1
20:19 +07 Thứ sáu, 29/03/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 352


Hôm nayHôm nay : 22478

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 295469

Tổng cộngTổng cộng : 27466974

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » AVE MARIA » SUY NIỆM THÁNG MÂN CÔI

THỨ BA 09/10/2012 Tuần XXVII Mùa Thường Niên Năm B

Thứ ba - 09/10/2012 22:50-Đã xem: 1410

 
 
CHƯƠNG TRÌNH THÁNG 10 – THÁNG MÂN CÔI
HOA HỒNG MẦU NHIỆM
 
NỘI DUNG
PHẦN I: CẦU NGUYỆN – LẦN HẠT MÂN CÔI
1. NGHE TIN MỪNG VỚI MẸ:
2. SUY NIỆM TIN MỪNG VỚI MẸ
3. NHỜ MẸ ĐẾN VỚI CHÚA
4. XIN MẸ CHUYỂN CẦU
5. LẦN HẠT
PHẦN II: TÌM HIỂU VỀ KINH MÂN CÔI
1. TÌM HIỂU
2. TRUYỆN TÍCH
 
PHẦN I: CẦU NGUYỆN – LẦN HẠT MÂN CÔI
1. NGHE TIN MỪNG VỚI MẸ: Lc 10, 38-42
Khi ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với".
Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".
 
2. SUY NIỆM TIN MỪNG VỚI MẸ
Maria đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị ai lấy đi
Cô Maria ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Chúa dạy. Cô Matta thì tất bật lo việc phục vụ. Mỗi người đều có nhiệm vụ riêng của mình. Trong cuộc sống của chúng ta cũng vậy, mỗi người Chúa đã trao cho nhiệm vụ riêng không ai giống ai. Nhưng nhiều lúc chúng ta lại so sánh, phen bì, tị nạnh với nhau. Nếu chúng ta thi hành nhiệm vụ trong tinh thần yêu thương và theo ý Chúa, thì chắc chắn Chúa cũng khen chúng ta như khen Maria.
 
3. NHỜ MẸ ĐẾN VỚI CHÚA
Xin cho con biết chu toàn nhiệm vụ Chúa trao phó cho con qua các vị đại diện của Chúa. Xin cho con thi hành nhiệm vụ với trái tim đầy lòng yêu mến Chúa. Xin cho con không so sánh giá trị của công việc, nhưng luôn ý thức rằng: có tình yêu khi thi hành nhiệm vụ mới là quan trọng. 
 
4. XIN MẸ CHUYỂN CẦU
Xin Mẹ dạy con biết sống trọn hảo từng giây phút hiện tại với tình yêu mến Chúa. Dù con làm bất cứ điều gì cũng vì tình yêu. Giá trị không tuỳ thuộc vào công việc lớn nhỏ, nhưng là tình yêu.
 
5. LẦN HẠT
(quý vị có thể lần 5 chục theo ngày trong tuần hoặc 1 chục như dưới đây)
Đức Bà sinh Đức Chúa Giêsu nơi hang đá. Ta hãy xin cho được lòng khó khăn.
 (Đọc 1 Kinh Lạy Cha, 10 Kinh Kính Mừng và 1 Kinh Sáng Danh).
 
