1
17:23 +07 Thứ sáu, 19/04/2024
1Chính anh em  là  Muối cho đời,  là Ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14)

MENU

Giáo lý cho người trẻ

Thống kê

Đang truy cậpĐang truy cập : 51

Máy chủ tìm kiếm : 1

Khách viếng thăm : 50


Hôm nayHôm nay : 8947

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 199659

Tổng cộngTổng cộng : 27753943

Nhạc Giáng sinh

Thông tin Online

Hãy kết bạn với


Trang nhất » Tin tức » NĂM MỤC VỤ GIA ĐÌNH

Suy niệm Năm Thánh Lòng Thương Xót - Thương xót như Chúa Cha

Chủ nhật - 10/01/2016 15:25-Đã xem: 1867
Bài “Ngợi khen” của Đức Ma-ri-a hòa nhập vào dòng chảy cảm tạ tri ân của những người Do Thái mộ đạo. Đối với người Do Thái đạo hạnh, không có biến cố nào, dù giản dị mấy đi nữa, mà không trở thành một bài ca chúc tụng Thiên Chúa của mình. Một ngày sống của một người Do Thái thánh thiện được đan dệt bằng những lời cảm tạ và tri ân Thiên Chúa của mình. Tâm tình mà người Do Thái dành cho Thiên Chúa của mình rất cụ thể, thực tế. Họ không bao giờ chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong thế giới trừu tượng, nhưng thân thưa với Thiên Chúa của mình là Đấng sáng tạo, Đấng hoạt động, Đấng can thiệp, cất tiếng cảm tạ và tri ân lòng Chúa xót thương qua một sự kiện hay một biến cố chính xác, và trên hết, vì Giao Ước
Suy niệm Năm Thánh Lòng Thương Xót - Thương xót như Chúa Cha

Suy niệm Năm Thánh Lòng Thương Xót - Thương xót như Chúa Cha

Thương xót như Chúa Cha
(Misericordes sicut Pater)

Trong lời Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót do Đức Giáo Hoàng Phanxicô sáng tác, chúng ta đều đọc: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa dạy chúng con phải có lòng thương xót như Cha trên trời “ và chính Chúa là “Dung Mạo Lòng Thương Xót của Chúa Cha”, vì “ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha”.
Chính ánh mắt đầy yêu thương của Chúa đã giải thoát ông Da-kêu khỏi áp lực của tiền bạc và tội lỗi, khiến ông tìm gặp lại sự bình an và giao hòa với tha nhân;
chính lời mời gọi của Chúa đối với ông Mát-thêu, khiến ông quảng đại dấn thân đi theo Chúa không chút mặc cảm về quá khứ nặng nề của mình;
chính lời nói tha thứ đầy khoan dung của Chúa, khiến cho con người mang tiếng là tội lỗi như Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, không những cảm nhận được niềm hạnh phúc của con người được tha thứ, mà còn mạnh dạn gia nhập hàng ngũ các môn đệ của Chúa, quyết tâm theo Chúa đến tận cùng trong cuộc khổ nạn của Chúa, để rồi được trở nên người diễm phúc loan báo Tin mừng Phục sinh cho các Tông đồ;
và kỳ diệu làm sao, ánh mắt dịu hiền, bao dung đầy lòng thương xót của Chúa đã dọi vào người môn đệ Phê-rô sau khi ông đã vấp ngã vì sự yếu hèn của mình, giúp ông hoán cải mà trở nên con người mới, con người khiêm tốn đón nhận lời tha thứ, để rao giảng và trao ban lời tha thứ cho mọi người.
Phúc âm theo Thánh Lu-ca đã ghi lại điều lạ lùng: “Tất cả các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư liền xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lu-ca 15,1-2). Thật ngỡ ngàng! Thật khó có thể tưởng tượng nổi! Phường tội lỗi lại lui tới và chia sẻ bữa ăn với Đức Giê-su, như thể là những người bạn của nhau! Để hiểu rõ một cách thâm sâu mối tương quan kỳ diệu nầy, Thánh sử Lu-ca ghi tiếp ba câu chuyện rất sống động và cụ thể mà chính Đức Giê-su đã công bố: câu chuyện về con chiên lạc mất và được tìm thấy (Lu-ca 15,4-7); câu chuyện về đồng bạc bị đánh mất và được tìm thấy (Lu-ca 15,8-10 ) và nhất là câu chuyện về người cha nhân hậu, không những giàu lòng thương xót đối với người con thứ hư hỏng, hoang đàng, mà còn rất mực nhẫn nại yêu thương đối với người con cả cứng cỏi và quá lý sự (Lu-ca 15,11-32). Các câu chuyện về lòng thương xót cho chúng ta thấy “Thiên Chúa luôn tràn ngập vui mừng, nhất là khi Ngài tha thứ”. 
Đức Thánh Cha không ngần ngại nói rõ với chúng ta: “Nơi những dụ ngôn này, chúng ta thấy được điểm cốt lõi của Tin Mừng và của đức tin, vì lòng thương xót tỏ hiện như một sức mạnh vượt thắng tất cả, đong đầy trái tim bằng tình yêu thương và mang lại an ủi bằng ơn tha thứ”.
Vì thế “Thương xót như Chúa Cha” phải trở nên câu tâm niệm của mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội, cách riêng trong Năm Thánh Lòng Thương Xót; đó chính là trụ cột nâng đỡ Giáo Hội, đồng hành với bước đường hành hương của các tín hữu, mở ra chân trời bao la rộng lớn cho sứ vụ loan báo Tin mừng đến với muôn dân, mở rộng tâm hồn của chúng ta hướng đến “những người đang sống tại những vùng ven xa xôi nhất của kiếp nhân sinh, thường được tạo nên trong cảnh khốn cùng do chính thế giới ngày nay”.
Hội Đồng Giám mục Việt Nam, trong phiên họp kỳ II năm 2015 tại Toà Giám mục Xuân Lộc, đã đề nghị Ủy Ban Kinh Thánh chuẩn bị một số bài Lời Chúa về Lòng Thương Xót, nhằm chia sẻ cho Dân Chúa; vậy xin trân trọng giới thiệu các bài suy niệm và biên soạn của các thành viên trong Uỷ Ban Kinh Thánh / HĐGMVN và kính gửi đến quý vị như món quà chân tình của Năm Thánh Lòng Thương Xót.
Nha Trang, ngày 8 tháng 12 năm 2015
+ Giuse Võ Đức Minh
Giám mục Nha Trang
Chủ tịch UBKT/HĐGMVN
 

Bài 1: Thiên Chúa chúng ta đầy lòng thương xót

(Lc 1,78)[1]
Lm Vinh-sơn Trần Minh Thực, PSS
Tiêu đề bài viết này là một dạng phỏng dịch của phần đầu tiên trong Lc 1,78. Chúng tôi dùng từ phỏng dịch, vì có thể nói cách diễn tả “đầy lòng thương xót” mới chỉ hơi chạm tới được phần nào ý nghĩa của cụm từ splagkhna eleous (σπλάγχνα ἐλέους) trong bản văn tiếng Hi-lạp. Mỗi danh từ trong cụm từ này, splagkhnon (σπλάγχνον) và eleos (ἔλεος), gắn liền với một lịch sử thật dài trong đó Thiên Chúa đã can thiệp, tức là Ngài “viếng thăm” và “cứu chuộc” (x. Lc 1,68) những con người và dân tộc Ngài tuyển chọn. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của từng hạn từ trong cụm từ nêu trên, khám phá ý nghĩa của những hạn từ này trong một văn mạch cụ thể, để rồi thử đọc lại cụm từ này trong bối cảnh hiện tại.
NHỮNG NÉT NGHĨA CỦA CỤM TỪ
Tìm hiểu cụm từ splagkhna eleous
Trong toàn bộ bản văn Hi-lạp Tân Ước, cụm từ splagkhna eleous chỉ xuất hiện một lần duy nhất tại câu văn mà chúng ta đang tìm hiểu - splagkhna là dạng đối cách số nhiều của splagkhnon, đi liền theo giới từ dia (διά), ở đây là giới từ chỉ lí do, còn eleous là dạng thuộc cách số ít của eleos. Hai hạn từ này diễn tả lòng thương xót theo những sắc thái khác nhau.
Hạn từ splagkhnon xuất hiện 11 lần trong Tân Ước (Lc 1,78; Cv 1,18; 2 Cr 6,12; 7,15; Pl 1,8; 2,1; Cl 3,12; Plm 1,7.12.20; 1 Ga 3,17), và có nghĩa là: 1- những phần bên trong cơ thể, ruột gan; 2 - trung tâm cảm xúc, trái tim; 3 - tình yêu, cảm xúc. Những nghĩa trên đây trong các từ điển có thể giúp ta nhận thấy rằng về căn bản, hạn từ splagkhnon có nghĩa là ruột, hoặc nội tạng, bao gồm tim, gan, phổi, là những cơ quan được coi như điều khiển cảm xúc[2]. Nghĩa bóng của từ này, lòng trắc ẩn hay lòng thương xót, hẳn đã nảy sinh từ nét nghĩa căn bản đó. Như vậy, từ splagkhnon diễn tả mối thương cảm sâu xa được cảm nhận rõ nét từ tận trong ruột gan, những rung động từ tận tâm can.
Động từ cùng gốc với danh từ này là splagkhnizomai (σπλαγχνίζομαι) xuất hiện 12 lần trong Tân Ước (Mt 9,36; 14,14; 15,32; 18,27; Mc 1,41; 6,34; 8,2; 9,22; Lc 7,13; 10,33; 15,20), và thường được dịch là chạnh lòng thương.
Từ eleos xuất hiện 27 lần trong Tân Ước (Mt 9,13; 12,7; 23,23; Lc 1,50.54.58.72.78; 10,37; Rm 9,23; 11,31; 15,9; Gl 6,16; Ep 2,4; 1 Tm 1,2; 2 Tm 1,2.16.18; Tt 3,5; Hr 4,16; Gc 2,13; 3,17; 1 Pr 1,3; 2 Ga 1,3; Gđ 1,2.21), với nghĩa là lòng tốt, mối quan tâm, lòng thương xót, lòng trắc ẩn, lòng khoan dung nhân từ. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy trong số 6 lần danh từ này xuất hiện trong Tin Mừng Lu-ca, tới 5 lần là ở chương 1, trong đó 2 lần ở trong Bài Ca Chúc Tụng (Lc 1,68-79). Do vậy, Lc 1 có thể được xem như một bài ca ngợi khen lòng thương xót của Thiên Chúa.
Như đã nói, trong cụm từ splagkhna eleous, eleous là dạng thuộc cách số ít và được coi là thuộc cách chỉ phẩm chất (genitivus qualitatis), diễn tả lòng Thiên Chúa là tấm lòng thương xót[3]. Ở đây, hai từ splagkhnon và eleos, vốn có những nét nghĩa gần gũi, nhưng đồng thời cũng khác biệt nhau, được dùng liên kết với nhau khiến cho cụm từ này hàm chứa ý nghĩa vừa sâu sắc, vừa cụ thể. Cụm từ này khiến ta nhớ tới Hs 11,8 về tình yêu nồng cháy Thiên Chúa dành cho Dân Ngài:
“Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi!
Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành!
Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma,
để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được?
Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi.”
Đoạn văn này gợi ý cho chúng ta rằng để hiểu rõ hơn lòng thương xót được diễn tả trong cụm từ splagkhna eleous, ta cần đọc lại một số đoạn văn trong Cựu Ước.
Xem xét ý nghĩa trong tiếng Híp-ri
Bài Ca Chúc Tụng có hình thức của một Thánh vịnh theo truyền thống Do-thái. Xuất hiện trong bài ca này, hai hạn từ splagkhnon và eleos cũng bám rễ sâu trong truyền thống lâu đời này.
Hạn từ splagkhna, dạng đối cách số nhiều, có những nét nghĩa tương đồng với hạn từ raHámîm (רַחֲמִים), cũng là dạng số nhiều của reHem (רֶחֶם), có nghĩa là tử cung, các phần nội tạng, lòng thương xót, trắc ẩn (x. St 20,18; 43,14; Xh 13,2; Đnl 13,18). Chúng ta nhận thấy nét tương đồng của hai hạn từ splagkhna và raHámîm là ở chỗ chúng đều có nghĩa gốc chỉ một phần trong thân thể con người, từ đó nảy sinh nghĩa bóng là cảm xúc gắn liền với phần thân thể ấy. Bản Bảy Mươi (LXX) thường dùng hai hạn từ eleos và oiktirmoi (οἰκτιρμοὶ) để dịch hạn từ raHámîm. Tuy nhiên, xét về mặt ngữ nghĩa, hạn từ splagkhna gần với raHámîm hơn, và hạn từ splagkhna ở Lc 1,78 dường như là một cách dịch hạn từ raHámîm.
Trong Bản LXX, hạn từ eleos thường được dùng để dịch hạn từ Hesed (חֶ֫סֶד). Ngoài những nghĩa gần với những nét nghĩa của eleos được kể ra ở trên, Hesed mang nét nghĩa chính là bổn phận, lòng trung thành (x. St 19,19; 21,23; Xh 15,13; Ds 14,18; Đnl 5,10). Tác giả Walter Kasper đánh giá rằng Hesed là hạn từ quan trọng nhất giúp hiểu khái niệm lòng thương xót, vì Hesed vượt lên bên trên bình diện cảm xúc đau buồn trước thân phận con người. Hạn từ này không chỉ diễn tả một hành động đơn độc, nhưng một tiến trình, một tương quan, là hồng ân Thiên Chúa ban không, vượt mọi mong muốn và công trạng của con người[4]. Nói cách khác, Hesed biểu lộ lòng trung thành vĩnh cửu, tuyệt đối và vô điều kiện của Thiên Chúa[5].
Như vậy, cụm từ splagkhna eleous trong Lc 1,78 có thể xem như phản ảnh cặp từ raHámîm và Hesed, vừa diễn tả lòng thương xót rất cụ thể và nồng cháy, vừa cho thấy lòng trung thành bền bỉ và siêu việt của Thiên Chúa. Nhưng để hiểu cụm từ này, chúng ta không thể chỉ dừng lại ở bình diện ngữ nghĩa, mà cần phải mở rộng tầm nhìn để xem xét cụm từ trong văn mạch cụ thể.
TRONG BẢN VĂN Lc 1
Như đã nói, có thể xem Lc 1 như là bài ca lòng thương xót của Thiên Chúa với những sắc thái phong phú và sâu sắc của một lịch sử vừa mang tính hiện tại, vừa bao hàm những biến cố trong quá khứ.
Lc 1,50 : “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.”
Hạn từ eleos xuất hiện ở đây, nơi trung tâm của Bài Ca Magnificat (Lc 1,46-55), ở vị trí bản lề, vị trí then chốt, vừa để chúc tụng kì công của Thiên Chúa trong cuộc đời Đức Ma-ri-a, vừa để ngợi khen lòng trung thành của Thiên Chúa trải dài nơi muôn con người từ đời nọ tới đời kia.
Trước tiên, Đức Ma-ri-a ca ngợi Thiên Chúa là “Đấng cứu độ” (Lc 1,47), Đấng “đoái thương nhìn tới” thân phận “nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48), “Đấng Toàn Năng” đã làm cho ngài “biết bao điều cao cả” (Lc 1,49). Có thể nói tất cả những cách diễn tả vừa kể trong các câu Lc 1,47-49 là những biểu hiện khác nhau của lòng thương xót Thiên Chúa dành cho một con người cụ thể là Đức Ma-ri-a. Trong cái nhìn như thế, lời chúc tụng ở các câu Lc 1,46-50 có thể tiếp tục mở rộng đến ông Gia-ca-ri-a, bà Ê-li-sa-bét (x. Lc 1,58), và xa hơn, tới mọi cá nhân đã được Thiên Chúa “đoái thương nhìn tới”.
Tuy nhiên, thông thường ơn cứu độ được ban cho một người không chỉ vì người đó, nhưng còn nhằm đến những con người, nhằm đến cả dân tộc. Bài Ca Magnificat không dừng lại ở những gì Thiên Chúa làm cho Đức Ma-ri-a, vì lòng thương xót, tức eleos, của Thiên Chúa cũng là lòng trung thành, tức Hesed, của Ngài đối với giao ước mà Ngài đã kí kết với dân Ít-ra-en. Lòng trung thành này được diễn tả một cách cụ thể và đặc biệt ở Lc 1,54 với lối diễn tả mnēsthēnai eleous (μνησθῆναι ἐλέους)[6], “Ngài nhớ lại lòng thương xót”. Ở đây, một lần nữa hạn từ eleos lại xuất hiện nhằm diễn tả lòng trung thành, Hesed, của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa “nhớ lại” có nghĩa là Ngài trung thành thực thi lời đã hứa[7] với “tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1,55).
Như vậy, hạn từ eleos ở Lc 1,50 không chỉ kết nối chiều kích cá nhân và chiều kích tập thể, quá khứ hiện tại và tương lai, trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, mà còn cho thấy lòng thương xót và lòng trung thành gắn bó chặt chẽ, vì là hai mặt của một thực tại, vì chúng là những nét nghĩa khác nhau của một hạn từ duy nhất, Hesed.
Trong Bài Ca Chúc Tụng (Lc 1,68-79)
Hạn từ eleos xuất hiện hai lần trong Bài Ca Chúc Tụng, ở Lc 1,72.78. Có thể nói lòng thương xót và trung thành của Thiên Chúa được trình bày trong Bài Ca Magnificat được mở rộng một cách đặc biệt trong Bài Ca Chúc Tụng. Những lần hạn từ eleos xuất hiện trong bài ca này dường như để kết nối nhiều yếu tố khác nhau trong lịch sử cứu độ.
Lc 1,72 diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa một cách rất cụ thể, với lối diễn tả poiēsai eleos (ποιῆσαι ἔλεος), dịch sát là sẽ thực thi lòng thương xót[8]. Lối diễn tả này thường được Bản LXX dùng để dịch cách nói `äSâ Hesed (חֶ֫סֶד עָשָׂה) trong bản văn Kinh Thánh tiếng Híp-ri (x. St 24,12; Tl 1,24; 8,35; R 1,8; 1 Sm 20,8). Việc so sánh như thế cho chúng ta thấy rằng bản văn Lc 1,72 không chỉ đơn thuần đề cập tới lòng thương xót hay lòng trung thành trong cách thức hành động của Thiên Chúa, mà ở đây, lòng thương xót, trung thành, tín nghĩa của Thiên Chúa còn gắn liền với giao ước, cùng với lời “đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 1,73)[9]. Có thể nói Lc 1,72 vừa là trung tâm, vừa tóm lược phần đầu của Bài Ca Chúc Tụng, Lc 1,68-75, về đường lối, thái độ thương xót-trung thành-tín nghĩa của “Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en” (Lc 1,68) trải dài trong lịch sử lâu dài, từ Áp-ra-ham qua Đa-vít, trải từ đời nọ qua đời kia, đồng thời mở ra với hiện tại và tương lai.
Như vậy, ở Lc 1,72, eleos trở thành sợi chỉ xuyên suốt lịch sử cứu độ, dệt nên cách thức hành động nhân từ và trung tín của Thiên Chúa.
Với Lc 1,78, lòng thương xót và trung thành của “Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en” trong Lc 1,68-75 chuyển qua một cung bậc khác, vì nó kết nối hai nhân vật nổi bật vào thời viên mãn của ơn cứu độ[10].
Trong phần thứ hai này (Lc 1,76-79) của Bài Ca Chúc Tụng, kẻ “đi trước Chúa” (Lc 1,76) và “Vầng Đông” (Lc 1,78) được liên kết với nhau qua cụm từ splagkhna eleous. Có thể nói với hạn từ splagkhna trong Lc 1,78 - với tất cả những nét nghĩa cụ thể, nóng hổi kinh nghiệm nhân sinh như phần trên đã trình bày - lòng thương thương xót của Thiên Chúa đã “đã trở nên xác phàm” (Ga 1,14), trong khi eleos ở đây tiếp tục diễn tả lòng thương xót-trung thành-tín nghĩa của Thiên Chúa. Việc Thiên Chúa “cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta” (Lc 1,78) có thể hiểu như là kết quả của lòng thương xót mạnh mẽ vô biên của Ngài, splagkhna eleous.
Một điểm khác nữa cũng cần lưu ý ở đây là Bài Ca Chúc Tụng mang dấu vết của dạng cấu trúc đóng khung (inclusio), với “Vị Cứu Tinh quyền thế” ở Lc 1,69 và “Vầng Đông tự chốn cao vời” ở Lc 1,78, cùng với động từ episkeptomai (ἐπισκέπτομαι - viếng thăm) ở Lc 1,68 và Lc 1,78. Đây có thể coi như một lí chứng thêm vào giúp xác định rằng “Vầng Đông” ở đây nhằm ám chỉ “Vị Cứu Tinh”, tức là Đấng Mê-si-a, chứ không phải Gio-an Tẩy Giả như một số học giả đề nghị[11]. Đàng khác, với cách hiểu “Vầng Đông” là chính Đấng Mê-si-a, tính chất cầu nối giữa hai nhân vật trọng yếu của cụm từ splagkhna eleous được nhận diện rõ nét hơn, vì điều được loan báo ở đây sẽ triển nở viên mãn với trình thuật về cuộc hạ sinh của “Đấng Ki-tô Đức Chúa”, liền sau Bài Ca Chúc Tụng, trong Lc 2,1-20.
Như vậy, cụm từ splagkhna eleous - xuất hiện ở cuối Bài Ca Chúc Tụng với chủ đề chính là ơn cứu độ và sự giải thoát - vừa là đỉnh cao, vừa tóm kết bài ca dài về lòng thương xót của Thiên Chúa trong Lc 1. Không chỉ dừng lại ở đó, cụm từ này còn đúc kết đường lối hành động đầy lòng thương xót và trung tín của Thiên Chúa trong suốt lịch sử cứu độ, trải từ đời nọ tới đời kia. Có thể nói, với Lc 1,78, cụm splagkhna eleous vừa tóm lược lịch sử việc Thiên Chúa trung thành với lời giao ước trong quá khứ, vừa mở ra chân trời của giao ước mới.
TRONG BỐI CẢNH HIỆN TẠI
Chúng ta vừa trải qua một hành trình khám phá cụm từ splagkhna eleous dưới khía cạnh ngữ nghĩa và trong văn mạch Lc 1. Thiết tưởng chúng ta không thể bỏ qua nỗ lực đọc và hiểu cụm từ quan trọng này trong bối cảnh hiện tại.
Lòng thương xót cháy bỏng của Thiên Chúa với chúng ta
Trong các phần trên chúng tôi đã trình bày những ý nghĩa rất cụ thể và rất hiện sinh của hạn từ splagkhna. Những ý nghĩa này khiến độc giả như nghe được nhịp đập trong con tim của Thiên Chúa. Nhưng khi quay trở lại với cuộc sống hiện tại, chúng ta lại như thấy nhịp đập mạnh mẽ ấy dường như chỉ tồn tại trên mặt giấy của bản văn Kinh Thánh.
Cuộc sống thực tế phơi bày cho chúng ta những thực tại xót xa, liên quan đến thân phận từng người, thân phận của cả quốc gia, và rộng hơn, cả trên phạm vi toàn nhân loại. Ở phạm vi cá nhân, những khó khăn trong công việc làm ăn, trong đời sống gia đình, bệnh tật, và bao nhiêu thứ bất trắc khiến cuộc sống của mỗi con người không hề dễ dàng. Rộng lớn hơn, trên bình diện quốc gia, thế kỉ 20 được ghi dấu bằng những cuộc chiến tranh đằng đẵng và đẫm máu. Sau chiến tranh, hệ thống vận hành mù quáng và lạc hậu đã nghiền nát biết bao thân phận con người. Hiện tại và tương lai cũng không có gì sáng sủa. Ở tầm thế giới, thế kỉ 20 là thế kỉ của những cuộc chiến lớn. Thế kỉ 21 bắt đầu với sự kiện khủng khiếp ngày 11-9-2001. Bên cạnh đó là những cuộc chiến mới đây, với tổ chức IS, và còn biết bao thiên tai và nhân họa liên tiếp giáng xuống đầu con người của thời đại chúng ta. Liệu chúng ta còn có thể nói về lòng thương xót của Thiên Chúa nữa không? Phải chăng con tim cháy bỏng yêu thương của Thiên Chúa đã ra nguội lạnh, và những hành động đầy lòng thương xót của Ngài chỉ là chuyện của quá khứ?
Cách chúng ta vài ngàn năm, tác giả Thánh vịnh cũng đã thốt ra những câu hỏi tương tự như thế:
“Tình yêu Chúa phải chăng nay cạn hẳn
và thánh ngôn chấm dứt đời đời?
Hay Thiên Chúa đã quên thương xót,
vì giận hờn mà khép kín từ tâm?” (Tv 77,9-10).
Cuộc sống trong quá khứ không dễ dàng hơn, cũng không thiếu những tai ương đủ loại. Con người ở mọi thời đại vẫn luôn phải đối mặt với đủ thứ đe dọa, đủ loại bất trắc. Liên quan trực tiếp tới cụm từ chúng ta đang tìm hiểu, những con người cụ thể như Gia-ca-ri-a, Ê-li-sa-bét, Gio-an Tẩy Giả, Đức Ma-ri-a, cũng phải đối mặt với đủ loại khó khăn của thân phận những người bị trị. Vị từng được nhắc tới trong Bài Ca Chúc Tụng như là kẻ “đi trước Chúa, mở lối cho Người” sẽ kết thúc cuộc đời, đầu lìa khỏi cổ (x. Lc 9,9). Còn Đấng được gọi là “Vầng Đông tự chốn cao vời” còn có kết cục thê thảm hơn: chết treo trên thập giá (x. Lc 23,33-34). Một điều khác nữa ta cần ghi nhận: những đoạn Tin Mừng tràn đầy niềm vui và hi vọng mà chúng ta vẫn đọc hằng ngày được viết ra trong một giai đoạn mà các cộng đoàn Ki-tô hữu bị Đế quốc Rô-ma bách hại. Cuộc sống và thân phận của các nhân vật trong Kinh Thánh cũng như những tín hữu đọc Kinh Thánh thời đó không kém bi thảm và bất trắc hơn thân phận con người trong thời đại của chúng ta. Những cuộc chiến trong thế giới cổ đại cũng không kém phần tàn bạo và đẫm máu so với thời đại chúng ta. Hơn nữa, những nhân vật trong Kinh Thánh và các tín hữu đọc Kinh Thánh thời đó cũng không chúc tụng lòng thương xót của Thiên Chúa một cách dễ dãi và ngây thơ. Khác với chúng ta, giữa những đau thương và ở những thời khắc bi thảm nhất của cuộc sống, những con người đó vẫn nhờ ánh sáng đức tin, ánh sáng chỉ le lói trong đêm tối mù mịt, mà nhận ra lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Khi nhìn mọi biến cố, vui cũng như buồn, tai ương cũng như hạnh phúc, trong ánh sáng ơn cứu độ của Thiên Chúa, người ta có thể nhận ra lòng thương xót hải hà của Thiên Chúa trong mọi sự. Và như vậy, họ vẫn như cảm nhận được nhịp đập nóng hổi nơi con tim đầy lòng thương xót của Thiên Chúa qua mọi biến cố hằng ngày. Đó có thể là điều mỗi chúng ta đang cần và đang thiếu: nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa trong cuộc sống hiên tại, tức là đọc ra được “dấu chỉ của thời đại”[12].
Thiên Chúa vẫn luôn thành tín với lời Ngài đã hứa
Khi nhận ra rằng Thiên Chúa vẫn luôn đầy lòng thương xót, chúng ta đồng thời cũng nhận ra rằng Thiên Chúa vẫn luôn trung tín với lời hứa “dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1,55). Chúng ta như thấy được lòng trung tín ấy qua “dấu chỉ” những lần Thiên Chúa “viếng thăm và cứu chuộc” (Lc 1,68).
Chúng ta không thể phủ nhận rằng những tai ương đủ loại, với những nỗi đau khổ tột cùng của những người vô tội, vẫn luôn là một thử thách, một nan đề, với những người dám suy nghĩ về đức tin của mình một cách nghiêm túc. Tác giả Walter Kasper gọi tên tất cả những tai họa như chiến tranh, bệnh tật, các loại thiên tai hay nhân họa đầy rẫy trong xã hội hiện đại như là những “dấu chỉ của thời đại”. Vì con người đã từng mang ảo tưởng rằng việc phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, hoặc nhẹ hơn, phủ nhận lòng thương xót của Ngài, sẽ giúp tìm ra hướng giải quyết cho nan đề nêu trên. Kết quả là họ rơi vào sự trống rỗng không lối thoát, hoặc sa đà vào những chủ thuyết lệch lạc, khiến cho đau khổ nơi người vô tội lại như chồng chất và còn trở nên kinh khủng hơn. Cách nào đó, thiếu ánh sáng về lòng thương xót và ơn cứu độ của Thiên Chúa, con người cảm thấy sự hiện hữu của mình thành bất hạnh và vô nghĩa[13]. Điều đó có thể là một “dấu chỉ” cho thấy Thiên Chúa vẫn tiếp tục trung thành “viếng thăm và cứu chuộc” những ai ngước nhìn lên Ngài bằng ánh mắt tin tưởng, vì: “Đức tin giúp chúng ta xác tín rằng, Thiên Chúa sẽ không cho phép có sự dữ xảy ra nếu Người không rút được sự lành từ chính sự dữ, bằng những con đường mà chúng ta chỉ biết được trọn vẹn trong đời sống vĩnh cửu.”[14]
Hơn thế nữa, chúng ta còn có thể đọc được “dấu chỉ” về lòng thành tín của Thiên Chúa đối với lời hứa cứu độ dành cho toàn nhân loại thông qua biết bao những con người thánh thiện, hữu danh và vô danh, bởi vì hơn ai hết, họ là những “dấu chỉ” cụ thể và hữu hình về sự hiện diện, lòng trung tín và thương xót của Thiên Chúa dành cho thế giới này. Trong sứ điệp gửi nước Pháp ngày 29-9-1986, Đức Gio-an Phao-lô II đã nhắc lại lời thánh Gio-an Vi-a-nây: “Nơi đâu mà những vị thánh đi qua, Thiên Chúa cũng đi qua cùng với các ngài.”[15] Bên cạnh đó, những tác động mạnh mẽ mà Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục thực hiện trong thế giới, nhất là trong lòng Hội Thánh vẫn tiếp tục là những “dấu chỉ” cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong trầm luân, tai họa và thống khổ, Ngài vẫn thành tín yêu thương và “viếng thăm” nhân loại. Không phải vô tình mà trong diễn văn khai mạc Công Đồng Va-ti-ca-nô II, ngày 11-10-1962, Đức Gio-an XXIII đã chỉ chìa khóa cho những vấn đề của thế giới và Giáo Hội là “phương thuốc lòng thương xót”[16]
Tất cả những “dấu chỉ” đó và còn rất nhiều những “dấu chỉ của thời đại” vẫn tiếp tục khẳng định với những ai dám đặt niềm in vào Thiên Chúa rằng “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta” (Ep 2,4).
Trở lại với cụm từ splagkhna eleous, sau bài tìm hiểu ngắn này, hẳn độc giả cũng đồng ý với chúng tôi rằng các bản dịch tiếng Việt, và rất nhiều bản dịch ra các ngôn ngữ khác, chỉ mới hơi chạm tới được bề mặt ý nghĩa của cụm từ này. Chiều sâu ý nghĩa với cả một lịch sử dài Thiên Chúa “viếng thăm” và “cứu chuộc” những con người và những dân tộc cụ thể là những điều không thể dịch được. Thông qua việc tìm hiểu ý nghĩa ngôn từ, ý nghĩa của cụm từ trong văn mạch, và nỗ lực đặt những ý nghĩa đó trong bối cảnh thế giới hiện đại, chúng tôi hi vọng độc giả có thể hiểu rõ hơn đường lối đầy thương xót và tín thành của Thiên Chúa trong lịch sử, để rồi cùng với tác giả Thánh vịnh chúng ta chúc tụng rằng:
“Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136,1).
––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
[1] Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng bản dịch, cách ghi tên và viết tắt các sách trong bộ Kinh Thánh theo Nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ (Nhóm CGKPV), ấn bản năm 2011.
[2] X. Reiling, J., & Swellengrebel, J. L., A Handbook on the Gospel of Luke (New York 1971), tr. 99; Nolland, J., Word Biblical Commentary: Luke 1:1-9:20. 35A (Dallas 2002) tr. 89; Fitzmyer, J. A., The Gospel according to Luke I-IX: Introduction, translation, and notes (New Haven – London: Yale University Press 2008) tr. 386.
[3] X. Bovon, F., & Koester, H., Luke 1: A commentary, tr. 76.
[4] X. Kasper, W., Mercy. The Essence of the Gospel and the Key to Christian Life (New York – Mahwah 2014), chúng tôi tham khảo bản ebook, III, 1.
[5] Trong Cựu Ước (x. St 24,27.49), lòng trung thành của Thiên Chúa được diễn tả cách đặc biệt khi hạn từ Hesed (חֶ֫סֶד) đi cùng với ´émet (אֱמֶת).
[6] Trong bản văn Hi-lạp, cụm từ này xuất hiện ở câu 54. Chúng tôi không hiểu tại sao trong bản dịch của Nhóm CGKPV, cụm từ này lại được chuyển sang câu 55.
[7] X. Nhóm CGKPV, Kinh Thánh (ấn bản 2011), chú thích b, tr. 2263.
[8] Nhóm CGKPV dịch là “sẽ trọn bề nhân nghĩa”.
[9] X. Nolland, J., Word Biblical Commentary, tr. 87.
[10] X. Bovon, F., & Koester, H., Luke 1 : A commentary, tr. 76.
[11] X. Fitzmyer, J. A., The Gospel according to Luke I-IX, tr. 387.
[12] Hiến chế Vui Mừng và Hi Vọng, số 4.
[13] X. Kasper, W., Mercy. I.1.
[14] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (bản dịch 1997), số 324.
[15] Trích từ trang điện tử: w2.vatican.va/content/john-paul-ii/fr/speeches/1986/september/documents/hf_jp-ii_spe_19860929_popolo-francese.html, truy cập ngày 31-10-2015.
[16] Trích từ trang điện tử: http://w2.vatican.va/content/john-xxiii/it/speeches/1962/documents/hf_j-xxiii_spe_19621011_opening-council.html, truy cập ngày 31-10-2015.
 Lm Vinh-sơn Trần Minh Thực, PSS
 

 Bài 2: Bài ca của Đức Ma-ri-a, bài ca lòng Chúa xót thương

(Lc 1, 46-55)
Lm Inhaxiô Hồ Thông
Dẫn nhập:
Đức Ma-ri-a đã cất lên bài “Ngợi khen” ca ngợi “lòng Chúa xót thương” trong bối cảnh “thăm viếng bà Ê-li-sa-bét”. Bà Ê-li-sa-bét “được đầy tràn Thánh Thần” (1,41) nhận biết đầy đủ ý nghĩa của những sự việc xảy ra trong lòng bà và chung quanh bà, từ đó bà đã cất tiếng ca ngợi hai ân phúc lớn lao hình thành nên sự cao cả của Đức Ma-ri-a, người em họ mình: Ân phúc được làm Mẹ Thiên Chúa (1,42-43) và ân phúc vì Mẹ đã tin rằng lời Chúa nói với Mẹ sẽ được thực hiện (1,45). Ở nơi Đức Ma-ri-a, hai ân phúc này là một, theo đó ân phúc được làm Mẹ Thiên Chúa là kết quả của ân phúc tin vào lời Chúa. Quả thật, ngay khi tin rằng lời Chúa nói với Mẹ sẽ được thực hiện, Đức Ma-ri-a trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa làm người trong cung lòng Mẹ.
Đây là điều Mẹ đã muốn giữ kín trong lòng, nay bà Ê-li-sa-bét đã phát hiện, vì thế Mẹ không còn lý do gì để giữ kín nữa, nhưng để cho niềm cảm tạ tri ân của mình vỡ tràn thành bài ca“Ngợi khen”: “Hoa trái đầu tiên của Chúa Thánh Thần là bình an và niềm vui. Và Đức Trinh Nữ đã đón nhận trong cung lòng của Mẹ tất cả ân sủng của Chúa Thánh Thần” (St Basil, In Psalmos homiliae, on Ps 32).
Bài “Ngợi khen” của Đức Ma-ri-a hòa nhập vào dòng chảy cảm tạ tri ân của những người Do Thái mộ đạo. Đối với người Do Thái đạo hạnh, không có biến cố nào, dù giản dị mấy đi nữa, mà không trở thành một bài ca chúc tụng Thiên Chúa của mình. Một ngày sống của một người Do Thái thánh thiện được đan dệt bằng những lời cảm tạ và tri ân Thiên Chúa của mình. Tâm tình mà người Do Thái dành cho Thiên Chúa của mình rất cụ thể, thực tế. Họ không bao giờ chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong thế giới trừu tượng, nhưng thân thưa với Thiên Chúa của mình là Đấng sáng tạo, Đấng hoạt động, Đấng can thiệp, cất tiếng cảm tạ và tri ân lòng Chúa xót thương qua một sự kiện hay một biến cố chính xác, và trên hết, vì Giao Ước. Do đó, có biết bao bài thánh thi tự phát mà Cựu Ước vẫn còn trân trọng bảo tồn cho chúng ta, chẳng hạn như nguồn thi hứng bất tận của nhiều Thánh vịnh; bài thánh thi của ông Môsê ca ngợi ơn cứu thoát của Thiên Chúa sau khi vượt qua biển Đỏ (Xh 15,1-18); bài thánh thi của bà Đơvôra hát mừng Thiên Chúa, Đấng thân chinh cùng Ít-ra-en trong cuộc chiến thắng quân Ca-na-an (Tl 5,1-31); những bài thánh thi trong sách Tô-bi-a, nhất là bài thánh thi sau cùng xưng tụng Thiên Chúa vì đã cho họ được thấy một thiên sứ của Thiên Chúa (Tb 13,1-17); và cuối cùng, đặc biệt là bài thánh thi của bà An-na, mẹ của ông Sa-mu-en, bà cất tiếng cảm tạ tri ân lòng Chúa xót thương dành cho bà khi ban cho bà một người con biết bao mong đợi (1 Sm 2,1-10). Bài “Ngợi khen” của Đức Ma-ri-a được khơi nguồn cảm hứng từ bài thánh thi của bà An-na này.
Trong bài “Ngợi khen” của Đức Ma-ri-a, các câu Kinh Thánh không được trích dẫn cách minh nhiên, tuy nhiên chúng được đan kết với nhau bằng những ngôn từ, những diễn ngữ gợi mở độc giả đến những câu, những đoạn Kinh Thánh Cựu Ước đa dạng. Mỗi người Do Thái đạo hạnh vào thời đó đã cầu nguyện bằng những lời Kinh Thánh hay suy gẫm những gì mà họ nhớ khi đọc Kinh Thánh, vì thế chẳng có gì ngạc nhiên khi đọc thấy trong bài Ngợi khen, Đức Ma-ri-a thốt lên những lời cầu nguyện theo cùng cách thức như thế. Thêm nữa, chính Chúa Thánh Thần đã gợi hứng cho các tác giả Cựu Ước, bây giờ Ngài gợi hứng cho Đức Ma-ri-a cất tiếng ngợi khen lòng Chúa xót thương: “Kinh Magnificat, – có thể nói, là bức chân dung của tâm hồn Mẹ – hoàn toàn được dệt nên bằng các sợi chỉ Kinh Thánh, những sợi chỉ rút ra từ Lời Chúa. Như thế, khi ở trong Lời Chúa, Đức Ma-ri-a tỏ ra thật sự ở trong nhà mình, Mẹ thoải mái đi ra đi vào. Mẹ nói năng và suy nghĩ nhờ Lời Chúa; Lời Chúa trở thành lời của Mẹ, và lời của Mẹ phát sinh từ Lời Chúa. Ở đây, chúng ta thấy tư tưởng của Mẹ hoà điệu với tư tưởng của Thiên Chúa như thế nào, ý muốn của Mẹ nên một với ý muốn của Thiên Chúa như thế nào. Vì được Lời Chúa thấm nhuần sâu xa, Đức Ma-ri-a có thể trở thành Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể” (ĐTC Bênêđictô XVI, “Verbum Domini”, 74).
Bài “Ngợi khen” này, một bài thánh thi lóng lánh những sắc màu chan chứa tâm tình cảm tạ và tri ân lòng Chúa xót thương, gồm ba khổ thơ được phân biệt rất rõ nét:
A- Đức Ma-ri-a ca ngợi lòng Chúa xót thương dành cho bản thân Mẹ (1,46-50).
B- Đức Ma-ri-a ca ngợi lòng Chúa xót thương dành cho những người phận nhỏ (1,51-53).
C- Đức Ma-ri-a ca ngợi lòng Chúa xót thương dành cho dân tộc Mẹ (1,54-55).
A- Đức Ma-ri-a ca ngợi lòng Chúa xót thương dành cho bản thân Mẹ (1,46-50)
Trong khổ thơ thứ nhất (1,46-50), Đức Ma-ri-a cất tiếng ngợi khen lòng Chúa xót thương dành cho bản thân Mẹ, vì Ngài đã ban cho Mẹ biết bao ân phúc.
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (1,46-47)
Bài ca của bà An-na cũng bắt đầu với tâm tình tương tự như vậy:
“Tâm hồn con hoan hỷ vì Đức Chúa,
nhờ Đức Chúa, con ngẩng đầu hiên ngang.
Con mở miệng nhạo báng quân thù:
Vâng, con vui sướng vì được Người cứu độ” (1 Sm 2,1).
W. Barclay nhận xét rằng những câu mở đầu bài “Ngợi khen” của Đức Ma-ri-a dưới khía cạnh “cuộc cách mạng tâm linh”: “Cô thiếu nữ trẻ trung, đơn sơ, khiêm nhường của Na-da-rét hai ngàn năm trước đã nhận được cuộc thăm viếng kỳ diệu của Chúa. Hồng ân tuyệt diệu đó đã tác động, biến đổi, khiến cô có thể dâng bài ca chúc tụng Chúa Hằng Sống” (W. Barclay, TM Luca, 14).
“Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc” (1,48)
Trong trường hợp của Đức Trinh Nữ, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ nhiều ân ban hơn bất cứ người nào khác, đặc biệt chỉ là một trinh nữ hèn mọn làng quê Na-da-rét được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Con Một nhập thể của Ngài. Từ trước cho đến nay, Thiên Chúa đã biểu lộ lòng xót thương của Ngài cho biết bao người trong dân Chúa chọn như Ngài đã cất nỗi tủi nhục của bà Xa-ra, mẹ của I-xa-ác; bà An-na, mẹ của Sa-mu-en; hay bà Ê-li-sa-bét, mẹ của Gioan Tẩy Giả, nhưng chưa bao giờ Ngài bày tỏ lòng xót thương dành cho Đức Ma-ri-a đến mức Mẹ vừa là Mẹ của Con Một Ngài vừa là Trinh Nữ. Vào ngày lễ tôn kính Đức Ma-ri-a, Giáo Hội đã ca ngợi Mẹ ở nơi ân phúc cao vời này: “Lạy Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ thật diễm phúc, vì đã cưu mang Đấng tạo thành nên Mẹ và muôn đời Mẹ vẫn trinh khiết” (Sách lễ Rôma, Ca nhập lễ). Đức Thánh Cha Pi-ô X mời gọi các tín hữu:“Vui với Đức Mẹ vì phẩm giá của Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và ca ngợi Chúa, cảm tạ Ngài vì đã ban cho chúng ta Đức Giê-su Ki-tô qua Đức Ma-ri-a” (St Pius X Cathechism, 333).
Việc Đức Ma-ri-a tự nhận mình là “Phận nữ tỳ hèn mọn” khiến thánh Bê-na-đô đã phải thốt lên: “Sự chết đã đột nhập vào thế gian qua sự tự cao tự đại của hai ông bà nguyên tổ chúng ta như thế nào, thì Sự Sống đột nhập vào thế gian được bày tỏ qua đức khiêm hạ của Đức Ma-ri-a cũng như vậy” (In Lucae Evangelium expositio, in loc.). Với lời này “Người đoái thương nhìn tới”, Đức Ma-ri-a không còn tham chiếu đến bài ca của bà An-na nữa, nhưng đến lời khấn hứa nồng nàn thấm đẫm nước mắt của bà An-na khi thổ lộ tâm can cùng Thiên Chúa: “Lạy Đức Chúa, nếu Người đoái nhìn đến nỗi khổ cực của nữ tỳ Người đây” (1 Sm 1,10).
Thiên Chúa ân thưởng cho đức khiêm hạ của Đức Trinh Nữ khi vén mở cho nhân loại nhận biết sự cao cả của Mẹ: “Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Lời này được ứng nghiệm mỗi lần người tín hữu đọc Kinh Kính Mừng, và quả thật trên trần thế Mẹ được ca ngợi liên tục không hề dứt. “Từ những thời rất xa xưa, Đức Trinh Nữ đã được tôn kính dưới tước hiệu ‘Mẹ Thiên Chúa’, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó. Nhất là từ công đồng Ê-phê-xô, Dân Thiên Chúa đã gia tăng lòng tôn kính Đức Ma-ri-a cách lạ lùng: họ sùng kính mến yêu, cầu khẩn và noi gương đúng như lời Mẹ đã tiên báo: ‘Muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại’” (Vatican II, Lumen gentium, 66).
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!” (1,49)
Lời này được mượn ý tứ từ Tv 71,19: “Người làm những việc lớn lao, lạy Thiên Chúa, nào ai sánh tày!” và được thích ứng vào cá nhân Đức Ma-ri-a. Đức Ma-ri-a thêm vào đây một lời khẩn nguyện của riêng mình: “Danh Người thật chí thánh chí tôn!”, kiểu nói này mang đậm nét Do Thái và được Chúa Giê-su lấy lại trong Kinh Lạy Cha: “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” (Lc 11,2).
“Đời nọ đến đời kia,
Chúa hằng thương xót
những ai kính sợ Người” (1,50)
Ngay từ giây phút Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng trinh khiết của Đức Ma-ri-a, những lời này mở ra một viễn cảnh lịch sử cứu độ. Sau biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su, viễn cảnh này thật sự mới về cả phương diện lịch sử lẫn phương diện cánh chung. Từ đó cho đến nay, lòng Chúa thương xót không hề dứt, từ thế hệ này đến thế hệ khác, dành cho những ai kính sợ Chúa trong gia đình nhân loại bao la, theo chiều hướng càng lúc càng gia tăng. Đó cũng là lòng Chúa thương xót không hề vơi, từ thế hệ này đến thế hệ khác, dành cho Dân Thiên Chúa Mới, được ghi dấu cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su và “được đóng ấn” bởi mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Một mặc khải tuyệt mức về lòng Chúa xót thương mà Đức Ma-ri-a đã công bố ở ngưỡng cửa nhà chị họ của Mẹ.
Trong khổ thơ thứ nhất này, Đức Ma-ri-a ngợi khen lòng Chúa xót thương dành cho Mẹ khi Ngài chọn Mẹ làm Mẹ Con của Ngài, dù Mẹ chỉ là phận nữ tỳ hèn mọn, chẳng có công trạng gì. Đó là lý do tại sao các thế hệ tương lai sẽ gọi Mẹ là người có phúc nhất. Do đó, Mẹ hiểu hơn ai hết rằng biến cố Nhập Thể là cách thức diễn tả tận mức lòng Chúa xót thương. “Vì thế, Đức Ma-ri-a là người ‘có một sự hiểu biết sâu xa nhất về mầu nhiệm lòng xót thương của Thiên Chúa’. Mẹ biết giá trị của mầu nhiệm này, Mẹ biết mầu nhiệm này thật vĩ đại biết bao. Theo ý nghĩa này, chúng ta gọi Mẹ: ‘Đức Bà đầy tràn lòng Chúa xót thương’  hay “Đức Mẹ chan chứa lòng Chúa xót thương”; ở nơi mỗi tước hiệu này có một ý nghĩa thần học sâu xa, vì chúng diễn tả sự chuẩn bị đặc biệt của tâm hồn Mẹ, toàn bộ nhân cách của Mẹ, đến nỗi Mẹ đã có thể nhận biết, qua những biến cố phức tạp, trước hết của Ít-ra-en, đoạn của mỗi một cá nhân và của toàn thể nhân loại, rằng lòng Chúa xót thương dành cho họ ‘đời nọ đến đời kia’ đó là trở nên những người được dự phần vào kế hoạch ngàn đời của Ba Ngôi Cực Thánh” (Đức Gio-an Phao-lô II, Dives in misericordia, 9).
B- Đức Ma-ri-a ca ngợi lòng Chúa xót thương dành cho những người phận nhỏ (1,51-53)
Trong khổ thơ thứ hai (1,51-53), nhân danh những người phận nhỏ, Đức Ma-ri-a tán dương Thiên Chúa vì Ngài hằng đoái thương nhìn đến phận hèn bé mọn của họ (1,51-53).
“Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kêu căng” (1,51)
W. Barclay giải thích câu này dưới khía cạnh“cuộc cách mạng luân lý”. Đối với những ai tự cao tự đại cho mình trên những người khác và khinh thường những người khác, Thiên Chúa sẽ phân tán họ như Ngài đã phân tán những người xây dựng tháp Ba-ben “có đỉnh cao chọc trời” và tự cao tự đại rằng “ta phải làm cho danh ta lẫy lừng” (St 11,4). Thánh J. Escriva giải thích như sau: “Khi tính tự cao tự đại ngự trị một tâm hồn, không gì phải ngạc nhiên tính xấu này kéo theo những tính xấu khác – tham lam, tự mãn, thèm muốn, bất chính. Những kẻ tự cao tự đại ra sức lật đổ ngai Thiên Chúa, Đấng đầy lòng xót thương với mọi loài thọ tạo của Ngài, để chiếm lấy chỗ của Ngài bằng những phương thế tàn bạo của mình. Chúng ta hãy cầu xin Chúa đừng để mình sa vào chước cám dỗ này. Tính tự cao tự đại là tội xấu xa nhất và kỳ chướng nhất… Tính tự cao tự đại thật khó thương, ngay cả trên quan điểm con người. Ai tự cho mình trên mọi người và mọi việc, người ấy thường coi mình như mẫu gương đòi buộc những người khác bắt chước noi theo và khinh thường tha nhân. Đến lượt những người khác phản ứng lại bằng cách chế giễu sự vô lối điên rồ của hắn” (J. Escriva, Friends of God, 100).
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (1,52)
W. Barclay giải thích câu này dưới khía cạnh“cuộc cách mạng xã hội”. Đức Ma-ri-a ca ngợi lòng Chúa xót thương vì Ngài đã đảo ngược bậc thang giá trị giữa những kẻ quyền thế giàu sang với những người thấp hèn, những người bị chà đạp áp bức, không biết cậy nhờ vào ai chỉ biết nương tựa và phó thác vào lòng Chúa xót thương. Bà An-na cũng đã chúc tụng Đức Chúa như vậy:
“Đức Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có,
Người hạ xuống thấp, Người cũng nhấc lên cao.
Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi cát bụi,
ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro,
đặt ngồi chung với hàng quyền quý,
tặng ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng” (1 Sm 2,7-8).
Không kể đến các bản văn ngôn sứ, chúng ta có thể trích dẫn nhiều bài thánh vịnh ca ngợi lòng Chúa xót thương dành cho “những người nghèo của Đức Chúa” theo cùng một cách như vậy. Đức Ma-ri-a không phải là một điển hình sao? Trong cái nhìn của Thiên Chúa về sự đảo ngược bậc thang giá trị, Đức Ma-ri-a, một nữ tỳ hèn mọn, được các nhạc sĩ ca ngợi bằng những ca từ tuyệt đẹp: “Mẹ chẳng vướng tội truyền, bông huệ ngát hương thiêng; Mẹ ví như ánh trăng diệu huyền, êm như cung đàn thần tiên” (Bài thánh ca “Kính Mừng Nữ Vương” của nhạc sĩ Hải Linh).
“Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (1,53)
Dân Thiên Chúa đã kinh qua biết bao lần lòng Chúa xót thương dành cho người nghèo khổ trong dòng lịch sử của mình. Chẳng hạn như Thiên Chúa đã nuôi dân Ít-ra-en bằng bánh man-na suốt bốn mươi năm trường trong hoang địa (Xh 16,4-35); hay sứ thần Thiên Chúa đã mang lương thực đến cho ngôn sứ Ê-li-a trong thời gian hạn hán (1 V 19,5-8) và cho ngôn sứ Đa-ni-en trong hầm sư tử (Đn 14,31-40); hoặc bà góa Xa-rếp-ta được cung cấp bột và dầu thật diệu kỳ không bao giờ cạn trong suốt thời gian hạn hán vì tấm lòng quảng đại của bà dành cho vị ngôn sứ của Ngài (1 V 17,8t.).
W. Barclay giải thích câu này dưới khía cạnh “cuộc cách mạng kinh tế”: “Một xã hội ngoài Ki-tô giáo là một xã hội chiếm đoạt, ở đó mỗi người gắng sức thu góp cho mình càng nhiều càng tốt. Nhưng ở đây thì không ai dám có quá nhiều trong khi kẻ khác quá ít, ở đây tất cả mọi người đều nhận với mục đích để ban phát”.
Còn thánh Ba-si-li-ô thì giải thích câu này liên quan đến biến cố Nhập Thể: “Thiên Chúa đã cho dân Ngài được dư đầy Lề Luật của Ngài và lời rao giảng của các ngôn sứ, nhưng Ngài đã để cho phần còn lại của nhân loại phải đói khát Lời Ngài, bây giờ được biến cố Nhập Thể làm cho no thỏa. Thiên ân này sẽ được những người khiêm hạ chấp nhận; còn những kẻ tự mãn, vì không ước muốn những thiện hảo của Thiên Chúa, thì sẽ không được dự phần vào” (St Basil,
In Psalmos homiliae, on Ps 33). Cũng cách thức như vậy, biến cố Nhập Thể làm no thỏa lòng khao khát thánh thiện của Đức Ma-ri-a.
C- Đức Ma-ri-a ca ngợi lòng Chúa xót thương dành cho dân tộc Mẹ (1, 54-55)
Trong khổ thơ sau cùng (1,54-55), nhân danh toàn thể dân tộc Mẹ, Đức Ma-ri-a chúc tụng lòng Chúa xót thương dân tộc Mẹ, vì Ngài vẫn một mực trung tín với các lời hứa của Ngài. Đức Ma-ri-a hiểu rằng ở nơi Mẹ những lời hứa này bắt đầu được thực hiện.
“Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người” (1,54)
Thiên Chúa đã dẫn dắt dân Ít-ra-en như người cha dẫn dắt đứa con bé bỏng của mình với trọn tấm lòng trìu mến yêu thương: “Thiên Chúa của anh em, mang anh em như một người mang con mình, suốt con đường anh em đã đi” (Đnl 1,31). Ngài đã cư xử với dân Ngài như vậy nhiều lần, khi sử dụng ông Mô-sê, ông Giô-su-ê, ông Sa-mu-en, vua Đa-vít, v. v., và giờ đây Ngài ban cho họ Đấng Mê-si-a vĩnh viễn, Đấng hiện thực lòng Chúa xót thương trước những nỗi khốn khổ của Ít-ra-en và toàn thể nhân loại.
“Như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời” (1,55)
Đức Ma-ri-a hoàn tất bài ca Ngợi Khen của Mẹ bằng một tấm chân tình cảm tạ tri ân đối với lòng Chúa xót thương dành cho dân tộc Mẹ, vì Ngài đã không quên lời hứa của Ngài. Diễn ngữ “Ngài nhớ lại”được lặp đi lặp lại nhiều lần trong Kinh Thánh để diễn tả những lần Thiên Chúa bày tỏ lòng xót thương của Ngài khi can thiệp đúng thời đúng buổi, như khi Thiên Chúa nhớ đến ông Nô-ê (St 8,1), Ngài cho dừng trận đại hồng thủy, khi Thiên Chúa nhớ lại Giao Ước của Ngài với tổ phụ Áp-ra-ham (Xh 2,24), Ngài ra tay cứu thoát dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai Cập, v.v... Giờ đây, Đức Ma-ri-a biết rằng “Thiên Chúa nhớ lại lòng thương xót” dành cho dân Ngài khi ban Đấng Mêsia như Ngài đã hứa từ ngàn xưa. Đây là vinh dự vĩ đại nhất mà Thiên Chúa dành cho dân Ngài: Con Thiên Chúa trở thành một người Do Thái: “Xét như một phàm nhân, Đức Giê-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” (Rm 1,3).
Kết luận:
Không phải vì vài câu diễn tả lòng Chúa xót thương như “Người đoái thương nhìn tới” (1,48), “Chúa hằng thương xót” (1,50), “Người nhớ lại lòng thương xót” (1,55), “Chúa độ trì” (1,54), mà bài “Ngợi khen” này được gọi là bài ngợi ca lòng Chúa xót thương, nhưng phải nói rằng mỗi từ, mỗi câu được đan kết với nhau tạo thành một bản hợp xướng cất lên lời ca ngợi lòng Chúa xót thương. Vì thế, “Lời kinh nguyện của chúng ta có thể hòa theo và bắt chước kinh nguyện này của Đức Ma-ri-a. Như Mẹ, chúng ta cảm thấy ước muốn hát ca, ngợi khen những kỳ diệu Thiên Chúa thực hiện, để loài người và toàn thể mọi loài thọ tạo cùng chia sẻ niềm vui của chúng ta” (J. Escriva, Christ is passing by, 144).
“Đó phải là bài ca trong từng phút giây cuộc đời chúng ta. Không vui sao được khi biết rằng mình được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc bằng chính máu của Con Một Người; không vui sao được khi biết rằng trong Người Con Một ấy chúng ta tìm được ánh sáng chân lý, bình an và hy vọng; không vui sao được khi biết rằng trong hành trình về nhà Cha, có biết bao người cùng tiến bước với ta” (“Mỗi Ngày Một Tin Vui”).
Có người bảo rằng “tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng”, nhưng Stanley Jones cho rằng: “Bài ‘Ngợi khen’ này là cuộc cách mạng lớn nhất trong thế giới”. Còn W. Barclay thì nhận xét: “Trong bài ‘Ngợi khen’ này có sự dịu dàng đáng yêu nhưng trong đó cũng có năng lực mạnh mẽ. Ki-tô giáo khiến nảy sinh cuộc cách mạng trong lòng người và cách mạng trong thế giới” (TM Luca, 14).    ■
 Lm Inhaxiô Hồ Thông
 

Bài 3: Đọc sách Giôna nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót

Sách Giô-na được xếp vào hàng sách ngôn sứ. Trong sách 2 Vua, 14, 25 có nói đến một vị ngôn sứ tên là Giô-na được Thiên Chúa sai đến rao gỉang ở Sa-ma-ri vào thời vua Gia-róp-am con vua Gio-át. Đoạn văn trong sách 2 Vua 14, 23-29 tóm tắt triều đại vua Gia-róp-am này, nêu lên một điều nghịch lý: một đàng “vua vẫn không dứt bỏ mọi tội mà vua Gia-róp-am con ông Nơ-vat đã phạm” (người đã chủ mưu ly khai với Giê-ru-sa-lem để lập vương quốc phía Bắc, x. 1 Vua 12). Đàng khác ông lại làm vua 40 năm và tái lập biên giới của vương quốc phía Bắc như lúc cực thịnh. Lý do là vì “Đức Chúa đã nhìn thấy cảnh bần cùng của Ít-ra-en phản nghịch; chẳng có một ai, nô lệ hay tự do đến cứu giúp Ít-ra-en. Đức Chúa đã không nói là sẽ xóa tên Ít-ra-en không còn dấu vết trong thiên hạ, nên Người đã cứu họ, nhờ tay vua Gia-róp-am, con vua Giô-át”.
Cái nghịch lý diễn ra tại Ít-ra-en khi ngôn sứ Giô-na được sai đến rao giảng đã chuẩn bị cho việc ông trở thành nhân vật huyền thoại để đóng vai phản diện trong dụ ngôn dài về lòng thương xót của Thiên Chúa và sự chai đá của dân Ít-ra-en: không đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa và cũng không muốn cho người khác được hưởng. Có thể đọc cuốn sách này như một vở hài kịch châm biếm sâu sắc, gây cười bằng những nét “hề” mà người bình dân cũng như người thông thái đều có thể thưởng thức. Càng nghĩ càng cười, càng cười càng thấm thía những mũi kim “châm cứu”, có vẻ ngoài da nhưng lại thấu tận xương tủy, đốt cháy tâm can.
Màn thứ nhất: Ngôn sứ đi trốn nhan Đức Chúa
Cảnh thứ nhất: Thiên Chúa gọi đích danh ông Giô-na và “sai ông đi Ni-ni-vê là thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta”. Trong lời tóm tắt nội dung phải rao giảng không có lời đe dọa nào cả, chỉ “hô cho dân thành biết” sự gian ác của họ dã lên tới đâu. Nhìn “Ông Giô-na đứng dậy”, ta tưởng là ông mau mắn thi hành lệnh của Thiên Chúa, nhưng hóa ra là “để trốn đi Tác-sít”. Ni-ni-vê ở phía cực đông, Tác-sít ở phía cực tây. Ni-ni-vê là thủ đô của đế quốc Át-si-ri, đế quốc đã tiêu diệt vương quốc Ít-ra-en. Nhìn ông đi xuống thành phố cảng Gia-phê (Gia-phô, Gia-pha ngày nay. Trước khi vua Hê-rô-đê xây lại cảng Xê-da-rê-a thì Gia-phê là thành phố cảng lớn nhất của vùng bờ biển này). Nhìn ông chạy đôn chạy đáo ở cảng, hỏi hết tàu này đến tàu khác… “Tìm được một chiếc tàu sắp đi Tác-sít”. May quá! Ông mừng rỡ, khỏi cần mặc cả, giá nào cũng đi: “Ông trả tiền, xuống tàu để cùng đi Tác-sít với họ, tránh nhan Đức Chúa”.
Cảnh thứ hai: Tàu mới căng buồm ra khơi thì “Đức Chúa tung ra một cơn gió to trên biển và liền có một trận bão lớn ngoài khơi, khiến tàu tưởng chừng như sắp vỡ tan”. Phản ứng của người trên tàu: hoảng loạn, kêu cứu, “mỗi người kêu lên thần của mình và ném hàng hóa trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt”. Mọi người chỉ còn lo cứu lấy mạng sống. Trong khi đó ta không thấy ông Giô-na đâu cả và cũng chẳng nghe thấy ông kêu lên Chúa của ông.
Cảnh thứ ba: Trong lúc người ta lo ném hàng hóa xuống biển cho nhẹ bớt, viên thuyền trường phát hiện ông Giô-na nằm ngủ giữa đống hàng hóa dưới hầm tàu, ông ngủ say như không có gì xảy ra. Thuyền trưởng ngoại đạo đánh thức Giô-na và bảo ông đi cầu nguyện. Hy vọng cuối cùng, vì mỗi người đã kêu cầu thần của mình mà bão chẳng yên: “Sao lại ngủ thế này? Dậy, kêu cầu thần của ông đi! May ra vị thần ấy sẽ nghĩ đến chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng.”
Cảnh thứ bốn: Giô-na bị lộ tông tích. Chưa thấy nói ông Giô-na có cầu nguyện hay không, nhưng ông lộ diện thì mọi người trên tàu đều có mặt. Họ truy lùng thủ phạm gây ra tai họa bằng cách gieo quẻ: “Nào, chúng ta hãy bắt thăm cho biết tại ai mà chúng ta gặp tai họa này”. Họ gieo quẻ và quẻ rơi trúng ông Giô-na. Họ bảo ông: “Vì ông là người đã đem tai họa này đến cho chúng ta, thì xin ông cho chúng tôi biết: “Ông làm nghề gì? Ông từ đâu đến, quê ở nước nào, và thuộc dân nào?” Bản điều tra lý lịch oái oăm bắt đầu từ nghề nghiệp! Ông Giô-na bị bí ngay câu hỏi đầu tiên nên ông bắt đầu từ câu hỏi cuối cùng và tuyên xưng “thần” của ông là ai: “ Tôi là người Hip-ri, Đấng tôi kính sợ là Đức Chúa, Thiên Chúa các tầng trời, Đấng đã làm ra biển khơi và đất liền”. Ông lộ ra cái mâu thuẫn đầu tiên: ông kính sợ Đức Chúa là Đấng đã làm ra biển khơi và đất liền, thế mà ông lại không làm theo mệnh lệnh của Ngài. “Những người ấy sợ, sợ lắm; họ nói với ông: “Ông đã làm gì thế?” Những người ngoại nghe ông nói về Thần của ông thì sợ run, và họ hỏi ông về việc làm của ông? Bị dồn vào chân tường ông phải khai thật việc ông làm là “đang trốn đi để tránh nhan Đức Chúa.” Cái mâu thuẫn thứ hai lộ ra: Ông biết Thiên Chúa của ông là “Thiên Chúa các tầng trời, Đấng làm ra biển khơi và đất liền.” Thế mà ông đang “trốn đi để tránh nhan Đức Chúa”! Họ tiếp tục hỏi ông về việc phải làm: “Chúng tôi phải làm gì với ông để cho biển lặng đi, không còn đe dọa chúng tôi nữa?” Tiếng sóng ầm vang, đẩy xô dữ dội, con tàu lắc lư mạnh hơn chứ không giảm đi. Ông bảo họ: “Hãy đem tôi ném xuống biển thì biển sẽ lặng đi, không còn đe dọa các ông nữa; vì tôi biết là tại tôi mà các ông gặp cơn bão lớn này”. Ông đã ngủ trong đống hàng hóa để tránh nhan Đức Chúa, người ta đã quăng hết hàng hóa mới lộ mặt ông ra. Ông là món hàng cuối cùng phải quăng xuống biển.
Cảnh thứ năm: lòng kính sợ Thiên Chúa của những người ngoại trên tàu. Những người ngoại trên tàu cố gắng cứu cả mạng ông bằng cách “cố chèo vào đất liền, nhưng không thể được vì biển mỗi lúc một động thêm, uy hiếp họ.” Bây giờ thì “mọi người kêu cầu Đức Chúa và thưa: “Ôi lạy Đức Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ máu người vô tội trên đầu chúng con; vì lạy Đức Chúa, chính Ngài đã hành động theo sở thích”. Không còn cách nào khác, họ đành làm theo lời ông: “Rồi họ đem ông Giô-na ném xuống biển.” Hiệu quả tức khắc đối với biển: “Biển dừng cơn giận dữ.” Hiệu quả trên những người còn lại trên tàu: “Những người ấy sợ Đức Chúa, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên Đức Chúa.”
Hạ màn.
Màn thứ hai: trong bụng cá kình
Trong khi những người còn lại trên tàu dâng hy lễ lên Đức Chúa thì “Đức Chúa khiến một con cá lớn nuốt ông Giô-na.” Thế là Thiên Chúa tiếp tục trò chơi cút bắt với ông Giô-na (x. Thánh vịnh 139/138). Ông đã đi xuống Gia-phê, xuống tàu, xuống hầm tàu, chui dưới hàng hóa để trốn nhan Đức Chúa thì Đức Chúa cho ông xuống luôn đáy biển, xuống trong bụng kình ngư. Bây giờ ông mới cầu nguyện. Ông độc tấu với những lời kinh gom mượn từ nhiều thánh vịnh. Vẫn có những yếu tố hài và châm biếm rất sâu sắc. “Trên đầu con rong rêu quấn chằng chịt. Con đã xuống tận nền móng núi non…” “khi mạng sống con hầu tàn con đã nhớ đến Đức Chúa”. Chờ tới khi mạng sống hầu tàn mới nhớ đến Đức Chúa! “Bọn thờ thần hư ảo, chớ gì chúng bỏ điều chúng vẫn tôn sùng”: trên tàu những người thờ thần hư ảo đang dâng hy lễ lên Đức Chúa thay cho ông! Trong khi dưới dáy biển ông hy vọng sẽ được dâng hy lễ và giữ lời khấn hứa. Cuối cùng ông tuyên xưng “Đức Chúa mới là Đấng ban ơn cứu độ.”
Thiên Chúa nhận lời ông cầu xin: “Đức Chúa bảo con cá, nó liền mửa ông ra trên đất liền”.
Hạ màn.
Màn thứ ba: Giô-na rao giảng tại Ni-ni-vê
Cảnh thứ nhất: Trên bãi biển, ông Giô-na vừa ra khỏi miệng cá kình, đang lồm cồm bò dậy thì Đức Chúa lại phán với ông: “Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi”. Lần này Thiên Chúa không cho ông biết trước sẽ phải nói gì. Ông sẽ phải lắng nghe xem Thiên Chúa truyền nói gì. Bây giờ thì ông đã biết là không thể nào trốn đi đâu để tránh nhan Đức Chúa nên ông đứng dậy và đi Ni-ni-vê như lời Đức Chúa phán.
Cảnh thứ hai: Quang cảnh: “Ni-ni-vê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường.” “Ông Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ.” Không thấy nói đến tội lỗi mà rao ngay hình phạt: “bị phá đổ,” và kỳ hạn: “còn bốn mươi ngày nữa”. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa cho Áp-ra-ham biết ý định phá hai thành phố Sơ-đôm và Gomora, Áp-bra-ham mặc cả với Chúa xin tha cho họ vì số người công chính, nhưng “giá rẻ nhất” là mười người công chính cũng không có đủ. “Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ”. Chúa Giê-su sẽ khiển trách Bét-xai-đa và Co-ro-da-in: “Nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn thì họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng hối cải từ lâu rồi …” Cứ như một đại hội hóa trang đang ào ào diễn ra trong thành phố. “Tin thấu đến vua Ni-ni-vê.” Vua cũng đích thân hưởng ứng triệt để “vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô và ngồi trên tro”, và ra lệnh ăn chay ngặt hơn: “Vua cho rao tại Ni-ni-vê: Do sắc chỉ của vua và các quan đại thần, người và súc vật, bò bê và chiên dê không được nếm bất cứ cái gì, không đuợc ăn cỏ, không được uống nước. Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mọi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình. Biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại, chẳng bỏ ý định giáng phạt, và nguôi cơn thịnh nộ khiến chúng ta khỏi phải chết.” Yếu tố hài là vua ra lệnh cho cả súc vật cũng phải ăn chay, khoác áo vải thô và kêu cầu Đức Chúa. Riêng con người thì phải ‘bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình’. Đó là cách ăn chay mà các ngôn sứ đã rao giảng (x. Is 58, 3-8). Ăn chay theo cách này thì sẽ được Thiên Chúa nhận lời (x. Is 58, 9-12).
Quả nhiên Thiên Chúa đã nhận việc ăn chay và lòng sám hối của dân Ni-ni-vê: “Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, người hối tiếc về tai họa Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa.” Người ta sám hối về tội ác của mình thì Thiên Chúa cũng hối tiếc về tai họa Người đã ngăm đe.
Hạ màn.
Màn thứ tư: Ông Giô-na nổi giận
Cảnh thứ nhất: “Ông Giô-na bực mình, bực mình lắm và ông nổi giận”. Lý do ông nổi giận được nói rõ trong lời cầu nguyện. Ông bực mình đến mức nổi giận, vì Thiên Chúa chứng thực điều ông đã biết về Ngài khi còn ở quê nhà, đó là “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, và hối tiếc vì đã giáng họa”. Đó là điều Thiên Chúa đã nói cho Mô-sê khi ông xin được thấy tôn nhan Ngài (x. Xh 33, 18-23 và 34, 5-9). Ông giận đến mức đòi chết đi cho rồi. Thiên Chúa hỏi ông: “Ngươi nổi giận như thế có lý không?”. Ông không trả lời, chỉ hậm hực đi ra khỏi thành.
Cảnh thứ hai: Ông dựng một cái lều ở phía đông, ngồi trong bóng mát, chờ xem chuyện gì xảy ra trong thành. Thiên Chúa đến dỗ dành ông. Ông muốn bóng mát, ông làm lều thì Thiên Chúa cho thêm bóng cây: “Đức Chúa khiến một cây thầu dầu mọc lên ở phía trên ông Giô-na để có bóng mát che đầu ông hầu làm ông hết buồn bực.” Cách dỗ dành của Thiên Chúa thật hiệu nghiệm. “Ông Giô-na vui, vui lắm vì cây thầu dầu”.
Cảnh thứ ba: Ông Giô-na lại nổi giận. “Nhưng hôm sau, khi hừng đông ló rạng, Thiên Chúa khiến một con sâu cắn cây thầu dầu và cây bị héo. Khi mặt trời mọc, Thiên Chúa cho có một cơn gió đông nóng bỏng, và mặt trời giội nắng xuống đầu ông Giô-na; ông ngất xỉu và xin cho được chết: “Thà tôi chết còn hơn là sống”. Thiên Chúa hỏi ông: “Ngươi nổi giận vì cây thầu dầu, như thế có lý không?” Ông trả lời: “Con có lý để nổi giận đến chết được!”
Lần này thì Thiên Chúa ôn tồn giải thích và mời ông suy nghĩ lại: “Ngươi, ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên; trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ni-ni-vê, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay sao?”
Cảnh thứ tư: Ông Giô-na ngồi một mình đăm chiêu. Im lặng nặng nề.
Hạ màn.
Trong câu chuyện ông Giô-na, mọi loài đều vâng phục Thiên Chúa, trừ vị ngôn sứ: gió, con cá kình, cây thầu dầu, con sâu, mặt trời.
Người ngoại trên tàu cầu xin, mỗi người cầu xin với thần của họ. Ông Giô-na nằm ngủ.
Người ngoại trên tàu cố gắng chèo vào bờ chứ không muốn thí mạng ông Giô-na. Còn ông chỉ muốn thấy cả thành Ni-ni-vê bị tiêu diệt.
Sóng yên biển lặng, người ngoại trên tàu nhận biết, kính sợ và dâng hy lễ lên Thiên Chúa.
Thành Ni-ni-vê rộng ba ngày đường, ông Giô-na mới đi một ngày, vừa đi vừa công bố lời ngăm đe của Thiên Chúa, thế là từ vua chí quan, từ người lớn đến trẻ nhỏ và cả thú vật đều ăn chay, mặc áo vải thô; vua cởi cẩm bào xuống ngồi trên tro và ra lệnh ăn chay theo đúng cách thức các ngôn sứ dạy dân Ít-ra-en. Trong khi đó ông ngồi dưới bóng mát chờ xem Ni-ni-vê bị tiêu diệt để chứng thực ông nói đúng!
Ông Giô-na không tuân lệnh Thiên Chúa, không ăn chay, không cầu nguyện. Ông nổi giận chỉ vì biết Thiên Chúa từ bi thương xót, tha thứ không tiêu diệt Ni-ni-vê như ông đã loan báo.
Chúa dạy ông một bài học: Chúa sai con sâu cắn chết cây thầu dầu, làm mất bóng mát, sai gió nóng nổi lên, sai mặt trời giội nắng xuống đầu ông. Ông nổi giận đến chết được. Bây giờ Chúa mới dỗ dành ông. Câu chuyện kết thúc với hình ảnh ông Giô-na trầm ngâm suy nghĩ, ta không biết ông có hoán cải hay không. Là ngôn sứ của Thiên Chúa, tức là người nói lời của Thiên Chúa, nhưng lại không có cùng cảm nghĩ với Thiên Chúa.
Đọc câu chuyện này ta không thể không liên tưởng tới dụ ngôn “Người cha nhân hậu và hai đứa con” trong sách Tin Mừng Lu-ca (15, 11-31). Khi biết rằng trong nhà cha đang ăn mừng đứa con hoang đàng trở về, người con cả nổi giận và không chịu vào nhà. Người cha ra năn nỉ. Anh cũng cho mình là có lý để nổi giận: anh nổi giận vì người cha đã tha thứ cho đứa em hoang đàng và mở tiệc ăn mừng nó. Người cha dỗ dành. Câu chuyện cũng kết thúc mở, vì tùy quyết định của người anh cả. Giô-na có vẻ là nguyên mẫu của người con cả trong dụ ngôn.
Trong dụ ngôn “những người được vào làm việc trong vườn nho” (Mt 20, 1-15), ông chủ hỏi những người được vào làm từ tảng sáng: “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Chúa Giê-su dạy về lòng yêu thương: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48); “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ.” (Lc 6,36).
Giê-ru-sa-lem 5/11/2015
Lm Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J.
Còn nữa...
 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

.

1

LM PAUL NGUYỄN ĐỨC VĨNH

Vị Thánh trong ngày

Sách các phép

Mười điều răn

Thành viên

Kích chuột để

1

Suy niệm Lời Chúa 5P

Nhóm Mân Côi

1
 

Tin Thể Thao

    Giờ kinh phụng vụ

    Lịch Phụng Vụ