng loàn, ích kỷ, ngạo mạn. Theo Đức Giê-su đồng nghĩa với 'vác thập giá mình mà theo' (Mc 8,34). Càng gắn bó với Đức Giê-su, họ càng nhận ra rằng bình an mà Người mang đến cho nhân loại không như họ tưởng tượng hay mong đợi.

Đức Giê-su là Thiên Chúa và là Đấng Bình An, tuy nhiên, bình an của Thiên Chúa, bình an của Đức Giê-su vượt quá những lượng định hay hiểu biết của con người. Thánh Phao-lô khẳng định: "Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su" (Pl 4,7). Trong bài giảng về sứ mệnh loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà" (Mt 10,34-36). Đức Giê-su nói vậy không có nghĩa rằng Người đến để gây bất hòa, chia rẽ, nhưng có nghĩa rằng những ai theo Người cần đón nhận những giá trị Người giới thiệu (1 Cr 14,33). Điều này có nghĩa là bình an Người mang tới là bình an ngang qua thập giá. Bình an được diễn tả bởi sự hy sinh, quên mình, từ bỏ (Dt 13,20). Minh định của thánh Phao-lô giúp chúng ta hiểu rõ hơn: "Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha" (Ep 2,16-17). Tương tự như thế, trong thư gửi tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân viết: “Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó” (Cl 3,15).

Với Đức Giê-su, hòa giải cũng chính là bình an hay ngược lại. Sau khi sống lại, Đức Giê-su nói với các môn đệ 'bình an cho anh em', đồng thời, Người cũng trao ban Chúa Thánh Thần và sai các môn đệ ra đi thực thi sứ mệnh hòa giải (Ga 20,22-23). Thánh Phao-lô hiểu rõ Biến Cố Đức Giê-su là Biến Cố Hòa Giải để đem lại bình an cho thế giới thụ tạo. Điều này có nghĩa là sự hòa giải của Đức Giê-su vừa mang chiều kích cá nhân, vừa mang chiều kích tập thể, vừa mang chiều kích hoàn vũ. Chẳng hạn, với người phụ nữ tội lỗi sám hối ăn năn, Đức Giê-su nói với chị: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an" (Lc 7,50). Còn thánh Phao-lô thì quả quyết: "Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời" (Cl 1,19-20).

Đối với chúng ta, khi mọi chuyện xảy ra như ý muốn, chúng ta cảm thấy bình an. Tuy nhiên, đây chỉ là 'bình an sở hữu', 'bình an vị kỷ', 'bình an hướng tâm'. Bình an đích thực mà Đức Giê-su ban tặng là 'bình an trút bỏ', 'bình an vị tha', 'bình an hướng ngoại'. Bình an Đức Giê-su cho phép chúng ta hướng về phía trước với niềm tin yêu và hy vọng sâu thẳm. Bình an Đức Giê-su cho phép chúng ta vượt qua muôn sóng gió của biển đời, chẳng hạn như đau khổ, mất mát, bị hiểu nhầm, thậm chí cả hy sinh mạng sống. Các thánh trong lịch sử Giáo Hội, nhất là các thánh tử đạo, đã cảm nhận được bình an Đức Giê-su trong đời mình. Đó là lý do giải thích tại sao các ngài sẵn sàng chịu đựng tất cả cực hình để trở nên chứng nhân của Đức Giê-su và Tin Mừng Bình An của Người cho anh chị em đồng loại.

Đức Giê-su đã đi Đường Bình An đến với tất cả mọi người, tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều nhìn nhận Đức Giê-su và Đường Bình An của Người. Chẳng hạn, trong hành trình lên Giê-ru-sa-lem, khi đến gần thành, Đức Giê-su đã khóc thương Giê-ru-sa-lem vì dân thành này không nhận ra Người. Thánh Lu-ca trình thuật: "Khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương mà nói: Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được" (Lc 19,41-42). Dân thành Giê-ru-sa-lem hằng đợi trông Đấng Mê-si-a, Đấng Xức Dầu Bình An đến với họ, tuy nhiên, khi Người đến, họ đã không nhận ra, bởi vì, Người không giống Đấng Mê-si-a theo tâm trí của họ.

Bình an của Đức Giê-su vừa là món quà cho chúng ta, vừa là tác vụ của chúng ta. Thánh Phao-lô nhắn nhủ các tín hữu ở Phi-líp-phê: "Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em" (Pl 4,9). Điều này có nghĩa là bình an Đức Giê-su để lại không phải là di sản để chúng ta khóa kín trong viện bảo tàng tâm hồn mình. Những môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su được mời gọi trao ban bình an của Người cho anh chị em đồng loại. Nói cách khác, bình an của Đức Giê-su cần được loan báo, cần được chia sẻ, cần được thẩm thấu mọi chiều kích của đời sống con người. Đồng thời, bình an Đức Giê-su cần trở thành yếu tố nền tảng để con người xây dựng, phát triển và điều chỉnh các tương quan trong xã hội.

Sứ mệnh làm cho Tin Mừng Bình An đến với mọi người đã được các ngôn sứ loan báo từ xưa. Chẳng hạn, ngôn sứ I-sai-a (thế kỷ VIII trước Công Nguyên) viết: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Xi-on rằng: Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị” (Is 52,7). Còn ngôn sứ Na-khum (thế kỷ VII trước Công Nguyên) thì diễn tả như sau: “Kìa, trên các đồi núi xuất hiện người đi loan báo Tin Mừng, và công bố bình an” (Nk 2,1). Khi giảng dạy tại nhà ông Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô nói: "Thiên Chúa đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của mọi người” (Cv 10,36). Viết thư cho tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô khuyến khích họ: "Hãy đứng vững: Lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an" (Ep 6,14-15). Do đó, các môn đệ Đức Giê-su được mời gọi luôn ở lại với Đức Giê-su, học hỏi từ Đức Giê-su và đem bình an của Đức Giê-su đến cho mọi người (Lc 10,5-6).

Chúng ta có thể khẳng định rằng bình an không phải là một lựa chọn giữa các lựa chọn khác trong cuộc sống con người mà là điều kiện thiết yếu để con người hướng tới sự phát triển toàn diện. Làm sao các cá nhân có thể phát triển toàn diện được nếu không có bình an? Làm sao các cộng đoàn có thể phát triển được nếu không có bình an? Có gì có thể thay thế bình an chăng? Thái độ thù địch hoặc chiến tranh có thể thay thế bình an sao? Quả thật, không có bình an, con người sẽ lâm vào cảnh mù mịt, bế tắc, không lối thoát.

Ngạn ngữ La-tinh có câu: "Si vis pacem, para bellum" (nếu bạn muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh). Lịch sử nhân loại từ cổ chí kim luôn có những người chủ trương như vậy. Thực ra, đây là quan điểm sai lầm mà chúng ta cần cùng nhau góp sức loại trừ, bởi vì, chiến tranh chỉ gây nên chiến tranh, hận thù chỉ gây nên hận thù, chia rẽ chỉ gây nên chia rẽ. Người đi Đường Bình An của Đức Giê-su là Người biết nói ‘không’ với chiến tranh, súng đạn hay các hình thức bạo lực. Người đi Đường Bình An của Đức Giê-su là người nói ‘lời yêu thương’ với tất cả mọi người, ngay cả những người làm hại mình. Người đi Đường Bình An của Đức Giê-su là người ý thức được thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình giữa lòng nhân thế và tin tưởng, cậy trông vào sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa được diễn tả qua Đức Giê-su. Người đi Đường Bình An của Đức Giê-su là người ý thức rằng mình được mời gọi trở thành khí cụ bình an của Người ở bất cứ nơi đâu mình hiện diện và hoạt động.

Chúng ta biết rằng hành trình trần thế của Đức Giê-su không chỉ khôi phục phẩm giá con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa mà còn mời gọi con người trở thành con Thiên Chúa (1 Ga 3,1). Câu hỏi được đặt ra: Làm sao con người có thể trở thành con Thiên Chúa? Thưa, trong Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su cho chúng ta câu trả lời: "Phúc thay ai xây dựng hòa bình [bình an], vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,9). Sứ mệnh Đức Giê-su giao phó cho các môn đệ và tông đồ của Người xưa kia cũng như hôm nay là cộng tác với Người để làm cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại trở thành 'những người kiến tạo bình an' (peacemakers). Thánh Phao-lô khuyên dạy các tín hữu Rô-ma: “Chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau” (Rm 14,19).

Trong hành trình trần thế, bình an là công trình dang dở hơn là công trình hoàn thành, là hướng đi hơn là đích đến, là tiến trình vượt không gian, thời gian hơn là tiến trình bị giới hạn trong thế giới thụ tạo. Nói cách khác, trên bình diện cá nhân cũng như tập thể, con người không bao giờ đạt được bình an trọn vẹn trong hành trình trần thế này. Bởi vì, bao lâu còn trong hành trình trần thế, bấy lâu mãnh lực của ma quỉ, của dối trá, của bất an vẫn còn hoành hành. Những đe dọa xói mòn bình an, những nguy cơ bất an hay những kẻ thù của bình an vẫn còn đó. Tuy nhiên, những người đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giê-su, Đường Bình An, luôn có đủ sức mạnh cần thiết để vượt qua những chướng ngại trong cuộc sống với con mắt tâm hồn không ngừng hướng về Người.

Là con người, ai cũng muốn bình an (Gaudium et Spes 78). Đáng buồn thay, nhiều người muốn bình an với thiên kiến cá nhân. Theo họ, để có bình an, mọi người phải thế này, thế kia như thể họ là 'tiêu chuẩn' của bình an vậy. Quả thật, không ai trong gia đình nhân loại xứng đáng là tiêu chuẩn của bình an, bởi vì, theo mặc khải Ki-tô Giáo, tất cả mọi người trong gia đình nhân loại đều là những người tội lỗi (Tv 51,7; 1 Ga 1,8). Do đó, tất cả mọi người hãy 'nhìn lên' Đức Giê-su là Đường Bình An. Mọi người hãy đến với Người để có được tâm hồn bình an và nhờ đó trở thành người kiến tạo bình an trong môi trường sống của mình. Ai không nhận ra Đức Giê-su là Đường Bình An thì khó có thể đóng góp phần mình cho bình an đích thực trong gia đình nhân loại.

Trong thông điệp truyền thông qua Radio gửi các nguyên thủ quốc gia và các dân tộc trên thế giới ngày 24/8/1939, Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII nói: "Không gì mất mát bởi hòa bình [bình an]; mọi thứ có thể mất mát vì chiến tranh". Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng gia đình nhân loại luôn vận động và phát triển. Đường hướng vận động và phát triển tốt đẹp hơn nhờ sự cộng tác giữa con người với Thiên Chúa, với Đức Giê-su, ngõ hầu bình an được hiện diện nơi mỗi cá nhân và các hình thức cộng đoàn. Trong nhãn quan của thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI, phát triển có nghĩa là hòa bình [bình an] hay tên mới của 'hòa bình' [bình an] là 'phát triển' (Populorum Progressio 87). Theo ngài, bình an là điều kiện cho phát triển và phát triển là hoa trái của bình an. Nói cách khác, bình an và phát triển đi đôi với nhau và trở thành nền tảng cho việc nâng cao phẩm giá con người trong các hình thái xã hội.

Gia đình nhân loại có nhiều nền văn hóa, tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định rằng 'nền văn hóa bình an' chính là nền văn hóa chung của tất cả mọi người. Nền văn hóa này được xây dựng khi mỗi người ý thức tầm quan trọng của bình an trong đời sống cá nhân cũng như các hình thức tập thể, đồng thời, ý thức rằng mình không phải là tiêu chuẩn bình an cho tất cả mọi người. Đặc biệt, nền văn hóa bình an được xây dựng khi mỗi người ý thức rằng tất cả mọi người là anh chị em của nhau trong gia đình nhân loại, đồng thời, nhiệt tâm cổ vũ tình liên đới, sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh. Nền văn hóa bình an cũng giúp con người quan tâm hơn đến muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo và luôn ý thức rằng mình không chỉ là 'ông chủ' mà còn là 'nhà quản lý' muôn vật muôn loài. Đặc biệt, nền văn hóa bình an giúp con người nhận ra thân phận bất an của mình và biết thành tâm quy hướng về Thiên Chúa, Nguồn Mạch Bình An, và Đức Giê-su là Đường Bình An cho tất cả mọi người.

Chúng ta có thể kết luận rằng bình an chính là nền tảng để con người xây dựng cuộc sống sao cho xứng đáng với phẩm giá mình. Theo mặc khải Ki-tô Giáo, Thiên Chúa sáng tạo con người và muôn vật muôn loài trong 'cảnh bình an', nhưng con người đã ‘sa chước cám dỗ’, đã gây nên 'cảnh bất an'. Tuy nhiên, Thiên Chúa hằng yêu thương con người, đặc biệt, Người đã gửi Đức Giê-su là Hoàng Tử Bình An đến với con người và chia sẻ 'cảnh bất an' với tất cả mọi người. Hơn nữa, Đức Giê-su đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết và sống lại để minh chứng Người là Bình An của Thiên Chúa. Trong hành trình trần thế, Người luôn mời gọi mọi người 'hãy đi Đường Bình An' của Người để có được bình an trong tâm hồn, bình an với anh chị em đồng loại, bình an với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo, đặc biệt, bình an với Thiên Chúa. Ước gì tâm tình của thánh Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê đối với các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca trong Giáo Hội sơ khai cách đây gần hai ngàn năm trở nên hiện thực đối với tất cả chúng ta: "Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm" (1 Tx 5,23). Nhờ đó, chúng ta thực sự trở thành công dân Nước Thiên Chúa Viên Mãn, Nước của "sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14,17).

WHĐ (2.1.2021)

 


Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022:
Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô (22)
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 10 năm 2021
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG VÂNG PHỤC
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng 9 vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Tha Thứ Tội Lỗi. Tháng 10 này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Vâng Phục. Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng vì Nguyên Tổ bất tuân phục, con người trở thành nô lệ tội lỗi và sự chết. Nhờ Đức Giê-su vâng phục, con người được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ đó. Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su luôn vâng phục Đức Chúa Cha, vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập giá. Đặc biệt, Người dạy các môn đệ luôn biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh để minh chứng cho tình yêu của Người giữa dòng đời. 
Tiếng Do-thái cổ không có động từ ‘vâng phục’ hay ‘vâng lời’ như trong các ngôn ngữ hiện đại. Động từ ‘שמע’ (shama) của Do-thái tương đương với ‘vâng phục’ trong tiếng Việt hay ‘obey’ trong tiếng Anh. Động từ ‘שמע’ có các nghĩa chính yếu như nghe (St 27,6; Lv 26,14; Is 1,2); lắng nghe (St 27,5; 2 Sm 11,26; Ed 3,7; Tv 132,6); lắng nghe và đón nhận (Is 46,3); nghe đồng nghĩa với hiểu (St 11,7; 1 V 3,6); vâng lời (St 22,18; Xh 24,7; 1 Sm 15,22; 2 V 14,11). Động từ tương đương với ‘שמע’ trong tiếng Hy-lạp là ‘ὑπακούω’/hupakouo (obey), danh từ là ‘ὑπακοή’/hupakoe (obedience) và tính từ là ‘ὑπήκοος’/hupḗkoos (obedient). ‘Vâng phục’ có nghĩa là ‘nghe’ hay ‘lắng nghe’ lời của người có thẩm quyền, người bề trên, người quan trọng trong các hình thái xã hội loài người. Đặc biệt, đối với dân Do-thái, lắng nghe, tin tưởng và thực thi lời của Thiên Chúa cách tự nguyện là trung tâm của đời sống họ. Bởi vì, những gì thuộc thánh ý Thiên Chúa đều chân thực, lành thánh và sinh hoa trái dồi dào cho mọi người. Trong Kinh Thánh, vâng phục được diễn tả dưới nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như vâng phục Đức Chúa (Đnl 28,1), vâng phục lề luật của Thiên Chúa (2 Mcb 7,30), vâng phục sự thật (Gl 5,7), vâng phục Tin Mừng (Rm 1,5), vâng phục đạo lý (Rm 6,17), vâng phục Đức Ki-tô (2 Cr 10,5), vâng phục đức tin (Ep 2,8-10), vâng phục quyền bính dân sự (Rm 13,1-7), vâng phục trong gia đình (Ep 5,21-33).
Chủ đề vâng phục được trình bày ngay từ buổi đầu của gia đình nhân loại, gắn liền với giao ước giữa Thiên Chúa và Nguyên Tổ (A-đam và E-và), được diễn tả qua ngôn ngữ biểu tượng: A-đam và E-và được ăn mọi trái cây trong vườn, ngoại trừ cây giữa vườn. Tuy nhiên, A-đam và E-và đã ‘nghe lời con rắn’, đã sa chước cám dỗ. Như vậy, Tội Nguyên Tổ là tội bất tuân phục, tội không nghe lời của Thiên Chúa (St 3,1-7). Quả thực, A-đam và E-và đã được Thiên Chúa phú ban những điều kiện cần thiết hầu có thể sống xứng đáng với phẩm giá của mình, nhưng họ đã bất tuân phục thánh ý Người. Vì A-đam và E-và, tội lỗi xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết và sự chết lan tràn đến mọi người (Rm 5,12). Dưới nhãn quan Kinh Thánh Cựu Ước, khi con người bất tuân phục Thiên Chúa cũng là khi con người sống xa tình yêu của Người và hậu quả là con người trở thành nô lệ của các thế lực sự dữ đang hoành hành trong thế giới thụ tạo. 
Chương trình Thiên Chúa đối với con người không kết thúc với việc bất tùng phục của Nguyên Tổ và hậu quả của tội này. Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với con người trong mọi biến cố của lịch sử. Đặc biệt, Thiên Chúa đã kêu gọi Áp-ra-ham, để từ đây, Người diễn tả chương trình cứu độ của Người đối với toàn thể nhân loại. Áp-ra-ham ban đầu có tên là Áp-ram, Thiên Chúa phán với ông như sau: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành” (St 12,1-2). Quả thực, kêu gọi một người từ bỏ xứ sở quen thuộc của mình để đến nơi khác luôn là việc rất khó khăn. Tuy nhiên, Áp-ra-ham hằng vâng phục Thiên Chúa và diễn tả tinh thần vâng phục trong mọi hoàn cảnh cuộc sống của mình, ngay cả việc sẵn sàng hiến tế đứa con trai yêu dấu của mình cho Thiên Chúa (St 22,1-19). Áp-ra-ham trở thành mẫu gương vâng phục cho các tín hữu Do-thái Giáo, Ki-tô Giáo và Hồi Giáo cũng như những ai thành tâm thiện chí trong gia đình nhân loại.
Hành trình của dân Do-thái bắt đầu với Áp-ra-ham trong dòng lịch sử cũng là hành trình diễn tả tình yêu thương của Thiên Chúa và sự bất tuân phục của dân này. Chẳng hạn, trên đường về với Đất Hứa, dân Do-thái đã lắm phen phản nghịch thánh ý Thiên Chúa. Tương tự như thế, thời các vua, không chỉ dân chúng bất tuân phục mà những người lãnh đạo dân cũng vậy. Chẳng hạn, vì sự bất tuân của vua Sa-un đối với Đức Chúa, Sa-mu-en đã nói với vua: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (1 Sm 15,22). Thời các ngôn sứ, dân Do-thái vẫn chứng nào tật ấy với não trạng bất tuân phục. Lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a minh chứng điều đó: “Hãy nghe tiếng Ta thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta. Hãy bước theo mọi đường lối Ta truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc. Nhưng chúng chẳng nghe, chẳng để tai, cứ theo những suy tính của mình, theo tâm địa ngoan cố xấu xa; chúng đã lùi chứ không tiến” (Gr 7,23-24). Sự vâng phục, lắng nghe và thực thi thánh ý Thiên Chúa trở thành hiện thực nơi Đức Giê-su trong hành trình trần thế của Người.
Tân Ước cho chúng ta biết rằng với sự vâng phục và cộng tác của Đức Ma-ri-a, Đức Giê-su đã ‘trở nên người phàm’ của gia đình nhân loại. Trong hành trình trần thế, Người hằng vâng phục cha mẹ Người. Chẳng hạn, thánh Lu-ca trình thuật rằng sau khi tìm được Đức Giê-su ở đền thờ Giê-ru-sa-lem, “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51). Chúng ta nhận ra điều kỳ diệu của gia đình Na-da-rét bởi vì trong gia đình này ‘Trời ở với người’, ‘Đấng Sáng Tạo chung nhà với thụ tạo’, ‘Thiên Chúa vâng phục con người’. Chúng ta biết rằng con người vâng phục Thiên Chúa là chuyện thường tình, phải lẽ. Tuy nhiên ở đây, Đức Giê-su là Thiên Chúa lại vâng phục Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Quả thực, điều này vượt quá tâm thức tôn giáo của các dân tộc qua muôn thế hệ.
Trong biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa, khi Người vừa lên khỏi nước thì các tầng trời mở ra, Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người" (Mt 3,17). Sau này, trong biến cố Đức Giê-su Hiển Dung cũng có tiếng từ đám mây phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17,5). Khởi đầu sứ mệnh công khai, Đức Giê-su kêu gọi mọi người diễn tả tâm tình vâng phục bằng việc sám hối và tin vào Tin Mừng mà Người loan báo (Mc 1,14-15). Như vậy, vâng phục trở thành lời kêu gọi đầu tiên của Đức Giê-su. Đây không phải là lời kêu gọi chung chung giữa những lời kêu gọi khác mà là lời kêu gọi chính yếu trong sứ mệnh cứu độ của Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện.
Trong bài giảng về Giáo Hội là Nước Thiên Chúa ở trần gian, thánh Mát-thêu trình thuật rằng khi các môn đệ hỏi Đức Giê-su ai là người lớn nhất trong Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đem một em nhỏ đặt giữa các ông và nói: “Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18,3-4). Nói đến trẻ em là nói đến tính đơn sơ, vâng phục, chẳng hạn như vâng phục cha mẹ hay vâng phục những người lớn tuổi hơn mình. Điều Đức Giê-su muốn nhấn mạnh ở đây là những ai muốn theo Người thì lắng nghe và thực thi lời Người truyền dạy với tâm tình đơn sơ, phó thác. Quả thực, khi con người không biết lắng nghe, không biết cúi đầu, không biết nhìn nhận những giới hạn của bản thân mình thì khó có thể làm môn đệ Đức Giê-su được. Chúng ta biết rằng, trong đời sống xã hội, trẻ em sẽ không thể hòa nhập cộng đồng cách đầy đủ nếu bỏ ngoài tai những chỉ dạy của cha mẹ hay những người hữu trách. Tương tự như vậy, trong đời sống tâm linh, các môn đệ Đức Giê-su sẽ không thể trưởng thành khi bỏ qua nhân đức vâng phục, hay không quan tâm nhân đức này cách phù hợp.
Thánh Mác-cô trình thuật rằng khi Đức Giê-su đang nói chuyện với đám đông thì có người báo tin Mẹ của Người là Đức Ma-ri-a và những người thân muốn gặp Người. Đức Giê-su đáp: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi" (Mc 3,33-35). Đức Giê-su không nói rằng Đức Ma-ri-a không phải là Mẹ của Người hay những người đang đứng ngoài kia không phải là thân nhân của Người. Điều Người muốn diễn tả là gia đình Người không chỉ bao gồm những ai cùng huyết tộc gần gũi mà là bất cứ ai lắng nghe và thực thi thánh ý của Thiên Chúa. ‘Lắng nghe và thực thi thánh ý của Thiên Chúa’ là diễn nghĩa của ‘vâng phục’. Lời của Đức Giê-su cho thấy sứ mệnh của Người nhằm thiết lập Gia Đình Thiên Chúa trên trần gian để những ai vâng phục, gắn bó với Gia Đình này thì được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu của Gia Đình Thiên Chúa viên mãn. 
Khi Đức Giê-su đánh đuổi những người mua bán trong đền thờ, các thượng tế và kỳ mục thách thức thẩm quyền của Người: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” (Mt 21,23). Đức Giê-su kể cho họ dụ ngôn rằng một người kia có hai con trai, ông đến nói với đứa thứ nhất hãy đi làm vườn nho. Ban đầu nó không đi nhưng sau đó hối hận và đi. Ông đến gặp đứa thứ hai và nó đồng ý đi, nhưng cuối cùng lại không đi. Đức Giê-su hỏi họ: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt 21,31). Họ đã trả lời: Người thứ nhất. Đức Giê-su liền nói với họ rằng những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước họ. Người dùng dụ ngôn này để cho các thượng tế và kỳ lão biết những người tội lỗi vâng phục, hối cải thì hơn những người cho mình là công chính không chịu hối cải ăn năn. Trong bối cảnh Bài Giảng Trên Núi, Người nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Như vậy, vâng phục đồng nghĩa với thực thi thánh ý Thiên Chúa là điều kiện cần thiết của tất cả những ai thuộc về Nước Thiên Chúa.
Vâng phục Đức Chúa Cha là tâm tình căn bản của Đức Giê-su trong hành trình dương thế. Chẳng hạn, sau cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, các môn đệ mời Đức Giê-su dùng bữa. Người nói với họ rằng: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết... Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,32-34). Khi các môn đệ xin Đức Giê-su dạy họ cách thức cầu nguyện, Người đã dạy họ Kinh Lạy Cha, trong đó có câu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mt 6,11). Lương thực ở đây không chỉ là lương thực cho đời sống thể xác mà còn cho đời sống tâm linh nữa, nghĩa là lương thực theo thánh ý Thiên Chúa. Sau dấu lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn và đi trên mặt Biển Hồ mà đến với các môn đệ, tại hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su nói với dân Do-thái: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38). Đức Giê-su diễn tả sự vâng phục trong yêu thương và căn dặn các môn đệ phải thực thi như vậy: “Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14,31); “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10).
Là con người, Đức Giê-su cũng đương đầu với nhiều cơn cám dỗ. Người không chỉ bị cám dỗ trong thời gian ở sa mạc bốn mươi đêm ngày mà còn nhiều dịp khác nữa. Tuy nhiên, Đức Giê-su chưa bao giờ sa chước cám dỗ. Tại sao vậy? Thưa, tại vì Người luôn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha. Chẳng hạn, Thánh Mát-thêu trình thuật: “Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi. Đức Giê-su liền nói: Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,8-10). Bái lạy hay cúi đầu diễn tả sự vâng phục bằng cử chỉ. Đức Giê-su đã không bái lạy, không cúi đầu trước ma quỷ. Câu trả lời của Người cho chúng ta biết cần phải vâng phục ai trong hành trình trần thế này. Đức Giê-su bị cám dỗ thể hiện quyền năng tại quê hương Người là Na-da-rét, thể hiện quyền năng trước những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, thể hiện quyền năng trước Hê-rô-đê hay Phi-la-tô. Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Đức Giê-su cầu nguyện với Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha" (Mt 26,42). Khi Đức Giê-su bị treo trên thập giá, các thượng tế, kinh sư, kỳ mục nói: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Ít-ra-en! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa!” (Mt 27,42-43). Đức Giê-su đã ‘không vâng phục’, không thể hiện quyền năng đối với bất cứ ai thách thức Người.
Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng từ thuở đời đời, Đức Giê-su là ‘Con Đức Chúa Cha’, do đó, Người hằng vâng phục Đức Chúa Cha. Trong chương trình cứu độ nhân loại, Đức Giê-su vâng phục Đức Chúa Cha để nhập thể, sống thân phận con người, đồng lao cộng khổ với tất cả mọi người, chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá. Như vậy, thập giá là đỉnh cao diễn tả sự vâng phục của Người hầu đền bù tội bất tuân phục của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Trên thập giá, Đức Giê-su cầu xin cho ý của Đức Chúa Cha được thực hiện. Đây là sự vâng phục cao quý nhất và câu nói cuối cùng của Đức Giê-su trước khi tắt thở (trao ban Thần Khí) là câu nói diễn tả sự vâng phục sâu thẳm: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở” (Lc 23,46). Qua Đường Vâng Phục, Đức Giê-su đã đánh bại các hình thức sự dữ cũng như kẻ thù cuối cùng của con người là sự chết, hầu ban ơn cứu độ và giải thoát tất cả mọi người.
Trong hành trình dương thế, Đức Giê-su không chỉ vâng phục thánh ý Thiên Chúa, Người còn diễn tả thẩm quyền của Người trên thế giới thụ tạo nữa. Chẳng hạn, sau khi hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé, các môn đệ xuống thuyền đi về Ca-phác-na-um. Khi thuyền rời bến khoảng năm hoặc sáu cây số, Đức Giê-su đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (Ga 6,16-21). Theo mặc khải Kinh Thánh, quy luật tự nhiên được Thiên Chúa thiết định. Tuy nhiên, trong bối cảnh này, Đức Giê-su biến đổi quy luật tự nhiên. Điều này giúp chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su là Thiên Chúa, là Chủ của thế giới thụ tạo, của quy luật tự nhiên: Chủ có thẩm quyền trên quy luật tự nhiên cũng như muôn vật muôn loài. Chúng ta cần quan tâm hai điểm quan trọng liên quan đến việc Đức Giê-su biến đổi quy luật tự nhiên (chẳng hạn như đi trên mặt nước hay làm cho sóng yên biển lặng): (1) Đức Giê-su không làm cho quy luật tự nhiên ‘xuống cấp’ và (2) Người biến đổi quy luật tự nhiên nhằm gia tăng những gì lành thánh, tốt đẹp cho con người.
Nhờ sự vâng phục Đức Chúa Cha và trở nên người phàm, Đức Giê-su giống con cháu A-đam và E-và trong mọi sự, nghĩa là Người cũng bị giới hạn bởi không gian, thời gian cũng như lệ thuộc những gì trong đó. Người bị cám dỗ nhưng không sa chước cám dỗ, nghĩa là không phạm tội, bởi vì Người luôn hướng về Đức Chúa Cha và vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha trong mọi sự. Thánh Phao-lô viết: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21). Khi so sánh Đức Giê-su với A-đam, thánh nhân viết: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5,18-19). Thánh Phao-lô giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự đối nghịch giữa A-đam cũ bất tuân phục và A-đam Mới là Đức Giê-su luôn vâng phục.
Bởi vâng phục Đức Chúa Cha, Đức Giê-su đã đi ngược lại con đường của A-đam. Đường của A-đam là đường bất tuân, đường dẫn tới tội lỗi và sự chết; đường của Đức Giê-su là Đường Vâng Phục, đường dẫn tới ân sủng và sự sống. Con người vừa mang hình ảnh A-đam vừa mang hình ảnh Đức Giê-su, nghĩa là vừa mang hình ảnh của người bất tuân phục vừa mang hình ảnh của Đấng Vâng Phục; vừa mang hình ảnh của người phải chết vừa mang hình ảnh của Đấng Hằng Sống; vừa mang hình ảnh của người muốn định đoạt số phận mình vừa mang hình ảnh của Đấng luôn phó thác mọi sự trong tay Đức Chúa Cha. Nhờ Đức Giê-su, Đấng Vâng Phục, con người được giải thoát khỏi Tội Nguyên Tổ và những hậu quả của Tội này, đồng thời, được Đức Giê-su hướng dẫn về với cõi phúc đích thực. Do vậy, mọi người được mời gọi luôn hướng về Đức Giê-su, Đấng Vâng Phục để kín múc từ Người nguồn sinh lực cho cuộc sống hiện tại và tương lai vĩnh cửu.
Kinh nghiệm về sự gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh giúp thánh Phao-lô minh định rõ ràng và khúc chiết về ‘nguồn gốc’ và ‘sự vâng phục’ của Người trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê. Điều đáng để chúng ta quan tâm là trong các thư của ngài, thánh Phao-lô thường diễn tả việc Thiên Chúa gửi Con của Người xuống trần gian, nhưng ở đây thánh Phao-lô nhấn mạnh sự tự do dâng hiến của Đức Giê-su: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Chúng ta ngạc nhiên trước cách diễn tả của thánh Phao-lô: Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa (ἐν μορφῇ Θεοῦ/ in very nature God), nhưng Người trút bỏ vinh quang, hay ‘làm cho mình trở nên trống rỗng’ (ἑαυτὸν ἐκένωσεν/ emptied himself). Chúng ta nhận thức ‘hai tình trạng nên một’ cách huyền nhiệm nơi Đức Giê-su: (1) là Thiên Chúa và (2) là con người; chúng ta cũng nhận thức được ‘hai chuyển động nối kết’ vượt quá sự hiểu biết của chúng ta: (1) Thiên Chúa trở thành con người và (2) Người không phạm tội. Hơn nữa, theo thánh Phao-lô, Đức Giê-su không chỉ vâng phục Thiên Chúa và trở nên người phàm như nhiều người bình thường khác, Người còn trở thành nô lệ (δούλος), nghĩa là trở thành thành phần của những người rốt hết trong xã hội loài người. Đặc biệt, Đức Giê-su còn vâng phục chịu chết trên cây thập giá.
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái giúp chúng ta hiểu thêm về sự vâng phục của Đức Giê-su và hiệu quả của sự vâng phục này như sau: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5,8-10). Phẩm vị của Đức Giê-su thật cao cả, Người là Đấng toàn năng, toàn tri, toàn thiện. Tuy nhiên, trong thân phận con người, Đức Giê-su đã vâng phục để học hỏi hầu có thể trưởng thành như bao người khác. Vị Thiên Chúa ‘phải học cho biết thế nào là vâng phục’ quả là khó hiểu đối với chúng ta. Tuy nhiên, khi chúng ta nhận thức rằng tình yêu của Người đối với chúng ta là vô ngần vô hạn thì chúng ta có thể lãnh hội được (Rm 5,8-9; Ep 2,4-5; 1 Ga 4,10). Là con người, Đức Giê-su cần học để được lớn lên như chúng ta, để cảm nghiệm được đau khổ, cảm nghiệm được tình trạng bi đát của con người dưới mãnh lực của sự dữ trong môi trường thế giới thụ tạo. Người học vâng phục bằng ngôn ngữ và kinh nghiệm của con người để dạy con người cách thức vâng phục xứng hợp với thánh ý Thiên Chúa. Người vâng phục đến chết để có được cảm nghiệm đau khổ tột cùng của con người và đem lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho con người. Nơi Đức Giê-su, chúng ta thấy rõ hệ quả của vâng phục: Không chỉ bản thân được tôn vinh mà còn đem lại ơn lành cho người khác.
Nhìn lại lịch sử Mặc khải Ki-tô Giáo, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa diễn tả quyền năng của Người theo nhiều cách thức khác nhau và Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Biến Cố có tính quyết định. Trong Biến Cố này, quyền năng lớn lao nhất mà Đức Giê-su thực hiện không phải là thực thi các điềm thiêng dấu lạ mà là quyền năng vâng phục. Quyền năng đó giúp con người thoát khỏi vũng bùn kiêu căng, tội lỗi và sự chết. Quyền năng đó đánh bại sự tự cao tự đại của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Nhờ quyền năng của Đức Giê-su, con người và tất cả vạn vật được biến đổi, được tiến triển và thành toàn cách mỹ mãn theo ý định từ muôn thuở của Thiên Chúa. Như vậy, quyền năng vâng phục mãi mãi là quyền năng con người cần phải suy gẫm, học hỏi, khám phá và thực thi trong đời sống mình.
Dưới nhãn quan của một số người, vâng phục là tâm trạng của kẻ yếu, của người không có năng lực hay thẩm quyền gì đáng kể giữa bao người khác. Trong thực tế, người vâng phục không phải là người yếu thế, nhưng là người ý thức về những giới hạn của mình. Người vâng phục ý thức sự cần thiết để kín múc năng lượng từ người khác hầu có thể điều chỉnh tư cách, đời sống và sứ mệnh của bản thân trong khi không đánh mất những gì chân thật và lành thánh của mình. Người vâng phục xác tín rằng con người không thể tự mình biến đổi cách xứng hợp. Họ cần sự hướng dẫn của những người có thẩm quyền đáng tin cậy, những người thực thi thẩm quyền mà không thiên kiến, không vì lợi ích cá nhân hay hình thức vị kỷ nào đó. Như vậy, càng đề cao sự vâng phục, con người càng nhận ra tình trạng thực thụ của bản thân mình và sự cần thiết để biến đổi sao cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa qua các trung gian của Người.
Thông thường, theo bước chân Nguyên Tổ, con người hay quy hướng về mình, quan tâm đến những gì phát xuất từ bản thân hầu thỏa mãn ‘cái tôi’ chứ không phải vâng phục. Người vâng phục là người bị động, người đón nhận, người lĩnh hội, trong khi đó, người có thẩm quyền là người chủ động, người ra lệnh, người thẩm định. Do đó, nhân đức vâng phục khó thực thi hơn các nhân đức khác bởi vì người thực thi nhân đức này phải từ bỏ ý riêng của mình để lắng nghe, tin tưởng và làm theo ý của người khác. Trong một số trường hợp, người vâng phục nhận thức được những sai sót nhất định của người có thẩm quyền, nhưng vì ‘đức vâng phục’ nên vui lòng chấp nhận. Dưới nhãn quan Ki-tô Giáo, vâng phục là hiến tế rất cao quý. Chúng ta có thể nói rằng người vâng phục Thiên Chúa cách trọn hảo cũng là người tử đạo theo nghĩa rộng với tên gọi là ‘tử đạo vâng phục’. Các vị tử đạo trong lịch sử Giáo Hội có điểm chung là vâng phục Thiên Chúa theo gương Đức Giê-su, thà chịu chết hơn là làm những điều ngược lại với giáo huấn của Người.
Có những người cho rằng vâng phục và tự do như nước với lửa, mặt trăng với mặt trời, bóng tối với ánh sáng hay vâng phục là thù địch của tự do. Trong thực tế, vâng phục đích thực cũng là tự do đích thực và ngược lại. Vâng phục làm cho tự do đúng hướng và tự do làm cho vâng phục được viên mãn. Điều này có nghĩa là con người không mất tự do của mình khi vâng phục Thiên Chúa. Con người vâng phục Thiên Chúa không giống máy móc làm việc theo chỉ thị của người điều khiển. Trái lại, khi con người vâng phục Thiên Chúa cũng là khi con người diễn tả sự tự do của mình cách đúng đắn và đầy đủ nhất. Như vậy, ở đây không có sự xung khắc giữa tự do và vâng phục đích thực trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Xung khắc nếu có là về phía con người khi lạm dụng tự do của mình, chiều theo cạm bẫy của thế giới bóng đêm, thế giới sự dữ. Con người chỉ có thể trưởng thành thực sự khi vâng phục thánh ý Thiên Chúa và làm cho thánh ý Người được thẩm thấu và lan rộng trong mọi chiều kích của cuộc sống mình. Người ta có thể ghép tự do và vâng phục với nhau và khẳng định rằng tự do đích thực là ‘tự do vâng phục’. Điều này có nghĩa rằng người vâng phục hiểu được giá trị của những gì mình tuân giữ bởi vì những giá trị này giúp mình ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.
Một trong những đặc tính của người vâng phục là thinh lặng. Người vâng phục là người biết suy gẫm, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Người vâng phục là người đơn sơ, đồng thời cũng là người chú tâm nhiều hơn về sự thiêng thánh của phẩm giá con người trong cõi thinh lặng. Người vâng phục biết chấp nhận những gì Thiên Chúa gửi đến cho mình, đồng thời biết sẵn sàng chịu đựng muôn hình thức đau khổ trong cuộc sống với tâm tình hiền hòa, kiên nhẫn, phó thác. Người vâng phục biết tìm bình an giữa những gian nan khốn khó; tìm thinh lặng giữa những ồn ào náo động; tìm thánh ý Thiên Chúa giữa những cám dỗ giăng đầy; tìm sự thật giữa những gian dối bội bạc; tìm tình yêu giữa những oán thù ghen ghét. Nói cách khác, người vâng phục biết thinh lặng sống theo những giá trị của Nước Thiên Chúa giữa biển đời đầy giông tố bão bùng này.
Như đã được đề cập ở trên, theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, “Đức Giê-su đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Tất cả chúng ta được mời gọi học nơi Đức Giê-su cách thức vâng phục. Chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa nhờ Người, do đó, chúng ta hãy noi gương Người trong việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Nhiều lúc chúng ta ý thức được sự cần thiết của vâng phục, nhưng lại dị ứng với những gì giúp chúng ta thực thi điều đó. Chẳng hạn, nói đến vâng phục là nói đến hy sinh, nói đến quên mình, nói đến đau khổ, nhưng chúng ta lại dị ứng với những điều này. Dưới nhãn quan của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, vâng phục mà vắng bóng đau khổ không phải là hình thức vâng phục mà Đức Giê-su đã học hỏi và diễn tả trong hành trình trần thế của Người. Chúng ta chỉ có thể vâng phục thực sự khi chúng ta trải qua quá trình học hỏi từ những đau khổ, sai lầm của bản thân cũng như của người khác. Tác giả Thánh Vịnh viết: “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119,71). Qua đau khổ, chúng ta học biết cách lắng nghe, cách cảm nhận, cách đồng hóa lời của Thiên Chúa trong cuộc sống mình.
Quả thực, vâng phục phải là trọng tâm của đời sống con người trong hành trình trần thế này. Bởi vì, vâng phục tạo điều kiện cho chúng ta đắm mình trong mầu nhiệm của chương trình Thiên Chúa đối với con người cũng như muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Vâng phục cho phép chúng ta vượt qua những yếu đuối và tầm nhìn hạn hẹp của bản thân về các sự kiện, biến cố hay tương quan trong cuộc sống. Vâng phục giúp chúng ta rèn luyện tính kiên nhẫn cũng như tâm hồn luôn biết cởi mở và hướng về Thiên Chúa, Đấng là Nguồn Gốc và Đích Đến của chúng ta cũng như muôn vật muôn loài. Vâng phục khuyến khích chúng ta biết làm chứng cho Thiên Chúa giữa những khó khăn, bấp bênh của cuộc sống hằng ngày. Đồng thời, vâng phục gia tăng niềm tin, tình yêu và hy vọng của chúng ta đối với Thiên Chúa. Vâng phục mở đường cho chúng ta vào đời sống công chính, thánh thiện giữa thế giới đầy cạm bẫy của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Vâng phục thúc đẩy chúng ta đóng góp phần mình vào việc xây dựng trật tự và hòa hợp trong gia đình cơ bản và các hình thức gia đình khác trong xã hội.
Theo một nghĩa nào đó, vâng phục chính là nhân đức của các nhân đức trong đời sống con người. Các Ki-tô hữu được mời gọi sống và thực hành nhân đức này cách trung tín nhất. Đặc biệt, những người sống đời độc thân dâng hiến cần phải quan tâm nhiều hơn đến nhân đức vâng phục. Các nhân đức khác, chẳng hạn như khiết tịnh hay nghèo khó không thể thực hiện được nếu thiếu nhân đức vâng phục. Nhân đức này thường được diễn tả qua việc lắng nghe và thực thi ý định của những người có thẩm quyền với lòng thâm tín rằng, ý của người có thẩm quyền diễn tả thánh ý Thiên Chúa. Chẳng hạn, sự vâng phục của một tu sĩ đối với bề trên của mình không theo nghĩa ‘cá nhân với cá nhân’, nhưng theo nghĩa ‘cá nhân với thẩm quyền hợp pháp’ của Giáo Hội nhằm mục đích xây dựng trật tự, hòa hợp và phát triển của cộng đoàn. Theo Công Đồng Vatican II: “Đức vâng lời trong đời tu trì chẳng những đã không giảm bớt phẩm giá, nhưng còn giúp nhân vị trưởng thành nhờ phát triển tự do của con cái Thiên Chúa” (Perfectae Caritatis 14) hay “Việc noi theo và làm chứng đức ái cùng sự khiêm hạ của Chúa Kitô cần được các môn đệ thực hiện không ngừng; nên Giáo Hội là Mẹ chúng ta vui mừng khi thấy trong lòng mình có nhiều con cái nam nữ muốn theo sát gương Ðấng Cứu Thế và tỏ lộ rõ ràng hơn sự tự diệt của Người. Họ chấp nhận nghèo khó trong tự do của con cái Thiên Chúa và từ bỏ ý riêng: Hơn cả mức đòi buộc của giới luật, họ tự nguyện tùng phục một con người, tùng phục vì Chúa, trong những gì liên hệ tới sự trọn lành, hầu nên giống Chúa Kitô vâng lời cách hoàn toàn hơn” (Lumen Gentium 42). Như vậy, người vâng phục là người thâm tín rằng mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa khi biết phục tùng những người được Thiên Chúa chọn gọi để đồng hành và hướng dẫn mình. Vì thế, trong đời sống thánh hiến, nhân đức vâng phục được xem như ‘nhân đức cả’, bao trùm hai nhân đức còn lại là nghèo khó và khiết tịnh.
Đức vâng phục được diễn tả trong gia đình là tế bào của xã hội. Theo thánh Phao-lô, trong đời sống gia đình, người vợ cần vâng phục người chồng: “Tôi muốn anh em biết rằng thủ lãnh của người nam là Đức Ki-tô, thủ lãnh của người nữ là người nam, và thủ lãnh của Đức Ki-tô là Thiên Chúa” (1 Cr 11,3). Thánh nhân cũng viết: “Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5,25). Như vậy, sự vâng phục trong gia đình không phải là sự ‘vâng phục một chiều’, mà là sự ‘vâng phục hỗ tương’ nhằm đem lại bình an, hòa thuận trong gia đình. Do đó, chúng ta có thể hiểu rằng trong đời sống gia đình, vợ và chồng vâng phục lẫn nhau cũng có nghĩa là yêu thương nhau. Giao ước tình yêu giữa vợ và chồng sẽ bị lung lay thậm chí tan vỡ nếu thiếu vắng nhân đức vâng phục. Thánh Phao-lô cũng đề cập đến sự vâng phục của con cái đối với cha mẹ: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20). Đến lượt mình, cha mẹ cần quan tâm con cái cách phù hợp và đúng đắn nhất: “Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3,21).
Đức vâng phục cần được diễn tả trong đời sống xã hội bởi vì mỗi người không phải là hữu thể độc lập nhưng là hữu thể tương quan với nhiều người khác. Trong bất cứ hình thức xã hội nào, tất cả mọi người đều được mời gọi vâng phục thẩm quyền chính đáng và hợp pháp, vâng phục lề luật vì lợi ích chung. Một xã hội mà các thành phần không vâng phục thẩm quyền hợp pháp hay lề luật thì xã hội đó sẽ hỗn loạn, thậm chí tan rã. Lời Thiên Chúa trong sách Khôn Ngoan đối với những người có thẩm quyền là: “Hỡi những người cai trị trần gian, hãy suy tưởng ngay lành về Đức Chúa và thành tâm kiếm tìm Người. Ai không thách thức Người, thì được Người cho gặp. Ai tin tưởng vào Người, sẽ được Người tỏ mình cho thấy” (Kn 1,1-2). Thánh Phao-lô khuyên dạy các tín hữu: “Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng như nô lệ của Đức Ki-tô, đem cả tâm hồn thi hành ý Thiên Chúa. Hãy vui lòng phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ không phải người ta” (Ep 6,6-7). Trong hành trình dương thế, Đức Giê-su không bao giờ xem thường thẩm quyền hay lề luật xã hội dân sự. Chẳng hạn, những người Pha-ri-sêu sai các thuộc hạ của họ cùng đi với những người thuộc phe Hê-rô-đê đến hỏi Đức Giê-su: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” (Mt 22,17). Sau khi xem quan tiền và biết được hình ảnh và danh hiệu là của Xê-da, Đức Giê-su nói: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Dưới nhãn quan nội dung đức tin Ki-tô Giáo, trong các hình thức vâng phục lề luật, thì vâng phục lề luật Thiên Chúa phải đứng hàng đầu. Đây là hình thức ‘vâng phục tiêu chuẩn’ của các hình thức vâng phục khác (Cv 5,27-32). Thánh Phê-rô khẳng định: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Điều đáng để chúng ta quan tâm là tất cả các hình thức lề luật giúp con người phát triển toàn diện và phù hợp với phẩm giá con người trong thế giới thụ tạo đều đến từ Thiên Chúa và phản ánh tình thương của Người.
Những ai theo Đường Vâng Phục của Đức Giê-su thì được mời gọi loan báo Tin Mừng của Người. Tân Ước cho chúng ta nhận thức rằng trong buổi đầu loan báo Tin Mừng, sau khi các môn đệ gặp gỡ Đức Giê-su, nhất là lắng nghe và chứng kiến những việc Người làm, họ đã vâng phục theo lời mời gọi của Người, từ bỏ tất cả, để trở thành những môn đệ của Người. Chẳng hạn, thánh Phê-rô nói với Đức Giê-su: “Vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5). Trước mẻ cá lạ, thánh nhân sấp mặt xuống đất và nói với Người: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5,8). Đức Giê-su căn dặn thánh Phê-rô: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” (Lc 5,10). Sự trở lại của thánh Mát-thêu và các môn đệ khác cũng cho chúng ta thấy được sự vâng phục của các ngài đối với Thầy mình là Đức Giê-su. Như vậy, ai muốn trở thành môn đệ và tông đồ trung tín của Đức Giê-su, người đó phải là chứng nhân cho Đường Vâng Phục của Người bằng chính cuộc sống mình.
Chúng ta có thể kết luận rằng vâng phục có nghĩa là lắng nghe và thực thi thánh ý Thiên Chúa và Đường của Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Đường Vâng Phục. Người đã kiện toàn thánh ý Đức Chúa Cha với tâm hồn vâng phục: “Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,7; Tv 40,8-9). Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Người nói: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28). Với Đức Giê-su, vâng phục phải là chủ đề quán xuyến tâm hồn con người. ‘Vâng phục hơn của lễ’, sứ điệp ngắn nhưng rất dồi dào ý nghĩa. Đức Giê-su đã kiện toàn sứ điệp đó bằng đời sống vâng phục, hy sinh, dâng hiến. Suy niệm về Biến Cố Đức Giê-su giữa dòng đời, chúng ta nhận thức rằng vâng phục là điều kiện tiên quyết diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của người Ki-tô hữu. Hơn nữa, vâng phục Thiên Chúa là khuôn mẫu và nền tảng vững chắc cho các hình thức vâng phục khác của con người. Chúng ta hãy thành tâm học hỏi Đường Vâng Phục của Đức Giê-su và loan báo Đường này cho anh chị em đồng loại. Đặc biệt, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy đi theo Đường Vâng Phục của Người hầu diễn tả cách tốt đẹp nhất tương quan giữa mình với Thiên Chúa, với anh chị em và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo này.

WHĐ (01.10.2021)


 

ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG ĐAU KHỔ
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên

 
WHĐ (03.3.2022) - Là con người, ai cũng phải gặp đau khổ. Đau khổ gắn liền với cuộc sống con người từ khi hình thành trong lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Tuy nhiên, thật khó để đưa ra một định nghĩa tổng quát về đau khổ bởi vì các hình thức đau khổ thật đa dạng. Chẳng hạn, có những người đau khổ vì bệnh tật, vì cô đơn, vì nghèo khổ, vì thiếu hiểu biết, vì sợ hãi, vì bị vu oan giá họa; có những người đau khổ vì những lầm lỗi trong tư tưởng, lời nói hay việc làm; có những người đau khổ vì yêu thương, vì muốn sống thánh thiện, vì xả thân cứu giúp người khác; có những người đau khổ vì ‘quá khôn ngoan và nhiều hiểu biết’ như tác giả sách Giảng viên khẳng định: “Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều phiền muộn, càng thêm hiểu biết, càng thêm khổ đau” (Gv 1,18); có những người đau khổ vì chiến tranh, vì bất công xã hội, vì bị phân biệt chủng tộc; có những người đau khổ vì thảm họa thiên nhiên như động đất, núi lửa, thời tiết thất thường hay dịch bệnh.
‘Bóng dáng đau khổ' hiện diện trong mọi nơi, mọi lúc của đời sống con người trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Không ai được mọi người yêu mến mà không đau khổ vì họ; không ai khỏe mạnh mà không phải ra công tập luyện; không ai thành đạt mà không phải đổ mồ hôi; không ai giỏi giang mà không phải kiên tâm học hỏi; không ai thánh thiện mà không phải chịu nhiều hy sinh. Người trẻ cũng như người già, người giàu cũng như người nghèo, người vui cũng như người buồn, người sang cũng như người hèn, ai ai cũng phải đối diện với đau khổ. Người lạc quan hay người thất vọng đều cảm nhận đau khổ bao phủ đời mình. Quả thực, đau khổ len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống con người cũng như các hình thái xã hội: Có những người tìm cách để thoát khỏi đau khổ nhưng lại phải chịu nhiều đau khổ hơn; có những người tìm cách để quên đi đau khổ nhưng lại nhớ đến đau khổ nhiều hơn; có những người tìm cách phủ nhận đau khổ nhưng đau khổ càng hiện diện cách rõ nét hơn. Kinh nghiệm cuộc sống cho mọi người nhận thức rằng trong xã hội loài người, không có niềm vui nào lại không pha chút buồn phiền; không có thành công nào lại không vương mùi thất bại; không có tình yêu nào lại vắng bóng ghét ghen. Tắt một lời, không có gì liên quan đến con người mà miễn nhiễm đau khổ: Con người muốn được bình an nhưng gian nan luôn kề cận; con người muốn ánh sáng nhưng bóng tối lại bao trùm; con người muốn tự do nhưng phải đương đầu với muôn hình thức giới hạn.
Dưới nhãn quan Ki-tô Giáo, đau khổ không chỉ gắn liền với con người mà còn với muôn vật muôn loài. Điều này được thánh Phao-lô diễn tả trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người… Thật vậy, chúng ta biết rằng: Cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,19-22). Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dạy rằng: “Trong sự khôn ngoan và nhân hậu vô biên của Người, Thiên Chúa đã tự ý sáng tạo một thế giới trong ‘tiến trình’ hướng về sự trọn hảo tối hậu. Theo ý định của Thiên Chúa, sự tiến hóa này gồm có việc vật này xuất hiện và vật khác biến đi, có cái hoàn hảo hơn và có cái kém hơn, có xây đắp và cũng có tàn phá trong thiên nhiên. Vì vậy bao lâu mà cuộc sáng tạo chưa đạt được sự trọn hảo của nó, thì cùng với điều tốt thể lý, cũng có sự dữ thể lý” (GLGHCG 310). Như thế, đau khổ gắn liền với tội lỗi, với sự tự do của con người cũng như với tiến trình biến đổi của thế giới thụ tạo.
Dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, ba hình thức đau khổ đáng để chúng ta quan tâm là: (1) đau khổ thể lý, (2) đau khổ luân lý và (3) đau khổ đời đời. Đau khổ thể lý được xem là đau khổ tự nhiên liên quan đến thân thể con người. Đau khổ luân lý liên quan đến đến tội lỗi, chẳng hạn, những tội lỗi về tư tưởng, lời nói và hành vi của con người trong tương quan với Thiên Chúa, với tha nhân và muôn vật muôn loài. Đau khổ đời đời là hậu quả của sự tự do chọn lựa đời sống luân lý của mỗi người. Trong gia đình nhân loại, không ai có thể miễn nhiễm khỏi đau khổ thể lý và đau khổ luân lý. Với thời gian, đau khổ thể lý sẽ qua đi. Đặc biệt, đau khổ thể lý đạt đỉnh điểm trong cái chết của mỗi người. Đau khổ luân lý được hòa giải nhờ tin tưởng, lắng nghe và thực thi giáo huấn của Đức Giê-su. Còn đau khổ đời đời thuộc về những ai từ chối tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện. Đây là hình thức đau khổ chung quyết và không thể thay đổi.
Kinh Thánh cho chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ hay đau khổ trong thế giới thụ tạo, bởi vì “mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31). Theo sách Sáng Thế, khi con người vô ơn, khi con người kiêu ngạo, khi con người bất tuân mệnh lệnh của Thiên Chúa cũng là khi tội lỗi xâm nhập trần gian và khi tội lỗi xâm nhập trần gian cũng là khi con người phải đối diện với muôn hình thức đau khổ (St 3,1-19). Tác giả sách Khôn Ngoan (sách này được thu thập và soạn thảo cuối cùng trong các sách Cựu Ước, khoảng năm 130 trước Công Nguyên), viết rõ hơn: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,23-24). Dưới nhãn quan của truyền thống Do-thái Giáo thuở ban đầu, đau khổ của con người được xem là hậu quả của tội lỗi. Quan điểm này vẫn còn khá thịnh hành theo dòng lịch sử dân Do-thái cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới. Tuy nhiên, mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận biết rằng đau khổ không nhất thiết do hậu quả của tội lỗi.
Câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước giúp con người có cái nhìn mới mẻ hơn về đau khổ. Theo đó, đau khổ được nhìn nhận như là thử thách của Thiên Chúa đối với con người. Ông Gióp bị mất mát quá lớn cũng như mang lấy bệnh tật hiểm nguy. Trong thất vọng, người vợ của ông nói: "Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!" (G 2,9). Những người bạn của ông thì lại cho rằng vì tội lỗi của bản thân mà ông phải chuốc lấy tai họa, chẳng hạn như ông Ê-li-phát, người Tê-man nói: "Điều tôi thấy rành rành là những người vun trồng tội ác và gieo tai rắc họa cuối cùng chỉ gặt lấy họa tai" (G 4,8). Tuy nhiên, ông Gióp luôn minh chứng rằng mình vô tội và trong mọi hoàn cảnh, ông ca ngợi lòng nhân từ của Thiên Chúa. Với ông, dù giàu nghèo hay sống chết, ông luôn tín thác vào Người. Ông nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: Xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1,21). Với niềm tin vững chắc, tâm hồn ông luôn hướng về môi trường vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27). Câu chuyện ông Gióp cho thấy hai ý nghĩa của đau khổ vượt xa quan niệm truyền thống: (1) Xét theo chiều kích luân lý: Đau khổ có thể cảnh báo con người xa lánh tội lỗi, tránh được tính kiêu căng hay tự mãn, giữ linh hồn khỏi sa vào vực thẳm, cứu sinh mạng khỏi rơi xuống đường hầm và nhất là đau khổ giáo dục con người (G 33,15-24). (2) Xét theo chiều kích tín lý: Đau khổ nhằm để thử thách, để xem lòng kính sợ Thiên Chúa của ông Gióp có hoàn toàn vô vị lợi hay không. Vì luôn trung tín với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, cuối cùng ông đã được Thiên Chúa ân thưởng gấp bội và lìa bỏ cõi trần trong bình an (G 42,10-17). Hình ảnh ông Gióp được xem là hình ảnh báo trước Đức Giê-su, Đấng Công Chính phải chịu đau khổ cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.
Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su cảm nhận sâu xa những đau khổ của kiếp người, chẳng hạn như Người sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo hèn; hành trình rao giảng là hành trình không nhà cửa; Người mệt nhọc, lo lắng, buồn phiền, khóc lóc; Người bị bà con quê hương xa lánh, những bậc vị vọng trong dân Do-thái khinh bỉ, những người ngoại bang chê cười; Người bị kết tội phá vỡ tập tục truyền thống tổ tiên, nói phạm thượng, gây náo loạn cộng đồng. Thư gửi tín hữu Do-thái nói về Đức Giê-su: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2,18). Do đó, Người quan tâm đến mọi người, đặc biệt những ai đau khổ về tâm hồn, thể xác. Chẳng hạn, Người chạnh lòng thương những người vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9,36); chạnh lòng thương trước những người đói khát và hóa bánh ra nhiều cho họ ăn (Mt 14,13-21); chạnh lòng thương trước những người mù lòa và cho họ được sáng mắt (Mt 20,29-34); chạnh lòng thương trước người bị phong hủi và chữa anh khỏi bệnh (Mc 1,40-45); chạnh lòng thương trước đứa trẻ bị quỷ ám mắc bệnh động kinh và cho em được khỏe mạnh (Mc 9,14-29); chạnh lòng thương trước cái chết của con trai bà góa thành Na-in và làm cho con trai bà hồi sinh (Lc 7,11-17); chạnh lòng thương trước người mù từ lúc mới sinh và giúp ông thoát cảnh tăm tối (Ga 9,1-41). Không những thế, Người đồng hóa mình với những người khổ đau, chẳng hạn như những người đói khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, tù đày trong xã hội (Mt 25,31-46).
Trước những người đau khổ, Đức Giê-su dạy các môn đệ rằng không phải mọi hình thức đau khổ là do tội của họ hay của những người thân thuộc. Chẳng hạn, thánh Gio-an trình thuật: "Khi ấy Ðức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này mới sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? Ðức Giêsu trả lời: Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh" (Ga 9,1-3). Một mặt, chúng ta thấy rằng Đức Giê-su không phủ nhận đau khổ do tội gây nên. Mặt khác, Người mời gọi mọi người hãy mở trí lòng để có thể đón nhận chương trình của Thiên Chúa đối với các hình thức đau khổ trong gia đình nhân loại. Chỉ Đức Giê-su, chỉ Thiên Chúa mới thấu rõ ngọn ngành của đau khổ, còn con người cần biết cộng tác với Thiên Chúa và với nhau trong việc xoa dịu đau khổ cho của chị em mình.
Với Đức Giê-su, đau khổ là bài học quý giá giúp mọi người hoán cải. Thánh Lu-ca trình thuật rằng khi nghe người ta kể về việc tổng trấn Phi-la-tô giết một số người Ga-li-lê cách rùng rợn thì Đức Giê-su cho họ biết rằng không phải những người Ga-li-lê này tội lỗi nhiều hơn những người Ga-li-lê khác. Người cũng nói cho họ biết rằng mười tám người bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết không phải là những người tội lỗi hơn những người khác ở Giê-ru-sa-lem. Hai lần Đức Giê-su nói rằng nếu họ không chịu sám hối thì cũng sẽ chết như vậy (Lc 13,1-5). Với Đức Giê-su, hai biến cố chết chóc thảm thương không phải do tội của những người chết, cũng không phải do sự trừng phạt của Thiên Chúa. Điều người muốn diễn tả là cuộc đời con người đầy những đau khổ, bất trắc và không ai có thể biết trước được. Tâm tình quan trọng nhất mà mọi người cần có là hoán cải, trở về với Thiên Chúa và thực thi thánh ý Người trong mọi biến cố của cuộc đời. Khi con người sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa và kết hợp mật thiết với Người thì bất cứ những gì xảy ra trên trần gian này đều không đáng lo sợ.
Theo thánh Mác-cô, khi Đức Giê-su và các môn đệ trên đường lên Giê-ru-sa-lem thì Người nói với họ: "Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại" (Mc 10,33-34). Như vậy, đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ đã được báo trước, đau khổ được ứng nghiệm (Mt 26,54). Xa hơn thế, khoảng bảy trăm năm trước sự hiện diện của Đức Giê-su giữa lòng nhân thế, lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a cho chúng ta biết: "Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới" (Is 53,3); "Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng" (Is 53,7). Dù biết rằng đau khổ sẽ ập đến, Đức Giê-su vẫn tự nguyện mang lấy để thông phần đau khổ và ban ơn cứu độ cho mọi người.
Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của người công chính, của người vô tội, của người chịu đựng vì người khác. Điều này cũng đã được tiên báo trong Cựu Ước: "Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề. Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53,4-5). Trong cuộc thương khó, sau khi phản bội Đức Giê-su, Giu-đa đã nhìn nhận: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan” (Mt 27,4). Khi Đức Giê-su tắt thở trên thập giá, viên đại đội trưởng đã thốt lên: “Người này đích thực là người công chính!” (Lc 23,47). Sau này, trong hành trình rao giảng Tin Mừng, thánh Phê-rô, người môn đệ trưởng của Đức Giê-su viết: “Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình” (1 Pr 2,21-23). Tương tự như vậy, thánh Gio-an, người môn đệ Chúa yêu, cũng viết: “Đức Giê-su đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi” (1 Ga 3,5). Như thế, Đức Giê-su chịu đau khổ do người khác và vì người khác.
Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa hiện diện trong môi trường thế giới thụ tạo: Vị Thiên Chúa toàn năng, cũng là vị Thiên Chúa mang thân phận con người; vị Thiên Chúa là nguồn gốc của muôn vật muôn loài, cũng là vị Thiên Chúa chịu cảnh đau khổ của muôn vật muôn loài; vị Thiên Chúa thi ân giáng phúc, cũng là vị Thiên Chúa bị người đời khinh khi nhục mạ; vị Thiên Chúa thánh thiện, cũng là vị Thiên Chúa là nạn nhân của tội lỗi; vị Thiên Chúa trao ban bình an, cũng là vị Thiên Chúa bị kết án là nguyên nhân chia rẽ; vị Thiên Chúa là Nguồn Sống, cũng là vị Thiên Chúa chịu chết trên thập giá. Không ai có thể liệt kê hết những nghịch lý nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su trong hành trình trần thế. Cách thức Đức Giê-su tiêu diệt tội lỗi, đau khổ và sự chết hoàn toàn mới lạ so với tâm thức của con người qua mọi thời đại. Quả thực, nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su, lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a về tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa được ứng nghiệm (Is 55,8-9).
Con người thường ngạc nhiên trước những điềm thiêng dấu lạ mà Đức Giê-su thực hiện hơn là những đau khổ của Người. Thực ra, những đau khổ của Người đáng ngạc nhiên hơn những điềm thiêng dấu lạ Người thực hiện. Hai biến cố quan trọng trong cuộc đời Đức Giê-su diễn ra trên núi Ta-bo và núi Sọ giúp mọi người hiểu thêm điều này: Khuôn mặt Đức Giê-su đẫm mồ hôi máu trên núi Sọ đáng ngạc nhiên hơn khuôn mặt sáng láng của Người trên núi Ta-bo; hình ảnh Đức Giê-su trần truồng trên núi Sọ đáng ngạc nhiên hơn hình ảnh Người với áo trắng sáng láng tinh tuyền trên núi Ta-bo; sự cô đơn của Đức Giê-su trên núi Sọ đáng ngạc nhiên hơn sự sum vầy của Người với những môn đệ thân tín cùng Mô-sê và Ê-li-a trên núi Ta-bo; tiếng kêu thương của Đức Giê-su trên núi Sọ "lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” đáng ngạc nhiên hơn tiếng nói của Thiên Chúa Cha "đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" trên núi Ta-bo; bóng tối bao phủ mọi người trên núi Sọ đáng ngạc nhiên hơn mây trắng bao phủ Đức Giê-su và các môn đệ trên núi Ta-bo. Quả thực, những điềm thiêng dấu lạ Đức Giê-su thực hiện diễn tả quyền năng vốn có của Người, còn những gì Đức Giê-su chịu đau khổ diễn tả tình yêu huyền nhiệm vượt quá tư tưởng và hiểu biết của con người qua muôn thế hệ.
Đức Giê-su là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các chúa bởi vì Người là Vua mà lại đón nhận đau khổ, là Chúa mà lại chịu khổ đau. Suy niệm và ngắm nhìn Đường Đau Khổ của Đức Giê-su, con người có thể nhận ra rằng trong gia đình nhân loại, người vĩ đại nhất là người chịu đau khổ nhiều nhất. Từ muôn thuở, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Người thuộc Gia Đình Thiên Chúa. Trong thân phận con người, Đức Giê-su là con Đức Ma-ri-a và là con của gia đình nhân loại. Sự vĩ đại nhất của Đức Giê-su không phải là nơi những điều làm cho người ta vỗ tay tán thưởng nhưng là nơi đau khổ cùng cực mà Người phải chịu để cứu giúp con người khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, đau khổ và sự chết muôn đời. Nói cách khác, quyền năng vĩ đại nhất mà Đức Giê-su thực hiện là quyền năng diễn tả qua những đau khổ và yếu đuối của Người.
Con người không thể đến với Thiên Chúa nếu không đón nhận tình yêu của Người được thực hiện nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su. Quả thực, Đường Đau Khổ là đường cứu độ, là Đường đem lại sự chữa lành chung cuộc và trọn vẹn cho con người cũng như muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Chính tình yêu của Thiên Chúa nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su mới cho con người câu trả lời đầy đủ nhất về ý nghĩa của đau khổ mà con người phải chịu trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói riêng với các môn đệ của Người về điều này: "Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,12-13). Tình yêu cứu độ (salvific love) của Đức Giê-su chính là tình yêu đau khổ (suffering love) của Người. Điều này có nghĩa rằng thuộc tính của tình yêu Đức Giê-su diễn tả trong hành trình trần thế là đau khổ. Nói cách khác, tình yêu cứu độ cũng là tình yêu đau khổ và ngược lại.
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su không hứa ban cho các môn đệ của Người cuộc sống sung túc, miễn nhiễm các hình thức đau khổ nhưng cho họ biết về những đau khổ mà họ phải chịu đựng. Người nói: “Anh em hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và các hội đường; anh em sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ được biết” (Mc 13,9); “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15,18-21). Cũng trong bối cảnh trước khi bước vào cuộc thương khó, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16,33). Những điều Đức Giê-su nói được ứng nghiệm đối với những ai trung tín với Người trong dòng lịch sử. Chúng ta có thể khái quát rằng càng trung tín với Đức Giê-su bao nhiêu, con người càng thông phần đau khổ của Người bấy nhiêu.
Đức Giê-su hằng liên đới với mọi người trong đau khổ. Thân xác phục sinh của Người vẫn còn in đậm những vết thương. Theo thánh Gio-an, khi hiện ra lần thứ hai sau phục sinh, Người nói với Tô-ma, môn đệ hoài nghi sự phục sinh của Người: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Điều này giúp chúng ta hiểu rằng Đức Giê-su vẫn luôn đồng hành, chia sẻ và liên đới với tất cả mọi người, nhất là những ai đang phải đương đầu với muôn hình thức đau khổ. Quả thực, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Trước khi về trời, Người cũng nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Hơn ai hết, thánh Phao-lô là gương mẫu điển hình trong việc cảm nghiệm về sự liên đới với Đức Giê-su và Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Người trong hành trình trần thế. Thánh nhân viết: "Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh" (Cl 1,24). Tương tự như vậy, nhờ việc gắn bó với Đức Giê-su và có kinh nghiệm sâu sắc về sự hiện diện của Người, nhà bác học Blaise Pascal (1623 – 1662) viết: ”Đức Giê-su vẫn còn hấp hối cho đến tận thế”. Quả thực, Đức Giê-su đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết, sống lại và về trời. Tuy nhiên, Người vẫn luôn hiện diện, đồng hành, chia sẻ đau khổ với mọi người trong gia đình nhân loại.
Ai có kinh nghiệm về sự liên kết mật thiết với Đức Giê-su thì luôn phản ứng tích cực trước các hình thức đau khổ, kể cả sự chết. Chẳng hạn, cảm nhận được sự liên kết mật thiết với Đức Giê-su, thánh Phao-lô minh định: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35). Cũng theo thánh nhân: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39). Đặc biệt, thánh Phao-lô luôn ý thức về những đau khổ của ngài nhân danh Thiên Chúa, nhân danh Đức Giê-su và Tin Mừng của Người. Thánh nhân viết cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Chúng tôi đã đau khổ và bị làm nhục tại Phi-líp-phê; nhưng vì tin tưởng vào Thiên Chúa chúng ta mà chúng tôi đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em, qua những cuộc chiến đấu gay go” (1 Tx 2,2). Đau khổ là tủi nhục, là yếu đuối theo nhãn quan người trần mắt thịt. Tuy nhiên, theo nhãn quan đức tin, thánh Phao-lô xác tín: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9-10).
Chúng ta biết rằng đặc điểm chung của các thánh là chịu nhiều đau khổ. Thật khó biết bao khi kiếm tìm trong lịch sử một vị thánh không nếm mùi đau khổ. Đối với các ngài, đau khổ là cần thiết cho việc thanh luyện tâm hồn. Điểm chung của các ngài là nhận thức về ý nghĩa của chương trình Thiên Chúa cứu độ được thực hiện nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su. Càng đau khổ bao nhiêu, các ngài càng gắn bó mật thiết với Người bấy nhiêu. Chính đau khổ đã biến đổi con người và cuộc sống các ngài. Qua muôn thế hệ, các ngài luôn là những mẫu gương cho mọi người học đòi bắt chước. Suy niệm về cuộc đời các thánh, chúng ta có thể khẳng định rằng người thánh thiện nhất là người chịu đau khổ nhiều nhất. Người gần Thiên Chúa nhất là người phải chịu đau khổ nhiều nhất hay càng gần Thiên Chúa bao nhiêu, con người càng phải chịu đau khổ bấy nhiêu. Chúng ta có thể quả quyết rằng châm ngôn (motto) đáng để các Ki-tô hữu quan tâm nhất là ‘qua đau khổ tới vinh quang’ (Lc 24,26). Đức Giê-su đã thực thi châm ngôn này và Người mời gọi những ai theo Người cũng thực thi như vậy.
Đâu là nguyên nhân, nguồn gốc của đau khổ? Đau khổ có ý nghĩa gì không? Con người có thể tiêu diệt đau khổ không? Đâu là cách thức hữu hiệu nhất để loại trừ đau khổ? Tại sao Thiên Chúa quyền năng lại để con người đau khổ? Thiên Chúa ở đâu khi những người vô tội phải đau khổ? Quả thực, những câu hỏi về đau khổ quá nhiều so với những giải thích hữu lý về đau khổ. Khi con người càng tìm cách trả lời những câu hỏi liên quan đến đau khổ cũng là khi con người càng phải đối diện với nhiều vấn đề không thể vượt qua. Quả thực, sự dữ, gian ác hay đau khổ thật là nhiệm mầu (2 Tx 2,7). Thánh Au-gút-ti-nô chia sẻ: “Tôi đã truy tìm nguồn gốc sự dữ nhưng không thu được kết quả nào” [quaerebam unde malum, et no erat exitus] (Confessions, VII, 7.11). Cuối cùng, thánh nhân nhìn nhận chương trình Thiên Chúa được thực hiện nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su như là câu trả lời khả dĩ nhất cho những trăn trở của ngài. Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su và đi Đường Đau Khổ của Người, thánh nhân đã không ngừng hoán cải và trở thành mẫu gương sáng ngời cho những ai thành tâm tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống mình trong thế giới thụ tạo cũng như thế giới mai ngày.
Con người cần ý thức rằng bao lâu còn trong hành trình trần thế, bấy lâu còn phải đối diện với mầu nhiệm đau khổ. Tự thân, con người không bao giờ có thể loại bỏ các hình thức đau khổ khỏi cuộc sống mình. Các hình thức đau khổ trong đời sống con người thật nhiệm mầu nhưng Đường Đau Khổ của Đức Giê-su còn nhiệm mầu hơn. Như đã được đề cập ở trên, các trình thuật Tân Ước cho chúng ta nhận thức rằng ưu tiên của Đức Giê-su trong hành trình trần thế không phải để giải thích mầu nhiệm đau khổ mà là sống và nếm trải các hình hình thức đau khổ. Do đó, điều cần thiết là con người cần sống với đau khổ theo cách thức Đức Giê-su đã sống. Mầu nhiệm đau khổ của con người gắn liền với mầu nhiệm đau khổ của Đức Giê-su, Người là Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa (Is 52,13-53,12). Công Đồng Vatican II khẳng định rằng mầu nhiệm con người chỉ có thể được sáng tỏ trong mầu nhiệm của Biến Cố Đức Giê-su (GS 22). Nói cách khác, mầu nhiệm đau khổ của con người cần được nhìn nhận trong tương quan với mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa được diễn tả nơi Đường Đau Khổ của Đức Giê-su.
Các hình thức đau khổ trong môi trường thiên nhiên giúp chúng ta nhận thức rằng thế giới này không hoàn hảo. Con người dễ bị tổn thương bởi động đất, núi lửa, sóng thần, dịch bệnh, chiến tranh và nhiều hình thức tàn phá khốc liệt khác. Đây là những dấu chỉ giúp chúng ta nhận ra sự mong manh của kiếp người, sự mong manh của những gì chúng ta cho là bền vững, sự mong manh của thế giới vật chất, sự mong manh của muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Bên cạnh nhiều điều chúng ta không chắc chắn ở trần gian này thì có hai điều chắc chắn mà chúng ta cần quan tâm: (1) Sự chết của con người và (2) ‘sự chết’ của muôn vật muôn loài. Tuy nhiên, mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết rằng không phải chúng ta cũng như muôn vật muôn loài phải chết nhưng được biến đổi (1 Cr 15,51; Kh 21,1-3). Thánh Phao-lô chia sẻ kinh nghiệm của ngài: “Tôi nghĩ rằng: Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Còn tác giả sách Khải Huyền thì diễn tả tình trạng của những ai trung tín với Đường Đau Khổ của Đức Giê-su như sau: “Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,4).
Đau khổ giúp con người trưởng thành hơn về ba nhân đức quan trọng của Ki-tô Giáo là đức tin, đức cậy và đức mến. Theo tác giả Thánh Vịnh 119: “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119,71). Thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng: "Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người" (Rm 8,28). Chúng ta biết rằng dân Do-thái bị lưu đày ở Ai Cập hay Ba-by-lon là những sự dữ đối với họ. Tuy nhiên, nhờ đó, họ mới có được kinh nghiệm sâu xa về tình yêu, sự trung tín và giải thoát của Thiên Chúa. Câu chuyện Giu-se, con Gia-cóp, bị các anh mình bán sang Ai-cập là ví dụ điển hình diễn tả việc Thiên Chúa biến sự dữ thành sự lành. Bởi vì, nhờ Giu-se, con cháu và hậu duệ Gia-cóp khỏi phải lâm cảnh chết đói. Khi gặp các anh mình sang Ai-cập để mua lương thực, Giu-se nói: “Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo” (St 50,20). Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo trích lại lời của thánh Au-gút-ti-nô: “Thiên Chúa Toàn Năng bởi Người tốt lành vô cùng, nên không bao giờ để bất cứ một sự dữ nào xảy ra trong các công trình của Người, nếu Người không đủ quyền năng và lòng nhân lành để rút lấy điều lành từ chính sự dữ” (GLGHCG 311). Cũng theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Từ việc Ít-ra-en chối bỏ và hạ sát Con Thiên Chúa là sự dữ luân lý lớn nhất chưa từng có do tội lỗi của mọi người gây nên, Thiên Chúa đã rút ra được sự lành lớn nhất do sự sung mãn của ân sủng: Đức Ki-tô được tôn vinh và chúng ta được cứu chuộc. Tuy nhiên không vì thế mà cái xấu trở thành cái tốt được” (GLGHCG 312).
Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Không có bất cứ chi tiết nào của sứ điệp Ki-tô giáo mà không là một phần của câu trả lời cho câu hỏi về sự dữ” (GLGHCG 309). Cũng theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: "Thiên Chúa trong sự quan phòng toàn năng có thể rút sự lành từ hậu quả của một sự dữ, cho dù là sự dữ luân lý do thụ tạo gây nên" (GLGHCG 312). Như vậy, một mặt, chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của sự dữ và hậu quả của sự dữ là đau khổ. Mặt khác, chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa có thể 'rút sự lành từ hậu quả của sự dữ'. Điều này có nhiều bằng chứng trong Kinh Thánh Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chẳng hạn, vua Đa-vít là người tội lỗi, đã làm điều dữ, gây đau khổ cho nhiều Người. Tuy nhiên, vua đã ăn năn hối cải chân thành, được Thiên Chúa tha thứ và được gọi là ‘vua thánh’. Sự thánh thiện của vua Đa-vít là sự thánh thiện qua việc hoán cải. Hơn ai hết, Đức Giê-su là hiện thân của việc 'rút sự lành từ hậu quả của sự dữ' qua hành trình trần thế của Người. Đường Đau Khổ của Người trở thành Đường cứu độ nhân loại, cứu độ trần gian (Ga 1,29).
Mọi người được mời gọi suy niệm về mầu nhiệm đau khổ trong gia đình nhân loại. Với sự phát triển của y học, các hình thức đau khổ thể lý ngày càng được giảm thiểu. Tuy nhiên, những gì con người làm được thì quá ít ỏi so với những gì con người không thể làm được. Nói cách khác, các hình thức đau khổ của con người luôn vượt quá sự phát triển của y học. Đặc biệt, không ai có thể làm cho mình hay người khác thoát khỏi đau khổ tồi tệ nhất là cái chết. Thực ra, có những hình thức đau khổ không thuộc trật tự của y học. Các hình thức bệnh tật của con người luôn dồi dào hơn các phương thức và thuốc men chữa bệnh. Hơn nữa, không ai có thể đếm hết được các hình thức bệnh tật tiềm tàng trong xã hội loài người cũng như môi trường thiên nhiên. Chẳng hạn, trong bối cảnh hiện tại, nhân loại đang phải đối diện với Covid-19. Tuy nhiên, môi trường thiên nhiên còn có vô số loại vi-rút khác nữa chưa xuất đầu lộ diện.
Trong thực tế, con người thường quan tâm đến những đau khổ tự nhiên, đau khổ thể lý nhưng ít quan tâm đến những đau khổ luân lý. Quả thực, đau khổ luân lý đáng để con người quan tâm hơn bởi vì hình thức đau khổ này liên quan trực tiếp đến ‘nội tâm con người’, liên quan đến hữu thể ưu tuyển có tên gọi là ‘con người’. Nói cách khác, đau khổ thể lý liên quan đến ‘cái con người có’ trong khi đau khổ luân lý liên quan đến ‘cái con người là’. Chẳng hạn, có những người tỏ vẻ bề ngoài nhân đạo như hô hào mọi người làm từ thiện hay xoa dịu nỗi đau của các nạn nhân bị dịch bệnh. Tuy nhiên, tâm hồn họ đầy ác ý, dung dưỡng hận thù, ghen ghét, đố kỵ, nói xấu người khác hay dàn dựng và phổ biến những thông tin nặc danh nhằm bôi nhọ, hạ nhục người khác. Thực ra, con người hồn xác nhất thể. Mọi người được mời gọi cộng tác với nhau trong việc xoa dịu những nỗi đau luân lý và thể lý của anh chị em đồng loại như Đức Giê-su đã làm. Chẳng hạn, trước người bại liệt, Đức Giê-su chữa anh khỏi đau khổ luân lý: “Này con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2,5). Đồng thời, Người cũng chữa anh khỏi đau khổ thể lý: “Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!” (Mc 2,11).
Con người hay có cái nhìn phiến diện và thường quan tâm nhiều về những đau khổ, thiếu sót, khiếm khuyết của thế giới thụ tạo mà không quan tâm đúng mức về những điều tốt lành trong đó. Chẳng hạn, con người thường quan tâm nhiều về sự đột biến gen (đơn vị cơ bản của di truyền) diễn ra trong quá trình phân chia của một phân tử ADN (acid deoxyribonucleic) dẫn đến bệnh tật mà không quan tâm đúng mức về sự kỳ diệu của toàn bộ phân tử AND; rõ ràng những đột biến diễn ra trong quá trình phân chia của phân tử ADN dẫn đến bệnh tật quá nhỏ so với sự phân chia phân tử ADN diễn ra bình thường, giúp con người phát triển lành mạnh. Con người thường quan tâm nhiều về một số em nhỏ bị bệnh đao (down syndrome) mà không quan tâm đúng mức về tỷ lệ các em bị bệnh đao quá ít so với các em được sinh ra khỏe mạnh. Tương tự như vậy, con người thường quan tâm nhiều về một số trận động đất xảy ra mà không quan tâm đúng mức về việc trái đất đang nuôi dưỡng khoảng tám tỷ người. Con người thường quan tâm nhiều về cái chết của vài triệu người do Covid-19 gây nên mà không quan tâm đúng mức về hàng tỷ người đang sống khỏe mạnh và dịch bệnh ngày càng suy giảm; kinh nghiệm lịch sử cho con người biết rằng Covid-19 hay bất cứ hình thức dịch bệnh nào rồi cũng sẽ qua đi. Quả thực, mỗi hình thức đau khổ đều cho con người những bài học quí giá và mời gọi con người luôn sống tâm tình tạ ơn, phó thác hơn là tâm tình vô ơn, lãnh đạm.
Thập giá Đức Giê-su chính là câu trả lời cho tất cả những ai đặt câu hỏi: ‘Tại sao con người phải đau khổ?’. Trong khi Đức Giê-su không trả lời câu hỏi về đau khổ bằng lời nói thì Người trả lời bằng hành động gánh chịu đau khổ tột cùng. Như vậy, thay vì đặt câu hỏi ‘tại sao con người đau khổ?’, chúng ta nên đặt câu hỏi ‘tại sao Đức Giê-su là Con Thiên Chúa phải chịu đau khổ và tại sao tình yêu của Thiên Chúa lại được diễn tả nơi đau khổ của Đức Giê-su?’. Như đã được đề cập ở trên, trong hành trình trần thế, Đức Giê-su không quan tâm đến những giả thuyết về đau khổ hay giải thích đau khổ bằng ngôn ngữ trừu tượng nhưng giải thích bằng việc tự nguyện chấp nhận đau khổ và tham dự vào muôn hình thức đau khổ của kiếp người. Như vậy, mọi người cần quy chiếu đau khổ của mình về đau khổ của Đức Giê-su, đặt ‘bức tranh nhỏ về đau khổ của mình’ trong ‘bức tranh lớn về đau khổ của Người’ để có thể ngày càng nhận diện rõ hơn về tình yêu vô bờ của Người đối với bản thân mình cũng như tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.
Chúng ta có thể nhận định rằng, dưới nhãn quan Ki-tô Giáo, niềm tin không đau khổ là niềm tin giả tạo; tình yêu không đau khổ là tình yêu vô vị; hy vọng không đau khổ là hy vọng hão huyền. Biểu tượng trung tâm của Ki-tô Giáo là thập giá Đức Giê-su, biểu tượng đau khổ; cũng là biểu tượng của niềm tin, tình yêu và hy vọng. Tham dự vào đau khổ của Đức Giê-su và phó thác mọi đau khổ cho Người là cách thức phù hợp nhất diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của người Ki-tô hữu. Đức Giê-su đã đi Đường Đau Khổ để đến với gia đình nhân loại và cũng đi Đường đó để đến với Chúa Cha. Do vậy, mọi người trong gia đình nhân loại cũng hãy đi Đường Đau Khổ để đến với nhau, đến với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo và đến với Thiên Chúa.
Những ai đón nhận Đức Giê-su thì được mời gọi sống theo Đường Đau Khổ của Người, diễn tả Đường Đau Khổ của Người và loan báo Đường Đau Khổ của Người cho anh chị em đồng loại. Nói cách khác, Đường Đau Khổ của Đức Giê-su cần được đón nhận cách đầy đủ, suy niệm cách thấu đáo và diễn tả cách chân thành trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta biết rằng trong biến cố Phao-lô trở lại và được chọn làm tông đồ có sự tham dự của ông Kha-na-ni-a. Khi ông phân vân về việc gặp Phao-lô, Đức Giê-su phục sinh nói với ông: “Cứ đi, vì người ấy [Phao-lô] là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Ít-ra-en. Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta” (Cv 9,15-16). Đau khổ trở thành đặc tính căn bản của những ai muốn trở thành môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su, Đấng minh định rằng: "Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ” (Mt 10,24). Nói cách khác, ai muốn đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su thì hãy luôn trung tín với Đường Đau Khổ của Người.
Những quan sát, đánh giá và tổng hợp trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng muôn vật muôn loài được Thiên Chúa sáng tạo đều tốt đẹp. Khi con người phạm tội cũng là khi con người phải chịu muôn hình thức đau khổ trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Tuy nhiên, không phải các hình thức đau khổ đều gắn liền với tội lỗi của con người. Điều này có nghĩa rằng đau khổ luôn là mầu nhiệm lớn lao, vượt quá sự lĩnh hội, hiểu biết và giải thích của con người. Để giải thoát con người khỏi đau khổ đời đời, Đức Giê-su đã đi Đường Đau Khổ để đến với gia đình nhân loại. Hành trình trần thế của Người cũng là hành trình nâng đỡ những người đau khổ. Đồng thời, Đức Giê-su cho mọi người biết rằng Thiên Chúa không bao giờ để con người chịu đau khổ quá sức mình và rằng mọi người được mời gọi cộng tác với nhau để xoa dịu các hình thức đau khổ cho anh chị em đồng loại. Đức Giê-su cũng cho mọi người biết rằng Thiên Chúa cho phép đau khổ hiện diện và hoạt động để thanh luyện con người, đồng thời, đau khổ giúp con người gia tăng niềm tin, cậy, mến giữa những khó khăn bấp bênh của cuộc sống hằng ngày. Đức Giê-su đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết và sống lại để trao ban sự sống vĩnh cửu cho muôn người. Tiếng nói cuối cùng của gia đình nhân loại, của thế giới thụ tạo không phải là tiếng nói của tội lỗi, của sự dữ, của đau khổ hay sự chết nhưng là tiếng nói của Thiên Chúa tình yêu, của Sự Sống vĩnh cửu. Ước gì, Đường Đau Khổ của Đức Giê-su luôn được mọi người đón nhận, sống và diễn tả trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình trên hành trình về với Nước Thiên Chúa viên mãn.


 
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG SỰ SỐNG
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên

 
WHĐ (02.4.2022) - Là con người, ai cũng có kinh nghiệm về sự sống. Tuy nhiên, câu hỏi ‘sự sống là gì?’ luôn vượt quá sự hiểu biết và giải thích của con người. Những câu hỏi khác liên quan đến sự sống cũng không dễ dàng tìm được câu trả lời thỏa đáng, chẳng hạn như ‘đâu là nguồn gốc của sự sống?’, ‘đâu là đặc trưng của sự sống?’ hay ‘đâu là cùng đích của sự sống?’. Chúng ta có thể nói rằng những câu hỏi liên quan đến sự sống xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của con người trên trái đất này. Đặc biệt, kể từ thời Aristotle (384–322 trước Công Nguyên) đến nay, con người ngày càng quan tâm hơn đến sự sống. Từ ‘sự sống’ được dùng rất nhiều, chẳng hạn như sự sống đơn bào, sự sống đa bào, sự sống thực vật, sự sống động vật, sự sống con người, sự sống thần linh. Hơn nữa, từ này cũng được dùng theo nghĩa trừu tượng, chẳng hạn như sự sống trái đất, sự sống mặt trời, sự sống các thiên hà hay sự sống vũ trụ.
Khoảng gần một trăm năm nay, con người có những hiểu biết sâu rộng hơn về các lĩnh vực khoa học, nhất là hóa học, vật lý, sinh học, vũ trụ học. Tuy nhiên, những hiểu biết của con người về bản chất sự sống vẫn rất hạn chế. Hơn nữa, ngoài hành tinh xanh là trái đất, vũ trụ không phải là nơi ẩn chứa những gì tiềm tàng cho sự sống. Nói cách khác, vũ trụ bao la với muôn hình thức sa mạc: Sa mạc của các hành tinh vô cùng lạnh; sa mạc của các hành tinh vô cùng nóng; sa mạc của những nơi mật độ vật chất vô cùng lớn hay vô cùng nhỏ; sa mạc của các hình thức vật chất mà con người chưa có thể khám phá hay đặt tên. Vũ trụ tồn tại những mãnh lực siêu phàm, vượt quá sự hiểu biết và cân đong đo đếm của con người. Ngoài những lực mà con người biết đến, chẳng hạn như lực hấp dẫn, lực điện từ, lực hạt nhân yếu, lực hạt nhân mạnh, còn có những lực khác nữa mà con người chưa thể khám phá được, chẳng hạn như lực của vật chất tối (power of dark matter) hay lực của năng lượng tối (power of dark energy). Vật chất tối và năng lượng tối quan trọng đến mức nếu không có chúng thì vũ trụ cấu tạo bởi các hạt hạ nguyên tử, nguyên tử, phân tử không thể hình thành và tồn tại được.
Với các ngành khoa học thực nghiệm, nói đến sự sống của sinh vật là nói đến các axit amin, axit nucleic, nhiễm sắc thể, gen, ADN, ARN, tế bào, quá trình trao đổi chất, sự phân chia, sao chép và nhân lên của tế bào. Cho đến hôm nay, có khoảng 123 định nghĩa khác nhau về sự sống, tuy nhiên, không định nghĩa nào có thể làm cho mọi người thỏa mãn. Thông thường, người ta mô tả những biểu hiện của sự sống hơn là định nghĩa sự sống, chẳng hạn như sự hòa hợp giữa các yếu tố bên trong mỗi thực thể hay sự vận động, sinh sản, thích nghi, phát triển. Ngoài ra, sự sống của các tế bào hay cơ quan sinh học còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố phi sinh học như trọng lực, ánh sáng mặt trời, các tia phóng xạ hay thời tiết, khí hậu, vật chất tối, năng lượng tối cũng như nhiều yếu tố khác nữa. Con người không thể tiếp cận, phân tích, tổng hợp và diễn tả sự sống chỉ dựa trên các quy luật của các khoa học thực nghiệm. Đó là lý do tại sao một số nhà khoa học cho rằng muốn hiểu biết sự sống thì phải ra khỏi sự sống mà con người kinh nghiệm, muốn hiểu biết trái đất thì phải ra khỏi trái đất mà con người kinh nghiệm, muốn hiểu biết vũ trụ thì phải ra khỏi vũ trụ mà con người kinh nghiệm. Nói cách khác, muốn hiểu biết một thực thể nào thì phải ra khỏi thực thể đó. Quả thật, càng ngày con người càng hiểu biết nhiều hơn về vũ trụ, về chính mình cũng như các tương quan trong đó. Tuy nhiên, sự hiểu biết của con người về vũ trụ, về chính mình cũng như các tương quan trong đó thì quá ít ỏi so với ‘vũ trụ như nó là’, so với ‘con người như con người là’, so với ‘các tương quan trong đó như chúng là’.
Bài viết này không đề cập đến sự sống hay nguồn gốc sự sống theo các giả thuyết khoa học, chẳng hạn như sự sống được cho là tự sinh (spontaneous origin), đến từ các hành tinh khác (extraterrestrial origin) hay tiến hóa sinh hóa (biochemical evolution). Bài viết này cũng không đề cập đến sự sống theo nhãn quan của các triết gia hay tư tưởng gia trong lịch sử nhân loại. Bài viết này đề cập đến sự sống của con người theo nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo: Thiên Chúa là Đấng hằng sống đã sáng tạo muôn vật muôn loài và ban tặng sự sống cho các thụ tạo như thánh Phao-lô minh định: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu” (Cv 17,28). Bài viết này chủ yếu diễn tả tương quan giữa sự sống con người và sự sống Thiên Chúa, đặc biệt, nhấn mạnh đến biến cố Đức Giê-su đã đi Đường Sự Sống để đến với gia đình nhân loại hầu giải thoát con người khỏi tội lỗi, sự chết và ban tặng sự sống đời đời cho con người.  
Chúng ta biết rằng vào thời Đức Giê-su, các dân tộc quanh vùng Địa Trung Hải vẫn còn chịu ảnh hưởng lớn bởi văn hóa Hy-lạp. Trong khi Đức Giê-su cũng như các môn đệ của Người chủ yếu sử dụng tiếng A-ram, các sách Tân Ước lại được viết bằng tiếng Hy-lạp. Mục đích của các tác giả Tân Ước là để Tin Mừng của Đức Giê-su có thể đến được với mọi người, chứ không chỉ những người nói tiếng A-ram hay tiếng Do-thái. Các tác giả Tân Ước tiếp tục sử dụng những tư tưởng và khái niệm của người Do-thái trong Cựu Ước về con người, nhất là những khái niệm quan trọng như sự sống (ζωή), thân thể (σώμα), linh hồn (ψυχή), thần khí (πνεύμα). Cũng như các tác giả Cựu Ước, các tác giả Tân Ước không đề cập đến các hình thức sự sống theo nhãn quan tri thức của các dân tộc đương thời nhưng theo mặc khải của Thiên Chúa. Theo đó, sự sống con người không phải tự nhiên mà có, cũng không phải là kết quả của quá trình tiến hóa ngẫu nhiên, may rủi hay tình cờ nhưng được Thiên Chúa ban tặng. Các chủ đề chính liên quan đến sự sống theo mặc khải Ki-tô Giáo có thể tóm lược như sau: (a) Thiên Chúa là Đấng hằng sống, (b) Đức Giê-su là sự sống của con người, (c) sự sống nói chung trong thế giới thụ tạo, (d) sự sống siêu nhiên của các thiên thần và con người, (e) sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa.
Dân Do-thái thời Cựu Ước chịu ảnh hưởng nhiều từ các nền văn hoá của Miền Lưỡng Hà. Trình thuật tạo dựng thứ nhất thuộc truyền thống tư tế trong sách Sáng Thế diễn tả rằng Thiên Chúa đã tạo dựng ánh sáng (St 1,3) và mọi hình thức sự sống kể cả con người bằng lời [Thiên Chúa nói/ phán] (St 1,1-2,4a). Trình thuật tạo dựng thứ hai thuộc truyền thống Gia-vít diễn tả việc Thiên Chúa tạo dựng con người cách đơn sơ rằng: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Điều này có nghĩa rằng nhờ quyền năng Thiên Chúa, con người được hiện diện trên trần gian này. Sinh khí của Thiên Chúa (ruah: gió, hơi thở) được xem là thực tại tinh túy nhất của con người. Nhiều khi sinh khí cũng được hiểu như là linh hồn hay thần khí của con người. Nói cách khác, dưới nhãn quan Cựu Ước, sinh khí, thần khí hay linh hồn là nền tảng của sự sống, giúp con người hiện diện và trưởng thành (Is 32,15-17; Is 44,3). Sinh khí luôn vận động để đem lại sự sống cho con người, trong khi đó máu của con người được xem là phương tiện vận chuyển sinh khí khắp cơ thể. Dưới nhãn quan của Cựu Ước, linh hồn và thân xác nên một, không thể chia cắt. Điều này khác với quan điểm nhị nguyên (dualism) của triết lý Hy-lạp khá thịnh hành nơi các dân tộc quanh vùng Địa Trung Hải. Hơn nữa, sự sống con người là chủ đề xuyên suốt các sách Kinh Thánh. Sự sống sau cái chết hay sự sống lại đã được đề cập trong Cựu Ước. Đặc biệt, sự sống lại được đề cập cách rõ ràng hơn trong những sách viết từ khoảng giữa thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, chẳng hạn như Đn 12,2-3; 2 Mcb 7,9.23; 2 Mcb 14,46. Trong thời Tân Ước, sự sống con người được diễn tả cách mạch lạc hơn. Đặc biệt, sự sống con người được diễn tả trong tương quan với Đức Giê-su, Con Thiên Chúa hằng sống. Người đã nhập thể, sống thân phận con người, chịu nhiều đau khổ, chịu chết và sống lại để trao ban sự sống đời đời cho mọi người.
Thánh Gio-an diễn tả tương quan giữa Đức Giê-su (Ngôi Lời của Thiên Chúa) và sự sống như sau: "Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: Sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi" (1 Ga 1,1-2). Trong Diễn Từ Bánh Hằng Sống, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6,63). Cũng trong Diễn Từ Bánh Hằng Sống, nhân danh các môn đệ, thánh Phê-rô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su và khẳng định rằng lời của Người là lời đem lại sự sống đời đời cho con người (Ga 6,68). Quả thật, Cựu Ước đã nói về tương quan mật thiết giữa lời và sự sống, chẳng hạn như tác giả thánh vịnh 119 viết: “Tấm thân này bị nhận xuống bùn đen, theo lời Ngài, xin cho con được sống” (Tv 119,25) hay: “Lời hứa của Ngài làm cho con được sống, đó là điều an ủi con trong cảnh khốn cùng” (Tv 119,50). Thị kiến về những bộ xương khô trong sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en cho chúng ta biết rằng nhờ lời ngôn sứ tuyên sấm theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, những bộ xương khô được lãnh nhận thần khí và trở thành những con người sống động (Ed 37,1-10).
Dựa trên trình thuật tạo dựng thứ nhất trong sách Sáng Thế (St 1,1-2,4a), Thánh Gio-an trình bày về tương quan giữa Đức Giê-su là ánh sáng và là sự sống như sau: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1,3-4). Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su nói với những người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống" (Ga 8,12). Qua đây, chúng ta thấy được tương quan mật thiết giữa sự sống và ánh sáng. Đức Giê-su là sự sống và là ánh sáng, nghĩa là ‘sự sống là ánh sáng’ và ‘ánh sáng đem lại sự sống’. Trong Diễn Từ về Công Việc của Chúa Con, Đức Giê-su nói với người Do-thái: “Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Còn thánh Phao-lô thì nói với vua Ác-ríp-pa: “Đấng Ki-tô sẽ chịu đau khổ và là người đầu tiên sống lại từ cõi chết, để loan báo ánh sáng cho dân Do-thái cũng như cho các dân ngoại” (Cv 26,23). Kinh Tin Kính của hai Công Đồng Ni-xê-a và Con-tan-ti-nô-pô-li (325-381) cho chúng ta biết Đức Giê-su là ‘Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng’. Theo đó, chúng ta cũng có thể tuyên xưng rằng Đức Giê-su là ‘Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, sự sống bởi sự sống’. Xét về mặt sinh học, sự sống gắn liền với ánh sáng hay nói theo cách tổng quát hơn, vạn vật là ‘sản phẩm của ánh sáng’. Như vậy, chúng ta thấy được sự liên hệ mật thiết giữa sự sống và ánh sáng theo mặc khải của Thiên Chúa cũng như lý trí và đức tin của người Ki-tô hữu.
Tại Xê-da-rê Phi-líp-phê, miền đất gắn liền với tâm thức tôn giáo của những người bản địa, nơi có các đền đài cổ kính, Đức Giê-su hỏi các môn đệ về căn tính của Người. Trong khi các môn đệ kể những tước hiệu mà người ta gán cho Đức Giê-su như Gio-an Tẩy Giả, Ê-li-a, Giê-rê-mi-a, thánh Phê-rô nói: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16). Như vậy, Đức Giê-su không phải là Gio-an Tẩy Giả, Ê-li-a, Giê-rê-mi-a hay một ngôn sứ nào đó như quan niệm của một số người. Với thánh Phê-rô, Đức Giê-su không chỉ là Đấng Ki-tô, Đấng Được Xức Dầu (the Anointed One), trong tiếng Do-thái là מָשִׁיחַ (Messiah/ Mê-si-a), trong tiếng Hy-lạp là Χριστός (Khristós/ Ki-tô) như các vị vua trong lịch sử Do-thái, chẳng hạn như Sa-un hay Đa-vít. Dưới nhãn quan của người Do-thái, Đấng Được Xức Dầu sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ ngoại bang và làm cho dân tộc họ được phồn vinh, thịnh vượng. Như bao người Do-thái khác, thánh Phê-rô biết Đức Giê-su là con Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Tuy nhiên, được Thiên Chúa linh ứng, thánh nhân biết Đức Giê-su không như những người mà dân Do-thái cho là vĩ đại, đóng vai trò lớn trong lịch sử của họ nhưng cũng chỉ là những con người như bao người khác. Thánh nhân đã tuyên xưng Đức Giê-su là ‘Con Thiên Chúa hằng sống’. Đây là lời tuyên xưng quan trọng diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su trong hành trình trần thế. Người hiện diện và hoạt động trong gia đình nhân loại hầu làm cho mọi người trở thành con cái Thiên Chúa hằng sống.
Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su không chỉ nói về sự sống một cách chung chung mà Người cho biết về cấp bậc hay trật tự của sự sống. Chẳng hạn, trong bối cảnh Bài Giảng Trên Núi (khai triển Tám Mối Phúc), Đức Giê-su mời gọi mọi người tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Người nói: “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!” (Mt 6,28-30). Đức Giê-su mời gọi mọi người đặt ưu tiên cho sự sống mà Người đã hy sinh tính mạng để cứu chuộc. Người nói: “Thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời” (Mt 18,8). Đặc biệt, Người khẳng định: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” (Lc 9,24-25). Đối với Đức Giê-su, sự sống thể lý quan trọng nhưng sự sống ân sủng quan trọng hơn; sự sống trần gian quan trọng nhưng sự sống thiên quốc quan trọng hơn; sự sống trong môi trường nhân loại quan trọng nhưng sự sống trong môi trường Thiên Chúa quan trọng hơn.
Đức Giê-su minh chứng rằng hành trình trần thế của Người không chỉ là khôi phục sự sống, mà còn giúp con người tiếp cận sự sống viên mãn trong Nước Thiên Chúa. Chẳng hạn, khi dùng hình ảnh đoàn chiên và mục tử, Đức Giê-su cho mọi người biết Người là Mục Tử Nhân Lành và đoàn chiên là các tín hữu. Người nói: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Như vậy, mục đích của Đức Giê-su trong hành trình trần thế là để cho con người được sống và sống dồi dào. Không chỉ là sự sống thể lý mà còn là sự sống luân lý; không chỉ là sự sống luân lý mà còn là sự sống đời đời. Đức Giê-su còn nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,27-28). Quả thật, sự sống đời đời là hình thức sự sống cao cả nhất mà con người từ cổ chí kim hằng mong đợi.
Khi tiếp cận những người bệnh hoạn tật nguyền, lời nói và việc làm của Đức Giê-su đi đôi với nhau nhằm chữa lành và khôi phục sự sống cho họ. Chẳng hạn, Đức Giê-su chữa bệnh, trừ quỷ, tha tội hầu nâng đỡ họ và giúp họ nhận ra tình yêu của Thiên Chúa. Qua đó, Người mời gọi mọi người hướng về sự sống cao đẹp và đáng trân trọng hơn mà Người ban tặng. Khi La-da-rô chết và được chôn trong mộ bốn ngày (đã nặng mùi rồi), Đức Giê-su đến thăm gia đình chị em La-da-rô. Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su rằng nếu có sự hiện diện của Người thì em của cô đã không chết (Ga 11,21). Đức Giê-su cho Mác-ta biết La-da-rô sẽ sống lại. Mác-ta cũng tin rằng ngày sau hết La-da-rô sẽ sống lại như bao người khác. Tuy nhiên, Đức Giê-su nói với Mác-ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” (Ga 11,25-26). Sau đó, Người cho La-da-rô hồi sinh trước sự ngỡ ngàng của chị em Mác-ta, Ma-ri-a, các môn đệ cũng như những người Do-thái khác đang hiện diện.
Trong Bữa Ăn Cuối Cùng (the Last Supper) trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su mặc khải cho các môn đệ nhiều điều quan trọng, chẳng hạn như giới răn yêu thương, tình hiệp nhất hay mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Khi môn đệ Tô-ma chất vấn: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14,5). Đức Giê-su trả lời: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Câu hỏi của Tô-ma là câu hỏi về địa lý, về đường đi, trong khi đó câu trả lời của Đức Giê-su là câu trả lời liên quan đến ba chủ đề quan trọng bậc nhất trong Do-thái Giáo (cũng như các tôn giáo khác trên thế giới) là đường, sự thật và là sự sống (ὁδὸς, ἀλήθεια, ζωή). Câu trả lời của Đức Giê-su không chỉ gây ngạc nhiên cho Tô-ma, cho các môn đệ Đức Giê-su mà còn cho mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế. Đối với Đức Giê-su, sự sống không phải là cái gì đó mà con người có thể nắm bắt hay giải thích. Với mặc khải của Đức Giê-su, con người không nên đặt câu hỏi ‘sự sống là gì?’ mà nên đặt câu hỏi ‘sự sống là Ai?’. Đức Giê-su đã cho mọi người biết Người là sự sống và minh chứng điều đó trong hành trình trần thế của Người. 
Đối với Đức Giê-su, sự sống của con người ở trần gian là ‘sự sống có hướng’, hướng về sự sống đời đời. Với Người, khi có sự xung khắc giữa sự sống thể lý và sự sống đời đời, thì con người dành ưu tiên cho sự sống đời đời. Chẳng hạn, khi thánh Phê-rô hỏi Đức Giê-su về phần thưởng dành cho những người từ bỏ mọi sự mà theo Người thì Đức Giê-su đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa, mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Lc 18,29-30). Rõ ràng, Đức Giê-su đòi hỏi những ai theo Người phải có thái độ dứt khoát. Đức Giê-su không bảo những ai theo Người phải từ bỏ các phương thức chữa bệnh hay phải ‘ép xác lấy hồn’ bằng mọi giá. Người cũng không bảo các tín hữu phải cố gắng từ bỏ trần gian càng sớm càng tốt để về với thế giới linh tượng như một số triết gia Hy-lạp thời cổ chủ trương. Sứ điệp chính yếu của Đức Giê-su là khi có sự xung khắc không thể hòa giải giữa những giá trị trần thế và những giá trị vĩnh cửu thì ưu tiên những giá trị vĩnh cửu, dù phải lìa bỏ mạng sống mình. Chính Đức Giê-su đã thực thi điều đó và vô số các môn đệ của Người (nhất là các vị tử đạo) qua dòng lịch sử cũng đã thực thi như vậy.
Trong Tin Mừng, khi Đức Giê-su trừ quỷ hay chữa bệnh, Người không chỉ khôi phục sự sống thể lý cho bệnh nhân mà còn ban tặng họ sự sống mới là sự sống tinh thần, sự sống tâm linh, sự sống tự do của con cái Thiên Chúa. Do đó, những ai được Đức Giê-su cứu chữa thì có sự sống mới tốt đẹp hơn. Đây là sự sống tràn đầy niềm vui và hy vọng, sự sống không quy ngã hay bám víu vào của cải trần gian nhưng mở ra với anh chị em mình, với môi trường vĩnh cửu, với Thiên Chúa từ bi nhân hậu. Đây là sự sống dựa trên nền tảng những giá trị của Nước Thiên Chúa. Sự sống này cho phép con người cảm nghiệm được tình yêu vô bờ của Thiên Chúa và mong mỏi được kết hiệp mật thiết với Người luôn mãi. 
Trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô (một Pha-ri-sêu thiện chí), Đức Giê-su nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Với Đức Giê-su, sự sống đích thực của con người hệ tại việc thành tâm đáp lại lời mời gọi của Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến trần gian. Trong lời cầu nguyện cuối cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su thân thưa cùng Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (Ga 17,1-3). Như vậy, sự sống con người hệ tại việc nhận ra tương quan liên vị mật thiết giữa con người với Thiên Chúa, nhất là sự lệ thuộc của con người vào quyền năng Thiên Chúa để hiện diện, tồn tại và trưởng thành viên mãn. Đức Giê-su cũng cho mọi người biết rằng những ai sống và hành động theo chương trình của Thiên Chúa thì được hưởng sự sống đời đời, còn những ai hành động ngược với chương trình của Thiên Chúa thì phải lãnh lấy án phạt là sự chết (St 2,17; Ga 3,18).
Cũng trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su nói: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời” (Ga 3,36). Còn trong Diễn Từ Bánh Hằng Sống, Đức Giê-su nói với những người Do-thái: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời” (Ga 6,47). Thánh Gio-an cho biết mục đích ngài viết Tin Mừng là vì sự sống đời đời của con người: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Trong hành trình loan báo Tin Mừng, thánh Gio-an nhấn mạnh tầm quan trọng trong tương quan giữa niềm tin vào Đức Giê-su và sự sống đời đời: “Tôi đã viết những điều đó cho anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa, để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời” (1 Ga 5,13). Cách tương tự, theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống” (Dt 10,39). Như vậy, niềm tin vào sự sống đời đời là niềm tin căn bản giúp con người diễn tả đúng căn tính Ki-tô hữu của mình, đồng thời, thực thi niềm tin đó bằng những hành động cụ thể theo giáo huấn của Đức Giê-su, Đấng hy sinh tính mạng mình vì sự sống đời đời của mọi người.
Quả thật, Đức Giê-su đã tự nguyện hiến thân như Người khẳng định: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10,18). Trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su báo trước cho các môn đệ biết: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9,31). Chính Đức Giê-su đã sống lại và hiện ra với các môn đệ hầu minh chứng rằng Người đã chiến thắng sự chết và từ nay, sự chết không còn làm gì được Người nữa (Mt 27,51-53; Ga 20,19-29). Trước khi về trời, Người sai các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh cho mọi người trong gia đình nhân loại. Chính sự phục sinh của Đức Giê-su là thực tại căn bản cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của Ki-tô Giáo qua dòng thế kỷ. Trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô viết: “Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,20). Còn thánh Phê-rô, trong phần nhập đề của thư thứ nhất, ngài viết: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai” (1 Pr 1,3-4).
Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su thường dùng những dụ ngôn hay hình ảnh sự sống tự nhiên để diễn tả sự sống đời đời. Chẳng hạn, Đức Giê-su dùng hình ảnh hạt lúa gieo xuống đất phải chết đi để sinh nhiều bông hạt: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25). Giáo huấn của Đức Giê-su rất rõ ràng rằng ai muốn có được sự sống đời đời thì phải kết hiệp với Người. Câu hỏi đặt ra là ‘phải kết hiệp với Người như thế nào?’ Đức Giê-su dùng hình ảnh cây nho và cành nho, trong đó Người là cây nho và các môn đệ của Người là cành (Ga 15,1-8). Đức Giê-su không nói rằng Người là thân nho, còn các môn đệ là cành mà nói rằng Người là cây nho, còn các môn đệ là cành. Như vậy, đối với Đức Giê-su, sự kết hiệp với Người vừa rất thực tế vừa rất nhiệm mầu. Sự kết hiệp này không chỉ mang tính cá nhân mà còn mang tính cộng đoàn bởi vì ai kết hiệp với Đức Giê-su theo thánh ý Người thì cũng kết hiệp với anh chị em mình như vậy và ngược lại.
Sau khi Đức Giê-su phục sinh và về trời, các môn đệ tiếp tục diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người, chẳng hạn như thánh Phao-lô viết: “Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,4). Còn thánh Phê-rô thì khẳng định: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: Về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3,15). Như vậy, Đức Giê-su vừa là sự sống, vừa là nguồn sống, vừa là Đấng khơi nguồn sự sống. Nhờ Người, con người được hiện hữu, được sống và hoạt động giữa lòng nhân thế. Sự sống của con người trở nên viên mãn khi được hưởng kiến tôn nhan Người (visio beatifica). Điều này có nghĩa rằng bao lâu còn trong hành trình trần thế, bấy lâu sự sống con người còn phải đối diện với muôn vàn nghịch cảnh, giới hạn, khiếm khuyết. Đức Giê-su là sự sống đời đời, sự sống lại và là sự sống, tiếp tục hiện diện trong gia đình nhân loại cho đến tận thế để phục hồi và kiện toàn sự sống con người theo chương trình của Thiên Chúa (Ep 1,9-10).
Trong thư gửi các tín hữu, thánh Gio-an viết về tương quan giữa sự sống con người, sự sống Đức Giê-su và sự sống Thiên Chúa như sau: “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người” (1 Ga 5,11). Thánh Gio-an cũng khẳng định điều kiện để có được sự sống đời đời: “Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống” (1 Ga 5,12). Đặc biệt, ngài tuyên tín hai điều quan trọng về Thầy của mình: “Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời” (1 Ga 5,20). Những trích đoạn này cho phép chúng ta khẳng định rằng Đức Giê-su là sự sống đời đời cho mọi người. Để có thể thực thi điều đó, Người đã đồng hình đồng dạng với mọi người hầu mọi người có thể đến với Người trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nơi Đức Giê-su, Thiên Chúa làm cho lời hứa của Người trong Cựu Ước trở nên hiện thực. Nơi Đức Giê-su, Thiên Chúa mở ra cho mọi người chân trời hy vọng vào sự sống mà không có bất cứ thế lực nào có thể lấy đi được. Nơi Đức Giê-su, hừng đông huyền diệu của sự sống vô cùng vô tận tỏa rạng và đáp ứng niềm mong mỏi của mọi người trong gia đình nhân loại.
Quả thật, sự sống con người trong gia đình nhân loại, trong môi trường thế giới thụ tạo luôn bị giới hạn bởi không gian, thời gian cũng như nhiều hình thức giới hạn khác. Trong hành trình trần thế, con người luôn phải đối diện với muôn vàn nghịch lý của thế giới thụ tạo, chẳng hạn như nghịch lý giữa hiệp nhất và chia rẽ, giữa quảng đại và ích kỷ, giữa hy vọng và thực tế, giữa sự thật và dối trá, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự lành và sự dữ, giữa điều tốt và điều xấu. Con người cũng không bao giờ thỏa mãn với sự sống thể lý của mình cho dầu sự sống đó kéo dài vô tận. Con người luôn khắc khoải tìm kiếm sự sống cao cả hơn, tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn sự sống mà mình có kinh nghiệm. Nói cách khác, con người không bao giờ bằng lòng với những gì mình sở đắc trong thế giới đầy bấp bênh này. Với lương tâm ngay thẳng, ai cũng biết rằng: Con người không bằng lòng khi mình khỏe mạnh, người khác lại đau ốm; khi mình phú quý, người khác lại đói nghèo; khi mình vinh quang, người khác lại tủi nhục. Con người luôn mong ước được hạnh phúc mà không phải đau khổ, được bình an mà không phải gian nan khốn khó, được sự sống đời đời mà không phải chết.
Một trong những điều khác biệt căn bản giữa con người và vạn vật là con người luôn sống với hy vọng. Trong đó, hy vọng vào sự sống đời đời là hy vọng lớn lao nhất. Đức Giê-su đến trần gian để loan báo và minh chứng cho niềm hy vọng đó. Hơn nữa, Người là hy vọng của con người (1 Tm 1,1). Lời đầu tiên trong thư gửi Ti-tô, thánh Phao-lô viết: “Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Thiên Chúa và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, có nhiệm vụ đưa những kẻ Thiên Chúa chọn đến đức tin và sự nhận biết chân lý phù hợp với đạo thánh, với niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối đã hứa từ thuở đời đời” (Tt 1,1-2). Thánh nhân cũng khẳng định: “Một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3,7). Ngài còn phân trần: “Tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi” (2 Cr 4,11). Hành trình loan báo Tin Mừng của thánh Phao-lô cũng như các môn đệ Đức Giê-su qua dòng thế kỷ là hành trình loan báo niềm hy vọng vững chắc vào sự sống đời đời mà Đức Giê-su hứa ban cho những ai trung tín và thực thi thánh ý Người.
Chúng ta thử đặt câu hỏi: Có hình thức sự sống nào trong thế giới thụ tạo cao quý và đáng để con người hy vọng hay mơ ước hơn sự sống do Đấng là sự sống đã hy sinh chính mình để ban tặng cho con người không? Câu trả lời chắc chắn là không. Quả thật, mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết rằng các hình thức sự sống trong môi trường thế giới thụ tạo không phải tự nhiên mà có nhưng do Thiên Chúa tặng ban. Tuy nhiên, mặc khải Ki-tô Giáo cũng cho chúng ta biết rằng các hình thức sự sống, đặc biệt, sự sống con người bị nhuốm màu tội lỗi và con người phải đương đầu với hậu quả là sự sống mình không thể tiếp tục luôn mãi. Với Đức Giê-su, sự sống con người được khôi phục, biến đổi và triển nở tròn đầy trong Nước Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao thánh Phao-lô viết: “Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11).
Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu luôn hướng lòng về sự sống thượng giới: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,1-3). Nhờ kết hiệp với Đức Giê-su trong hành trình trần thế, các Ki-tô hữu được mời gọi trở thành con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên, phẩm vị của con cái Thiên Chúa chưa được tỏ lộ cách trọn vẹn trong môi trường nhân loại. Điều này được thánh Gio-an minh định: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2). Với thánh Gio-an, trong thời cánh chung, Thiên Chúa sẽ biểu lộ phẩm vị và sự sống đích thực mà con người hằng mong mỏi trong hành trình trần thế này.
Khi nói về con người, thánh Tô-ma A-qui-nô khẳng định rằng linh hồn con người là nguyên lý của sự sống và linh hồn không phải là sự kết hiệp của các yếu tố vật chất nhưng được Thiên Chúa ban tặng. Như được đề cập ở trên, là con người, chúng ta nhận thức rằng câu trả lời về sự sống con người không chỉ giới hạn ở một hay một số lĩnh vực nào đó, chẳng hạn như vật lý, hóa học, sinh học, triết học hay xã hội học. Nói cách khác, sự sống con người luôn kỳ diệu hơn bất cứ định nghĩa, giải thích hay mô tả nào. Điều quan trọng đối với con người là đón nhận sự sống như món quà cần được thấu hiểu và trân trọng, đồng thời cộng tác với Thiên Chúa hầu làm cho sự sống mình ngày càng triển nở nhờ ân sủng của Người. Là Ki-tô hữu, chúng ta có kinh nghiệm rằng trong ba hình thức sự sống (sự sống thể lý, sự sống luân lý và sự sống đời đời), nhiều người quan tâm đến sự sống thể lý hơn và tìm cách vun vén cho hình thức sự sống này. Thực ra, chúng ta cần quan tâm đến sự sống luân lý đặt nền tảng trên nội dung đức tin Ki-tô Giáo hơn. Đây là hình thức sự sống của con người phân biệt với sự sống của các sinh vật khác. Còn sự sống đời đời lệ thuộc vào sự sống luân lý của mỗi người trong hành trình trần thế này: Nhân nào quả đó. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa vừa là Đấng yêu thương vô cùng, vừa là Đấng công bằng vô cùng đối với con người.
Sự sống con người không phải tự nhiên xuất hiện mà là món quà nhưng không của Thiên Chúa (Cv 17,24-25). Đặc biệt, mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết rằng sự sống con người là một tiến trình. Tiến trình đó bắt đầu từ khi được hình thành trong lòng mẹ. Con người được sinh ra, được dưỡng dục và lớn lên trong gia đình nhân loại cho đến khi phải lìa bỏ mọi sự để về với thế giới mai hậu. Chúng ta biết rằng sự sống mai hậu của mỗi người lệ thuộc vào việc lắng nghe và thực thi lời của Thiên Chúa giữa dòng đời. Dĩ nhiên, những ai không có cơ hội để được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội hay được biết Đức Giê-su và Tin Mừng của Người, nhưng luôn sống với lương tâm ngay thẳng và thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa thì họ có thể được ơn cứu độ, được chung hưởng sự sống đời đời, nhờ công nghiệp của Đức Giê-su trong hành trình trần thế (LG 16).
Thấm nhuần giáo huấn của Đức Giê-su, Công Đồng Vatican II khẳng định: “Mầm sống vĩnh cửu mà con người mang trong mình không thể giản lược vào nguyên vật chất” (GS 18). Như được đề cập ở trên, Đức Giê-su không đến trần gian để đưa ra định nghĩa hay giải thích đầy đủ về các chiều kích vật lý, hóa học, xã hội học hay triết lý về sự sống nhưng đã hy sinh mạng sống mình cho mọi người được sống. Đức Giê-su không đến trần gian để giúp mọi người phân biệt sự khác nhau giữa các hình thức sự sống nhưng cho mọi người biết sự sống thay đổi chứ không mất đi. Đức Giê-su không đến trần gian để cho mọi người biết về cấu trúc của sự sống nhưng cho mọi người biết sự sống sung mãn chỉ có được trong môi trường Thiên Chúa. Xét cho cùng, sự sống đời đời hay sự sống vĩnh cửu vẫn luôn là thực tại nhiệm mầu, vượt quá khả năng hiểu biết của con người. Đức Giê-su mời gọi mọi người hãy đặt niềm tin tưởng vào Người là Đường Sự Sống bởi vì chính Người mở ra cho mọi người chân trời mới mẻ về sự sống con người trong hành trình trần thế cũng như sự sống mai ngày trong Nước Thiên Chúa.
Với Đường Sự Sống của Đức Giê-su, con người được tha thứ tội lỗi, được hòa giải với Thiên Chúa, với anh chị em mình cũng như với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Với Đường Sự Sống của Đức Giê-su, con người có được tầm nhìn mới mẻ hơn về sự sống hiện tại của mình cũng như tương lai mai hậu. Với Đường Sự Sống của Đức Giê-su, con người vững tin rằng tiếng nói cuối cùng của thế giới thụ tạo là tiếng nói của Thiên Chúa hằng sống chứ không phải là tiếng nói của sự chết, như thánh Phao-lô quả quyết: “Vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6,5). Với Đường Sự Sống của Đức Giê-su, con người có được hy vọng vững chắc rằng ánh sáng sẽ tiêu diệt bóng tối, tình yêu sẽ chiến thắng hận thù và sự hiệp thông sẽ loại trừ mọi mầm mống chia rẽ. Với Đường Sự Sống của Đức Giê-su, sự thánh thiện của Thiên Chúa bao trùm thế giới đầy tội lỗi và quyền năng của Người tiêu diệt quyền lực tử thần. Với Đường Sự Sống của Đức Giê-su, con người có được hướng đi phù hợp cho hành trình trần thế của mình giữa những phong ba bão táp của thời cuộc hầu có thể xây dựng nền văn hóa sự sống theo thánh ý Thiên Chúa.
Dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, nền văn hóa sự sống đặt nền tảng trên niềm xác tín rằng mọi người trong gia đình nhân loại có cùng nguồn gốc cũng như đích đến bởi Thiên Chúa hằng sống đã ban sự sống cho con người. Đây là món quà cao quý đến nỗi Đức Giê-su đã đi Đường Sự Sống để đến với gia đình nhân loại hầu thông phần với con người trong mọi hoàn cảnh, ngoại trừ tội lỗi. Sự sống con người cao quý đến nỗi Đức Giê-su đã trả giá bằng chính mạng sống của Người để cứu chuộc và giải thoát con người khỏi mãnh lực tội lỗi và sự chết. Nền văn hóa sự sống được thể hiện khi mọi người biết sống theo những giá trị mà Đức Giê-su đã loan báo và minh chứng bằng sự sống của Người. Nền văn hóa này quan tâm đến con người ‘như con người là’ hơn con người ‘như con người có’ hay con người ‘như con người làm’. Điều này có nghĩa rằng con người của nền văn hóa này thể hiện tâm ý của mình sao cho nhân phẩm của mỗi người luôn được tôn trọng bởi vì con người vừa là đỉnh cao vừa là trung tâm của chương trình Thiên Chúa sáng tạo (St 1,1-2,25). Đặc tính của nền văn hóa sự sống thấm đượm tinh thần của Đấng là sự sống đã đến với nhân loại hầu làm cho mọi người được sống và sống dồi dào.
Tin Mừng Đức Giê-su là Tin Mừng cho biết Thiên Chúa là Đấng hằng sống và Đức Giê-su là sự sống của mọi người. Đặc biệt, Tin Mừng Đức Giê-su là Tin Mừng cho biết Đức Giê-su là Thiên Chúa đã trở thành Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Em-ma-nu-en), Người đã nhập thể, sống thân phận con người, chịu nhiều đau khổ, chịu chết và phục sinh để trao ban sự sống mới cho con người. Đức Giê-su phục sinh là Tin Mừng quan trọng nhất cho mọi người trong gia đình nhân loại. Hơn ai hết, thánh Phao-lô diễn tả rất sống động về sự kiện này: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng… Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15,14-19). Đức Giê-su đã mang lấy các hình thức đau khổ và sự chết của mọi người mà đưa lên cây thập tự. Người đã chết để thông phần sự chết của mọi người và đã sống lại để trao ban sự sống đời đời cho mọi người. Do đó, những ai thuộc về Đức Giê-su thì được mời gọi cộng tác với nhau trong việc loan báo Đường Sự Sống của Người cho anh chị em đồng loại.
Chúng ta có thể kết luận rằng ngôn ngữ khoa học thực nghiệm không thể diễn tả đầy đủ bức tranh nhiệm mầu của sự sống con người. Theo mặc khải Ki-tô Giáo, Thiên Chúa là Đấng hằng sống và sự sống con người đến từ sự sống Thiên Chúa. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, đã đi Đường Sự Sống để đến với gia đình nhân loại. Trong hành trình trần thế, ưu tiên của Người không phải là đưa ra định nghĩa chung cuộc về sự sống, cũng không phải trình bày sự sống bằng ngôn ngữ trừu tượng hay giải thích sự sống bằng ngôn ngữ mà con người có thể lĩnh hội trọn vẹn nhưng đã chịu đau khổ, chịu chết và sống lại để cho mọi người được sống. Các sách Cựu Ước đã loan báo về Người, còn các trình thuật Tân Ước cho chúng ta biết rõ rằng Người là sự sống, là nguồn sống và là Đấng khơi nguồn sự sống. Là Ki-tô hữu, chúng ta đặt hy vọng, niềm tin và tình yêu vào Đức Giê-su, Đấng đã tuyên hứa rằng ai theo Người sẽ được sự sống đời đời. Chúng ta được mời gọi tôn trọng sự sống, bảo vệ sự sống và xây dựng nền văn hóa sự sống theo những giá trị mà Người đã loan báo và thực thi trong hành trình trần thế. Đặc biệt, chúng ta được mời gọi loan báo Người là Đường Sự Sống và minh chứng Tin Mừng sự sống của Người cho anh chị em đồng loại trên hành trình về Quê Hương vĩnh cửu, Quê Hương tràn đầy ánh sáng và sự sống viên mãn.

 


Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022:
Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô (21)
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 09 năm 2021
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG THA THỨ TỘI LỖI
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng 8 vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Kiện Toàn Lời Chúa. Tháng 9 này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Tha Thứ Tội Lỗi. Con người kiêu căng, bất tín, tội lỗi, còn Thiên Chúa nhân từ, trung tín, tha thứ là một trong những chủ đề xuyên suốt nội dung mặc khải Ki-tô Giáo. Với hành trình dương thế, Đức Giê-su tham dự trọn vẹn vào môi trường tội lỗi của con người và đương đầu với muôn hình thức tội lỗi cũng như hậu quả của chúng trong môi trường này. Hành trình trần thế của Người là hành trình diễn tả tình yêu tha thứ của Thiên Chúa.
Trong tiếng Hy Lạp, động từ ‘tha thứ’ là ἀφίημι (aphiemi/ to forgive), còn danh từ ‘tha thứ’ là ἄφεσις (aphesis/ forgiveness). Động từ và danh từ này xuất hiện khá nhiều trong Kinh Thánh, đặc biệt là Tin Mừng Nhất Lãm. Dưới nhãn quan Kinh Thánh, tha thứ cũng có nghĩa là giải cứu, ân xá, miễn giảm, đem lại tự do đích thực. Tha thứ tội lỗi trong Kinh Thánh còn được diễn tả qua nhiều từ khác nữa, chẳng hạn như ‘bao phủ tội lỗi’, ‘quét sạch tội lỗi’, ‘quên đi tội lỗi’, ‘lấy đi tội lỗi’, ‘xóa đi tội lỗi’, ‘rửa sạch tội lỗi’, ‘xá giải tội lỗi’, ‘tẩy trừ tội lỗi’. Trong mọi hoàn cảnh, Thiên Chúa là Chủ Thể của các hành động này. Cũng như các chủ đề khác, sự tha thứ của Thiên Chúa trong Tân Ước được diễn tả cách rõ ràng, mạch lạc và đầy đủ hơn so với Cựu Ước. Theo đó, người tội lỗi là người xúc phạm và gây phương hại đến các tương quan trong đời sống mình, đặc biệt là tương quan với Thiên Chúa và anh chị em đồng loại. Khi được tha thứ tội lỗi, con người được hòa giải với Thiên Chúa, với anh chị em mình cũng như muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo.
Để diễn tả Đức Giê-su là Đường Tha Thứ Tội Lỗi, chúng ta cần hiểu khái quát về nguyên nhân của tội lỗi. Theo mặc khải Ki-tô Giáo, con người được Thiên Chúa sáng tạo theo hình ảnh Người và được mời gọi tham dự sự sống vĩnh cửu. Tuy nhiên, “vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 2,24). Nói cách cụ thể hơn, Nguyên Tổ nhân loại đã vô ơn, kiêu ngạo, bất tuân phục Thiên Chúa, nghe theo quỷ dữ, vì vậy tội lỗi đã xâm nhập trần gian và gây nên cái chết. Do liên đới với Nguyên Tổ, mọi người trong gia đình nhân loại đều mang bản tính tội lỗi. Điều này có nghĩa là ngay giây phút đầu tiên hình thành trong lòng mẹ, con người đã mang lấy Tội Nguyên Tổ. Thánh vương Đa-vít diễn tả rất khúc chiết chủ đề này: “Ngài thấy cho: Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51,7). Tiếp tục truyền thống Cựu Ước, thánh Phao-lô viết: “Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa” (Rm 3,23). Thánh nhân cũng viết: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5,12). Còn thánh Gio-an thì khẳng định: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,8).
Các tác giả Tân Ước giúp chúng ta ý thức về hậu quả khôn lường của tội lỗi. Theo thánh Gio-an Tông Đồ: “Phàm ai phạm tội thì cũng chống lại luật Thiên Chúa, vì tội lỗi chống lại luật Thiên Chúa” (1 Ga 3,4). Thánh Phao-lô chỉ ra nhiều cách thức con người phạm tội, một trong những cách thức đó là con người làm những điều ngược với niềm tin của mình. Ngài viết: “Bạn xác tín điều gì, thì cứ giữ lấy cho mình trước mặt Thiên Chúa. Phúc thay ai không cho mình là có lỗi khi quyết định làm điều gì! Còn ai hồ nghi mà cứ ăn, thì bị kết án, vì hành động không do xác tín. Hành động nào không do xác tín đều là tội” (Rm 14,22-23). Về căn bản, người tội lỗi là người xúc phạm Thiên Chúa, bởi vì tư tưởng, lời nói hay hành động của họ theo đường ma quỷ, thế gian, xác thịt, ngược lại với đường lối Thiên Chúa. Nội dung đức tin Ki-tô Giáo và kinh nghiệm các thánh trong lịch sử Giáo Hội cho chúng ta nhận thức rằng tội lỗi của con người càng lớn bao nhiêu thì ‘khoảng cách’ giữa con người với Thiên Chúa, với chính mình, với anh chị em đồng loại và thế giới thụ tạo càng xa bấy nhiêu.
Nhìn chung, trong Cựu Ước, Thiên Chúa diễn tả Người là Đấng yêu thương, đồng thời cũng là Đấng công minh chính trực. Người là Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương (Tv 103,8). Người không thích tiêu diệt, thay vì muốn cho tội nhân phải chết, Người muốn họ ăn năn hối cải, từ bỏ đường tà để được sống (Hs 11,8; Ed 18,23). Để có thể hòa giải với Thiên Chúa, mỗi cá nhân cũng như các hình thức tập thể phải hoán cải, dâng lễ vật với mong muốn là được Thiên Chúa tha thứ và ban phát ơn lành. Người ta cũng có thể nài xin sự tha thứ của Thiên Chúa nhờ những người công chính, thánh thiện được Thiên Chúa chọn gọi để thực hiện vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Chẳng hạn, Mô-sê là trung gian dâng những lời cầu khẩn, sự ăn năn hối cải của dân Do-thái lên Thiên Chúa và xin ơn tha thứ. Đồng thời, Mô-sê cũng đại diện cho Thiên Chúa hướng dẫn dân Do-thái thực hiện giới răn, mệnh lệnh và những chỉ dẫn của Thiên Chúa trong hành trình bốn mươi năm về với Đất Hứa. ‘Hối – cứu’ là hai mắt xích quan trọng trong việc thiết lập và tái lập tương quan giữa con người và Thiên Chúa trong lịch sử Dân Thánh. ‘Hãy trở về’, ‘hãy thay đổi đường lối’, ‘hãy tùng phục Thiên Chúa’ là những lời kêu gọi phổ biến trong Cựu Ước giúp mọi người lãnh nhận ơn tha thứ của Người.
Cựu Ước không chỉ trình bày Thiên Chúa là Đấng luôn tha thứ tội lỗi cho dân Do-thái, mà còn để lại cho hậu thế nhiều gương lành trổi vượt về sự tha thứ. Chẳng hạn, ông Giu-se bị các anh mình bán sang Ai-cập làm nô lệ, nhưng khi gặp lại, ông không oán hận. Theo tác giả sách Sáng Thế, Giu-se đã được ‘thăng quan tiến chức’ ở Ai-cập. Khi nạn đói xảy ra, con cháu Gia-cóp sang tận Ai-cập cầu viện và gặp lại Giu-se thì ông đã tha thứ những lỗi lầm cho họ. Sự tha thứ của Giu-se còn được thể hiện qua việc ông đặt tên cho hai con trai của mình với người vợ là bà Át-nát, con gái ông Pô-ti Phê-ra, tư tế thành Ôn (St 41,50). Ông đặt tên cho con trai đầu là Mơ-na-se (מְנַשֶּׁה/ forget/ quên đi) bởi vì “Thiên Chúa đã làm cho tôi quên đi mọi gian khổ của tôi và tất cả nhà cha tôi” (St 41,51); con trai thứ hai là Ép-ra-im (אֶפְרָיִם/ fruitful/ sinh lợi) bởi vì “Thiên Chúa đã cho tôi sinh sôi nảy nở trong xứ tôi phải chịu khổ cực” (St 41,52). Qua việc đặt tên cho hai con trai, Giu-se diễn tả mình là người cao thượng. Hơn nữa, Giu-se tin tưởng vững chắc rằng trong biến cố ông bị các anh mình bán sang Ai-cập làm nô lệ, Thiên Chúa đã biến đổi sự dữ thành sự lành. Bởi vì, nếu ông không hiện diện ở Ai-cập cùng với danh tiếng và vai trò quan trọng ở triều đình, thì con cháu Gia-cóp có thể đã chết đói.
Cuộc đời của Đa-vít và Sa-lô-môn để lại cho nhân loại nhiều bài học, đặc biệt là bài học về cám dỗ, sa chước cám dỗ, đắm mình trong tội, biết ăn năn sám hối và được tha thứ. Đa-vít được gọi là vua thánh (thánh vương). Sự thánh thiện của Đa-vít là ‘sự thánh thiện hối cải’, trở về đường ngay nẻo chính, tùng phục Thiên Chúa. Ngược lại, thuở ban đầu, Sa-lô-môn là người được Thiên Chúa chúc phúc, bởi vì ông không xin Thiên Chúa cho sống lâu, giàu có hay mọi kẻ thù bị tiêu diệt. Ông xin Thiên Chúa cho mình được khôn ngoan, biết lắng nghe, biết phân định mọi việc để hướng dẫn dân chúng và Thiên Chúa đã cho ông được toại nguyện: “Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp” (1 V 3,12). Tuy nhiên, càng ngày Sa-lô-môn càng sống xa đường lối Thiên Chúa. Vì nghe theo những bà vợ ngoại bang, Sa-lô-môn trở thành người hư hỏng. Ông không trung tín với Thiên Chúa, không vâng lời Người, phụng thờ các thần của các bà vợ (1 V 11,1-25). Sa-lô-môn không biết ăn năn hối cải, hậu quả là triều đại của ông dần dần suy sụp, lụi tàn. Đa-vít và Sa-lô-môn đại diện cho hai hạng người: (1) hạng người biết ăn năn hối cải, cộng tác với Thiên Chúa trong việc biến đổi bản thân và (2) hạng người không biết ăn năn hối cải, nhu nhược, chiều theo cảm tính của mình, làm cho ân sủng Thiên Chúa không phát huy tác dụng.
Với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su trong hành trình trần thế, chủ đề tội lỗi của con người và sự tha thứ của Thiên Chúa được diễn tả cách mạch lạc hơn. Khởi đầu Tin Mừng, thánh Mác-cô trình thuật rằng Gio-an Tẩy Giả xuất hiện và kêu gọi mọi người chịu phép rửa để tỏ lòng ăn năn sám hối. Đức Giê-su cũng chịu phép rửa của Gio-an Tẩy Giả. Chúng ta biết rằng Đức Giê-su là Đấng Thánh, Người chịu phép rửa để thánh hóa nước, đồng thời, phép rửa của Người là biểu tượng giúp con người nhận thức rằng Người tham dự vào môi trường tội lỗi và mang lấy tội lỗi của mọi người trong gia đình nhân loại. Chúng ta chỉ có thể hiểu được phép rửa của Đức Giê-su cách đầy đủ hơn nhờ ánh sáng của những đau khổ, cái chết và phục sinh của Người. Trong Biến Cố Đức Giê-su chịu phép rửa, thánh Mác-cô trình thuật: “Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con’” (Mc 1,10-11). Sau đó, Đức Giê-su vào hoang địa bốn mươi đêm ngày và chịu Xa-tan cám dỗ. Khi nghe tin Gio-an Tẩy Giả bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê loan báo Tin Mừng. Lời đầu tiên của Đức Giê-su đối với mọi người là: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Đây được xem là ‘lời giới thiệu’ sứ mệnh của Người, sứ mệnh công bố sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại để tha thứ tội lỗi, mời gọi mọi người ăn năn sám hối, trở về cùng Thiên Chúa.
Khi Đức Giê-su diễn tả tình yêu thương và sự tha thứ đối với các tội nhân thì những người Pha-ri-sêu và các kinh sư tố cáo Người vì đã giao du với ‘phường bất hảo’. Đức Giê-su nói với mọi Người: “Ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: Ông ta bị quỷ ám. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” (Mt 11,18-19). Câu hỏi được đặt ra là ‘tại sao Đức Giê-su làm bạn với những người như vậy?’ Thưa, chính Đức Giê-su trả lời: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,31-32). Có lẽ, trong thâm tâm của mình, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư luôn suy nghĩ: ‘Hãy cho tôi biết bạn thân với ai, tôi sẽ cho bạn hay bạn là người thế nào’. Điều này hoàn toàn không đúng với trường hợp Đức Giê-su. Bởi vì, Đức Giê-su làm bạn với phường thu thuế và những người tội lỗi để cho họ biết lầm lỗi của mình, đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa và biến đổi bản thân theo đường lối Người. Nói cách khác, Đức Giê-su làm bạn với họ để cho họ biết rằng tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động giữa họ. Quả thực, tội lỗi gắn liền với con người; tội lỗi không độc lập với con người. Đức Giê-su sống tinh thần ‘yêu thương con người và xóa bỏ tội lỗi’. Thánh Au-gút-ti-nô viết: “Yêu con người và ghét tội lỗi” [cum dilectione hominum et odio vitiorum] (Thư 211, c. 424). Mahatma Gandhi (1869 – 1948) cũng có tư tưởng tương tự: “Ghét tội lỗi nhưng không ghét tội nhân” (Tự Truyện 1929).
Theo Cựu Ước, chỉ Thiên Chúa là Đấng tha tội như lời Người trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Vì danh dự của Ta, Ta sẽ xóa bỏ các tội phản nghịch của ngươi, và không còn nhớ đến lỗi lầm của ngươi nữa” (Is 43,25). Khi Đức Giê-su chữa người bại liệt, Người nói: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi” (Mt 9,2). Các kinh sư cho rằng Đức Giê-su đã nói phạm thượng, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới làm việc đó. Đức Giê-su khẳng định: “Ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội” (Mt 9,6). Sau đó, Người nói với người bại liệt: “Đứng dậy, vác giường đi về nhà” (Mt 9,6). Chúng ta biết rằng phạm thượng là một trong những bằng cớ mà những người lãnh đạo Do-thái dựa vào đó để kết tội Đức Giê-su. Thật trớ trêu, lời của Đức Giê-su ‘ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội’ đáng lẽ là tin vui cho những người Do-thái cũng như mọi người trong gia đình nhân loại lại trở thành ‘tin buồn’, bởi vì đây là một trong những nguyên nhân chính yếu dẫn tới cái chết của Người trên thập giá.
Câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình giúp chúng ta hiểu biết hơn về tình yêu tha thứ được Đức Giê-su thực hiện (Ga 8,1-11). Theo luật Mô-sê, người phụ nữ đó sẽ bị ném đá cho đến chết (Lv 20,10; Đnl 22,22). Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su về cách thức xử lý trường hợp này. Chúng ta biết rằng nếu Đức Giê-su bảo ‘tha thứ’ thì họ sẽ kết án Người lỗi luật; nếu Đức Giê-su bảo ‘hãy ném đá’ thì họ sẽ cười nhạo Người về giáo lý tình yêu tha thứ. Đức Giê-su nói với họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Thế rồi, đám đông bỏ đi, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Đức Giê-su nói với người phụ nữ: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,11). Quả thực, con người thường giơ tay chỉ về lầm lỗi của những người khác và sẵn sàng phê bình họ, trong khi lại nương thứ cho bản thân mình. Nói theo ngôn ngữ biểu tượng của Đức Giê-su, con người rất tinh tường trong việc nhận diện ‘cái rác’ trong mắt anh chị em nhưng lại mù tối trong việc nhận diện ‘cái xà’ trong mắt mình (Mt 7,3-4).
Đối diện với người mù từ lúc mới sinh, các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giê-su: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2). Đức Giê-su trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh" (Ga 9,3). Điều đó cho chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su không quan tâm cũng không giải thích tại sao anh ta lại mù. Điều Người quan tâm là 'công trình Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh': Với quyền năng của Thiên Chúa, người mù bẩm sinh được sáng. Những người Pha-ri-sêu, các môn đệ Đức Giê-su hay nhiều người khác qua mọi thời đại thường quan tâm đến nguyên nhân bệnh tật hơn là sự chữa lành cũng như tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Quả thực, bệnh tật hay các hình thức sự dữ trong môi trường thế giới thụ tạo thật nhiệm mầu, vượt quá sự hiểu biết và giải thích của con người. Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su không dành nhiều thời gian để giải thích nguyên nhân hay nguồn gốc bệnh tật cũng như các hình thức sự dữ mà dành nhiều thời gian đến với những nạn nhân của bệnh tật hay các hình thức sự dữ và cứu chữa họ. Đặc biệt, Người đã chịu đau khổ, chịu chết và phục sinh để minh chứng rằng tiếng nói cuối cùng của gia đình nhân loại là tiếng nói của Thiên Chúa tình yêu chứ không phải là tiếng nói của ma quỷ hay các hình thức sự dữ trong thế giới thụ tạo.
Khi các môn đệ xin Đức Giê-su hướng dẫn cách thức cầu nguyện, Người đã dạy họ Kinh Lạy Cha. Kinh này có bảy lời nguyện xin, trong đó lời nguyện xin thứ năm là: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12). Đồng thời, Người cũng nói với họ: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15). Hơn nữa, Đức Giê-su còn dạy cho các môn đệ ‘tiến trình bốn bước’ trong việc sửa lỗi anh chị em (Mt 18,15-17): (1) Gặp gỡ người đó để nói chuyện riêng; (2) Nếu không giải quyết được thì mời một hoặc hai người nữa; (3) Nếu không ổn thỏa thì đưa ra cộng đoàn (Giáo Hội); (4) Nếu vẫn bế tắc thì biện pháp cuối cùng là xem như người ngoại hay người thu thuế. Hành trình bốn bước trong việc sửa lỗi anh chị em của Đức Giê-su rất quan trọng. Kinh nghiệm thực tế cho chúng ta thấy rằng nhiều Ki-tô hữu không thực hiện việc sửa lỗi anh chị em theo sự hướng dẫn của Đức Giê-su: Họ không quan tâm ba bước đầu nhưng lại quan tâm bước thứ tư. Hậu quả là không có sự hòa giải giữa người bị xúc phạm và người xúc phạm, lầm lỗi của anh chị em bị thêu dệt, lan truyền khắp nơi và không ai được hưởng hoa trái tốt đẹp trong việc xử sự như vậy.
Thánh Mát-thêu trình thuật: “Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: ‘Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?’ Đức Giê-su đáp: ‘Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy’” (Mt 18,21-22). Khi Đức Giê-su nói tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa rằng hãy tha thứ cho người anh em bốn trăm chín mươi lần. Với Đức Giê-su, sự tha thứ không diễn ra như là các biến cố rời rạc trong những khoảng không gian, thời gian nào đó mà là luôn mãi. Thông thường, những người theo truyền thống Do-thái chính thống thời Đức Giê-su chỉ tha thứ ba lần. Với thánh Phê-rô, tha thứ bảy lần là quá nhiều rồi. Phê-rô diễn tả mình thánh thiện, công chính hơn những người Pha-ri-sêu, các kinh sư cũng như nhiều người vị vọng trong xã hội Do-thái (Mt 5,20). Với Đức Giê-su, không có hình thức tội lỗi nào lớn hơn hay nhiều hơn sự tha thứ của Thiên Chúa. Câu hỏi đặt ra: Tại sao sự tha thứ của Thiên Chúa là vô trương độ? Thưa, tại vì con người thường phạm tội, không ai có thể đếm hết được số lần mình phạm tội trong đời. Khi số lần phạm tội không thể đếm được thì số lần tha tội cũng vậy. Hơn nữa, vì Thiên Chúa là ‘Đấng vô biên’, những gì thuộc về Thiên Chúa thì luôn thánh thiện, tốt đẹp và cao thượng hơn sự nhận thức của con người. Do đó, vấn đề không phải là số lần phạm tội mà là tâm hồn con người biết luôn đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa và luôn biết tha thứ cho anh chị em mình.
Trong sách Sáng Thế, sau khi giết em mình là A-ben, Ca-in nói với Đức Chúa: “Đây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con” (St 4,14). Đức Chúa phán: “Không đâu! Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy" (St 4,15). La-méc (thế hệ thứ năm sau Ca-in) nói với các bà vợ: “Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy!” (St 4,24). Ý của La-méc là nếu ai làm hại ông thì phải chịu cảnh báo thù bảy mươi lần bảy. Chúng ta biết rằng cùng là bảy mươi lần bảy nhưng La-méc nói về sự báo thù, Đức Giê-su nói về sự tha thứ. Trong sứ mệnh của mình, Đức Giê-su minh chứng rằng, với Người, tha thứ không phải là ngôn ngữ lý trí, ngôn ngữ pháp lý hay ngôn ngữ toán học mà là ngôn ngữ trái tim, ngôn ngữ tâm hồn, ngôn ngữ tình yêu, ngôn ngữ gắn kết với lòng thương xót của Thiên Chúa. Chắc chắn rằng trong lịch sử nhân loại chưa có ai dạy người khác phải tha thứ và thực hành sự tha thứ như Đức Giê-su đã dạy và thực hành trong đời sống Người. Điều Đức Giê-su muốn nói là Thiên Chúa luôn là Đấng tha thứ, tha thứ và tha thứ không điều kiện. 
Trong ‘bảy lời’ của Đức Giê-su trên thập giá, lời đầu tiên là lời Người cầu xin Thiên Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho những ai gây nên những đau khổ và sự chết của Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). ‘Họ’ là ai vậy? Thưa, họ là những người đóng đinh Đức Giê-su, họ là Phi-la-tô, họ là những người Pha-ri-sêu hay các kinh sư, họ là đám người đang cười nhạo Đức Giê-su, họ là tất cả mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế như được tóm gọn trong Kinh Tin Kính: ‘Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta’. Lời thứ hai của Đức Giê-su là lời trao ban Nước Trời cho người tội lỗi cùng chịu đóng đinh với Người. Anh ta xin ở ‘thì tương lai’: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,42). Tuy nhiên, Đức Giê-su nói với anh ở ‘thì hiện tại’: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Đây là điều đáng để chúng ta quan tâm, bởi vì ai tin tưởng vào Đức Giê-su và thực hiện thánh ý Người cách chân thành thì thực sự đã diện kiến Nước Thiên Chúa ngay trong hành trình trần thế rồi.
Nhìn lại lịch sử mặc khải, chúng ta ngạc nhiên vì sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người. Chúng ta còn ngạc nhiên hơn về cách thức Thiên Chúa tha thứ tội được diễn tả trong Biến Cố Đức Giê-su. Là Đấng toàn năng, toàn thiện, Thiên Chúa có thể tha thứ cho con người theo nhiều cách thức khác nhau, chẳng hạn như Người chỉ phán một lời thì mọi người trong gia đình nhân loại đều được tha thứ. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã tha thứ tội lỗi con người theo cách thức là cho Con của Người nhập thể, sống thân phận con người, giống con người mọi sự ngoại trừ tội lỗi và Người đã chịu chết vì tội lỗi con người. Dung nhan của Người trên thập giá là dung nhan của một tội nhân, không chỉ là tội nhân thông thường mà là tội nhân với bản án nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại. Đây là dung nhan đáng ngạc nhiên đối với chúng ta chứ không phải là dung nhan của Người biến đổi trên núi Ta-bo. Quả thực, biến cố Ta-bo phản ánh căn tính vốn có của Người, còn biến cố thập giá thì ngược lại. Chúng ta nhận thức rằng nơi Đức Giê-su chịu đóng đinh, mọi sự đều đến cực điểm: Yêu thương cực điểm, hạ mình cực điểm, trút bỏ cực điểm, đau khổ cực điểm và tha thứ cực điểm.
Đức Giê-su không chỉ tha thứ tội lỗi, Người còn ủy thác cho các môn đệ thực hiện tác vụ này nhân danh Người. Tại Xê-da-rê Phi-líp-phê, khi thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là ‘Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống’, Người nói với thánh nhân: “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt 16,18-19). Đặc biệt, sau khi sống lại, Đức Giê-su trao ban Chúa Thánh Thần và ủy thác cho các môn đệ tác vụ tha thứ tội lỗi: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23). Nói cách khác, Giáo Hội do Đức Giê-su thiết lập là Thân Thể mầu nhiệm của Người. Vì thế, Giáo Hội tiếp tục sự hiện diện lịch sử và hoạt động nhân danh Người, trong đó có tác vụ tha tội.
Thánh Tê-pha-nô là một trong bảy phó tế đầu tiên đã tin tưởng vào Đức Giê-su và giáo huấn của Người. Thấm nhuần chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nhờ Đức Giê-su, trước những kẻ bách hại, ngài đã trình bày nội dung đức tin Ki-tô Giáo cách trung tín và hùng hồn nhất. Đồng thời, ngài đã trình bày về niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu cho những ai bước theo chân Đức Giê-su trong hành trình trần thế này. Ngài đã minh chứng cho niềm tin và hy vọng của mình bằng cái chết tử đạo. Người ta đã ném đá ngài trong lúc ngài cầu nguyện. Đặc biệt, noi gương Đức Giê-su, lời cuối cùng của thánh Tê-pha-nô trong hành trình trần thế là lời cầu xin tha thứ cho những người bách hại mình: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60). Đời sống và chứng tá của thánh nhân đáng để mọi người qua mọi thời đại, đặc biệt trong thế giới hôm nay, học hỏi, suy niệm và noi gương bắt chước.
Vào ngày 26 tháng 10 năm 1946, trong sứ điệp Radio gửi các thành phần tham dự đại hội giáo lý toàn quốc Hoa Kỳ, Đức Thánh Cha Pi-ô XII nói: “Có lẽ tội lỗi lớn nhất trên thế giới hôm nay là con người mất cảm thức về tội lỗi”. Trong Cựu Ước, cảm thức bén nhạy về tội lỗi đã làm cho vua Đa-vít trăn trở: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” (Tv 51,5-6). Quả thực, câu nói của Đức Thánh Cha Pi-ô XII vẫn còn nguyên giá trị cho thế giới đương đại. Xem ra khi xã hội càng thăng tiến về mặt vật chất, con người càng bị ánh sáng trần đời và các hình thức chủ nghĩa vị kỷ làm lóa mắt, họ không còn quan tâm đến tội lỗi, do đó, họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn miễn là điều đó khuất mắt thiên hạ. Chúng ta biết rằng khi con người mất cảm thức về tội lỗi, con người cũng mất cảm thức về căn tính đích thực của mình. Khi con người mất cảm thức về căn tính đích thực của mình, con người cũng mất cảm thức về Thiên Chúa. Khi con người mất cảm thức về Thiên Chúa cũng là khi con người sa vào ‘bẫy kiêu ngạo’ cho rằng con người là trên hết, con người tự làm chủ vận mệnh của mình. Theo nội dung đức tin Ki-tô Giáo, vô ơn, kiêu ngạo là nguồn gốc của muôn vàn tội lỗi trong gia đình nhân loại. Kinh nghiệm cuộc sống cũng cho chúng ta nhận thức rằng khi con người cho mình là trên hết cũng là khi con người mất định hướng căn bản của cuộc đời, tự hủy hoại chính mình và gây nên thảm họa cho anh chị em đồng loại.
Nhiều lúc chúng ta cảm thấy mình chẳng nóng cũng chẳng lạnh. Trong một thị kiến, tác giả sách Khải Huyền được Đức Giê-su phục sinh truyền dạy viết cho Hội Thánh Lao-đi-ki-a như sau: "Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta" (Kh 3,15). Tình trạng hâm hẩm thật nguy hại cho chúng ta. Đời sống của một số nhân vật trong Tân Ước soi sáng thêm cho chúng ta về kinh nghiệm này. Chẳng hạn, tình trạng lầm lỗi bột phát của những người như Phê-rô hay Phao-lô thì tốt hơn là tình trạng hâm hẩm, ngấm ngầm của những người như Giu-đa cũng như những ai tiếp bước ông trong lịch sử nhân loại. Do đó, chúng ta hãy cộng tác với Đức Giê-su và giúp đỡ nhau trong việc cải biến con tim mình hầu có thể thoát khỏi tình trạng hâm hẩm trong đời sống đức tin cũng như các tương quan của mình giữa lòng nhân loại. 
Thông thường, khi nói đến tội, chúng ta hay quan tâm đến những tư tưởng, lời nói, việc làm. Tuy nhiên, giáo huấn của Đức Giê-su cho chúng ta nhận thức rằng chúng ta không chỉ ‘giữ đạo’ mà còn ‘sống đạo’ nữa, nghĩa là chúng ta cần thực hiện tình bác ái Ki-tô Giáo giữa dòng đời. Thánh Gia-cô-bê diễn tả rõ hơn về điểm này rằng: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội” (Gc 4,17). Có lẽ đây là thứ tội mà chúng ta lỗi phạm nhiều nhất bởi vì thông thường chúng ta quá chú tâm đến việc giữ luật nhưng lại không quan tâm đến việc làm những điều tốt. Dụ ngôn ‘người Sa-ma-ri tốt lành’ hay dụ ngôn ‘ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó’ trong Tân Ước là những dẫn chứng cụ thể (Lc 10,29-37; Lc 16,19-31). Dụ ngôn ‘người Sa-ma-ri tốt lành’ cho chúng ta biết rằng thầy tư tế và thầy Lê-vi (những người có đạo) đi qua thấy người bị nạn thì không quan tâm vì họ đang ‘bận việc đạo’. Trong khi đó, người Sa-ma-ri (ngoại đạo) đã yêu thương người bị nạn và làm tất cả những gì có thể để cứu anh ta. Dụ ngôn ‘ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó’ cũng tương tự: Ông nhà giàu lãnh đạm trước sự hiện diện của La-da-rô nằm trước cổng nhà mình. Trong thế giới hôm nay, sự lãnh đạm xem ra ngày càng phổ biến và lan rộng hơn nữa.
Tha thứ là việc của Thiên Chúa, đón nhận là việc của con người, tha thứ và đón nhận cần đi đôi với nhau. Giáo huấn Đức Giê-su cho chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa luôn tha thứ tội lỗi cho con người. Tuy nhiên, sự tha thứ của Thiên Chúa chỉ mang lại hiệu quả khi con người biết đón nhận, bằng không, sự tha thứ đó không có tác dụng. Chẳng hạn, một thửa ruộng khô cằn đang cần nước, nhưng nếu chúng ta che chắn thửa ruộng đó thì dù trời có mưa nhiều, thửa ruộng vẫn khô cằn. Sự tha thứ của Thiên Chúa ‘như mưa như mưa’ nhưng chúng ta đóng tâm hồn lại thì ‘mưa’ không bao giờ tới được. Do đó, vấn đề không phải là sự tha thứ của Thiên Chúa mà là tâm hồn đóng kín, không biết đón nhận của chúng ta. Như đã được đề cập ở trên, sự tha thứ của Thiên Chúa là vô biên, vô tận, do đó, không ai tội lỗi đến mức không được Người tha thứ. Nói cách khác, Thiên Chúa luôn tha thứ tội lỗi cho mọi người, tuy nhiên, hiệu quả của sự tha thứ đó tùy thuộc vào sự cộng tác của con người. Về điểm này, thánh Au-gút-ti-nô diễn đạt rất rõ: "Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta không cần có chúng ta cộng tác; nhưng Người đã không muốn cứu độ chúng ta mà không có chúng ta góp phần" (Bài Giảng 169,11,13).
Con người không chỉ được mời gọi đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa mà còn biết ăn năn hối cải và biến đổi đời sống theo thánh ý Người nữa. Con người cần biết hoán cải, biết trở về để nhìn nhận những tội lỗi, bất xứng của bản thân mình và quyết tâm biến đổi. Khi có sự hòa hợp giữa tha thứ, hoán cải và biến đổi, con người sẽ được giải phóng và cứu độ. Tha thứ, hoán cải và biến đổi trở thành tiến trình trong đời sống của mỗi người. Khi tha thứ, hoán cải và đổi mới trở thành kinh nghiệm cá nhân, con người được lớn lên cách mạnh mẽ về đức tin, đức cậy và đức mến giữa những sóng cồn của thế sự. Khi tha thứ, hoán cải và biến đổi trở thành hiện thực cũng là khi con người nhận diện căn tính của mình cách rõ nét hơn và ý thức hơn về sự cần thiết để kết hợp với Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống.
Thiên Chúa tha thứ tội lỗi không có nghĩa rằng Thiên Chúa ‘quên’ hay không còn quan tâm tội lỗi của chúng ta. Quả thực, khi Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta cũng là khi Người ‘không chấp tội’ hay ‘không hạch tội’ chúng ta nữa. Tương tự như vậy, khi chúng ta tha thứ cho người xúc phạm chúng ta không có nghĩa rằng chúng ta không còn đau đớn vì sự xúc phạm của họ. Chẳng hạn, nhiều người trong chúng ta có kinh nghiệm về sự bịa đặt hay vu oan giáng họa từ người khác (chính danh hoặc nặc danh). Theo gương Đức Giê-su, chúng ta hãy tha thứ cho họ và cầu xin Người giúp sức để chúng ta có thể vượt qua nghịch cảnh. Những biến cố như vậy cho chúng ta kinh nghiệm rằng chúng ta cần tránh xa đường lối của họ, gắn bó với Đức Giê-su, học nơi Người cách thức chấp nhận nghịch cảnh, sống đời thánh thiện, chú tâm làm việc tốt và luôn phó thác mọi sự cho Người.
Trong tương quan giữa người với người, thánh Phao-lô dạy: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Ki-tô” (Ep 4,32). Thánh nhân cũng dạy: “Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,13). ‘Hãy tha thứ để được thứ tha’ trở thành châm ngôn sống của mọi người trong hành trình trần thế này. Tuy nhiên, thông thường con người ưa thích vế thứ hai (muốn được Thiên Chúa tha thứ cho mình), nhưng miễn cưỡng với vế thứ nhất (tha thứ cho anh chị em mình). Quả thực, hận thù chỉ đem lại thù hận, chiến tranh chỉ đem lại chiến tranh, không tha thứ chỉ đem đến tai họa cho mình cũng như người khác. Đây là vòng luẩn quẩn của con cái A-đam và E-và. Đức Giê-su dạy mọi người cách thức để thắng hận thù, chiến tranh, chia rẽ là thực hiện tình yêu tha thứ, tình yêu hy sinh, tình yêu trút bỏ. Hành trình gian lao và cái chết đau khổ của Người trên thập giá là minh chứng sống động cho những điều Người đã loan báo và giảng dạy.
Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng người biết tha thứ là người được ‘hưởng lợi’ trước, cả về đời sống tâm linh cũng như đời sống thể chất. Người biết tha thứ là người luôn được bình an trong mọi hoàn cảnh. Người biết tha thứ là người có lương tâm trong sạch, ngay thẳng và luôn cảm nghiệm được những giới hạn của bản thân cũng như cảm thông với những giới hạn của người khác. Người biết tha thứ cũng là người biết nhận thức rằng, trước mặt Thiên Chúa, mọi người đều là tội nhân. Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mc 11,25-26). Như vậy, nhờ suy niệm, học hỏi, chiêm ngắm Đường Đức Giê-su, Đường Tha Thứ Tội Lỗi, chúng ta có thể tạo cho mình con tim biết tha thứ cho anh chị em theo thánh ý Người.
Hành trình trần thế của Đức Giê-su cho chúng ta biết rằng tha thứ chính là ‘vắc-xin tiêu chuẩn’ chống lại nhiều loại vi-rút khác nhau trong xã hội loài người, nhất là vi-rút hận thù, ghen ghét mà hậu quả là những đau khổ, bất ổn, chia rẽ, chiến tranh cùng muôn hình thức bất hòa hợp khác trong đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn. Ở đâu con người ý thức và thực hiện tha thứ, ở đó con người sống xứng đáng hơn với phẩm giá của mình. Khi con người biết tha thứ cũng là khi con người tạo điều kiện cho nhau ‘cùng có lợi’ (win-win). Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận thức rằng các thế hệ tương lai tưởng nhớ và cảm phục những người thuộc các thế hệ quá khứ biết tha thứ cho nhau hơn là những người dung dưỡng hận thù, ghen ghét. Tha thứ là động lực đem lại hòa bình, hòa giải, hòa hợp giữa các cá nhân, cộng đoàn, xã hội. Như vậy, thật là cần thiết để mọi người trong gia đình nhân loại cùng nhau kiến tạo ‘nền văn hóa tha thứ’. Nền văn hóa này đặt nền tảng trên sự tha thứ của Thiên Chúa được Đức Giê-su giảng dạy và thực hiện trong hành trình trần thế của Người.
Chúng ta biết rằng nội dung chính yếu của ‘Lời Loan Báo Tiên Khởi’ (Κήρυγμα/ Kerygma) mà các môn đệ Đức Giê-su diễn tả trong Giáo Hội sơ khai là sự tha thứ của Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện: “Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai…” (1 Cr 15,3-8) hay “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người” (Ep 1,7). ‘Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta’ luôn mãi là mầu nhiệm trọng tâm của Ki-tô Giáo. Chính Đức Giê-su đã ủy thác cho các môn đệ Người loan báo Đường Tha Thứ Tội Lỗi cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Lịch sử Giáo Hội minh chứng rằng những người có kinh nghiệm sâu xa về tội lỗi của bản thân và tình yêu tha thứ của Thiên Chúa (chẳng hạn như thánh Phê-rô, Phao-lô, Au-gút-ti-nô, I-nha-xi-ô Lôi-ô-la) đều là những chứng nhân vĩ đại của Đường Đức Giê-su, Đường Tha Thứ Tội Lỗi. Đối với các ngài, tha thứ vừa là ân ban của Thiên Chúa vừa là tác vụ của những ai tin nhận Đức Giê-su và giáo huấn của Người trong hành trình trần thế này. Ơn gọi và đời sống của các ngài giúp chúng ta nhận thức rằng Đường Tha Thứ Tội Lỗi của Đức Giê-su mở ra cho mọi người viễn cảnh tương lai xán lạn, trong đó các hình thức quyền lực đêm tối hoàn toàn bị tiêu diệt và ánh sáng phục sinh của Đức Giê-su hiển trị muôn đời.
Chúng ta có thể kết luận rằng Đường của Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Đường Tha Thứ Tội Lỗi, Đường đem lại cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao nhất là được cứu độ và giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Đường này có thể tóm lược trong bảy điểm chính sau: (1) Đức Giê-su là Thiên Chúa đến với môi trường tội lỗi của nhân loại; (2) Người giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi; (3) Người giảng dạy về sự tha thứ tội lỗi; (4) Người quan tâm đặc biệt những người tội lỗi và tha thứ cho họ; (5) Người mang lấy tội lỗi của mọi người trong gia đình nhân loại mà đưa lên cây thập giá; (6) Người tha thứ tội lỗi cho những người gây nên đau khổ và cái chết của Người trên thập giá; (7) Người trao ban sứ mệnh tha thứ tội lỗi cho Giáo Hội mà Người thiết lập. Nhờ Đường Tha Thứ Tội Lỗi của Đức Giê-su, chúng ta nhận biết rằng tha thứ thuộc về bản tính của Thiên Chúa và tình yêu Thiên Chúa là tình yêu tha thứ. Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế giúp chúng ta nhận diện rõ hơn về thân phận tội lỗi của mình và lòng nhân từ vô bờ bến của Thiên Chúa. Đức Giê-su mời gọi chúng ta hãy đi theo Đường Tha Thứ Tội Lỗi của Người. Đây không chỉ là Đường của mỗi cá nhân mà còn là Đường của các hình thức gia đình, từ gia đình cơ bản đến gia đình cộng đoàn, từ gia đình Giáo Hội đến gia đình nhân loại. Do đó, ý thức thân phận tội lỗi của bản thân, thực hiện sự tha thứ cho nhau và trở nên chứng nhân của Đường Đức Giê-su, Đường Tha Thứ Tội Lỗi, là ‘ba thì chủ đạo’ của những ai nhận Đức Giê-su là Chúa, là Thầy và là Bạn của mình trong hành trình trần thế. Chúng ta hãy cùng nhau đi Đường Đức Giê-su để được tha thứ và biết thứ tha.

WHĐ (01.9.2021)


 
Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022:
Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô (14)
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 02 năm 2021
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ: ĐƯỜNG QUYỀN NĂNG
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng Một vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Bình An. Tháng Hai này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Quyền Năng. Người là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, do đó, những thuộc tính của Thiên Chúa cũng là những thuộc tính của Người. Vì yêu thương nhân loại trong cảnh tội lỗi và sự chết thống trị, Đức Giê-su đã đi Đường Quyền Năng của Thiên Chúa đến với nhân loại để giải thoát và cứu độ tất cả mọi người.
Theo nghĩa chung nhất, 'quyền năng' được hiểu như là khả năng đem lại sự biến đổi hay hiệu quả nào đó nơi con người, sự vật, hiện tượng, biến cố. Có nhiều từ mang nghĩa tương tự 'quyền năng' như: quyền lực, quyền thế, quyền hạn, quyền uy, quyền bính, tài năng, sức mạnh, năng lực, thẩm quyền. Quyền năng gắn liền với cá nhân cũng như cộng đoàn, chẳng hạn, người nào đó hay cộng đoàn nào đó có quyền năng. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng người ta có thể dùng quyền năng để nâng đỡ, hướng dẫn và nuôi dưỡng người khác. Tuy nhiên, người ta cũng có thể dùng quyền năng để áp bức, kiểm soát hay khai thác người khác.
Quyền năng được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống con người, từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần, từ đời sống văn hóa đến đời sống tôn giáo, từ đời sống xã hội đến đời sống cá nhân. Các hình thức quyền năng cũng thật đa dạng, chẳng hạn như quyền năng khoa học, quyền năng công nghệ, quyền năng giáo dục, quyền năng ngoại giao, quyền năng thông tin truyền thông, quyền năng danh tiếng, quyền năng nghệ thuật, quyền năng cái đẹp. Là con người, ai cũng muốn có càng nhiều quyền năng càng tốt, quyền năng càng mạnh càng hay, nhằm tạo uy thế cho bản thân, thể hiện sự vượt trội của mình so với người khác hay để phục vụ mọi người.
Theo mặc khải Ki-tô Giáo, Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng (El Shaddaï/ Almighty/ Tout-puissant). Câu đầu tiên của Kinh Tin Kính: "Tôi tin Kính Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất". Người vừa là Đấng Sáng Tạo vừa là Cha giàu lòng thương xót. Muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo được hiện hữu, duy trì, phát triển và thành toàn nhờ quyền năng Người. Quyền năng Thiên Chúa mạnh mẽ hơn các hình thức quyền năng của thế giới bóng đêm, ma quỷ, tội lỗi hay sự chết (1 Cr 15,55-57). Hơn nữa, tất cả các hình thức quyền năng đích thực trong thế giới thụ tạo đều thuộc về Thiên Chúa và phát xuất từ Người (Rm 13,1; 2 Cr 4,7). Đồng thời, con người được mời gọi đón nhận quyền năng Thiên Chúa để biến đổi bản thân, biến đổi môi trường sống và chăm sóc thế giới thụ tạo.
Theo Kinh Thánh Cựu Ước, Thiên Chúa Toàn Năng sáng tạo muôn vật muôn loài từ hư vô (nothingness). Những chương đầu của sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng con người vừa là đỉnh cao, vừa là trung tâm của chương trình Thiên Chúa sáng tạo, nhưng con người đã bất phục tùng Thiên Chúa và tội lỗi đã xâm nhập trần gian (St 1,1-3,24). Tuy nhiên, Thiên Chúa hằng yêu thương con người và mặc khải ý định giải thoát con người khỏi án phạt đời đời. Thiên Chúa đã tuyển chọn Áp-ra-ham, để từ ông, Người thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Áp-ra-ham và hậu duệ của ông được Thiên Chúa chọn làm 'Dân Riêng' của Người, đồng thời, Thiên Chúa biểu dương quyền năng để cứu Dân này thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, Ba-by-lon cũng như các cường quốc lân cận. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người là Đức Giê-su đến với gia đình nhân loại. Chính Đức Giê-su đã đi Đường Quyền Năng Thiên Chúa giữa lòng nhân loại.
Những câu đầu tiên trong Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an cho chúng ta biết được quyền năng lớn lao của Đức Giê-su, Ngôi Lời Thiên Chúa, bởi vì: "Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (Ga 1,3). Cũng theo thánh Gio-an: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người” (Ga 1,10). Thánh Phao-lô thì minh định quyền năng của Đức Giê-su như sau: "Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình" (Cl 1,16). Còn tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: "Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật" (Dt 1,2-3). Những trích đoạn này gợi lên trong chúng ta hai trình thuật sáng tạo của sách Sáng Thế (St 1,1-2,25).
Trong Biến Cố Truyền Tin, khi Đức Ma-ri-a phân vân về việc mang thai mà không có sự tham dự của người nam, sứ thần Gáp-ri-en nói với Đức Ma-ri-a: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35). Sau khi giải thích, sứ thần tiếp tục nói với Đức Ma-ri-a: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37). Vui sướng vì hồng ân cao cả của Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a đã cất lên bài ca 'Ngợi Khen' (Magnificat), trong đó có câu: "Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!" (Lc 1,49). Như vậy, đối với Thiên Chúa Toàn Năng, mọi sự đều có thể. Trong hành trình dương thế, nhất là ba năm loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su đã thực thi nhiều phép lạ và dấu chỉ, chẳng hạn như chữa bệnh, trừ quỷ, kiểm soát mãnh lực thiên nhiên, tha tội, hồi sinh kẻ chết, hầu minh chứng rằng Người từ Thiên Chúa mà đến và quyền năng của Người là quyền năng Thiên Chúa.
Đức Giê-su diễn tả quyền năng của Người qua việc chữa trị những người đau yếu, nhất là bị những căn bệnh mà tại thời điểm đó không ai chữa được. Chẳng hạn, Đức Giê-su chữa một người bị bệnh phong hủi (Mt 8,1-4). Anh đã bất chấp những cấm đoán của xã hội Do-thái để đến với Đức Giê-su và xin Người cứu chữa. Lời cầu xin của anh đã lay động trái tim Đức Giê-su và Người không chỉ chữa bệnh cho anh bằng quyền năng mà còn đụng chạm đến da thịt đầy vết thương của anh nữa. Trong bối cảnh xã hội Do-thái thời Đức Giê-su, những người phong hủi phải lánh xa cộng đồng, sống nơi cô quạnh, khi có ai tiếp cận thì phải hô lên ‘ô uế, ô uế’ để họ không được lại gần, kẻo bị lây bệnh, thậm chí những người phong hủi còn phải đeo chuông cảnh báo để người khác tránh tiếp xúc. Việc Đức Giê-su đụng chạm đến da thịt và chữa lành người phong hủi thể hiện lòng thương xót và quyền năng của Người.
Đức Giê-su diễn tả quyền năng của Người qua việc trừ quỷ. Chẳng hạn, thánh Mác-cô trình thuật rằng có một người bị quỷ ám ở Ghê-ra-sa (Mc 5,1-20). Anh ta hung hăng đến nỗi không ai có thể kiểm soát được. Khi gặp anh ta, Đức Giê-su phán: "Thần ô uế kia, xuất khỏi người này!" (Mc 5,8). Sau đó, Đức Giê-su hỏi tên thì nó thưa: "Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông lắm" (Mc 5,9). Được phép Đức Giê-su, chúng nhập vào bầy heo, rồi cả bầy heo lao xuống biển và chết ngộp (Mc 5,13). Sau đó, anh ta xin theo Đức Giê-su thì Người bảo: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào" (Mc 5,19). Như vậy, Đức Giê-su vừa xua đuổi quỷ khỏi nạn nhân, vừa biến nạn nhân thành khí cụ loan báo Tin Mừng của Người.
Đức Giê-su diễn tả quyền năng của Người qua việc kiểm soát mãnh lực thiên nhiên. Chẳng hạn, thánh Gio-an trình thuật dấu lạ Đức Giê-su đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (Ga 6,16-21). Theo thánh nhân, sau khi hóa bánh ra nhiều cho hơn 5000 người ăn, Đức Giê-su lên núi một mình. Chiều đến, các môn đệ xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um. Họ gặp phải sóng to gió lớn giữa Biển Hồ Ga-li-lê. Lúc đó, Đức Giê-su đi trên mặt biển và tới gần các môn đệ. Họ hoảng sợ, nhưng Đức Giê-su nói với họ: "Thầy đây mà, đừng sợ!" (Ga 6,20). Đức Giê-su diễn tả quyền năng đặc biệt của Người: (1) Trong đêm tối và ở xa các môn đệ, nhưng Đức Giê-su nhận ra các môn đệ đang trong hoàn cảnh nguy hiểm, (2) Đức Giê-su đã đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ, (3) với sự xuất hiện của Đức Giê-su thì trời yên biển lặng.
Đức Giê-su diễn tả quyền năng của Người qua việc tha thứ tội lỗi. Chẳng hạn, thánh Lu-ca trình thuật rằng có một người bị bại liệt được bốn người khiêng đến nhờ Người trợ giúp (Lc 5,17-26). Vì dân chúng qui tụ đông đảo, họ không thể đem người này đến gần Đức Giê-su. Họ đã dỡ mái nhà, thả người bại liệt đang nằm trên giường tới chỗ Người. Thấy vậy, Đức Giê-su nói với anh ta: "Này anh, anh đã được tha tội rồi" (Lc 5,20). Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư hết sức bỡ ngỡ vì họ biết rằng chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Đọc được ý nghĩ của họ, Đức Giê-su nói: "Trong hai điều, một là bảo 'anh đã được tha tội rồi', hai là bảo 'đứng dậy mà đi', điều nào dễ hơn? (Lc 5,23). Sau đó, Đức Giê-su bảo người bại liệt: "Tôi truyền cho anh: Hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về nhà!" (Lc 5,24). Người bại liệt làm theo lời Đức Giê-su, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa. Như vậy, Đức Giê-su đã quan tâm đến tình trạng tội lỗi trước tình trạng bại liệt của người bệnh. Với Người, bại liệt tâm hồn nghiêm trọng hơn bại liệt thể xác, bởi vì bại liệt tâm hồn gây tổn thương mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa.
Đức Giê-su diễn tả quyền năng của Người qua việc hồi sinh kẻ chết. Theo các sách Tin Mừng, trong thời gian ba năm rao giảng, Đức Giê-su đã thực hiện ba phép lạ hồi sinh kẻ chết: con trai duy nhất của bà góa thành Na-in (Lc 7,11-17), con gái ông Gia-ia (Mc 5,21–43) và La-da-rô (Ga 11,1-44). Cả ba phép lạ Đức Giê-su thực hiện giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quyền năng của Người, Đấng không chỉ chữa bệnh, trừ quỷ, kiểm soát mãnh lực thiên nhiên, tha tội, mà còn làm những điều vĩ đại hơn thế nữa. Hồi sinh kẻ chết là dấu chỉ mạnh mẽ giúp các môn đệ thân cận và những ai theo Đức Giê-su chuẩn bị tinh thần đón nhận Tin Mừng trọng đại nhất cho gia đình nhân loại: Tin Mừng phục sinh. Đức Giê-su phục sinh, Người chiến thắng sự chết để mở đường cho tất cả những ai tin tưởng và yêu mến Người tiến vào môi trường sự sống vĩnh cửu là Nước Thiên Chúa (1 Cr 2,9).
Quyền năng Đức Giê-su thường được diễn tả với sự cộng tác chân thành của con người. Chẳng hạn, sau khi chịu Phép Rửa bởi Gio-an Tẩy Giả và trải qua bốn mươi đêm ngày ăn chay cầu nguyện, Đức Giê-su trở về quê hương là Na-da-rét, Người vào hội đường chia sẻ Lời Chúa. Nhiều người ở Na-da-rét nghi ngờ căn tính của Người và không sẵn lòng đón nhận. Đức Giê-su gợi lại cho họ câu chuyện ông Na-a-man, người xứ Xy-ri-a trong Cựu Ước (2 V 5,1-15). Ông này đã được khỏi bệnh phong hủi nhờ tắm bảy lần ở sông Gio-đan theo lời ngôn sứ Thiên Chúa là Ê-li-sa. Vào thời đó, có rất nhiều người bị bệnh phong hủi ở Ít-ra-en nhưng không ai được chữa khỏi. Tại sao vậy? Thưa, tại vì những người ở Ít-ra-en không nghe theo Lời Thiên Chúa, không cộng tác với Thiên Chúa. Tương tự như vậy, khi Đức Giê-su xuất hiện, nhiều người ở Ít-ra-en đã không cộng tác với Đức Giê-su trong việc chữa trị bệnh tật tâm hồn, bệnh tật thể xác của mình. Những người Ít-ra-en tưởng rằng họ là Dân Riêng của Thiên Chúa, mặc nhiên, họ được Thiên Chúa cứu chữa. Tuy nhiên, Đức Giê-su cho họ biết rằng danh xưng là Dân Riêng của Thiên Chúa chưa đủ, họ cần phải lắng nghe và thực thi Lời Thiên Chúa nữa.
Trong hành trình loan báo Tin Mừng, thông thường, sau khi Đức Giê-su thực hiện những phép lạ hay dấu chỉ, Người dặn những kẻ chứng kiến đừng cho ai biết. Tại sao Đức Giê-su dặn họ như vậy? Thưa, vì Người không muốn dân chúng hiểu sai sứ mệnh chính yếu của Người, Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa đến với gia đình nhân loại. Đối với những người Do-thái thời Đức Giê-su, họ trông đợi Đấng Mê-si-a theo 'khuôn mẫu Đa-vít', Đấng Mê-si-a 'đánh Đông dẹp Bắc', đem lại hòa bình, thịnh vượng cho dân tộc họ, Dân Riêng của Thiên Chúa. Trong khi đó, Đức Giê-su diễn tả mình là Đấng Mê-si-a không chỉ cho Dân Do-thái mà còn cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế. Căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su chỉ được diễn tả cách đầy đủ với Biến Cố Vượt Qua, đặc biệt, với sự chết và phục sinh của Người.
Đức Giê-su thực thi quyền năng mạnh mẽ của Người đối với những người đau khổ, bệnh tật, yếu đuối, dễ bị tổn thương. Tuy nhiên, Người lại không thực thi quyền năng vốn có của Người cho mình. Nói cách khác, Đức Giê-su không dùng quyền năng để tìm vinh quang cho mình nơi trần thế, nhưng Người vâng theo thánh ý Thiên Chúa Cha để cứu độ muôn người (Mt 4,3-7; Ga 5,30; Ga 8,50; Ga 17,14). Người đã chịu đau khổ và chịu chết để tham dự vào những đau khổ và sự chết của tất cả mọi người. Quyền năng Đức Giê-su thực hiện cho chính mình là quyền năng trút bỏ, chứ không phải quyền năng sở hữu; quyền năng khiêm hạ, chứ không phải quyền năng tự cao; quyền năng phục vụ, chứ không phải quyền năng được phục vụ; quyền năng tha thứ, chứ không phải quyền năng hạch tội; quyền năng tháo cởi, chứ không phải quyền năng trói buộc. Đây thật là điều khó hiểu không chỉ đối với những người trong quá khứ mà còn đối với tất cả mọi người hôm nay và luôn mãi. Quả thật, Đấng Mê-si-a chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá không phải là câu trả lời cho những người khôn ngoan như những người Hy-lạp, cũng không phải là câu trả lời cho những người ham thích dấu lạ như những người Do-thái, nhưng là câu trả lời cho những ai luôn thâm tín rằng đường lối Thiên Chúa siêu vượt đường lối con người và tư tưởng Thiên Chúa siêu vượt tư tưởng con người (Is 55,8-9; 1 Cr 1,22-25).
Hơn ai hết, thánh Phao-lô thấu hiểu quyền năng Đức Giê-su, sống nhờ quyền năng Đức Giê-su và diễn tả quyền năng đó qua kinh nghiệm của ngài. Với các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết: “Nếu phải tự hào, thì tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi” (2 Cr 11,30). Thật ngược đời! Trong gia đình nhân loại có ai tự hào về những yếu đuối của mình đâu? Người ta thường tự hào về sự khôn ngoan, thông minh, mạnh mẽ, giàu có, nhan sắc hay những gì mình trổi vượt hơn so với người khác. Thánh Phao-lô tự hào về sự yếu đuối của mình, bởi vì thánh nhân cảm nghiệm được quyền năng của Thiên Chúa thể hiện qua sự nghèo hèn và yếu đuối của Đức Giê-su. Người nghèo hèn đến nỗi được sinh ra trong máng cỏ súc vật, được sưởi ấm bởi hơi thở chiên bò trong đêm đông giá rét. Người yếu đuối đến nỗi chịu đóng đinh trên cây thập giá, đồng thời, chấp nhận cái chết đau đớn và khổ nhục nhất mà con người có thể chứng kiến trong lịch sử nhân loại. Vì thế, thánh Phao-lô viết: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10).
Khởi đầu việc loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su đã tuyển chọn các môn đệ và dạy dỗ họ để họ đồng hành và tiếp tục chương trình của Người cho muôn dân nước. Cách thức tuyển chọn môn đệ của Đức Giê-su khác biệt so với cách thức tuyển chọn môn đệ của những người đương thời trong xã hội Do-thái hay các hình thức xã hội khác trong gia đình nhân loại. Người không chọn những người trổi vượt về sự khôn ngoan, tài giỏi, thông minh hay đạo đức. Người không chọn những người thuộc linh tông, huyết tộc của hàng tư tế, kinh sư, luật sĩ trong xã hội Do-thái. Người chọn các môn đệ theo cách Người muốn và biến đổi họ theo cách Người cần. Đặc biệt, Người hoàn toàn tôn trọng tự do của họ, tự do đến nổi ‘bán Người cho quân dữ’ như trường hợp Giu-đa Ít-ca-ri-ốt.
Nhờ quyền năng Đức Giê-su biến đổi, các môn đệ nguyên là những người yếu đuối, mọn hèn và hạn chế trăm chiều đã trở thành những người mạnh mẽ, can đảm làm chứng cho quyền năng Người. Khi sai họ ra đi, Người nói với họ: "Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy" (Lc 10,16). Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su dặn họ: "Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa” (Ga 14,12). Sau khi sống lại, Người nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23). Các môn đệ đã lãnh nhận quyền năng của Đức Giê-su và thực thi theo quyền năng đó, chẳng hạn, thánh Phê-rô nói với một người què khi người này xin thánh nhân bố thí: "Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi!...Anh đứng phắt dậy, đi lại được…vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa” (Cv 3,6-8).
Như các môn đệ xưa kia, hôm nay, tất cả chúng ta cũng được mời gọi lãnh nhận quyền năng Đức Giê-su. Quyền năng cho phép chúng ta sống xứng đáng là những hữu thể được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa. Quyền năng cho phép chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa. Đồng thời, quyền năng cho phép chúng ta được biến đổi không ngừng để ngày càng hoàn thiện hơn trong hành trình về với Nước Thiên Chúa viên mãn. Đặc biệt, chúng ta luôn được mời gọi giới thiệu Đường Quyền Năng Đức Giê-su cho anh chị em mình, để quyền năng ấy luôn được lan tỏa và sống động trong môi trường nhân loại.
Chúng ta thâm tín rằng không ai có thể loan báo Đường Quyền Năng Đức Giê-su nếu Người đó không đón nhận quyền năng của Người và không được quyền năng của Người hướng dẫn. Như vậy, vấn đề chính yếu mà chúng ta cần quan tâm là đón nhận quyền năng Đức Giê-su, sống quyền năng Đức Giê-su và loan báo quyền năng Đức Giê-su cho anh chị em chúng ta. Trong nhãn quan của thánh Phao-lô, Đường Quyền Năng Đức Giê-su là Đường Cứu Độ. Gửi thư cho tín hữu Phi-líp-phê, thánh nhân viết: “…Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11).
Nội dung đức tin Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng quyền năng Đức Giê-su đã vang vọng và chạm đến tất cả mọi người cùng muôn vật muôn loài từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế. Đây chính là quyền năng của Giao Ước Mới, Giao Ước Vĩnh Cửu, được Đức Giê-su thiết lập để giải phóng con người và muôn vật muôn loài khỏi tình trạng nô lệ tội lỗi và sự chết. Quyền năng Đức Giê-su là quyền năng mạnh mẽ nhất, đồng thời là quyền năng chung quyết, quyền năng thực hiện một lần cho tất cả, nhằm khôi phục và gia tăng phẩm giá con người, đồng thời biến đổi muôn vật muôn loài (Rm 8,18-25).
Như đã được đề cập ở trên, các hình thức quyền năng đích thực trong thế giới thụ tạo, kể cả quyền năng hay năng lực tự nhiên đều diễn tả quyền năng Thiên Chúa, quyền năng Đức Giê-su. Trong cuộc thương khó, Phi-la-tô nói với Đức Giê-su: "Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?" (Ga 19,10). Đức Giê-su trả lời: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn" (Ga 19, 11). Thấm nhuần nội dung đức tin Ki-tô Giáo, Công Đồng Vatican II khẳng định: “Người Kitô hữu không những không coi các công trình do con người dùng tài năng và sức lực riêng để thực hiện là chống đối quyền năng của Thiên Chúa, không coi thụ tạo có lý trí như một địch thủ của Tạo Hóa, mà lại xác tín rằng các thắng lợi của nhân loại là dấu hiệu biểu dương Thiên Chúa cao cả và là kết quả của ý định khôn lường của Ngài” (Gaudium et Spes 34). Nói cách khác, quyền năng đích thực trong thế giới hữu hình hay vô hình, thế giới tự nhiên hay thế giới loài người, đều diễn tả quyền năng Thiên Chúa.
Đức Giê-su không bao giờ phủ nhận hay lên án các hình thức quyền năng trong thế giới thụ tạo. Giáo lý quyền năng của Người có thể tóm lược như sau: (1) Các hình thức quyền năng trong thế giới thụ tạo đều qui phục quyền năng Thiên Chúa, (2) các hình thức quyền năng trong thế giới thụ tạo là để phục vụ con người và (3) các hình thức quyền năng trong thế giới thụ tạo nhằm gia tăng phẩm giá con người. Do đó, tất cả mọi người luôn được mời gọi qui hướng về Thiên Chúa, dấn thân phục vụ anh chị em mình và tôn trọng phẩm giá con người. Khi Thiên Chúa được tôn vinh và con người được hạnh phúc cũng là khi quyền năng Thiên Chúa trong môi trường nhân loại được diễn tả cách đúng đắn và phát huy tác dụng.
Là con người, ai cũng được Thiên Chúa phú ban một số hình thức quyền năng nào đó. Tuy nhiên, nhiều người không ý thức đủ rằng mình luôn dưới quyền năng của 'ai đó'. Câu chuyện ông đại đội trưởng khiêm tốn gặp gỡ Đức Giê-su ở Ca-phác-na-um trong Tin Mừng là bài học quí‎ báu cho tất cả mọi người về việc sử dụng quyền năng của mình và nhìn nhận quyền năng Thiên Chúa được thực hiện trong Biến Cố Đức Giê-su (Mt 8,5-13). Do đó, vấn đề quan trọng là mọi người luôn ý thức về thân phận mình để sử dụng quyền năng cách phù hợp nhất nhằm diễn tả đúng hơn căn tính, đời sống và sứ mệnh của mình giữa dòng đời, đồng thời, góp phần xây dựng các hình thức cộng đoàn nơi mình hiện diện ngày càng phát triển tốt đẹp hơn theo thánh ý Thiên Chúa.
Lịch sử nhân loại cho chúng ta nhận thức rằng con người không ngừng tìm kiếm quyền năng để kiểm soát môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Con người không ngừng tìm kiếm quyền năng để kiểm soát các nguồn lực thiên nhiên hay làm chủ thiên nhiên. Con người không ngừng tìm kiếm quyền năng để kiểm soát thể diện, sức khỏe hay sự ưu việt của mình so với người khác. Con người không ngừng tìm kiếm quyền năng để kiểm soát danh tiếng bản thân, gia đình, dòng tộc mình. Con người không ngừng tìm kiếm quyền năng để có thể sở hữu đất đai, nhà cửa hay tiền bạc càng nhiều càng tốt. Nói cách khác, con người không ngừng tìm kiếm quyền năng để cuộc sống mình ngày càng sung mãn hơn, đồng thời, gia tăng những gì tốt đẹp, giảm thiểu những gì nguy hại, hầu duy trì tình trạng mãn nguyện của mình càng lâu càng tốt.
Một trong những vấn đề nan giải của xã hội loài người qua muôn thế hệ là việc lạm dụng quyền năng. Hậu quả là trong khi một số người được hưởng lợi lộc, một số khác trở thành nạn nhân. Nhiều người sử dụng quyền năng để thỏa mãn tính ích kỷ của bản thân hay phe nhóm mình hơn là vì lợi ích chung. Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận thức rằng quyền năng đích thực bổ dưỡng và thăng tiến con người, trong khi lạm dụng quyền năng sẽ làm tiêu hao sức lực, trí tuệ và nhuệ khí của anh chị em mình. Kinh nghiệm lịch sử minh chứng rằng quyền năng đến với người khác, quyền năng cho người khác hay quyền năng phục vụ người khác thì đáng trân quí và bền vững hơn quyền năng cho bản thân mình, quyền năng cho những ai thuộc về mình hay quyền năng thống trị độc đoán. Quyền năng hy sinh bản thân, quyền năng khiêm hạ, quyền năng quì gối đem lại bình an và hạnh phúc cho muôn người trong khi quyền năng thể hiện mình, quyền năng kiêu căng, quyền năng bắt nạt người khác chỉ dẫn đến tai họa.
Lịch sử nhân loại từ cổ chí kim cũng minh chứng rằng không có hình thức quyền năng nào trong thế giới thụ tạo có thể đem lại đời sống bình an và thịnh vượng luôn mãi cho con người hay đáp ứng những kỳ vọng liên lỉ của con người về tình yêu, sự thật và sự thiện. Không có quyền năng nào trong thế giới thụ tạo có thể điều chỉnh cách hài hòa tuyệt đối các vấn đề nảy sinh trong xã hội loài người. Không có quyền năng nào trong thế giới thụ tạo có thể làm cho tâm hồn con người được thanh sạch hay được thánh thiện luôn mãi. Không có quyền năng nào trong thế giới thụ tạo có thể loại trừ các hình thức sự dữ trong gia đình nhân loại. Không có quyền năng nào trong thế giới thụ tạo có thể làm cho con người khỏi chết hay gìn giữ vũ trụ khỏi phải tàn lụi. Không có quyền năng nào trong thế giới thụ tạo có thể trở thành tiêu chuẩn qui chiếu cho đời sống luân lý của con người hay có thể đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người.
Sự tàn phá và ảnh hưởng của Covid-19 đối với tất cả mọi người trên thế giới trong thời gian vừa qua giúp chúng ta ý thức hơn về quyền năng con người. Sự tầm thường, nhỏ bé, yếu đuối của Covid-19 đã thách thức tài năng, sự vĩ đại và mạnh mẽ của con người trên mọi phương diện. Ngoài Covid-19, còn biết bao thực thể khác nữa luôn đe dọa sự sống còn của gia đình nhân loại. Quả thật, con người thật kỳ diệu nhưng cũng rất mọn hèn, thật thông minh nhưng cũng rất giới hạn, thật mạnh mẽ nhưng cũng rất yếu đuối. Con người trên bình diện cá nhân cũng như tập thể luôn canh cánh lo âu trước các hình thức đau khổ, sự dữ cũng như những đe dọa từ nhiều thực thể khác trong môi trường thế giới thụ tạo.
Với Kỷ Nguyên Ánh Sáng (the Age of Enlightenment), nhiều người lầm tưởng rằng quyền năng lý trí con người là vô hạn và trong tương lai, con người sẽ trả lời tất cả các câu hỏi liên quan đến bản thân mình cũng như muôn vật muôn loài. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới hôm nay, không ai chủ trương như vậy. Quả thật, quyền năng lý trí, quyền năng tri thức hay bất cứ hình thức quyền năng nào của con người đều hữu hạn. Những câu hỏi mà con người đặt ra luôn nhiều hơn những câu trả lời. Điều này có nghĩa rằng tự thân con người không bao giờ hiểu thấu ngọn nguồn của mình, của thế giới vi mô, của thế giới vĩ mô và các tương quan trong đó.
Con người thường xuyên đối diện với nhiều hình thức sợ hãi, bất an. Cuộc sống con người đầy dẫy những điều không chắc chắn. Tuy nhiên, con người nhận thức được hai điều chắc chắn: (1) Ai cũng phải chết và (2) vũ trụ này sẽ đến lúc không còn nữa. Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết rằng chỉ có quyền năng Thiên Chúa được thực hiện nhờ Đức Giê-su mới giải thoát và cứu độ con người. Chương trình tình yêu của Thiên Chúa là qui tụ con người cũng như muôn vật muôn loài dưới quyền một Thủ Lãnh Tối Cao là Đức Giê-su (Ep 1,9-10).

Chúng ta có thể kết luận rằng quyền năng Đức Giê-su cũng chính là tình yêu và lòng thương xót của Người. Đức Giê-su đã đi Đường Quyền Năng giữa lòng nhân thế. Người đã diễn tả quyền năng của Người qua việc chữa bệnh, trừ quỷ, khống chế mãnh lực thiên nhiên, tha tội và hồi sinh kẻ chết. Người đã vâng phục Thiên Chúa, trút bỏ chính mình, chịu đau khổ, chịu chết để giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ tội lỗi và sự chết. Là Ki-tô hữu, chúng ta hãy ý thức ba điểm chính yếu sau: (1) Quyền năng Đức Giê-su vượt trên sự hiểu biết của con người, (2) chúng ta được mời gọi đón nhận quyền năng Đức Giê-su và (3) chúng ta được mời gọi giới thiệu quyền năng Đức Giê-su cho mọi người. Đức Giê-su đã phục sinh và lên trời, tuy nhiên, trong Chúa Thánh Thần, quyền năng Đức Giê-su luôn hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội, nơi mỗi người và giữa muôn vật muôn loài của thế giới thụ tạo. Quyền năng Đức Giê-su tiếp tục là sức mạnh sáng tạo, gìn giữ và định hướng muôn vật muôn loài theo chương trình của Thiên Chúa.

WHĐ (2.2.2021)


 
Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022:
Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô (15)
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 03 năm 2021
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG KÊU GỌI HOÁN CẢI
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng Hai vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Quyền Năng. Tháng Ba này (trong Mùa Chay thánh), chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Kêu Gọi Hoán Cải. Hành trình trần thế của Đức Giê-su cũng chính là hành trình kêu gọi mọi người hoán cải, trở về với chính mình, ăn năn sám hối, hầu có thể đón nhận tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa. Hoán cải là chủ đề xuyên suốt nội dung đức tin Ki-tô Giáo. Hơn nữa, đây là chủ đề gắn liền với các chủ đề quan trọng khác, chẳng hạn như tội–phạt–hối-cứu (thần học trường phái Đệ-nhị-luật mà các ngôn sứ đào sâu), niềm tin, tình yêu, hy vọng, công chính, thánh thiện.
Trong tiếng La-tinh, 'convertere' (hoán cải) là từ ghép giữa con- (với, cùng với) và vertere (quay về, trở lại). Như vậy, hoán cải (convertere) có nghĩa là quay về với tâm hồn mình, nhìn nhận những tội lỗi, thiếu sót, bất xứng và thống hối ăn năn nhằm biến cải con tim, suy nghĩ, cách nhìn nhận mình, người khác, thế giới xung quanh, hầu có thể củng cố và phát triển các tương quan cách tốt đẹp hơn. Động từ tương đương với 'convertere' (La-tinh) trong tiếng Hy-lạp là μετανοέω (metanoeo). Từ đó, xuất hiện danh từ 'μετάνοια' (metanoia: hoán cải) bao gồm μετά- (meta-) có nghĩa là xa hơn, đằng sau, phía trên, vượt qua, siêu việt, bên ngoài, thay đổi và νοια (noia) có nghĩa là tâm trí, não trạng, hiểu biết. Như vậy, hoán cải (μετάνοια) có nghĩa là vượt qua tâm trí, não trạng hay sự hiểu biết vốn có của mình để hướng tới những gì lành thánh, cao thượng và tốt đẹp hơn. Nói cách khác, hoán cải là vượt qua rào cản của kinh nghiệm hẹp hòi, thói quen bị động của bản thân để nhìn nhận con người, hiện tượng, biến cố 'như họ là, như nó là' hơn 'như mình nghĩ'. Trong tiếng Việt, một số từ tương đương với ‘hoán cải’ được sử dụng khá phổ biến là: ăn năn, hối hận, sám hối, đổi mới tâm can.
Trong Ki-tô Giáo, hoán cải là điều kiện tiên quyết để con người có thể thiết lập tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Tuy nhiên, mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa luôn đi bước trước trong tiến trình hoán cải. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa ban ân sủng và tác động trong tâm hồn con người trước khi con người có ý thức rằng mình cần hoán cải. Do đó, hoán cải của con người chỉ có thể xảy ra khi có sự trợ giúp của Thiên Chúa, hay nói cách khác, ân sủng của Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi mỗi cá nhân để giúp người đó hoán cải. Vấn đề chính yếu là mỗi người cần ý thức được tầm quan trọng của hoán cải trong đời sống mình. Chúng ta cùng nhau xem xét một số trích đoạn Kinh Thánh liên quan đến điều chúng ta đề cập, chẳng hạn, "Ngài đã sửa trị con và con đã được sửa trị, như con bê chưa vực. Xin đưa con trở về, và con sẽ trở về, vì Ngài là Đức Chúa, Thiên Chúa của con!" (Gr 31,18) hay "Xin đưa chúng con về với Ngài, lạy Đức Chúa, để chúng con trở về. Xin đổi mới cuộc đời chúng con cho được như thời xa xưa ấy" (Ac 5,21).
Hoán cải là điều kiện căn bản để con người sống xứng đáng hơn với phẩm giá của mình. Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta biết rằng khi ông Nô-ê cùng những người nghe ông mà hoán cải thì được sống trong ân nghĩa Thiên Chúa. Tương tự như vậy, Giô-na đã kêu gọi dân thành Ni-ni-vê hoán cải: "Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình" (Gn 3,8). Nhờ đó, thành này khỏi bị hủy diệt và mọi người được sống trong bình an. Lời Chúa trong sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en diễn tả ý muốn của Thiên Chúa là con người phải hoán cải: "Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống. Hãy trở lại, hãy từ bỏ đường lối xấu xa của các ngươi mà trở lại" (Ed 33,11). Tương tự như thế, Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a cho thấy lòng bao dung quảng đại của Thiên Chúa: "Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông" (Is 1,18).
Hoán cải vừa mang chiều kích cá nhân vừa mang chiều kích cộng đoàn, chẳng hạn như sự hoán cải của Đa-vít (Tv 51,1-21), sự hoán cải của Na-a-man (2 V 5,1-14) hay sự hoán cải của toàn dân Do-thái (Đnl 4,29-31; Et 4,1-17). Các ngôn sứ trong lịch sử Do-thái có thể phân biệt nhau về không gian, thời gian, bối cảnh xã hội, nhưng giống nhau về việc kêu gọi dân Do-thái hoán cải. Câu hỏi đặt ra là 'tại sao các ngôn sứ lại quan tâm đến việc đó?' Thưa, tại vì dân này thường bội ước với Thiên Chúa, sống xa huấn lệnh của Người, thiếu kiên nhẫn và chạy theo các tập tục ngoại bang. Thay vì kính thờ Thiên Chúa duy nhất, chân thật, họ lại đam mê các ngẫu tượng. Họ muốn quyết định tương lai bản thân và dân tộc mình mà không màng đến sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa. Các ngôn sứ mời gọi họ thực thi công bình, sống tình bác ái, biến đổi bản thân, điều chỉnh hướng đi, trở về với Thiên Chúa đích thực. Điệp khúc hoán cải tiếp tục vang vọng với vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước, thánh Gio-an Tẩy Giả, người chuẩn bị cho sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su.
Thánh Mác-cô trình thuật: "Ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội" (Mc 1,4). Đời sống của ông trong hoang địa thật thanh bần: "Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn" (Mt 3,4). Thánh Gio-an Tẩy Giả loan báo về sự xuất hiện của Nước Thiên Chúa: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần" (Mt 3,2). Thánh nhân phân biệt giữa Phép Rửa của ngài giúp mọi người tỏ lòng sám hối và Phép Rửa của Đức Giê-su, Đấng đến sau ngài: "Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa" (Mt 3,11). Với thánh Gio-an Tẩy Giả, hoán cải là điều kiện tiên quyết để đón nhận Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa. 
Bắt đầu sứ mệnh công khai, Đức Giê-su đã đến sông Gio-đan xin thánh Gio-an Tẩy Giả làm Phép Rửa. Nơi Đức Giê-su chịu Phép Rửa cũng là nơi in dấu biến cố vượt qua của dân Do-thái từ ách nô lệ Ai-cập về với Đất Hứa. Trong thân phận con người, Đức Giê-su đã trở nên mẫu gương cho tất cả mọi người về sự trở về với cõi sâu của lòng mình, 'sâu hơn cả thung lũng Giê-ri-khô'. Hình ảnh Đức Giê-su chịu Phép Rửa giúp chúng ta hiểu biết hơn về sự hạ mình của Con Thiên Chúa. Đặc biệt, hình ảnh Đức Giê-su chịu Phép Rửa cho phép chúng ta ý thức hơn về sự cần thiết của con người trong việc hoán cải để được tha thứ tội lỗi, được giải phóng khỏi sự chết, được tái sinh trong sự sống mới ngay trong hành trình trần thế này và được định hướng về Nước Thiên Chúa viên mãn. 
Thánh Mác-cô cho mọi người biết sự liên kết giữa sứ mệnh của Gio-an Tẩy Giả và sứ mệnh của Đức Giê-su: "Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,14-15). Trong bối cảnh Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô, đây là những lời đầu tiên của Đức Giê-su trong sứ mệnh công khai. Chính Gio-an Tẩy Giả đã chuẩn bị cho Đức Giê-su, chuẩn bị cho những lời của Người vang vọng giữa gia đình nhân loại. Chắc chắn rằng đây phải là những lời quan trọng nhất và cũng là những lời tóm gọn mục đích của Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế. Chủ đề hoán cải không phải là chủ đề mới mẻ trong thời Tân Ước. Điều mới mẻ ở đây là sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su cũng chính là sự hiện diện và hoạt động của Nước Thiên Chúa. Hơn nữa, hoán cải bao gồm hướng đi mới là đặt niềm tin vào Đức Giê-su và sứ điệp của Người. Khi Đức Giê-su mời gọi hoán cải, Người muốn tất cả mọi người hãy biến đổi trái tim, biến đổi nhận thức và biến đổi hành vi của mình. Chúng ta cùng nhau điểm qua một số nhân vật được Đức Giê-su kêu gọi hoán cải cách đặc biệt trong Tin Mừng.
Buổi đầu sứ mệnh công khai, khi Đức Giê-su nhìn thấy Lê-vi đang bận rộn với công việc thu thuế, Người gọi ông và ông đã theo Người. Sau đó, Đức Giê-su dùng bữa tại nhà ông. Nhiều người thu thuế và tội lỗi khác cùng dùng bữa ở đó. Những người Pha-ri-sêu và kinh sư lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giê-su và Người đã nói: "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" (Lc 5,32). Đối với dân Do-thái, những người thu thuế như Lê-vi không những phản đạo mà còn phản quốc; không những phản truyền thống mà còn phản phúc lợi dân tộc. Tuy nhiên, ánh mắt Đức Giê-su đã chiếu rọi trái tim Lê-vi và từ đó ông không còn để tâm đến những con số trên giấy tờ hay làm việc cho những người Rô-ma nữa, bởi vì 'số ông' đã đổi khác. Ông không còn là Lê-vi thu tiền nữa, nhưng là Mát-thêu thu phục nhân tâm; ông không còn là Lê-vi viết giấy tờ thuế má nữa, nhưng là Mát-thêu viết Tin Mừng Đức Giê-su. Tắt một lời, ông không còn là Lê-vi, đệ tử của hoàng đế Rô-ma nữa, nhưng là Mát-thêu, môn đệ trung tín của Đức Giê-su.   
Tương tự như thế, khi Đức Giê-su đến Giê-ri-khô thì thấy Da-kêu, người thu thuế, đang ở trên cây sung để ngắm xem Người đi qua. Đức Giê-su chủ động đến với Da-kêu, còn Da-kêu tìm mọi cách vượt qua các rào cản để thấy Đức Giê-su và Đức Giê-su đã 'đi bước trước', Người gọi đích danh Da-kêu và đến nhà ông. Da-kêu bị người Do-thái ghen ghét. Đặc biệt, với những người theo truyền thống Rab-bi (Rabbinism), những người thu thuế như Da-kêu bị coi là những kẻ hại dân hại nước. Họ bị trục xuất khỏi các hoạt động tôn giáo kể cả việc lui tới đền thờ hay hội đường. Tuy nhiên, Đức Giê-su đã dùng bữa tại nhà ông. Ông ước ao đến đền thờ hay hội đường để gặp gỡ Thiên Chúa vô hình nhưng không được phép, thì nhà ông đã trở thành đền thờ, trở thành hội đường. Hơn nữa, thay vì ông ước ao đến đền thờ hay hội đường để gặp gỡ Thiên Chúa vô hình thì ngay tại nhà mình, ông gặp Đức Giê-su, Thiên Chúa hữu hình. Trước nghĩa cử thân thương, cao đẹp của Đức Giê-su, ông đã hoán cải nội tâm và thể hiện hành động: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn" (Lc 19,8).
Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đức Giê-su không chỉ đến với dân Do-thái mà còn đến với mọi dân để hoán cải họ. Chẳng hạn, Đức Giê-su chữa con gái của người đàn bà Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri (Mc 7,24-30) hay Đức Giê-su chữa đầy tớ của viên đại đội trưởng (Mt 8,5-13). Chúng ta biết rằng người đàn bà gốc Phê-ni-xi và viên đại đội trưởng là 'dân ngoại', nhưng họ đã hoán cải và đặt niềm tin vào Đức Giê-su và sứ mệnh của Người. Với Đức Giê-su, dân ngoại hoán cải thì hơn những người Do-thái (dân Thiên Chúa) cứng lòng. Mang danh 'dân Thiên Chúa' thì chưa đủ để được hưởng ân sủng của Thiên Chúa. Những người 'hữu danh vô thực' không những đóng mình đối với ân sủng Thiên Chúa mà còn trở nên chướng ngại cho những người thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa nữa. Đó là lý do giải thích tại sao Đức Giê-su nói với những người Do-thái bất tín: "Con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng" (Mt 8,12).
Đức Giê-su hoán cải người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp cũng là một ví dụ điển hình giúp chúng ta hiểu biết hơn về sứ mệnh của Người đối với tất cả mọi người trong gia đình nhân loại (Ga 4,1-42). Gio-an trình thuật: "Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê. Do đó, Người phải băng qua Sa-ma-ri” (Ga 4,3-4). Chữ 'phải' ở đây diễn tả chuyến đi này nằm trong chương trình của Thiên Chúa Cha. Đối với người Do-thái, dân Sa-ma-ri là 'dân ngoại'. Người phụ nữ Sa-ma-ri ra giếng lấy nước ban trưa và gặp Đức Giê-su ở đó. Khi gặp Người, bà đã ngạc nhiên vì Người biết nhiều về bà, đặc biệt, về tình trạng hôn nhân: "Chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị" (Ga 4,18). Đức Giê-su còn nói với bà về nước đem lại sự sống đời đời mà Người sẽ ban để ai uống thì không còn khát nữa. Người cũng nói với bà về việc thờ phượng Chúa Cha cách đúng đắn là thờ phượng Người trong thần khí và sự thật. Cuối cùng, bà đã nhận ra Đức Giê-su không chỉ là một ngôn sứ mà còn là Đấng Mê-si-a và Đức Giê-su cũng đã khẳng định như vậy (Ga 4,25-26.29). Người phụ nữ đã hoán cải và trở thành người loan báo Tin Mừng cho những người Sa-ma-ri khác và họ đã thốt lên: "Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian" (Ga 4,42). Sau đó, họ mời Đức Giê-su 'ở lại với chúng tôi' và Người đã ở lại với họ hai ngày.
Tuyệt tác của hoán cải và tha thứ được Đức Giê-su diễn tả qua dụ ngôn 'người cha nhân hậu' (Lc 15,11-32). Theo dụ ngôn, người con thứ xin cha mình chia của cải để 'tự lực tự cường' với hy vọng được giải phóng hoàn toàn và trở nên giàu có. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, anh ta đã phung phá toàn bộ gia tài người cha trao ban và xin đi chăn heo cho một nông phu dân ngoại để sống qua ngày. Theo luật, ai thuộc dòng giống Do-thái thì không được chăn heo. Hơn nữa, người chăn heo là người bị chúc dữ. Anh ta không chỉ chăn heo mà còn muốn ăn thức ăn của heo nhưng không ai cho. Tủi thân trách phận, anh ta chỉ muốn trở về và được người cha chấp nhận như là đầy tớ trong nhà. Tuy nhiên, khi anh ta về, người cha đã đón tiếp anh vượt quá sự tưởng tượng. Người cha đã sai đầy tớ cho anh ta mặc áo đẹp (biểu tượng danh dự), đeo nhẫn (biểu tượng uy quyền) và mang dép mới (biểu tượng tự do). Hơn nữa, ông còn bắt bê béo làm thịt để mở tiệc ăn mừng (biểu tượng hạnh phúc). Phần kết của dụ ngôn thật có hậu, người con phung phá hoàn toàn biến đổi trong tình thương hải hà của người cha. Với dụ ngôn này, Đức Giê-su cho tất cả mọi người bài học rằng khi con người xa Thiên Chúa thì cũng xa phẩm giá đích thực của mình, nhưng khi hoán cải, con người được phục hồi phẩm giá và được trao ban hạnh phúc viên mãn.
Giáo huấn của Đức Giê-su trong Tin Mừng giúp chúng ta nhận thức rằng hoán cải liên quan đến toàn bộ các khía cạnh khác nhau của đời sống con người. Tuy nhiên, việc hoán cải nhằm biến đổi tình trạng nội tâm thì quan trọng hơn những biến đổi bên ngoài. Chẳng hạn, khi một số người Pha-ri-sêu và kinh sư trách các môn đệ Đức Giê-su trước khi ăn không rửa tay theo truyền thống, Đức Giê-su nhắc lại Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân" (Mc 7,6-7; Is 29,13). Quả thật, Đức Giê-su không lên án những người rửa tay trước khi ăn, nhưng Người lên án những người xem việc rửa tay quan trọng hơn rửa tâm hồn. Với Đức Giê-su, những gì vô hình thì quan trọng hơn những gì hữu hình, những gì thuộc tâm hồn thì quan trọng hơn những gì thuộc thể xác. Nói cách khác, với Đức Giê-su, rửa bên trong thì quan trọng hơn rửa bên ngoài, rửa hồn thì quan trọng hơn rửa xác, rửa tâm thì quan trọng hơn rửa tay.
Đức Giê-su còn cho biết 'trương độ của hoán cải' về tận khởi thủy và hướng tới cánh chung của thực thể có thể có tên gọi là 'con người'. Trong Tin Mừng, khi các môn đệ tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất giữa họ, Đức Giê-su đã đem một em nhỏ đến và nói: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời" (Mt 18,3). Khi Đức Giê-su nói như thế, dĩ nhiên, Người không nói về việc trở nên như trẻ nhỏ theo nghĩa thể xác, nhưng theo nghĩa tâm linh, nghĩa là trở về 'tình trạng đơn sơ trong trắng'. Điều này giúp chúng ta liên tưởng đến việc Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa thuở ban đầu (St 1,26-27). Điều này cũng giúp chúng ta suy niệm về chương trình của Thiên Chúa được thực hiện bởi Đức Giê-su, nhờ đó, phẩm giá chúng ta không chỉ là 'theo hình ảnh Thiên Chúa' mà còn là 'con cái Thiên Chúa' trong hành trình trần thế này cũng như tương lai mai hậu (Ga 1,12; 1 Ga 3,1-2; Rm 8,14; Gl 4,7). Sứ điệp Đức Giê-su về hoán cải được thể hiện rõ nét trong ơn gọi và đời sống của các môn đệ Người qua muôn thế hệ. Chúng ta điểm qua sự hoán cải của thánh Phê-rô, Phao-lô và Au-gút-ti-nô. 
Phê-rô được Đức Giê-su kêu gọi và trở thành môn đệ Người. Đức Giê-su biết trước rằng Phê-rô sẽ chối Người và sẽ hoán cải. Người nói: "Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh" (Lc 22,31-32). Quả thật, trong cuộc khổ nạn, Phê-rô chối Đức Giê-su tới ba lần, nhưng sau đó Phê-rô đã hoán cải và trở nên chứng nhân trung tín của Đức Giê-su không chỉ ở Pa-lét-tin mà còn tận Rô-ma, trung tâm của đế chế hùng mạnh nhất vùng Địa Trung Hải thời bấy giờ. Khi giảng dạy dân chúng, Phê-rô mời gọi mọi người hoán cải: "Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em" (Cv 3,18-19). Với sự giúp đỡ của Phê-rô, Co-nê-li-ô, viên đại đội trưởng người Rô-ma đã hoán cải và trở thành một trong những Ki-tô hữu đầu tiên của Giáo Hội sơ khai (Cv 10,36-48). Với thị kiến được diễn tả ở Cv 10,9-16, Phê-rô nhận ra sự thật rằng Thiên Chúa kêu mời mọi người hoán cải để lãnh nhận ơn cứu độ: "Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận" (Cv 10,34-35).
Sự hoán cải của Phaolô cũng rất đặc biệt. Ngài được sinh ra ở Tác-xô (Thổ Nhĩ Kỳ), là người Do-thái thuộc chi tộc Ben-gia-min (Pl 3,5; 2 Cr 11,22). Ngài cũng là công dân Rô-ma ngay từ lọt lòng mẹ (Cv 22,25-29). Ngài lớn lên trong môi trường giáo dục bài bản về lề luật và các truyền thống Do-thái. Ngài cũng được đào tạo kỹ càng về văn chương và văn hóa Hy-lạp. Do đó, ngài là nhà hùng biện lỗi lạc với khả năng tư duy trừu tượng và lập luận khôn ngoan theo kiểu Hy-lạp. Ngài thú nhận về quá khứ nhiệt thành của ngài đối với truyền thống Do-thái. Hơn nữa, ngài đã bắt bớ các Kitô hữu và bách hại Giáo Hội Chúa. Ngài nhận mình bất xứng để được gọi là tông đồ của Đức Giê-su. Tuy nhiên, ân sủng Thiên Chúa bao phủ tội lỗi và biến đổi ngài để ngài có thể cộng tác cách đắc lực trong việc loan báo Tin Mừng cho dân ngoại. Thánh nhân đắm mình trong mầu nhiệm Biến Cố Đức Giê-su và hiến thân trọn vẹn để mưu cầu lợi ích cho muôn người. Trong hầu hết các thư của mình, đặc biệt thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô và thư gửi tín hữu Ga-lát, thánh nhân mời gọi mọi người hoán cải để được lãnh nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Cuộc đời hai thì (tội lỗi và hoán cải) của thánh Au-gút-ti-nô đã để lại cho hậu thế bài học vô giá. Thánh nhân đã ra công tìm kiếm căn nguyên sự dữ nhưng không thể nào có được sự giải đáp thỏa đáng. Với thánh nhân, mầu nhiệm sự dữ chỉ có thể hé mở nhờ mầu nhiệm Biến Cố Đức Giê-su, nhất là mầu nhiệm tử nạn. Do đó, thay vì lao nhọc tìm kiếm những giải thích về sự dữ thì ngài đã chiêm ngắm Đức Giê-su, Đấng vô tội nhưng đã chịu đau khổ vì tội lỗi con người và đã chết để tiêu diệt sự chết, hầu cho mọi người được sống. Thay vì quan tâm đến nguyên nhân của sự dữ thì ngài suy niệm 'cái giá' mà Đức Giê-su phải trả để cứu chuộc con người. Đó là lý do giải thích tại sao thánh nhân đã không ngừng hoán cải và trở nên khí cụ hữu hiệu của Thiên Chúa giữa dòng đời. Ngài chia sẻ kinh nghiệm rằng Thiên Chúa thì ở trong ngài, còn ngài thì ở bên ngoài vì ngài đã đắm chìm trong tội lỗi, bất xứng. Theo ngài, khi con người 'thấy' chính mình cũng là khi con người 'thấy' Thiên Chúa, bởi vì chốn sâu thẳm nhất của con người cũng là nơi ngự trị của Thiên Chúa. Chúng ta có thể tóm lược kinh nghiệm của thánh nhân như sau: Con người càng xa mình bao nhiêu thì càng xa Thiên Chúa bấy nhiêu, càng gần mình bao nhiêu thì càng gần Thiên Chúa bấy nhiêu.
Thánh nhân khác tội nhân bởi tâm hồn hoán cải. Đời sống của các thánh trong lịch sử Giáo Hội cho chúng ta nhận thức rằng thánh thiện đi đôi với hoán cải. Người thánh thiện cũng là người hoán cải và ngược lại. Những vị thánh vĩ đại nhất cũng là những người hoán cải cách triệt để nhất. Như vậy, sự thánh thiện của con người chính là 'sự thánh thiện hoán cải'. Con người trở nên thánh thiện khi nhận thức rằng mình cần trở về với Thiên Chúa, mình cần hoán cải và việc hoán cải được thực thi. Sự thánh thiện hiện diện khi con người biết nhận ra tình trạng tâm hồn mình và chú tâm biến đổi. Sự thánh thiện đích thực là đặt toàn bộ sự hiện hữu của bản thân vào Đường Kêu Gọi Hoán Cải của Đức Giê-su. Đường này giúp con người cải tà qui chính và hướng lòng trí con người về cánh chung của đời mình là Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su loan báo.
Giáo huấn của Đức Giê-su trong Tân Ước cho chúng ta nhận thức rằng hoán cải gắn liền với ba nhân đức: tin, cậy, mến. Quả thật, người hoán cải là người nhận thức được tình trạng tâm hồn mình và tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn chờ đợi sự trở về của mình. Người hoán cải cũng là người luôn hy vọng rằng không có tội lỗi hay sự bất xứng nào của bản thân là quá lớn đối với lòng nhân từ và sự tha thứ của Thiên Chúa. Đồng thời, người hoán cải cũng là người biết mở rộng trái tim mình để đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và diễn tả tình yêu đó bằng cuộc sống đượm tình bác ái, yêu thương tất cả mọi người. Đặc biệt, người hoán cải là người biết nuôi dưỡng tâm tình tạ ơn Thiên Chúa, biết hi sinh đón nhận thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và biết cộng tác với Thiên Chúa trong việc giúp người khác hoán cải.
Hoán cải là điều cần thiết, tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người ngại ngùng thực thi. Quả thực, con người thường đi theo lối mòn và cảm thấy yên tâm với tình trạng vốn có của mình. Nói đến hoán cải là nói đến tự hạ, nói đến hoán cải là nói đến trả giá, nói đến hoán cải là nói đến chấp nhận những mạo hiểm phía trước. Nhiều người muốn biến đổi người khác, biến đổi gia đình, biến đổi xã hội, biến đổi thế giới, nhưng lại không biến đổi chính mình. Chúng ta có thể khẳng định rằng gia đình nhân loại sẽ tốt đẹp hơn khi mọi người càng ngày càng ý thức hơn về tầm quan trọng của hoán cải và thành tâm thực thi việc hoán cải trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Chúng ta luôn được mời gọi cộng tác với ơn Thiên Chúa để kinh nghiệm cá nhân về hoán cải ngày càng được dồi dào hơn. Quả thật, nếu chúng ta không có kinh nghiệm cá nhân về sự hoán cải, chúng ta khó có thể thực thi ơn gọi và đời sống Ki-tô hữu như Thiên Chúa mong muốn. Câu hỏi đặt ra là 'chúng ta phải bắt đầu từ đâu?' Thưa, chúng ta bắt đầu bằng việc nhìn nhận thân phận yếu hèn, tội lỗi, bất xứng của mình trước tình yêu bao la của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta ý thức rằng không ai trên trần gian này có thể giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, bấp bênh trong đời sống hằng ngày. Đặc biệt, không ai trên trần gian này có thể đem lại cho chúng ta sự bình an đích thực, hầu có thể đương đầu với những khổ đau trong cuộc sống, nhất là đương đầu với vực thẳm sâu nhất của thân phận con người là sự chết.
Người theo Đường Kêu Gọi Hoán Cải của Đức Giê-su không chỉ sám hối, ăn năn vì những tội lỗi, bất xứng của mình mà còn từ bỏ những nguy cơ phương hại đến sự hòa hợp của các chiều kích trong đời sống nội tâm cũng như các tương quan giữa mình với anh chị em, với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo và với Thiên Chúa. Người theo Đường Kêu Gọi Hoán Cải của Đức Giê-su cần học cách lắng nghe tiếng Đức Giê-su giữa muôn tiếng ồn ào, náo động của cuộc sống thường ngày. Đồng thời, người theo Đường Kêu Gọi Hoán Cải của Đức Giê-su cần luôn trau dồi, học hỏi, suy niệm và thực thi thánh ý Người. Hơn nữa, trong hành trình dương thế của mỗi người, không bao giờ gọi là 'quá muộn' để hoán cải. Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a diễn tả điều đó: "Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên" (Is 55,6). Bởi vì, "Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương" (Tv 145,8).
Kinh nghiệm của thánh Phao-lô cho chúng ta nhận thức rằng hoán cải không phải là quyết định một lần cho tất cả (once and for all). Hoán cải và tái hoán cải luôn đi đôi với nhau hay nói cách khác: Hành trình con người trên trần thế cũng là hành trình hoán cải. Thánh Phao-lô đã hoán cải, tuy nhiên, ngài nhận ra sự bất xứng của mình, nghĩa là thánh nhân vẫn nghiêng chiều về sự dữ và tội lỗi. Chẳng hạn, trong thư gửi tín hữu Rô-ma, ngài chia sẻ tình trạng căng thẳng trong tâm hồn mình: "Tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi" (Rm 7,21-23). Thánh nhân cũng tự đặt câu hỏi và có ngay câu trả lời: "Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!" (Rm 7,24-25). Như vậy, hoán cải và tái hoán cải phải là lộ trình xuyên suốt đời sống người Ki-tô hữu.
Theo Kinh Thánh, ăn chay, cầu nguyện và bố thí là ba hình thức chủ yếu diễn tả sự hoán cải cá nhân. Thiên Chúa mời gọi những ai hoán cải cần phải quan tâm đến tình trạng đau khổ của anh chị em đồng loại. Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a cho chúng ta biết điều đó: "Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?" (Is 58,6-7). Như thế, những hi sinh, tiết chế bản thân đem lại cho người hoán cải tâm hồn cao thượng, biết yêu thương những người đang lâm cảnh bị bỏ rơi, đau khổ, ngặt nghèo trong xã hội.
Trong thông điệp Laudato Si’ (2015; LS 5), lấy lại tư tưởng của thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trong bài Giáo Lý ngày 17 tháng 1 năm 2001, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô mời gọi mọi người quan tâm đến sự hoán cải sinh thái toàn cầu (a global ecological conversion). Theo ngài, con người không chỉ là 'chủ' mà còn là 'nhà quản lý' môi trường thiên nhiên. Quả thực, con người đã 'đối xử bất công' với môi trường thiên nhiên. Hậu quả là môi trường thiên nhiên bị khai thác quá mức, một số sinh vật bị tận diệt và các hình thức ô nhiễm lan tràn. Do đó, con người cần hoán cải để bảo vệ và làm cho muôn vật muôn loài ngày càng phát triển phong phú hơn, đồng thời, luôn ý thức về tương quan và lệ thuộc giữa con người với muôn vật muôn loài. Theo thánh Phao-lô, con người và muôn vật muôn loài liên hệ chặt chẽ với nhau. Ngài còn quả quyết: "Cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở" (Rm 8,22). Trong nhãn quan của ngài, muôn vật muôn loài liên đới với con người trong tội của A-đam. Do đó, muôn vật muôn loài cũng liên đới với con người trong sự chúc lành của Thiên Chúa được diễn tả cách đặc biệt nơi biến cố Đức Giê-su (Ep 1,9-10; Cl 1,20).
Trong bối cảnh thế giới hôm nay, nhiều người quá chú trọng tương lai và chạy theo phát triển đến nỗi không màng tới nguồn gốc, lịch sử và căn tính của mình. Lời Chúa trong sách Khải Huyền nhắc nhở mọi người: "Hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải" (Kh 2,5). Do đó, chúng ta cần ý thức rằng không có hoán cải thì sự tự cao tự đại nơi mỗi người sẽ gia tăng. Không hoán cải thì không thể hiểu biết hay nhận ra những bất toàn của bản thân; không có hoán cải thì không có đổi mới; không có hoán cải thì không nhận ra đâu là sự thiện, đâu là sự thật, đâu là xảo trá. Do đó, tất cả mọi người được mời gọi hãy trở về, hãy tìm hiểu, hãy trả lời, hãy thay đổi, hãy tiến tới. Đặc biệt, tất cả các Ki-tô hữu được mời gọi trở thành chứng nhân cho Đường của Đức Giê-su, Đường Kêu Gọi Hoán Cải, giữa những thăng trầm của đời sống mình.
Sứ mệnh loan báo Đức Giê-su, Đường Kêu Gọi Hoán Cải, thuộc về bản chất của Giáo Hội, thực thể được Đức Giê-su thiết lập và tiếp tục hiện diện trong gia đình nhân loại cho đến tận thế. Tất cả con cái Giáo Hội đều được mời gọi tham dự sứ mệnh này. Trong việc loan báo Đức Giê-su, cả người loan báo và người đón nhận đều cần phải hoán cải. Người loan báo cần hoán cải để có thể nhận diện những giá trị tốt đẹp, lành thánh của nền văn hóa nơi Đức Giê-su chưa được loan báo. Bởi vì, những giá trị này không xa lạ với những giá trị mà Đức Giê-su đã sống và chuyển tải. Người đón nhận Đức Giê-su cần xác tín rằng Người là Đấng Cứu Độ duy nhất và họ được mời gọi đoạn tuyệt những gì ngược với giáo huấn của Người. Đặc biệt, người loan báo và người đón nhận Đức Giê-su cần tìm được tiếng nói chung để sống hòa hợp, yêu thương và phục vụ lẫn nhau như Đức Giê-su hằng mong muốn. 

Chúng ta có thể kết luận rằng Đường của Đức Giê-su là Đường Kêu Gọi Hoán Cải. Hành trình dương thế của Người cũng là hành trình kêu gọi mọi người hoán cải. Sau khi sống lại, Người trao ban sứ mệnh này cho các môn đệ. Giáo huấn hoán cải của Đức Giê-su có thể tóm lược như sau: (1) Vì tội lỗi, con người sống xa đường lối Thiên Chúa; (2) lòng thương xót của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi con người; (3) Thiên Chúa luôn đi bước trước để giúp con người hoán cải; (4) con người được mời gọi luôn trở về với tâm hồn mình; (5) con người cần định dạng tâm hồn mình theo thánh ý Thiên Chúa; (6) bao lâu còn trên đường lữ hành dương thế, bấy lâu con người cần phải hoán cải; (7) mỗi người được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc hoán cải anh chị em mình. Hôm nay, Đức Giê-su cũng đang nói với mỗi người chúng ta, với tất cả mọi người trong gia đình nhân loại: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15).

WHĐ (01.03.2021)


Xem thêm tại đây: Đức Giê-su Ki-tô – Đường sự sống - HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC ...


 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

.

1

LM PAUL NGUYỄN ĐỨC VĨNH

Vị Thánh trong ngày

Sách các phép

Mười điều răn

Thành viên

Kích chuột để

1

Suy niệm Lời Chúa 5P

Nhóm Mân Côi

1
 

Tin Thể Thao

    Giờ kinh phụng vụ

    Lịch Phụng Vụ