 
PHẦN II: TÌM HIỂU VỀ KINH MÂN CÔI
1. TÌM HIỂU

MẦU NHIỆM TRONG KINH MÂN CÔI THEO ĐGH GIOAN PHAOLÔ II

Dưới đây là các số và các mục được trích nguyên văn từ Tông thư Rosarium Virginis Mariae của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 16/10/2002.
Các mầu nhiệm Vui
Số 20. Năm mươi Kinh Mân Côi đầu tiên, năm sự vui, mang dấu ấn của niềm vui toả chiếu từ biến cố Nhập thể. Điều này quả là rõ ràng ngay từ mầu nhiệm đầu tiên, biến cố Truyền tin, nơi đó lời sứ thần Gabriel chào Trinh Nữ làng Nadarét nối liền với lời mời gọi vui hưởng niềm vui thiên sai: Mừng vui lên, hỡi bà Maria. Toàn thể lịch sử cứu độ, theo một nghĩa nào đó, toàn thể lịch sử thế giới quy về lời chào đó. Nếu kế hoạch của Chúa Cha là quy tụ mọi sự trong Đức Kitô (xc. Ep 1,10), thì một cách nào đó, toàn thể vũ trụ cũng được tác động bởi ân huệ thần linh, với ơn huệ đó Chúa Cha đoái nhìn Đức Maria và biến ngài thành Thân mẫu của Con Người. Đến lượt mình, toàn thể nhân loại như được bao bọc trong lời Xin vâng, qua đó Mẹ sẵn lòng chấp thuận Thánh ý Thiên Chúa.
Niềm vui là nét chính yếu trong cuộc hội ngộ với bà chị Êlisabét, nơi đó tiếng nói của Đức Maria và sự hiện diện của Đức Kitô trong cung lòng ngài đã khiến cho Gioan nhảy lên vui sướng (xc. Lc 1,44). Niềm vui cũng tràn ngập hoạt cảnh tại Bêlem, khi Hài nhi thánh, Đấng Cứu Độ trần gian ra đời, được loan tin qua tiếng hát của các thiên thần và được loan báo cho các mục đồng như là tin của một niềm vui lớn (Lc 2,10).
Hai mầu nhiệm sau cùng, tuy vẫn duy trì bầu khí vui mừng, nhưng đã hướng đến bi kịch sắp đến. Trình thuật Dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh không chỉ biểu lộ niềm vui vì Hài nhi được thánh hiến và sự xuất thần của cụ Simêôn, nhưng còn ghi lại lời tiên báo Đức Kitô sẽ trở nên một dấu hiệu chống báng cho dân Israel và một lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn Mẹ (xc. Lc 2,34-35). Niềm vui xen lẫn với bi kịch ẩn dấu trên mầu nhiệm thứ năm, tìm thấy Đức Giêsu trong Đền thánh, khi Người lên 12 tuổi. Tại nơi đây, Người đã tỏ ra như Đấng dạy dỗ với sự khôn ngoan thần linh khi Người lắng nghe và đặt câu hỏi. Sự mạc khải về mầu nhiệm của Người, trong tư cách là người Con hiến thân trọn vẹn cho công việc của Chúa Cha, cho thấy tính triệt để của Tin Mừng, ngay cả tương quan nhân loại thân thiết nhất cũng bị thách thức bởi những đòi hỏi tuyệt đối của Nước Thiên Chúa. Đức Maria và thánh Giuse, sợ hãi và lo âu, không hiểu lời Người (Lc 2,50).
Như vậy, suy ngắm các mầu nhiệm năm sự vui là đi vào các động cơ tối hậu và ý nghĩa thâm sâu của niềm vui Kitô giáo. Đó là tập trung vào thực tại của mầu nhiệp Nhập thể và điềm báo khó hiểu của mầu nhiệm Khổ nạn cứu độ. Đức Maria dẫn dắt chúng ta khám phá bí mật của niềm vui Kitô giáo, khi nhắc nhở chúng ta rằng Kitô giáo tiên vàn là euangelion, Tin Mừng, mà trung tâm và toàn bộ nội dung của Tin Mừng là con người Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời mặc lấy xác phàm, Đấng Cứu độ duy nhất của thế giới.
Các mầu nhiệm Sáng
Số 21. Đi từ cuộc đời thơ ấu và ẩn dật tại làng Nadarét đến cuộc đời công khai của Đức Giêsu, việc chiêm ngưỡng dẫn chúng ta đến những mầu nhiệm có thể được gọi một cách đặc biệt là các mầu nhiệm ánh sáng. Dĩ nhiên, toàn thể các mầu nhiệm Đức Kitô là một mầu nhiệm ánh sáng. Người là ánh sáng thế gian (Ga 8,12). Tuy nhiên, chân lý này tỏ hiện một cách đặc biệt qua những năm tháng của cuộc đời công khai, khi Người công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Để đề nghị cho cộng đoàn Kitô hữu năm thời điểm quan trọng - các mầu nhiệm chói sáng - trong giai đoạn này của cuộc đời Đức Kitô, tôi nghĩ nên chọn ra những mầu nhiệm sau đây: (1) Chịu phép rửa tại sông Giođan (2) Tỏ mình ra tại tiệc cưới Cana (3) Công bố Nước Thiên Chúa và kêu mời sám hối (4) Hiển Dung, và cuối cùng (5) Thiết lập Bí tích Thánh Thể như là một biểu hiện có tính bí tích của Mầu nhiệm Vượt qua.
Mỗi mầu nhiệm trên là một mạc khải về Nước Thiên Chúa đang hiện diện trong chính bản thân Đức Giêsu. Phép rửa tại sông Giođan tiên vàn là một mầu nhiệm ánh sáng. Tại đây, khi Người bước xuống sông Giođan, Đấng vô tội đã trở thành tội vì chúng ta (xc. 2 Cr 5,21), thì cửa trời rộng mở và có tiếng Chúa Cha tuyên nhận Người là Con yêu dấu (xc. Mt 3,17), trong khi đó, Thánh Thần ngự xuống trên Người và trao cho Người sứ mạng mà Người phải thi hành. Một mầu nhiệm ánh sáng khác là dấu chỉ đầu tiên tại Cana (xc. Ga 2,1-12), khi Người biến nước thành rượu và mở rộng tâm hồn các môn đệ để đón nhận đức tin, nhờ sự can thiệp của Đức Maria, người tín hữu đầu tiên. Một mầu nhiệm ánh sáng khác là lời giảng dạy, qua đó Đức Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa đang đến, kêu mời sám hối (xc. Mc 1,15) và tha thứ tội lỗi cho tất cả những ai đến với Người trong tâm tình tin tưởng khiêm hạ (xc. Mc 2,3-13; Lc 7,47-48): đó là khởi đầu của tác vụ bày tỏ lòng thương xót mà Người tiếp tục thi hành cho đến ngày tận thế, nhất là qua Bí tích Hoà Giải mà Người uỷ thác cho Giáo Hội (xc. Ga 20,22-23). Mầu nhiệm ánh sáng trổi vượt hơn cả là biến cố Hiển dung, mà truyền thống tin là đã xảy ra trên núi Tabo. Vinh quang Thiên Chúa chói ngời trên dung nhan Đức Kitô trong khi Chúa Cha truyền lệnh cho các tông đồ đang kinh hãi phải nghe lời Người (xc. Lc 9,35) và chuẩn bị cho họ cùng với Người kinh nghiệm nỗi thống khổ trong cuộc Khổ nạn, để đến với Người trong niềm vui phục sinh và trong cuộc sống được biến hình nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm ánh sáng cuối cùng là việc thiết lập bí tích Thánh Thể, qua đó Đức Kitô trao ban mình và máu Người dưới hình bánh và rượu, và khẳng định Người yêu thương nhân loại cho đến cùng (Ga 13,1), Người sẽ hi sinh hiến mình để cứu chuộc nhân loại.
Trong các mầu nhiệm này, ngoại trừ phép lạ Cana, sự hiện diện của Đức Maria là ở hậu cảnh. Các sách Tin Mừng chỉ nhắc đến sự hiện hiện tình cờ của Đức Maria lúc này lúc nọ trong cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu (xc. Mc 3,31-35; Ga 2,12), và không đưa ra chỉ dẫn nào cho thấy Mẹ hiện diện trong Bữa Tiệc Ly hay trong thời điểm thiết lập bí tích Thánh Thể. Tuy nhiên, vai trò Mẹ đảm nhận trong tiệc cưới Cana cách nào đó đã đồng hành với Đức Kitô suốt sứ vụ của Người. Mặc khải do Chúa Cha ban trực tiếp trong biến cố Phép rửa tại sông Giođan và được Gioan Tẩy Giả làm vang vọng, được đặt trên môi miệng của Đức Maria tại tiệc cưới Cana, và nó trở thành lời khuyên từ mẫu quan trọng nhất mà Đức Maria gởi đến Giáo Hội ở mọi thời đại: Hãy làm điều Người dạy bảo (Ga 2,5). Lời khuyên này là một lời giới thiệu rất thích hợp về những lời và dấu chỉ trong sứ vụ công khai của Đức Kitô và hình thành nền tảng Thánh Mẫu học của mỗi một mầu nhiệm ánh sáng.
Các mầu nhiệm Thương
Số 22. Các sách Tin Mừng đặt để một tầm quan trọng lớn cho các mầu nhiệm thương khó của Đức Kitô. Từ khởi đầu, lòng đạo đức Kitô giáo, đặc biệt trong Mùa Chay qua việc thực hành Đường Thánh Giá, đã dừng lại ở mỗi giai đoạn của cuộc khổ nạn, nhận thức rằng cao điểm của mặc khải về tình yêu Thiên Chúa và nguồn mạch ơn cứu độ được tìm thấy nơi đó. Kinh Mân Côi chọn lựa một vài giai đoạn của cuộc khổ nạn, để mời gọi các tín hữu chiêm ngưỡng trong tâm hồn và sống lại thời điểm ấy. Giòng suy niệm mở đầu với biến cố vườn Cây dầu, nơi đó Đức Kitô kinh nghiệm sự sầu não khi đối diện với thánh ý Thiên Chúa, khi mà tính yếu đuối của xác thịt bị cám dỗ muốn chống lại. Nơi đó Đức Giêsu gặp phải mọi cơn cám dỗ và đối diện với mọi thứ tội của nhân loại, để thốt lên với Chúa Cha: Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha (Lc 22,42). Tiếng Xin vâng của Đức Kitô đối lại với tiếng Không của tổ tiên chúng ta trong vườn Địa đàng. Và cái giá của sự trung thành với thánh ý Chúa Cha tỏ lộ trong các mầu nhiệm tiếp theo; qua việc đánh đòn, đội mão gai, vác thập giá và chết trên thập giá, Chúa đã bị gục ngã trong những đau khổ hèn hạ nhất: Ecce homo!
Sự đau khổ hèn hạ đó mặc khải không những tình yêu Thiên Chúa nhưng còn ý nghĩa của chính con người nữa.
Ecce homo: ý nghĩa, nguồn gốc và sự hoàn thành của con người được tìm thấy trong Đức Kitô, vị Thiên Chúa vì yêu thương đã hạ mình cho đến chết, chết trên thập giá (Pl 2,8). Các sự thương giúp người tín hữu sống lại cái chết của Đức Giêsu, đứng dưới chân Thánh Giá bên cạnh Đức Maria, cùng với Mẹ tiến vào chiều sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người và kinh nghiệm năng lực trao ban sự sống của nó.
Các mầu nhiệm Mừng
Số 23. Việc chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Kitô không thể dừng lại ở hình ảnh của Đấng chịu đóng đinh. Người là Đấng đã sống lại! Kinh Mân Côi đã luôn diễn tả sự hiểu biết phát sinh từ đức tin này và mời gọi người tín hữu vượt lên trên bóng tối của cuộc khổ nạn để chiêm ngắm vinh quang của Đức Kitô trong mầu nhiệm sống lại và lên trời. Khi chiêm ngưỡng Đấng Phục Sinh, người Kitô hữu tái khám phá lý do của niềm tin (xc. 1 Cr 15,14) và sống lại niềm vui không chỉ của những người được Đức Kitô hiện ra -Các Tông đồ, Bà Maria Mađalêna và các môn đệ trên đường về làng Emmau- nhưng cả niềm vui của Đức Maria nữa, đấng đã có một kinh nghiệm không kém mãnh liệt về đời sống mới của người Con vinh quang của ngài. Trong mầu nhiệm lên trời, Đức Kitô đã được nâng lên ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang, trong khi chính Đức Maria sẽ được nâng lên trong cùng một vinh quang ấy qua biến cố mông triệu, để hưởng trước, do bởi một đặc ân duy nhất, định mệnh được dành cho mọi người công chính khi sống lại từ cõi chết. Đội mão triều thiên trong vinh quang - như Mẹ xuất hiện trong mầu nhiệm vinh quang cuối cùng - Đức Maria toả sáng như Nữ Hoàng của các Thiên Thần và các Thánh, sự hưởng trước và sự thực hiện hoàn hảo nhất của trạng thái cánh chung của Giáo Hội.
Ở trung tâm của chuỗi biến cố vinh quang của người Con và người Mẹ, Kinh Mân Côi đặt trước chúng ta mầu nhiệm vinh quang thứ ba, lễ Hiện xuống, nó tỏ lộ dung nhan của Giáo Hội như một gia đình tụ họp cùng với Đức Maria, tràn đầy sức sống nhờ sự tuôn đổ sức mạnh của Thần Khí và sẵn sàng chu toàn sứ vụ truyền giáo. Việc chiêm ngưỡng hoạt cảnh này, cũng như các sự mừng khác, phải dẫn đưa các tín hữu đến việc quý trọng hơn nữa đời sống mới trong Đức Kitô, được sống trong lòng Giáo Hội, một đời sống mà hoạt cảnh Hiện xuống là hình tượng tuyệt vời nhất. Vì thế, các sự mừng dẫn đưa các tín hữu đến niềm hi vọng mạnh mẽ hơn về mục tiêu cánh chung, họ hành trình tiến về đó như thành viên của Dân Thiên Chúa đang lữ hành trong lịch sử. Điều đó không thể không thúc đẩy họ can đảm làm chứng về Tin Mừng đã đem lại ý nghĩa cho toàn thể cuộc đời họ.
Từ các mầu nhiệm đến mầu nhiệm: con đường của Đức Maria
Số 24. Chu kỳ suy niệm mà Kinh Rất Thánh Mân Côi đề nghị không thể nào bao gồm hết mọi khía cạnh, nhưng nó nhắc lại những điều cốt yếu và gợi lên trong linh hồn một sự khao khát Đức Kitô luôn được nuôi dưỡng từ nguồn mạch tinh trong của Tin Mừng. Mọi biến cố riêng lẻ trong cuộc đời Đức Kitô, như được các tác giả sách Tin Mừng tường thuật lại, đều chói lọi với Mầu nhiệm vượt quá mọi hiểu biết (xc. Ep 3,19): Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, nơi Người tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể (Cl 2,9). Vì lý do ấy, sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo nhấn mạnh nhiều đến các mầu nhiệm Đức Kitô, khi nhắc lại rằng mọi sự trong cuộc đời Đức Giêsu đều là dấu chỉ của Mầu nhiệm của Người. Việc chèo ra chỗ sâu của Giáo Hội của ngàn năm thứ ba sẽ được đánh giá bởi khả năng của người Kitô hữu tiến vào sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Kitô, trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết (Cl 2,2-3). Thư gởi tín hữu Êphêsô dâng lời cầu nguyện chân thành này cho mọi người chịu phép Thánh Tẩy: Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể các thánh, anh em đủ sức nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa (3,17-19).
Kinh Mân Côi nhắm phục vụ lý tưởng ấy; nó trao ban bí mật dễ thực hiện để dẫn đến một sự hiểu biết sâu xa và nội tâm về Đức Kitô. Chúng ta có thể gọi đó là con đường của Đức Maria. Đó là con đường của mẫu gương Đức Nữ Trinh Nadarét, một người phụ nữ của lòng tin, của thinh lặng, của lắng nghe chăm chú. Đó cũng là con đường của lòng sùng kính Đức Maria, được khuyên hứng bởi sự hiểu biết về mối giây không thể phân ly giữa Đức Kitô và Mẹ thánh Người: các mầu nhiệm của Đức Kitô theo một nghĩa nào đó cũng là các mầu nhiệm của Mẹ Người, ngay cả khi chúng không dính dáng Mẹ cách trực tiếp, bởi vì Mẹ sống bởi Người và qua Người. Khi xem những lời của Thiên Thần Gabriel và Bà Êlisabét trong Kinh Kính Mừng như của chúng ta, chúng ta cảm thấy luôn bị lôi kéo tìm kiếm cách luôn mới mẻ nơi Đức Maria, trong vòng tay và trong con tim của Mẹ, hoa quả được chúc phúc của lòng Bà (xc. Lc 1,42).
(Đức Gioan Phaolô II, Rosarium Virginis Mariae).
 
2. TRUYỆN TÍCH

NhỮng Phép LẠ

Thánh Louis Marie Grignion de Montfort
 Trong khi thánh Đa Minh đang rao giảng Kinh Mân Côi ở Carcassone, có một người rối đạo chế diễu các phép lạ và 15 mầu nhiệm Mân Côi, làm cho những kẻ lạc đạo khác không trở về cùng Chúa được. Hình phạt mà thân xác của người đó bị là Thiên Chúa đã để cho 15 ngàn quỉ nhập vào.
Cha mẹ của hắn đem hắn đến cho thánh Đa Minh để xin ngài trừ quỉ cho. Thánh Nhân bắt đầu cầu nguyện và xin mọi người ở đó cùng đọc Kinh Mân Côi lớn tiếng với ngài. Thế rồi, cứ một Kinh Kính Mừng đọc lên thì Đức Mẹ trừ cho hắn 100 tên quỉ, chúng xuất ra khỏi thân xác người đó, hình thù như những cục than nung đỏ.
Sau khi được giải cứu, người đó thề từ bỏ lỗi lầm trước kia, trở lại và gia nhập Hiệp Hội Mân Côi. Một số bạn hữu của người đó cũng bắt chước theo, vì xúc động trước hình phạt người đó phải chịu và quyền phép của Kinh Mân Côi.
Carthagena, một học giả dòng Phanxicô, cũng như một số tác giả khác, có thuật lại một biến cố phi thường xẩy ra vào năm 1482. Đó là, đấng đáng kính James Sprenger và các tu sĩ khác trong dòng của ngài bấy giờ đang hăng say thiết lập việc tôn sùng Kinh Mân Côi và gầy dựng Hiệp Hội Mân Côi ở thành Cologne.
Chẳng may gặp hai linh mục có biệt tài giảng tỏ ra ghen tị với các ngài về ảnh hưởng mà các ngài đã chiếm được qua việc rao giảng Kinh Mân Côi. Thế là, hễ có dịp, hai vị linh mục bao giờ cũng nói chống báng việc tôn sùng này. Nhờ tài giảng và thế giá của mình, hai vị đã chinh phục được nhiều người bỏ ý định gia nhập Hiệp Hội Mân Côi.
Một trong hai vị, thề quyết đạt cho bằng được ý định đen tối của mình, đã viết một bài giảng đặc biệt chống lại Kinh Mân Côi, tính tung ra vào Chúa Nhật sau đó. Thế nhưng, đến giờ giảng, không ai thấy vị linh mục ấy đâu cả. Chờ đợi một hồi, có người đi tìm vị linh mục ấy thì thấy vị linh mục này đã chết, chết tiu nghỉu một mình, không được ai giúp đỡ, cũng không được gặp linh mục gì cả.
Vị linh mục còn lại, sau khi trấn an mình là cái chết của vị linh mục kia xẩy ra bởi nguyên do tự nhiên mà ra, đã quyết định tiếp tục chương trình của vị linh mục đồng bạn với mình, và sẽ giảng một bài giảng tương tự vào một ngày khác. Vị linh mục này nghĩ là làm như thế mới có thể dứt điểm Hiệp Hội Mân Côi được. Tuy nhiên, khi đến ngày giảng và đến lúc phải giảng, Chúa đã phạt vị linh mục này bị tê liệt cả tứ chi lẫn khả năng phát biểu bằng miệng lưỡi.
Sau cùng, vị linh mục ấy đã thú nhận tội lỗi của mình cũng như của vị linh mục đồng bạn, rồi, với tất cả tấm lòng, ngài liền âm thầm kêu cầu Đức Mẹ cứu giúp mình. Ngài hứa với Đức Mẹ là nếu Mẹ chữa ngài khỏi, ngài sẽ rao giảng Kinh Mân Côi nhiệt thành, như xưa ngài đã hung hăng chống lại Kinh Mân Côi vậy. Với ý nguyện đó, ngài van nài Đức Mẹ cho ngài hồi phục sức khoẻ và miệng lưỡi, quả nhiên Đức Mẹ đã làm. Trong chốc lát, vị linh mục thấy mình hoàn toàn hồi phục. Như một Saolê khác, ngài đã chỗi dậy, từ một kẻ bắt bớ trở thành người bảo vệ Kinh Mân Côi. Ngài công khai thú nhận lỗi lầm trước kia của mình, và sau đó, với tất cả lòng nhiệt thành và tài lợi khẩu của mình, ngài đã không ngừng rao giảng về những kỳ diệu của Kinh Mân Côi.
Tôi dám chắc là những nhà tư tưởng phóng khoáng và những nhà phê bình chuyên môn ngày nay sẽ đặt vấn nạn về sự thật của những câu truyện trong tập sách nhỏ này, cũng giống hệt như việc họ hằng đặt vấn đề với hết mọi sự khác. Tất cả những gì tôi đã đề cập đều được trích dẫn từ các nhà trước tác nổi tiếng đương thời, và một phần từ cuốn sách mới được viết cách đây ít lâu, đó là cuốn “Hồng Thảo Diệu Huyền” của cha Antonin Thomas, OP.
Ai cũng biết rằng có 3 thứ tin tưởng vào các loại truyện khác nhau:
Những câu truyện trong Thánh Kinh chúng ta phải tin bằng Đức Tin Thần Linh;
Những câu truyện liên quan đến những vấn đề ngoài tôn giáo mà không phản lại với ý nghĩ chung của mọi người, được viết bởi những tác giả đáng tin, chúng ta có thể tin bằng đức tin nhân loại;
Những câu truyện về những điều thánh thiện, được kể bởi các tác giả tốt lành và không lệch lạc tí nào với lý trí, với đức tin và luân lý, (cho dù đôi khi chúng có thể xẩy ra vượt trên những hiện tượng tự nhiên), chúng ta có thể tin bằng đức tin đạo đức.
Đồng ý rằng chúng ta không được cả tin hay cả phán, và phải nhớ rằng “nhân đức ở chỗ trung dung”, cần phải nhắm trung điểm của mọi sự để tìm ra vị trí của sự thật và nhân đức. Tuy nhiên, về phương diện khác, đồng thời tôi cũng biết rõ đức ái dễ đưa chúng ta đến sự tin tưởng vào tất cả mọi sự không có gì ngược lại với đức tin và luân lý: “Đức ái... tin mọi sự” (1Cr 13,7). Từ đó suy ra, kiêu ngạo xúi chúng ta hồ nghi ngay cả những truyện đáng tin nhất, lấy lý rằng những truyện đó không có trong Thánh Kinh.
Đây là một trong những cạm bẫy của ma quỉ. Những người lạc đạo trong quá khứ từ chối Thánh Truyền đã rơi vào cạm bẫy này, và những người cả phán hiện thời cũng bị bẫy như vậy mà không biết.
Những loại người này từ chối tin điều mà họ không hiểu hay điều mà họ không thích, là do tinh thần ngạo mạn và bất phục tùng của họ.
(Bí Mật Kinh Mân Côi - Bông Hồng 10).
 
Ghi chú trích dẫn:
1/ Tin Mừng: Bản dịch Lời Chúa của Uỷ Ban Phụng Vụ, HĐGMVN.
2/ Suy niệm Tin Mừng và cầu nguyện: Nữ Đan Viện Đa Minh.
3/ Thánh Louis Marie Grignion de Montfort, Bí Mật Kinh Mân Côi (Le Secret admirable du très saint Rosaire); bản dịch tiếng Việt của Đa Minh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL.
4/ Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria (Rosarium Virginis Mariae), 16/10/2010, bản dịch tiếng Việt của Lm. Gioan Phan Du Sinh, OFM.
 
KINH MÂN CÔI DÒNG ĐA MINH VIỆT NAM
Đặc trách
Tu sĩ FX. Trần Kim Ngọc, OP.
Email:
kinhmancoi.net@gmail.com
ĐT: 0988560042 (+84. 988560042)
Website:
http://kinhmancoi.net  
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn