1
16:07 +07 Thứ năm, 25/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 64

Máy chủ tìm kiếm : 2

Khách viếng thăm : 62


Hôm nayHôm nay : 13953

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 276639

Tổng cộngTổng cộng : 27830923

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » NĂM MỤC VỤ GIA ĐÌNH

Suy niệm các ngày trong Tuần thánh 2016: Năm Thánh Đặc Biệt

Thứ sáu - 18/03/2016 09:36-Đã xem: 2464
Lạy Chúa, khi chiêm ngắm thân mình Chúa chịu treo trên Thập giá, chúng con hiểu rằng Chúa muốn trao ban cho chúng con trọn vẹn tình yêu của Chúa. Chúa đã không giữ lại cho Mình, dù là một chút nước và máu trong con tim và ngay cả tấm thân lành lặn. Xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa mỗi lần ngắm nhìn lên thập gía. Xin đừng để chúng con trở thành kẻ vô ơn, khi không biết sống xứng đáng với những ân huệ thiêng liêng mà Chúa đã trao ban qua mầu nhiệm thập gía của Chúa. Amen.
Suy niệm các ngày trong Tuần thánh 2016: Năm Thánh Đặc Biệt

Suy niệm các ngày trong Tuần thánh 2016: Năm Thánh Đặc Biệt

SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT LỄ LÁ
Bi kịch của Thập Giá
A. PHƯƠNG TIỆN CỦA TỘI ÁC:
1. Tiền bạc
Tiền bạc đã làm cho một Giuđa trở thành kẻ hư hỏng, “kẻ bán đứng” Thầy mình, khi mà nó đóng vai “ông chủ”. Lịch sử đổ vỡ của con người, của các chế độ xã hội đã từng phải trải qua những bài học đắt gía khi tiền bạc trở thành mục tiêu cho những vụ “đục khóet”công quỹ, bòn rút, hối lộ, tham nhũng. Mánh lới của ma quỷ luôn có những tác dụng rất tích cực trong việc làm băng họai con người nhờ tiền bạc. Lòng tham của con người luôn là “chiếc thùng không đáy”. Ai trong chúng ta cũng thích tiền bạc, và tính ích kỷ sẽ “làm biến chất” con người “Nó tìm dịp thuận tiện để nộp Người”
Ca dao tục ngữ vẫn còn đó: “Còn tiền còn bạc còn đệ tử, hết tiền hết bạc hết ông tôi”

2. Bỏ vạ, cáo gian, chụp mũ “đồ phản động”
Con người thường lọai trừ nhau bằng những “lời vu khống”, nói xấu, thêm bớt..
Ngay cả những con người được mệnh danh là “mẫu nghi”của xã hội Do Thái: luật sĩ, tiến sĩ, biệt phái. . cũng không thóat khỏi “cái thói tầm thường” đó của con người.
Bỏ vạ, cáo gian, mánh khóe, thủ đọan…tất cả không hề thiếu trong việc kết tội Chúa.
“Lưỡi không xương nhiều đường lắc léo”
“Chụp mũ”: mánh khóe của hạng tiểu nhân thường dùng ở mọi thời đại.
Tiền bạc, đàn bà, chính trị : đó chính là “những điểm hết sức nhạy cảm”mà con người thường dùng để hạ bệ nhau. Để kết án Chúa, người Do Thái vu khống Chúa về tội âm mưu làm phản. Họ không thể bắt bẻ Chúa về yếu tố : đàn bà và tiền bạc được. Tâm lý con người thường thích nghe những điều xấu (thường ở nơi bóng tối hoặc ở nơi bí mật !) làm những điều ngược chứ không thích bênh vực cho cái tốt, nhất là những điều đó không có lợi cho mình.

3.Tha Baraba, giết Giêsu!
Con người thường thích hướng chiều về sự dữ, bênh vực cho tội ác. Chuẩn mực đạo đức của con người ngày càng hư hỏng, xuống cấp. Không ai muốn đứng lên bênh vực sự thật chỉ vì “sợ bị liên lụy”, “sợ bị phiền tóai”, “sợ bị quấy rầy”. Khi tội ác lên ngôi, lương tâm trở thành món hàng rẻ mạt.

4. Người ta vẫn thường bảo  “bạc như dân, bất nhân như lính, ”
Yếu tố dân chúng là yếu tố “bấp bênh nhất” “tráo trở nhất” “vô ơn nhất”
Sự thật rất phũ phàng, khi mà trước đó, chưa lâu, dân chúng được ăn uống thỏa thích, chứng kiến bao phép lạ nhãn tiền. . Nhưng rồi, cũng chính họ lại hô to khi bị người khác xách động, xúi giục “Hãy đóng đinh nó vào thập gía” “Máu Nó đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi”. Miệng lưỡi thế gian, tâm địa độc ác của con người là những “nhân chứng lừa gạt, kẻ hai mang”.Thật đau đớn và ê chề cho lòng người tráo trở.

B. TÌNH THƯƠNG THIÊN CHÚA:
1. Trung tín đến cùng và không lọai trừ ai, kể cả kẻ ác nhân và người vô ơn.
Chắc chúng ta không thể nào tìm thấy được ở đâu sự thủy chung, lòng trung tín, tình thương đến “cuồng dại” ngọai trừ Chúa. Trong tình thương của Ngài, không có ranh giới của kẻ thù và “người nhà”, luôn “đủ chỗ” cho mọi người, không phân biệt và lọai trừ. Mặc cho tội lỗi con người “đỏ thẫm như máu”nhưng lòng nhân hậu của Chúa còn siêu vượt trên tất cả.

2. Tha thứ tất cả, yêu thương tất cả.
Trong tình thương của Chúa, không có từ ngữ “lọai trừ”, chấp nhất hoặc “để bụng” “Ngài chậm giận, giận trong giây lát, nhưng thương yêu suốt cả một đời”.Nơi trái tim, từ vết thương rộng mở, Ngài muốn đón nhận tất cả mọi người biết thành tâm thống hối và mau mắn trở lại với Ngài. Mọi người đều “ có chỗ” trong tình thương của Thiên Chúa, rất riêng và trọn vẹn.
 
3. Mang lại hiệu qủa là ơn cứu độ, hạnh phúc đời đời cho con người.
“Ai đến với Ta, sẽ có sự sống đời đời” Không ai trên đời, không hãng bảo hiểm trần gian nào dám cả quyết và ban cho con người sự bảo đảm tuyệt đối đó. Nơi Chúa, con người có được sự bảo đảm tuyệt đối cho chính sự tồn tại và hạnh phúc thực sự của mình. Nơi Ngài con người có được sự an tòan tuyệt đối, thứ mà trần gian không thể trao tặng được.

C. VIỄN ẢNH CUỘC ĐỜI:
1. Thiên Chúa mãi mãi chờ đợi con người trở lại với tình thương của Ngài.
Thiên Chúa, có một cái gì đó thật khác biệt, rất đặc biệt, “trên cả tuyệt vời” như tình thương một người cha trong Tin Mừng chờ đón đứa con thứ vong ân, bạc nghĩa, trác táng trở về. Ngài yêu thương và tha thứ tất cả mà không cần phải “xét lý lịch” ngỗ nghịch và đầy bất trắc của riêng ai “Chúng ta ăn mừng vì con Ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy” (Lc, 15, 1-32)
Xin cho mỗi người chúng ta đừng là “kẻ bạc tình”
Xin cho mỗi người chúng ta đừng là “kẻ vô ơn”
Xin cho mỗi người chúng ta đừng “là kẻ đứng ngòai, lạc lòai, bị xua đuổi”

2. Những kinh nghiệm “thật người” trong bi kịch thập gía để lại cho chúng ta những bài học cũng “thật người”:
Con người không phải là “chỗ dựa an tòan”, ngay cả đối với những người “thân thiết nhất” Những cơn cám dỗ của ma quỷ ngày xưa, hôm nay cũng vẫn luôn là sức mạnh vô song để lôi kéo con người sa ngã, sống xa Chúa, quay lưng lại với tình thương của Chúa. Tiền bạc, danh vọng, lợi lộc.. tất cả chỉ cung cấp cho con người “thiên đàng ảo” và mãi mãi vẫn thế, không thể đem lại hạnh phúc đời đời. “Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu rỗi”(Gioan 3, 14-21). Hãy tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa, chúng ta có tất cả.

Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, thật buồn cho Chúa khi một mình Chúa cô độc đối đầu với tất cả “sự bỉ ổi”, những trò “ma mãnh” của lòng người chúng con. Thập giá, ngoài hình khổ của một tên tử tội, nay còn mang cả sự hổ thẹn, nỗi nhục và vong ân của con người. Bi kịch thập gía vẫn còn đó, đã và đang tiếp diễn mãi trong cuộc đời con người chúng con. Khi mà những mối quan hệ giữa người với người đang bị chà đạp, ức hiếp, nô lệ cho đồng tiền, tích ích kỷ, sự tráo trở, thói lăng lòan đang làm đảo điên tất cả lòng người chúng con. Là người, chúng con đang phải đối đầu với tất cả những sự thật buồn thảm đó. Xin hãy giúp chúng con vượt qua, cùng với Chúa vác thập gía mình hằng ngày, từ bỏ mình hằng ngày, để có thể đi trọn con đường thập gía với Chúa, để cùng được đóng đinh và phục sinh với Chúa. Amen.
Lm. Gioan B. Phan Kế Sự
 
 
SUY NIỆM TUẦN THÁNH 2011
THỨ HAI TUẦN THÁNH

 
Lời Chúa : “Sao không bán dầu thơm đó lấy 300 đồng mà cho người nghèo khó”
(Ga 12, 1-11)
Suy niệm :
Khi người ta chỉ nghĩ đến mình và khép kín trong vỏ ốc ích kỷ, họ dễ trở nên mù quáng ngay trong chính suy tưởng và hành động của mình.
Giuđa đã trở nên mù quáng vì tính tham lam tiền bạc. Ông tỏ ra thương người nghèo nhưng bên trong đầy tính toán vụ lợi ích kỷ. Ông không cưỡng lại được sức quyến rũ của tiền bạc nên đã trở thành kẻ biển lận, bần tiện và tiểu nhân.Bên ngoài ông tỏ ra thương người với một khuôn mặt nhân ái , nhưng bên trong lại che giấu cả một tấm lòng ghen ghét đố kỵ. Ông chỉ biết phục vụ chính mình thay vì phục vụ Chúa và tha nhân để rồi ông đã trở thành kẻ mù quáng, phản bội ngay cả chính Thầy mình.
Bước vào tuần thánh, mỗi người chúng ta được mời gọi đi vào con đường thập gía của Chúa Giêsu.
·  Đi lại con đường thập gía của Chúa để mỗi người biết cố gắng thoát ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của chính mình để sẵn sàng quảng đại quên mình phục vụ tha nhân.
·  Đi lại con đường thập gía của Chúa để giúp mỗi người trong chúng ta đoạn tuyệt những đam mê tội lỗi, những ham muốn thế trần, để biết chọn Chúa làm gia nghiệp vĩnh hằng cho đời mình.
·  Đi lại con đường thập gía của Chúa mỗi ngày là cố gắng từ bỏ chính mình để vươn lên và tiến tới đỉnh cao của sự tận hiến trọn vẹn cho tình yêu Đức Kitô.
·  Và trong ánh sáng phục sinh, chúng ta sẽ thoát ra khỏi sự mù quáng tăm tối của sự chết, để đón nhận đời sống mới trong Đấng Phục Sinh.

Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, lòng tham của con người vẫn được ví như “chiếc thùng rỗng đáy”. Người ta sẵn sàng lạm dụng và nhân danh tất cả, kể cả lòng nhân ái và ngay cả vinh danh Chúa để thu lợi, củng cố địa vị cho mình. Còn việc lo cho anh em, phải chia sẻ với anh em, thì con người lại thích “phân tích, mổ xẻ, bới móc” hầu “chí công vô tư”, nhằm thu nhập thêm lợi nhuận cho mình . Thật bỉ ổi và trơ trẽn cho lòng tốt của con người khi đối xử với nhau! . Xin hãy đóng đanh tính ích kỷ, vụ lợi của chúng con vào thập gía của Chúa, để chúng con biết sống quảng đại chia sẻ với anh em mình. Amen.

 
THỨ BA TUẦN THÁNH
Lời Chúa: “Một người trong các con sẽ nộp Thầy…Thưa Thầy, ai vậy?”
(Ga 13, 21-33. 36-38)
Suy niệm:
“Không phải tôi!Ai vậy ?”  Đó là điệp khúc, “bài ca muôn thuở không bao giờ quên” mà con người thường đưa ra để chống chế cho mình hoặc để tránh né trách nhiệm.

Trước câu tuyên bố của Chúa Giêsu về việc một người trong nhóm sẽ nộp Ngài, các môn đệ đã vội tìm xem ai là kẻ phản bội đáng lên án đó. Những kẻ nghĩ mình vô tội đang cố tìm ra kẻ có tội. Chính Phêrô đã nhanh nhẩu tìm cho ra kẻ tán tận lương tâm đó và khẳng khái xác quyết với Chúa về lòng trung thành sẵn sàng sống chết với Thầy của mình. Nhưng rồi sau đó ai cũng biết sự việc Phêrô chối Thầy, đúng như lời Chúa đã cảnh báo. Còn về phần Giuđa, đáng lẽ những lời đánh động của Chúa Giêsu phải là cơ hội cuối cùng để ông biết dừng lại thái độ phản bội, nhưng ông vẫn dửng dưng như nói đến ai chứ không phải là mình. Bề ngoài ông phớt tỉnh như không biết, khiến cho anh em không chút nghi ngờ , tưởng ông đi làm nhiệm vụ gì đó do Chúa dặn dò, nhưng  không ngờ rằng ông ra đi thực hiện toan tính bán nộp Thầy mình.
    
Từ một em thiếu nhi phạm một lỗi nhỏ ,cho đến một người lớn trưởng thành, tất cả  đều đưa ra câu trả lời : “ Không phải tôi! Ai vậy ?”. Có rất ít người biết thành tâm nhận lỗi. Việc từ chối không nhận lỗi đã trở thành quá quen thuộc, “không có gì là ồn ào,chuyện nhỏ”, nhất là “không chết chóc cho ai cả”, ngoại trừ chính mình.
· “Không phải tôi” điệp khúc được lặp lại mỗi lần chúng con phủi tay, đổ vấy trách nhiệm cho anh em của mình, và không hề mảy may áy náy hay cảm thấy xấu hổ vì những việc làm tắc trách, gây thiệt hại cho xã hội hay anh em mình.
·  “Không phải tôi” là hành động đưa tay đấm ngực người khi miệng chúng con hằng ngày không ngớt đọc kinh cáo mình “lỗi tại tôi mọi đàng”. Thật xấu hổ và trơ trẽn cho những con người “tán tận lương tâm” lợi dụng “cái ghế” của mình để kết án, lọc lừa, bóp cổ anh em, mà cứ “gỉa điếc làm ngơ” như mình là người trong sạch và vô tội.
·  “Không phải tôi” là chuyện hằng ngày xảy ra trong mọi cảnh vực xã hội, gia đình khi mà đạo đức con người ngày càng xuống cấp, khi cái ác đang thắng thế, và người lương thiện chịu thiệt thòi.
Đối diện với Lời Chúa, mỗi người phải khiêm nhường xét lại mình. Trước những sai phạm của người khác, thái độ khôn ngoan cũng là nhìn lại mình trước hết để cảnh giác kẻo lại rơi vào hố sâu tội lỗi .Cần đấm ngực mình trước khi đấm ngực người khác, đó là lời mời gọi của Mùa Chay Thánh.

Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, thật khó mà giơ tay lên để đấm ngực mình khi chúng con mắc lầm lỗi. Thường chúng con sẽ tìm mọi cách, tìm đủ lí do để “chạy tội”, bào chữa cho mình, thậm chí tìm cách đổ vấy cho người khác. Và đó chính là môi trường thuận tiện cho mọi hành vi gian ác, tham nhũng, làm đảo lộn đạo đức ở đời. Xin giúp chúng con biết khiêm tốn và thẳng thắn nhận ra lầm lỗi của mình, để sám hối ăn năn, đổi mới cuộc sống, để đáng được ơn tha thứ và có cơ hội đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Amen.
Lm. Gioan B. Phan Kế Sự
 
THỨ TƯ TUẦN THÁNH
Lời Chúa: “Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy”
(Mt 26, 14-25)
Suy niệm:
Giuđa Iscariôt thường được coi là biểu tượng cho sự phản bội.
   
Trên đời có lắm dạng phản bội: vợ chồng phản bội nhau, cha mẹ đánh lừa con cái, con cái dối gạt cha mẹ, bạn bè sống không thật lòng, bạn hàng lừa đảo, xù nợ.Giuđa Iscariôt đã dùng chính ân huệ Thầy ban cho để làm hại Thầy. Giuđa đã lợi dụng sự thân quen với Chúa để làm hại Chúa. Giuđa đã bán sự hiểu biết, bán sự thân nghĩa với Chúa Giêsu để lấy 30 đồng bạc. Tiền bạc đã làm mờ tâm trí khiến Giuđa không còn nhận ra sự đáng quí, đáng yêu nơi thầy Giêsu. Ông đánh giá Chúa bằng giá mua một người nô lệ! Người đời có thật nhiều danh ngôn tục ngữ nói về tiền bạc
· “Đồng tiền đâm toạc tờ giấy! ”Tráo trở, lật lọng, gian lận.“Tất tận cả” đều đến từ những đồng tiền bẩn thỉu và gian ác.Chân lí bao giờ cũng đứng về phía người có tiền có bạc “Miệng người giầu có gang có thép” hoặc “mạnh vì gạo, bạo vì tiền” là thế. Mặt trái của đống tiền là “bạc! ”
· “Tiền bạc là tiên là phật! ”. Hơn bao giờ hết, với nền kinh tế thị trường hiện tại, đồng tiền thống lãnh mọi lãnh vực , từ nhân đạo cho đến kinh tế, từ chính trị cho đến mọi hình thức ngoại giao. Đồng tiền trở thành “kẻ thống soái”, “kẻ mạnh”để có thể biến “lũng nên đồi”, từ “con vịt xấu xí nên con thiên nga tuyệt mỹ”. Đồng tiền đã trở “thành tiên thành phật”, như một thứ thần mà từ già đến trẻ ai cũng muốn sở hữu . “Tiền bạc là sức khoẻ của tuổi già, sức bật của tuổi trẻ, nấc thang của danh vọng”. Có được đồng tiền trong tay, ai thấy cũng đều ham. Và chắc chắn Chúa sẽ không còn chỗ đứng để chen chân trong tâm hồn những con người tham lam, chất đầy tiền của. “Không ai có thể vừa làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”là thế !
· “Thấy tiền tối mắt lại! ”. Đồng tiền có một sức mạnh vượt bậc. Một khi nó là “ông chủ”, nó sẽ khiến cho con mắt chúng ta tối sầm lại và biến chúng ta trở thành “kẻ nô lệ”. Với sức mạnh của nó, đồng tiền sẽ “đốt cháy” lương tri, khiến người ta có thể trở thành kẻ liều lĩnh để bán rẻ lương tâm, lòng đạo đức để trở thành kẻ bỉ ổi nhất. Sức mạnh của nó còn làm mờ, nếu không muốn nói, làm thui chột sự nhạy cảm của con tim, biến con người trở thành gỗ đá, kẻ xa lạ với chính anh em ruột thịt mình.

Chuyện Giuđa nhắc nhở ta đừng biến mình thành kẻ phản bội. Danh lợi thú đời này luôn là những cám dỗ thật ngọt ngào khiến con người phản bội nhau và phản bội Chúa. Danh dự, lợi lộc, niềm vui trần gian, trong mức độ nào đó, là động lực giúp con người thăng tiến. Nó chỉ trở thành nguy hiểm khi chúng ta coi chúng là mục đích cuộc đời. Chỉ có vinh danh Chúa, lợi lộc thiêng liêng và niềm vui trong Chúa mới là mục tiêu đích thực cho cuộc sống chúng ta. Đừng lạm dụng những ân huệ Chúa ban cho chúng ta như sức khỏe, sắc đẹp, tuổi đời, tài trí… mà làm những điều phiền lòng Chúa. Đừng bỉ ổi như Giuđa: phản thầy, phản bạn, phản cả Chúa là đại ân nhân đời mình.

Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, sống trên đời “không tiền không bạc” thật khó sống. Tiền bạc trong lịch sử con người, chỉ là một thứ phương tiện để trao đổi, buôn bán; nhưng với thế hệ con người chúng con hôm nay, đã trở thành một thứ thần tượng, là một thứ “cân đo đong đếm” cho mọi gía trị ở đời, cho cả chỗ đứng trong xã hội . Con người chúng con đã “quỳ xuống để bái lạy ma quỷ” hầu mong có tất cả. Chúng con đã đánh mất chính mình để tình nguyện làm kẻ nô lệ cho tiền bạc. Xin giúp chúng con tỉnh thức và biết dùng tiền của như là phương tiện giúp mình đạt được những gía trị thiêng liêng cao quí hơn. . Amen.


 
THỨ NĂM TUẦN THÁNH
Lời Chúa: “Ngài yêu thương họ đến cùng”(Ga 13, 1-15)
Suy niệm:
 “Yêu đến cùng” theo cách của Chúa Giêsu là trao ban tất cả, tận hiến tất cả,đến cả mạng sống mình.

 Đó là một tình yêu vô vị lợi, không chút tính toán , không mảy may vụ lợi, không ngần ngại quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ . Chúa Giêsu đã yêu thương con người đến cùng, nên đã cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ : “Này là Mình Thầy” : Đó là tình yêu tự hiến, hy sinh chính mình để cho nhân loại được sống. Chúa Giêsu yêu thương đến cùng nên đã chấp nhận chịu chết đau thương trên thập giá : Đó là tình yêu cao cả, từ bỏ ý riêng hoàn toàn để thực hiện ý Chúa Cha. “Xin cất chén này xa Con, nhưng đừng vì ý Con, mà hoàn toàn tuân theo thánh ý Cha”. Như thế, yêu đến cùng là một tình yêu đích thực và đã làm nên những điều kỳ diệu.
 
· “Yêu đến cùng” là sống trọn vẹn, là “chơi xả láng”. Đó chính là từ ngữ mà Thánh Gioan Tông Đồ diễn tả về cách sống của Chúa Giêsu đối với các Môn Đệ của Mình và cho cả chúng ta. Tình yêu ấy muốn trao ban tất cả những gì là tốt đẹp, là thiện hảo nhất cho người mình yêu mến. Ngài đã không giữ lại cho mình cái gì, dù là cả sinh mạng. Ngài hiến thân để trở thành của lễ toàn hảo dâng lên Chúa Cha hầu mong cứu chuộc con người khỏi thần chết và sự dữ. Tình yêu ấy kêu mời chúng ta hãy biết thể hiện tình yêu cách trọn vẹn, không tính toán đối với anh em mình.
· “Yêu đến cùng” là quỳ gối xuống, trở thành kẻ tôi đòi, chấp nhận thân phận của một người phục vụ để cho mong cho anh em được lớn lên. “Không còn vẻ hình hài, dáng dấp oai phong” nhưng trở nên “Con chiên gánh tội trần gian”. Học chữ “yêu” của Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta sống quảng đại, sẵn sàng chia sẻ, chịu thua lỗ, để anh em mình “được lời”. Sống chữ “yêu” của Chúa, chúng ta hãy tập cho mình thái độ “cúi mình, uốn cong lưng xuống” để phục vụ và sống vì, sống cho anh em.
· “Yêu đến cùng” là chết để cho anh em mình sống. Chúa đã từng dạy và nêu gương cho tất cả chúng ta về một tình yêu tận hiến hoàn toàn. Ngài đã trở nên chiếc bánh cho mọi người ăn, trở nên máu cho mọi người uống. “Ngài hiến thân vì và cho tất cả chúng ta” bằng chính cái chết của mình. Và “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng người dám hiến thân vì người mình yêu”. Tình yêu của Chúa đã đi đến tuyệt đỉnh, để như hạt lúa bị chôn vùi, thối đi, để con người chúng ta có được mùa gặt bội thu.

Hôm nay, bắt chước thái độ “Yêu đến cùng” của Chúa, là chúng ta biết khiêm tốn phục vụ trong những điều nhỏ bé nhất một cách vô vị lợi. Yêu đến cùng là quảng đại dấn thân vì Tin Mừng, chấp nhận sống cảnh âm thầm, vô danh. Yêu đến cùng là sẵn sàng chấp nhận phần thiệt thòi để người khác được nhiều phần lợi hơn. Yêu đến cùng đòi hỏi quảng đại hy sinh theo gương Chúa Giêsu : chủ nhân  trở thành tôi tớ bằng cách tự nguyện phục vụ, Thiên Chúa trở thành “kẻ tội đồ” để mang lại sự sống cho kẻ tin. Yêu đến cùng không chỉ có tấm lòng nhưng là thể hiện tấm lòng bằng hành động cụ thể, nghĩa là không chỉ làm những việc từ thiện, mà làm việc bác ái với tấm lòng yêu thương chân thành và quảng đại.
 
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa “yêu đến cùng” của Chúa là giáo lý, là giới răn yêu thương mà Chúa đã rao giảng và đã sống. Cuộc sống và cả cuộc đời của Chúa là một hành trình của yêu thương, của cho đi: sống vì, sống cho tha nhân, mà chẳng nghĩ đến mình, ngay cả sinh mạng. Như hạt lúa được gieo vào lòng đất, Chúa hoàn toàn tự huỷ để cho con người chúng con được sống. Xin giúp chúng con biết sống cho nhau, vi lợi ích của nhau, để chúng con tiếp nối sứ mạng “yêu đến cùng” của Chúa. Amen.

 
LỄ TIỆC LY
“Giải nghĩa yêu”
Để nghe tơ liễu run trong gió
và để xem Trời giải nghĩa yêu”(Hàn Mặc Tử)
(Suy niệm thứ năm tuần thánh theo Tin Mừng Gioan 13, 1-15)
 
Người ta đề cập rất nhiều về tình yêu, nhưng có lẽ không mấy ai hiểu cho đúng tình yêu là gì.
Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu, người được xem là thi sĩ của tình yêu, có những cảm nhận rất tinh tế về tình yêu và tâm lý con người, nhưng cũng thú nhận là không thể giải nghĩa được tình yêu. Ông viết:
"Làm sao giải nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
bằng mây nhè nhẹ  gió hiu hiu."
Và khi con người không lý giải được tình yêu thì có lẽ phải viện tới Trời. Vì thế, Hàn Mặc Tử, một nhà thơ tài hoa công giáo, khuyên chúng ta - qua bài "Đà Lạt trăng mờ" - như sau:
"Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều, 
để nghe dưới đáy, nước hồ reo
để nghe tơ liễu run trong gió
và để xem Trời giải nghĩa yêu."
"Và để xem Trời giải nghĩa yêu!"  Đúng vậy, Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình Yêu là phẩm chất của Thiên Chúa nên chỉ có Thiên Chúa mới biết thế nào là yêu và chỉ có Ngài mới có đủ thẩm quyền để "giải nghĩa yêu".
           
Chúa Giê-su "giải nghĩa yêu" khi bày tỏ cho ông Ni-cô-đê-mô biết: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗiđã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16).
Chúa Giê-su cũng đã "giải nghĩa yêu" khi Nguời nói: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình." (Ga 15, 13)
Thế là ý nghĩa của tình yêu giờ đây đã được sáng tỏ: yêu thương là trao ban, là hy sinh, là cống hiến, là cho đi...
Thiên Chúa Cha yêu thương thế gian nên đã trao ban Người Con Một cho thế gian; Chúa Giê-su đã yêu thương thế gian nên Ngài đã hy sinh tính mạng cho thế gian.
Nhưng Chúa Giê-su không chỉ giải nghĩa yêu bằng những  lời hoa mĩ. Người thể hiện lòng yêu thương qua cuộc sống. Tin Mừng hôm nay cho biết rằng: "Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.. Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau." (Ga 13, 1.4-5).
 
Thế mới hiểu rằng:
Yêu là hạ mình làm tôi tớ người khác, là "đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau."
Yêu là bẻ thân mình làm bánh trao ban cho bạn: "Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con."
Yêu là rót máu mình như rượu hiến ban cho người khác được sống còn: "Nầy là Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội."
Yêu là nộp mình chết thay cho người mình yêu thương được sống: "Thà một người chết thay cho dân còn hơn là để toàn dân phải bị tiêu diệt" (Ga 11, 50).
 
Lạy Chúa Giê-su,
Thế ra lâu nay chúng con đã ngộ nhận rất nhiều về tình yêu.
Chúng con tưởng rằng yêu là say mê, là khai thác, là chiếm đoạt đối tượng mình yêu mến.
Hôm nay, nhờ bài học yêu thương Chúa dạy, chúng con mới hiểu rằng tình yêu đúng nghĩa là hy sinh, là quên mình để phục vụ, là cống hiến không ngừng cho tha nhân được hạnh phúc; và câu tỏ tình hay nhất, chân thật nhất, ý nghĩa nhất trên cõi đời nầy là câu tỏ tình của Chúa trong bữa tiệc ly:
"Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con... Nầy là chén Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội."
 
Và hôm nay, khi mời gọi "các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy", Chúa tha thiết kêu mời chúng con hãy yêu nhau theo cách yêu của Chúa; Chúa muốn chúng con nói lời yêu thương theo cách thức Chúa đã tỏ bày, nghĩa là:
Nầy là thời giờ của tôi, sức lực tôi, tim óc tôi, xin hy sinh vì bạn.
Nầy là thân xác tôi, trọn cuộc sống tôi, xin cống hiến cho cha mẹ, cho người bạn đời, cho con cái và cho tha nhân."
 


 
THỨ SÁU TUẦN THÁNH
Lời Chúa: “Mọi sự đã hoàn tất. ” (Ga 18, 1-19. 42)
Suy niệm:
Thập gía là con đường duy nhất mà Chúa chọn để cứu chuộc con người.
Thập gía là con đường hẹp của Tin Mừng mà Chúa đã đi qua, để những ai muốn đến với Ngài, cũng phải vác thập gía mình hằng ngày mà theo Ngài.
 
· Lối mòn của thập gía : là đau khổ, là nước mắt, là máu… vẫn và đang là mời gọi tất cả chúng ta hằng ngày, hãy đóng đinh chính thân xác mình, đóng đinh những đam mê, tội lỗi của mình vào thập gía của Chúa, để chúng ta biết chết đi cho chính mình mà sống cho Thiên Chúa. Thập giá vẫn mãi là tình yêu Thiên Chúa. Nhìn thấy Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào Thập giá, những người chống đối vỗ tay vui mừng. Họ tưởng rằng như thế là kết án và loại trừ được Chúa cùng với những lời rao giảng yêu thương. Họ đâu biết rằng, chính họ đã tự kết án mình. Cái chết của Chúa Giêsu làm rõ tội ác của con người, và Thập giá là nơi bày tỏ những gì Thiên Chúa muốn nói với con người, nơi thể hiện một tình yêu cao vời vĩ đại và vô bờ bến. Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng Chúa Cha giao phó trên thập gía “Ngày nào treo Ta lên, Ta kéo mọi sự lên với Ta”
·  Thập giá Đức Kitô là Thập giá cứu độ. Với dân ngoại, thập gía là sự điên rồ. Với người Do Thái, thập gía là tội đồ. Còn với tất cả chúng ta, thập gía chính là ơn cứu rỗi.Mỗi lần chúng ta nhìn lên Thập giá, đối diện với Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta có dịp để nhận ra con người thật của mình, con người tội lỗi . Và cũng chẳng hơn gì, không chỉ có dân Do Thái, mà cả chúng ta nữa, đã góp phần gây nên cái chết của Chúa Giêsu.Cây Thập giá cũng không chỉ có một lần trong lịch sử, mà ngày nay có rất nhiều cây Thập giá được dựng lên, khi người ta tiếp tục đóng đinh nhau bằng những mũi đinh chống đối, thù hận, chia rẽ và khủng bố lẫn nhau. Nhận ra mình tội lỗi, là nhận ra tình thương tha thứ của Chúa, để chúng ta đừng làm khổ nhau nữa, hãy tha thứ cho nhau trong sự cảm thông, nâng đỡ và chia sẻ. Từ đó ta sẽ nhận được ơn cứu độ từ Thập giá.

Trên thập gía, Chúa đã hoàn tất cuộc đời và sứ mạng cứu thế của Mình. Của lễ hiến tế là chính thân thể và sinh mạng của Chúa đã trở nên một của lễ vẹn toàn làm đẹp lòng Chúa Cha. Thập gía đã trở thành phương dược đem lại sự sống cho con người tội lỗi. Đau khổ của con người đã trở thành  gía trị mang lại ơn cứu độ, khi nó biết kết hợp và tháp nhập vào với gía máu của Chúa trên thập gía.

Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, khi chiêm ngắm thân mình Chúa chịu treo trên Thập giá, chúng con hiểu rằng Chúa muốn trao ban cho chúng con trọn vẹn tình yêu của Chúa. Chúa đã không giữ lại cho Mình, dù là một chút nước và máu trong con tim và ngay cả tấm thân lành lặn. Xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu của Chúa mỗi lần ngắm nhìn lên thập gía. Xin đừng để chúng con trở thành kẻ vô ơn, khi không biết sống xứng đáng với những ân huệ thiêng liêng mà Chúa đã trao ban qua mầu nhiệm thập gía của Chúa. Amen.

 
THỨ BẢY TUẦN THÁNH
Lời Chúa “Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn,
theo tục lệ của người Do Thái”  (Gioan 19, 40)
Suy Niệm:
“Mọi sự đã hoàn tất” Lời nói cuối cùng của một con người với tên gọi là Giêsu Nagiareth. Con Thiên Chúa đã ra khỏi kiếp người “đầy mâu thuẫn và cạm bẫy”. Ngài không còn hiện diện thể lý để chúng ta có thể chiêm ngưỡng và gặp gỡ Ngài bằng xương bằng thịt nữa. Các Tông Đồ và mọi người thân của Ngài phải đối diện với một sự mất mát, một lỗ hổng của tình cảm không thể bù đắp được. Người đau khổ và mất mát nhiều nhất chính là Mẹ Maria. Người Con mà Mẹ đã cưu mang trong thân xác Mình, Người Con mà Mẹ đã dưỡng nuôi, yêu thương nay không còn hiện diện, đã để lại trong tâm hồn Mẹ một vực thẳm của thương tiếc, của xót xa. Người Con của Mẹ suốt một đời chỉ biết đem tình thương trao ban cho mọi người,không phân biệt sang hèn, yếu đau hay tật bệnh, nay đã được đáp đền bằng sự vô ơn, bạc nghĩa.Thật quá đau xót và buồn tủi dâng tràn trong tâm hồn Mẹ.
· “Còn chính Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc. 2, 35). Lời tiên tri ngày xưa của cụ gìa Simêon đã được ứng nghiệm một cách thật xót xa cho tâm hồn Mẹ. Sự hiện diện thật ngắn ngủi của Chúa ở trần gian, những việc làm và giáo lí yêu thương của Ngài thực sự đã trở thành “cái gai” là chướng ngại cho những tâm hồn ích kỷ và tội lỗi. Thập gía, những nắm đấm giơ lên và hô to : đóng đanh nó vào thập gía, những đòn roi, mũi đinh đóng vào xác thịt Chúa, thực sự đã là những mũi đòng làm tan nát trái tim Mẹ Maria. Thập gía đó, những nắm đấm giơ cao ngày nào. . ngày nay vẫn còn đó, cho mỗi lần con người chúng con phản bội và muốn loại trừ Chúa ra khỏi thế giới tục hoá hôm nay. Những lưỡi gươm vẫn tiếp tục đâm thấu trái tim Mẹ hằng ngày.
· “Này Mẹ, đây là con Mẹ” (Gioan 19, 26-27). Lời trăn trối cho con người chúng con trước giờ ra đi vào vĩnh cửu, thật cảm động và đầy y nghĩa. Chúa đã trao ban người Mẹ yêu dấu nhất cho con người, bởi Ngài hiểu rằng “ mồ cồi thật tội lắm ai ơi! ”. Lịch sử Giáo Hội cho đến hôm nay, luôn được sự chăm sóc, gìn giữ và bảo vệ một cách tốt nhất với tình mẫu tử của một người mẹ. Mẹ luôn cảnh báo, thức tỉnh con người biết sống trong tình thân ái với Thiên Chúa, để tránh cơn thịnh nộ của Ngài.

Lời cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria, chỉ vì tội lỗi và sự gian trá của con người chúng con, mà Con của Mẹ đã chịu treo trên thập gía. Và cũng chính tội lỗi đó ngày nay cũng đang tiếp tục làm tan nát trái tim Mẹ. Một lời ăn năn, vạn vạn lần thống hối, chúng con xin tạ tội cùng Mẹ. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống và ăn ở thế nào cho đẹp lòng Chúa và khỏi phiền lòng Mẹ. Xin Mẹ giúp chúng con biết sống thật hiếu thảo, vâng theo luật Chúa, để luôn xứng đáng làm con cái của Mẹ. Amen



HOẶC CÁC BÀI SUY NIỆM KHÁC

THỨ HAI TUẦN THÁNH

Ga 12,1-11

Đức Giê-su nói: "Hãy để cô ấy yên.
Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho

ngày mai táng Thầy". (Ga 12,7)

1. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu được xức dầu tại Bêtania.

Giá tiền của bình dầu thơm mà Maria đã đổ ra để xức chân Chúa Giêsu là 300 đồng, bằng lương 300 ngày công, nghĩa là bằng gần suốt một năm trời làm việc của một người lao động bình thường. Đối với những người giàu có thì số tiền đó chẳng thấm thía gì. Nhưng ở đây, chúng ta biết gia đình Bêtania là một gia đình không khá giả gì. Vì Maria yêu mến Chúa Giêsu “bằng mọi giá”, cho nên cô chẳng tiếc bất cứ thứ gì đối với Chúa. Trước đây, Maria cũng đã làm hài lòng Chúa khi cô bỏ hết mọi việc để ngồi bên chân và lắng nghe lời Ngài (Lc 10,38-42). Lòng yêu mến của Maria không phải chỉ là những tình cảm suông, cũng không phải chỉ bằng những lời nói, mà còn bằng những hy sinh, hy sinh bất cứ thứ gì, kể cả tiền bạc và nhất là thời gian.

Vâng! Maria đã đem vật quí giá nhất mình có, và dùng hết cho Chúa Giêsu. Tình yêu hiến dâng tất cả. Điều duy nhất mà tình yêu hối tiếc là không có nhiều hơn để dâng hiến. O. Henry, một bậc thầy về chuyện ngắn, đã viết một câu chuyện rất cảm động với tựa đề là “Món Quà Giáng Sinh”. Một cặp vợ chồng nọ tên là Della và Jim. Họ rất nghèo nhưng hết sức yêu nhau. Mỗi người chỉ có một tài sản duy nhất. Đối với Della thì mái tóc là vinh quang của nàng. Còn Jim hãnh diện với chiếc đồng hồ vàng nhưng lại không có dây đeo do cha chàng để lại. Một ngày trước lễ Giáng sinh, Della muốn mua một món quà để tặng cho Jim nhưng nàng chỉ còn đúng một Mỹ kim tám mươi bảy xu. Della đã nghĩ ra cách để có thêm tiền. Cô đã bán mái tóc của mình với giá hai mươi Mỹ kim. Sau đó cô mua một chiếc dây bằng bạch kim để tặng Jim với ý muốn chiếc đồng hồ quí báu của chàng sẽ có dây đeo. Tối ấy, Jim về đến nhà, nhìn mái tóc bị cắt ngắn của Della, chàng đứng sững sờ. Không phải vì chàng không thích, hay không còn yêu nàng nữa, nàng vẫn đáng yêu hơn bao giờ hết. Dù sao thì đây cũng là dịp để nói lên tình yêu đối với nàng. Chậm rãi, chàng mở món quà ra và trao cho nàng. Đó là một chiếc trâm kẹp tóc bằng đồi mồi có viền những viên ngọc nhỏ lóng lánh được mua bằng tiền chàng đã bán chiếc đồng hồ đi. Còn nàng thì trao cho chàng chiếc dây đồng hồ nàng mua được bằng tiền bán đi mái tóc đẹp của mình. Người nọ đã tặng cho người kia tất cả những gì mình có. Tình yêu chân thật không thể nghĩ ra cách nào khác hơn để hiến dâng cho nhau.

2. Chúa nói: “Người nghèo thì anh em luôn có bên cạnh, còn Thầy thì anh em chẳng có mãi đâu."(Ga 12,8)

Vâng, có những cơ hội chỉ đến có một lần. Không biết chụp lấy, khi nó qua đi thì nó chẳng bao giờ trở lại.

Người ta kể, ngày xưa có một lần nữ hoàng Mary của Anh Quốc đi sang thăm Scotland, một nước rất quí mến nữ hoàng.

Để đáp lại tấm thịnh tình của dân Scotland, nhiều lần Nữ Hoàng đến với họ mà không cho những người hộ tống đi theo để dễ gần gũi với dân chúng.

Lần kia, nữ hoàng đi về vùng quê chơi. Hôm ấy bỗng trời đổ mưa. Nữ hoàng ghé vào nhà của một người ở trong vùng để mượn một cây dù. Nữ hoàng nói với chủ nhà:

- Chị làm ơn cho tôi mượn cây dù, ngày mai tôi sẽ trả lại chị.

Vì không biết người đến mượn dù là ai, nên lúc đầu chị chủ nhà tỏ vẻ ái ngại không muốn cho mượn. Nhưng sau một hồi suy nghĩ, chị chủ nhà đã trở vào trong, lấy ra một chiếc dù cũ kỹ, đưa ra cho người lạ mặt mượn.

Ngày hôm sau, khi nghe tiếng gõ cửa, chị chạy ra mở cửa, thì thấy một người lính đứng ở trước cửa nhà, tay cầm chiếc dù cũ của chị. Người lính nói với chị:

- Thưa chị, nữ hoàng sai tôi đem cây dù này gởi trả lại chị. Nữ hoàng cũng gởi lời cám ơn chị rất nhiều.

Chị chủ nhà nghe vậy đứng lặng người một lát rồi òa lên khóc và nói:

- Thế là tôi đã đánh mất đi một cơ hội không bao giờ trở lại với tôi lần thứ hai nữa.

Có những cơ hội chỉ đến có một lần. Khi nó qua đi thì nó chẳng bao giờ trở lại. Maria đã biết rõ điều đó cho nên chị chụp ngay lấy cơ hội. Chị đem dầu thơm hảo hạng nhất xức cho Chúa. Có lẽ đối với chị, đó là thứ quí giá nhất chị có.  Nó quí giá không những vì nó mắc tiền, mà nó còn quí giá hơn bởi nó chính là tình yêu mà chị dành cho Chúa.

Chỉ khi nào chúng ta thể hiện được sự kính yêu Chúa qua những hành động cụ thể bằng cách dâng hiến cho Chúa những thứ quí giá nhất, vào đúng cơ hội, đúng thời điểm Chúa muốn nhất, thì hành động của chúng ta mới làm Chúa hài lòng và nó mới đem lại công nghiệp cho chúng ta trước mặt Chúa. Amen.


THỨ BA TUẦN THÁNH
Ga 13,21-33.36-38

Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra.
Lúc đó, trời đã tối. (Ga 13,30)

 

1. Đoạn Tin Mừng hôm nay là một phần của bữa tiệc ly.

Chúa Giêsu cố gắng đánh thức lương tâm của Giuđa: Giuđa nghe nhưng không xao xuyến.

Không phải Chúa Giêsu muốn Giuđa phạm tội, cũng không phải Ngài thờ ơ bỏ mặc hắn chìm sâu trong tội lỗi, Ngài đã nhiều lần nhiều cách đánh thức lương tâm hắn nhưng không có kết quả.

Trước tiên là lời tiên báo công khai: "Quả thật, quả thật, Ta bảo anh em: một người trong anh em sẽ nộp Thầy" (Ga 13,21). Giuđa giả điếc làm ngơ như không nghe thấy lời cảnh tỉnh này.

Tiếp đến, Chúa Giêsu chấm bánh trao cho Giuđa, đó là cử chỉ thân tình, nhưng Giuđa đã ăn miếng bánh ấy mà không một chút rung động, đến độ thánh Gioan đã phải diễn tả một hậu quả trái ngược: "Ăn miếng bánh rồi, Satan đã nhập vào y" (Ga 13,27).

Sau cùng, Chúa Giêsu dóng lên tiếng chuông cảnh tỉnh lần cuối qua câu nói: "Ngươi tính làm gì, thì làm mau đi"(Ga 13,27). Câu này ngụ ý rằng: "Âm mưu của ngươi, Ta đã biết, làm sao môn đệ lại có thể âm mưu phản Thầy". Tuy nhiên, những lời nói ấy vẫn không cầm chân được Giuđa khỏi tiến vào bóng đêm tội lỗi. Thánh Gioan khi chú giải về sự kiện này, Ngài đã viết một câu thật đáng sợ: "Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời sập tối.” (Ga 13,30)

Như vậy, chúng ta thấy Chúa đã làm hết sức. Ngài chỉ làm được đến thế thôi, vì Ngài phải tôn trọng tự do con người.

Cách Chúa đối xử với những người tội lỗi cũng như thế.

Nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta, tuy không rõ ràng như trường hợp của Giuđa thế nhưng cũng phải thừa nhận rằng, ít nhiều gì đã có lần chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ trước những cảnh giác của Chúa. Mỗi người chúng ta đều biết rất rõ điều đó. Chúng ta hãy thành thật xin Chúa tha thứ.

2. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thi hành ý muốn của Chúa Cha. Chúng ta thấy trong cuộc sống vì tình yêu mà người ta thường cảm thấy vinh dự khi được chiều ý người mình yêu. Thánh Phaolô nói: “Vinh dự của chúng ta là Thập Giá Đức Kitô”. Các tông đồ sau khi bị bắt nhốt vào trong tù và bị đánh đòn, đã “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41).

Trong tác phẩm “Như Lòng Chúa khoan dung” của cha Anthony de Mello, người ta đọc được câu chuyện này: Có một cặp vợ chồng cưới nhau đã lâu, sống đạo rất tử tế nhưng mong mãi vẫn chưa có được mụn con. Thế rồi cuối cùng người vợ cũng mang thai, họ vui mừng xác tín đây là một ân huệ Chúa ban.

Nhưng đến ngày sinh, mọi người đều bàng hoàng nhận ra đứa bé có dị tật, bàn tay phải của nó bị teo nhỏ không như bàn tay trái. Người cha đã ôm lấy đứa con trai sơ sinh mà khóc nức nở. Sau đó, bạn bè đến thăm gia đình, ai cũng tỏ ra lúng túng, không biết sẽ phải chúc mừng hay chia buồn? Nhưng họ không ngờ, chính người mẹ của em bé lại khiến cho họ bỡ ngỡ thán phục khi bà tươi cười bảo họ:

“Suốt tuần qua, vợ chồng chúng tôi đã xóa khỏi đầu óc cái lý tưởng hoàn hảo mà chúng tôi vẫn từng ấp ủ. Dù gì đi nữa, đã gọi là lý tưởng thì sẽ không bao giờ có. Trong hiện tại, chúng tôi đang có trong tay một đứa con, công việc của chúng tôi bây giờ không phải là sống với lý tưởng của mình, nhưng là đón nhận Ý Chúa khi yêu thương và đùm bọc cháu bé như đó là một quà tặng vô giá của Người...”

Nếu ta chưa thấy việc làm theo ý Chúa và chịu khổ vì Chúa là một vinh dự, thì đó là dấu ta chưa yêu Chúa. Yêu mến Chúa thì phải sẵn sàng vui mừng vâng theo thánh ý của Người.

Gahannes Sebastian Bach là một nhạc sĩ Công giáo lừng danh người Đức, khi về già, ông lâm phải căn bệnh trầm trọng có thể gây ra chứng mù lòa.

Một hôm, có người bạn đến báo tin có một bác sĩ giỏi về nhãn khoa mới tới thành phố, và ông ta sẵn sàng chữa đôi mắt cho nhạc sĩ bằng một cuộc giải phẫu. Nhạc sĩ thành tâm trả lời người bạn quý: “Xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa, tôi nhận lời”.

Công việc chữa trị được tiến hành, nhưng 4 ngày sau đó, khi mở băng gạc ra, trước sự hồi hộp đợi chờ của thân nhân chung quanh giường bệnh, nhạc sĩ đã bình thản trả lời: “Xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa, tôi vẫn chẳng trông thấy gì cả!” Mọi người nghe vậy thì bật khóc vì thương cảm. Bản thân ông cũng không tránh khỏi xúc động. Bầu khí như chùng xuống trong sự buồn đau của mọi người.

Thế nhưng, thật bất ngờ, nhạc sĩ đã cố trấn tĩnh lại, cất tiếng cười vang tràn đầy lạc quan: “Ơ hay, tôi đã bảo là xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa cơ mà. Nào, xin mọi người hãy hát lên cho tôi bản nhạc mà tôi thích nhất, đó là bài “Những Điều Chúa Làm, Ngài Đều Biết Rõ!”.

Lạy Chúa,
Xin cho chúng con biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống. Amen.


THỨ TƯ TUẦN THÁNH
Mt 26,14-25

"Thầy bảo thật anh em,
một người trong anh em sẽ nộp Thầy."
(Mt 26,21)

1. Tin Mừng hôm nay cho ta thấy tấm lòng của Chúa Giêsu trước việc Giuđa phản bội.

Ngài đau buồn: “Kẻ giơ tay cùng chấm dĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy”(Mt 26,23).

Ngài tiếc xót: “Khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà kẻ đó đừng sinh ra còn hơn”(Mt 26,24). Các nhà chú giải bảo đừng dựa vào câu này để nói Chúa Giêsu muốn nguyền rủa Giuđa. Thực ra, Ngài đang nói theo giọng điệu của những bài ai ca.

Ngài vẫn tôn trọng: vừa trả lời thẳng cho Giuđa biết hắn là kẻ phản bội, vừa kín đáo không nói lớn kẻo người khác biết lòng dạ hắn.

Chúng ta hãy dừng lại một chút để suy gẫm về trường hợp của Giuđa.

Phạm tội là cả một quá trình từ nhẹ tới nặng.

Thương Trụ dùng ngà voi làm đũa. Cơ Tử thấy vậy, sinh lòng lo lắng, sợ hãi. Bởi vì, khi dùng đũa bằng ngà voi thì tự nhiên sẽ không dùng chén bát bằng sành sứ nữa, nhưng đương nhiên sẽ dùng bằng ngọc quí cho tương xứng. Một khi đã dùng chén ngọc, đũa ngà, thì tự nhiên sẽ không dùng món ăn thanh đạm, trái lại dùng đuôi voi, thịt báo cho tương xứng. Khi lương thực toàn là cao lương mỹ vị, quần áo và nơi ở tất phải thay đổi, không còn là vải thô, nhà tranh vách đất, nhưng phải áo lụa là, nhà cao cửa rộng. Cứ suy cho đến cùng, thì thiên hạ phải cùng khổ. (Trích Hàn Phi Tử thuyết lâm, quyển thượng)

Và lịch sử đã chứng minh Thương Trụ đã sa đọa và thiên hạ đã phải cùng khổ vì con người ấy như thế nào.

Đã có lần tôi nói: từ một điếu thuốc đến tật nghiện ngập, con đường tưởng xa nhưng lại rất gần. Từ một ngụm rượu uống cho vui cho đến tật say sưa, con đường tưởng là xa nhưng lại rất gần.

Hãy cẩn trọng đề phòng! 

2. Tự do là một món quà vô cùng quý giá Chúa ban, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm nặng nề và là một con dao hai lưỡi nguy hiểm. Không biết sử dụng tự do Chúa ban một cách hợp tình hợp lý thì chúng ta sẽ không lường được những hậu quả của nó.

Leonardo da Vinci vẽ bức tranh "Bữa tiệc ly" mất bảy năm liền. Đó là bức tranh vẽ Chúa Giêsu và 12 vị tông đồ trong bữa tiệc cuối cùng, trước khi Ngài bị Giuđa phản bội.

Leonardo phải mất rất nhiều thời gian và công sức trong việc tìm những người mẫu. Ông đã phải tìm trong số cả hàng ngàn thanh niên, mới chọn ra được một chàng trai với gương mặt thánh thiện, và với một phẩm cách thanh khiết tuyệt đối để làm mẫu vẽ Chúa Giêsu. Leonardo da Vinci đã làm việc không biết mệt mỏi suốt sáu tháng liền trước chàng trai, và hình ảnh Chúa Giêsu đã dần dần hiện lộ ra trên bức tranh.

Sáu năm tiếp theo, ông lần lượt vẽ xong 11 vị tông đồ, chỉ còn có Giuđa, tông đồ đã phản bội Chúa vì 30 đồng bạc. Họa sĩ muốn tìm một người đàn ông tương xứng. Hắn phải có một khuôn mặt để lộ ra sự hám lợi, lừa lọc, và cực kỳ tàn ác. Khuôn mặt đó phải toát lên tính cách của kẻ sẵn sàng bán đi người bạn thân nhất, người thầy kính yêu nhất của chính mình…

Cuộc tìm kiếm dường như vô vọng. Bao nhiêu gương mặt xấu xa nhất, độc ác nhất đã đi qua trước mắt nhưng ông vẫn chưa thấy đủ những biểu hiện cho một Giuđa độc ác. Thế rồi một hôm, Leonardo da Vinci được thông báo là có một kẻ mà ngoại hình có thể đáp ứng yêu cầu của ông. Hắn đang ở trong một hầm ngục ở Rôma. Hắn bị kết án tử hình vì giết người và nhiều tội ác tày trời khác…

Leonardo da Vinci lập tức lên đường đến Rôma. Trước mặt ông là một gã đàn ông với nước da đen sạm, mái tóc dài bẩn thỉu xõa xuống gương mặt. Khuôn mặt hắn thật xấu xa, hiểm ác, hiển hiện rõ tính cách của một kẻ hoàn toàn bị tha hóa. Đúng, đây là Giuđa!

Với phép đặc biệt của đức vua, người tù được đưa tới Milan nơi bức tranh “Bữa tiệc Ly” đang được vẽ dở dang. Mỗi ngày tên tù ngồi trước mắt Leonardo Da Vinci, và người họa sĩ thiên tài cần mẫn với công việc chuyển tải vào bức tranh diện mạo của kẻ phản phúc.

Khi nét vẽ cuối cùng đã hoàn thành, kiệt sức vì phải đối mặt với cái ác một thời gian dài, Leonardo Da Vinci quay sang bảo lính gác:

- Các ngươi đem hắn đi đi …!

Lính canh túm lấy y, nhưng hắn đột nhiên vung ra và lao đến quỳ xuống bên chân Da Vinci, khóc nấc lên:

- Ôi, ngài da Vinci! Hãy nhìn con! Ngài không nhận ra con ư?

Leonardo da Vinci quan sát kẻ mà sáu tháng qua ông liên tục nhìn mặt. Cuối cùng, ông đáp:

 - Không, ta chưa từng nhìn thấy ngươi cho đến khi ngươi được đưa đến từ hầm ngục Rôma…

Tên tử tù kêu lên:

- Ngài Vinci … Hãy nhìn kỹ con! Con chính là người mà bảy năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Chúa Giêsu.

Câu chuyện này có thật.

Tương lai không hề định trước được. Chính chúng ta là người quyết định số phận của chúng ta. Hãy cẩn trọng trong việc sử dụng tự do Chúa ban cho mình.


THỨ NĂM TUẦN THÁNH
Ga 13,1-15

"Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy,
mà còn rửa chân cho anh em,
thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau."

(Ga 13,14)

Hôm nay là ngày Thứ năm Tuần Thánh, ngày Chúa Giêsu ngồi thật gần các môn đệ của Ngài để mừng lễ Vượt Qua cổ xưa của người Do Thái.

Chúng ta tham dự vào bữa tiệc hôm nay để tưởng niệm đến cái chết và sự Phục Sinh của Chúa.

1. Trong Thánh lễ hôm nay, Giáo Hội còn muốn chúng ta nhớ lại giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã đặc biệt trối lại như một lệnh truyền: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34).

Chúa Giêsu đã chẳng có gia sản gì để trối lại cho các môn đệ của Ngài, nhưng Ngài lại để lại cho các môn đệ và những người đi theo Ngài một lời trối đặc biệt này. Đây là giới răn, là lệnh truyền chính Chúa nói ra cũng như đã thực hành trong phòng tiệc ly.

Ngài cũng không quên cho các môn đệ của Ngài biết lý do tại sao Ngài lại để lại cho họ giới răn yêu thương đó. Đó chính là vì Ngài đã yêu thương mọi người trước.

Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một điều hết sức lạ lùng.

Tiếc rằng, ngày hôm nay, nhiều người chưa thấy được điều đó. Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài muốn được gần gũi với  con người: "Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20)

Phần chúng ta, chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa là Đấng thật sự đang yêu thương mỗi một người trong chúng ta hay không? Ngài yêu thương con người một cách sâu sắc và thân mật còn hơn cả tình yêu của bất cứ người mẹ nào yêu thương con mình, hay như bất cứ người tình nào yêu người yêu của mình.

Chỉ khi nào chúng ta xác tín được như thế, thì chúng ta mới có thể đáp trả lại tình yêu Chúa đúng phép.      

Khi Chúa Giêsu nói: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới: anh em hãy yêu thương nhau" (Ga 13,34). Đây không phải là một điều luật được áp đặt lên trên chúng ta từ bên ngoài, nhưng đây là phương thức giúp cho cuộc sống của chúng ta được tốt đẹp hơn, hài hòa hơn.

Thế giới này sẽ tốt đẹp biết bao nếu giới luật này được mọi người đưa ra thực hành. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi không còn chiến tranh, không còn bạo lực, không còn độc ác, không còn nô lệ. Lúc đó mọi người sẽ được giải thoát khỏi sự hận thù và tranh chấp.

2. Một điểm khác cần được đề cập tới trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh hôm nay: Đó là việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Chỉ có một mình Thánh Gioan ghi lại cảnh này: Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ của Ngài.

Cha Doncoeur đã diễn tả thật khéo sự việc này như sau “Hai tay (của Đức Kitô) đã khéo léo lau khô hai bàn chân của Phêrô với chiếc khăn ở thắt lưng. Ngài đứng hơi nghiêng xuống như một người đầy tớ, vai trò Ngài muốn đóng lấy lúc bấy giờ. Điều quan trọng không phải là rửa chân, nhưng là phục vụ các môn đệ và phá đổ đi cái tâm thức huênh hoang tự phụ đang còn bao trùm lên tâm trí của họ. Chúng ta hiểu tại sao mắt của họ như nói lên một nỗi bối rối, bởi lẽ trong họ một tấm kịch đang diễn ra” (Le Christ dans l’art francais, I, Paris, Plon, 1939, trang 104). Chúng ta sẽ không thể hiểu được cuộc khổ nạn trong Tin Mừng của Gioan, nếu không hình dung ra được màn kịch này và nếu không nhớ tới sự đảo lộn, đổi ngôi đang diễn ra trong tâm hồn của Gioan cũng như Phêrô, do một câu nói của Đức Giêsu như một lời cảnh cáo: “Nếu Thầy không rửa chân con, thì con không có phần nào với Thầy”(Ga 13, 8).

Quả thực, Đức Giêsu đã tự hạ, đã bước xuống chỗ thấp nhất. Tất cả đều trái ngược với những ý nghĩ mà xưa nay các ông có về Đấng Messia, đến nỗi các ông ấy cảm thấy như bị thách đố.

Chúng ta còn nhớ cách đây không lâu, Gioan đã chẳng mưu tính với anh mình là Giacôbê để vận động cho hai người ngồi hai bên tả bên hữu Đức Giêsu trong ngày Ngài được quang vinh hay sao? Thế mà bây giờ Đấng là “Chúa và Thầy” của các ông ấy lại ăn mặc như một nô lệ và đang phục vụ dưới chân các ông! Và còn kinh khủng hơn khi Ngài còn coi việc đó như một quy luật và bảo họ phải theo: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để như Thầy đã làm như thế nào thì anh em cũng làm y như vậy” (13,15). Việc làm của Chúa quả thực là khó hiểu. Mãi “sau này” Gioan mới hiểu được điều đó (13,7). và ông đã phải viết lên “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).

Vâng! Để giải cứu con người, Thiên Chúa đã hạ mình như thế. Từ đây tất cả mọi sự đều thay đổi ý nghĩa: tự hạ trở thành “nâng cao”. Bước xuống chỗ thấp nhất là leo lên chỗ cao nhất. Tự huỷ của một tên nô lệ chính là sự siêu tôn Con Người.

Đó là con đường Chúa đã đi. Những ai muốn đi theo Ngài không có quyền đi ra khỏi đường đó.


THỨ SÁU TUẦN THÁNH
Ga 18,1-19,42

"Người xem thấy việc này đã làm chứng,
và lời chứng của người ấy xác thực"
(Ga 19,35
)

Hôm nay, chúng ta tưởng nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.

Chúa đã chết... Chết như nhiều người đã chết.

Ngày 5/9/1997, cả thế giới bàng hoàng và xúc động khi nghe tin Mẹ Têrêsa chết, chết tại thành phố Calcutta, sau một cơn đau tim đột ngột, hưởng thọ 87 tuổi.

Ngay sau cái chết của mẹ, báo chí đã đưa lên trang nhất những hàng tít lớn: "Mẹ của những người nghèo khổ đã ra đi" - "Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa" - "Vị nữ thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn ra đi".

Không phải chỉ thế giới đau buồn và cảm động trước cái chết của mẹ, mà nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới cũng bày tỏ lòng thương tiếc sâu sắc. Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã gửi đến Calcutta bức điện chia buồn như sau: "Buổi tối hôm nay đã có ít tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và cũng ít ánh sáng hơn trên thế giới".

Tổng Thống Mỹ Bill Clinton đã nói: "Mẹ là người luôn gây ngạc nhiên, một trong những vĩ nhân của thời đại này".

Thủ tướng Tony Blair của nước Anh đã gửi đến Calcutta lời phân ưu: "Trong một tuần đầy bi kịch, thế giới lại càng buồn hơn vì một trong những người phục vụ nhiều lòng trắc ẩn nhất đã ra đi".

Nước Albani, quê hương thứ nhất của mẹ tuyên bố "Cả nước sẽ để tang mẹ ba ngày".

Tại Ấn Độ, nơi người Công giáo chỉ là thiểu số, thủ tướng Inder Kamar đã tuyên bố tổ chức lễ an táng mẹ tại sân vận động quốc gia New Delhi theo nghi thức quốc táng.

Vâng, đó là một cái chết, cái chết thật đẹp, đẹp còn hơn một giấc mơ. Ngày an táng mẹ, Đức Thánh Cha đã cử đặc sứ của Ngài tới. Rất nhiều nhà lãnh đạo đạo đời trên thế giới đã có mặt. Từ trước cho đến nay, chưa có nhà lãnh đạo nào trên thế giới này, được yêu thương đến như thế.

Mẹ Têresa đã chết.

Và gần 2000 năm trước Chúa Giêsu cũng đã chết.

Ngài đã chết, một cái chết mà Ngài đã báo trước: "Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế và Kinh sĩ. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết chết Người" (Mc 10,33-34).

Một cái chết đau thương đến cực độ, cô đơn đến cực độ, nhục nhã đến cực độ. Chúa Giêsu đã chết không phải như một "vị thánh lìa đời" hay như "Mẹ của những người nghèo khổ đã ra đi" - "Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa" - "Vị nữ thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn lìa bỏ chúng ta".

Cái chết của Chúa chẳng được nhà lãnh đạo nào trên thế giới bày tỏ lòng thương tiếc. Chẳng được một người nào trên thế giới gửi điện đến phân ưu, chẳng được quốc gia nào tuyên bố sẽ tổ chức tang lễ theo nghi thức quốc táng.

Một cái chết không có vòng hoa, chẳng có vòng cườm, và cũng chẳng có ai để tang.

Một cái chết không kèn, không trống, không người đốt cho một nén nhang, cũng chẳng ai thắp cho một ngọn đèn.

Vậy mà ngày hôm nay, hay nói đúng hơn, suốt hơn hai mươi thế kỷ nay, biết bao nhiêu con người đã, đang và vẫn còn phải ngậm ngùi, rơi lệ, không cầm được sự xúc động mỗi khi tưởng nhớ đến cái chết này.

Tại sao? Tại sao thế?

Câu trả lời: Vì đó là một cái chết đẹp, đẹp tuyệt vời. Không đẹp ở hình thức bên ngoài nhưng đẹp ở nội dung, ở ý nghĩa. Bởi vì đây là một cái chết của Con Một Thiên Chúa - đã tự nguyện hy sinh để chuộc tội cho cả loài người. 

Với mẹ Têrêsa, cái chết của mẹ đã đẹp vì được cả thế giới tiếc thương. Cái chết của một con người đã dám dấn thân và trung thành với lý tưởng phục vụ trong yêu thương cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời - như lời mẹ đã từng hóm hỉnh tuyên bố sau một lần chết hụt như sau: "Tôi đã đến cổng Thiên Đàng nhưng thánh Phêrô bảo tôi: Trở lại đi con. Ở đây đâu có người nghèo khổ nào để con chăm sóc đâu, - thế là tôi trở lại - Đối với tôi, điều hạnh phúc nhất là có thể giúp cho người ta chết một cái chết xứng đáng với phẩm giá một con người".

Còn cái chết của Chúa? Đây không phải chỉ là cái chết của một con người, nhưng là cái chết của Người Con Một, Người Con Duy Nhất của Thiên Chúa, một cái chết:  Không chỉ đơn giản như một sự lìa đời nhưng là một cái chết để nói lên sự trung thành tuyệt đối với ý muốn của Thiên Chúa, là thái độ yêu thương của một người con sẵn sàng làm mọi sự Cha muốn - cũng như sẵn sàng trả giá cho sự vâng phục đó bằng một lòng trung thành không có gì lay chuyển nổi - cho dù có phải hy sinh, tủi nhục, đau khổ, bị bỏ rơi và nhất là phải chết trên Thập Giá. 

Vâng! Chúa đã chết.

Chúng con cám ơn Chúa đã chết vì yêu thương chúng con.

Xin cho chúng con biết sống xứng đáng với tình thương của Chúa và mãi trung thành với hồng ân cao quí Chúa đã dành cho chúng con. Amen.


VỌNG PHỤC SINH
Ga 20,1-9

"Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng:
theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết."
(Ga 20,9)

Trong suốt năm Phụng vụ, có lẽ không có giây phút nào cảm động và tràn ngập niềm vui thánh thiện cho bằng giây phút này. Đây không phải là lúc chúng ta làm sống lại những kỷ niệm của quá khứ mà là chúng ta sống Mầu Nhiệm hiệp thông với Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta cách trọn vẹn nhất.

Trong nghi thức Phụng vụ Vọng Phục Sinh đêm nay, Giáo Hội hướng chúng ta về Lửa và Ánh sáng. Lửa và ánh sáng là hai yếu tố rất quan trọng và rất cần thiết trong cuộc sống của chúng ta.

Cách đây hơn 8.000 năm, con người chưa khám phá ra lửa. Không có lửa, cuộc sống con người thật tăm tối và bấp bênh.

Đầu thập niên 80, bên Mỹ người ta trình chiếu rộng rãi một  bộ phim dị thường mang tựa đề là “Săn tìm lửa”(Quest for fire). Trong bộ phim này, nhà sản xuất đã cho người xem được chứng kiến một cảnh hết sức vui mừng khi người ta khám phá ra lửa lần đầu tiên trên trái đất này. Chính lửa đã giúp cho những con người trên hành tinh này khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn.

Nếu không có lửa không biết cuộc sống của chúng ta sẽ ra sao.

Bên cạnh ngọn lửa, trong đêm cực thánh này Giáo Hội còn đề cao Ánh sáng.

Không có Ánh sáng, thế giới sẽ sống trong tăm tối. Ánh sáng giữ một vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển của tất cả các tạo vật có sự sống trên trái đất này.

Bài Sách Thánh thứ 1 trong sách Sáng thế Ký chúng ta vừa nghe thuật lại việc Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ. Không phải vô tình mà tác giả Sách Thánh đã đặt ánh sáng là yếu tố đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng nên trong chương trình sáng tạo của Người. Ánh sáng được tạo dựng nên trước tất cả mọi tạo vật khác kể cả con người. Tác giả Sách Thánh có lý do để trình bày thứ tự ưu tiên như thế.

Không có lửa và ánh sáng, giá lạnh và bóng tối sẽ ập xuống và tiêu diệt tất cả các mầm sống trên hành tinh trái đất này. Chúng ta không thể tưởng tượng được một cuộc sống mà không có lửa và ánh sáng.

Vậy thì khi Giáo Hội đem Lửa vá Ánh sáng vào đêm Vọng Phục Sinh mừng Chúa sống lại,  Giáo Hội muốn cho chúng ta nhận ra sự thật này: Sự sống, nhất là sự sống đời đời của chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa. Nếu con người không thể sống mà không có lửa và ánh sáng thì cuộc sống siêu nhiên của chúng ta cũng không thể có và không thể tồn tại nếu không biết lệ thuộc vào Thiên Chúa.

Nhiều người ngày hôm nay đã quên hay cố tình quên đi sự thật đó.

Vũ trụ này đã không phải tự nhiên mà có. Khoa học đã cho chúng ta thấy điều đó. Vũ trụ này đã có một sự khởi đầu.

Con người cũng không phải tự nhiên mà có. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người chúng ta, tạo dựng nên từ tro bụi.

Chính Thiên Chúa cho con người sự sống và chính Người gìn giữ sự sống của con người.

Từ bụi đất Chúa đã làm nên chúng ta và vì yêu thương, Thiên Chúa cho chúng ta được chia sẻ sự sống của Người.

Tội lỗi đã làm cho sự sống của Chúa nơi chúng ta bị mất đi. Dù chúng ta có phản bội, tình yêu của Người  vẫn tồn tại.

Một lần nữa, Thiên Chúa lại cho chúng ta thấy Tình yêu của Người. Người đã sai Con của Người xuống cõi trần ai làm người và chịu chết để chuộc tội cho chúng ta.

Bằng sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, Người  muốn cho chúng ta được quyền chia sẻ lại sự sống của Người nếu chúng ta biết chết đi cho con người tội lỗi của mình, để phục sinh lại trong con người mới với Đức Kitô.

Chính sự Phục Sinh của Đức Kitô bảo đảm sự sống đời đời cho chúng ta.

Hãy sống lại với Chúa Giêsu trong con người mới: Con người thánh thiện, nhân từ, đầy lòng yêu thương, để xứng đáng với ơn Chúa cứu chuộc và Tình thương của Người.

Một thương gia theo Ấn giáo sống tại Ấn Độ, một lần kia đã hỏi một nhà truyền giáo Kitô Giáo:

- Ông có thoa cái gì trên mặt ông không mà lúc nào tôi thấy mặt ông cũng rạng rỡ thế?

Ngạc nhiên quá, vị giáo sĩ trả lời:

- Tôi có thoa gì đâu!

Ông nhà buôn nhấn mạnh:

- Có, chắc chắn mà! Tôi thấy hầu hết những người tin Chúa Giêsu đều có vẻ mặt tươi sáng tương tự như Ngài. Tôi đã thấy những người đó tại thành phố Agra và Surat và ngay cả thành phố Bombay này nữa.

Thình lình vị giáo sĩ hiểu ra và hối hả trả lời: "Bây giờ tôi hiểu ông nói gì rồi và tôi xin cho ông biết bí quyết của chúng tôi. Đây không phải là những gì chúng tôi thoa từ bên ngoài, nhưng là những gì phát xuất từ bên trong. Đó là sự phản chiếu ánh vinh quang Thiên Chúa trong lòng của chúng tôi."

Hãy tin tưởng vào Chúa và hãy thanh thản bước đi an bình giữa một thế giới đầy dẫy những cạm bẫy và bất trắc này, vì Chúa Phục Sinh đang đồng hành cùng chúng ta trong cuộc sống này. Amen.

Sưu tầm
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn